có những điều không nói ra, chỉ ghi lại...
pn

Chủ Nhật, tháng 8 02, 2020

Hơi thở rướn cong



Phần I



CHƯƠNG MỘT

Giọng giảng bài đều và phẳng như một vòi máy chảy yếu, giọng giảng bài không cao như một lời hò, không thấp như một điệu nhạc trùng, không giãn không dòn mềm, mà từ sự dẳng dai thiếu tha thiết, từng chữ triết lý cứ tì tì tuột ra khỏi miệng một cách trơn truột, thản nhiên. Cha Thịnh được một mái tóc trời uốn dợn sóng, chiếc mũi cao theo dáng nằm một con tắc kè. Mắt to bao nhiêu thì hai hàm răng nhỏ bấy nhiêu.

Chiếc áo chùng đen rộng như chiếc áo đi mưa. Suốt thời gian giảng bài, cha Thịnh ngồi một chỗ như thư ký giữ bàn. Những phút nghỉ xả hơi, cha dựng thẳng dáng người no béo chắp tay đằng đít đi lui đi tới trong lớp. Cha Thịnh thật no béo, no béo như vịt bầu và dáng đi của cha đẹp như dáng ngựa bước chậm.

Cha Thịnh xuống cuối lớp tịch thu một tấm hình playboy rồi bước lại bên Hằng nhìn vào bài học nàng đang viết.

Cha nói:

- Chữ xấu quá! Tại hồi mới đi học không tập đồ, tập sổ cho nhiều. Hồi mới đi học phải tập viết cho nhiều thì sau này mới viết chữ đẹp được.

Hằng ngó lên cười khỗng răng nheo mắt. Cha Thịnh trở về chỗ ngồi.

Giờ luận lý học chiều hôm sau cha Thịnh cũng ngồi mở sách tì tì đọc và năm phút xả hơi, cha cũng cà rà cà rà chắp tay đằng đít đi xuống cuối lớp rồi dừng lại bên Hằng.

Cha nói:

- Học thì không cười, cười thì không học được.

Hằng ngó lên tít mắt nhe răng và cha Thịnh đi thăm một vòng quanh lớp nữa rồi mới về chỗ.

Kiện, chàng học trò dáng nhỏ, giỏi sinh ngữ nhất lớp đứng dậy:

- Thưa cha, có khi nào cha nghĩ rằng ông Bảo Đại vẫn có thể được nhiều điểm vượt ông Ngô Đình Diệm?

Cha Thịnh cười:

- Bằng vào những lời nói của Cựu Hoàng Bảo Đại hết sức thông minh, nhưng bằng vào việc làm người thì con người đó hỏng. Con người đó có cái tài ở cách nói mà có tật ở cách làm.

Như một giọng hát ra khỏi điệp khúc buồng, những chữ đang chuốt từ từ bỗng reo rỗn rãng. Hồi cha còn ở Pháp, một hôm có người đàn ông đến gọi cửa yết kiến cha và xưng danh tôi là Vĩnh San đây. Vĩnh San, Vĩnh San là cái tên quen hết sức, nhưng trí nhớ phải chạy từ từ. Cha đưa bàn tay nhấn vào trán mấy lần. À phải rồi, ngài là con Cựu Hoàng Đế Duy Tân, ngài đến tìm tôi có việc gì? Cha là một người uy tín nhất trong số các Việt kiều bôn ba ở hải ngoại, con muốn nhờ cha đứng ra… Tiếng trống ra chơi dẫm ngang câu nói, bầu không khí bùng lên… Học sinh ra chơi vào, cha Thịnh mở sách đọc giảng: “Đâu là con người? Con người là gì? Waisist des Mensch? Trong khung cảnh bàng hoàng của thời hậu chiến, nhà văn André Malraux đã có dịp cảnh tỉnh nhân loại trước viễn tượng cáo chung của con người.

Học trò xin nghỉ xả hơi. Cha Thịnh bước bộ từ đầu lớp tới cuối lớp và nhìn Kiên nói:

- Con người phải sau bảy tuổi mới có ký ức… Cha thì bảy tuổi cha mới bắt đầu nhớ đủ mọi chuyện. Cha nhớ là cha được uống sửa bò lần đầu tiên lúc bà má đi Huế về mua cho, lúc đó cha được bảy tuổi uống hộp sữa “con chim” đầu đời…

Kiên đứng dậy:

- Thưa cha, bài luận làm ở nhà bao giờ nộp?

Cha mở rộng mắt nhìn sau kính tuổi:

- Bài làm ở nhà hả? Thứ bảy nộp.

Kien hỏi:

- Thứ bảy tuần này hay thứ bảy tuần sau, cha?

Cha Thịnh nghiêm mặt:

- Thứ bảy tuần này chứ thứ bảy tuần sau sao được?

Lớp học bùng lên: Cha cho thứ bảy tuần sau nộp bài đi cha, tuần này bài vở nhiều quá! Nét mặt cha Thịnh đang cười hồng chợt đổi sang nghiêm lạnh. Không được, thứ bảy tuần này là hạn chót nộp bài.

Khuê tông cánh gà đùi đụi vào mạn sườn Hằng. Xin cha đi mi, xin cha cho tuần sau nộp bài đi mi, tao chưa rờ vào một chữ.

Đợi cha Thịnh đi ngang, Hằng kêu nhỏ:

- Cha, cha, cho thứ bảy tuần sau nộp bài đi cha.

Cha Thịnh trở về bàn giáo sư hiền lành xuống giọng:

- Cha cho các con thứ bảy tuần sau nộp bài.

Buổi chiều giữa tuần, nhân bình giảng một đoạn văn của Foulqué, cha Thịnh bỗng thẩn thờ nói ước được mãi sống bên học trò.

Con người cha đúng là một chính trị gia nhưng cha tha thiết với tuổi trẻ hơn nên cha vẫn còn ở với học đường, cha quá thương cái lứa tuổi xuân hồng nên cha mới gõ đầu họ. Đi dạy, thật ra lương tiền không đủ nuôi tài xế. Cha đã đi dạy quá lâu rồi và cha vẫn còn ham đi dạy nữa.

Học trò của cha Thịnh đứa nào cũng kính trọng cha như người nước Lỗ tôn thờ Đức Khổng Tử. Cha của họ tài đức hơn Ngô Đình Diệm nhưng không thiết làm tổng thống.

Cha thông minh tuyệt vời vì cha ăn óc khi sống. Cha là một người Việt Nam lớn hơn những người Việt Nam khác. Những Bộ trưởng, Thứ trưởng chỉ là những món đồ trong túi áo cha móc ra. Họ ra Huế phải yết kiến cha cũng như yết kiến Ngô Đình Cẩn… Nhưng cha của họ chỉ thiết tha có một nghề dạy học.

Giờ nộp bài luận triết, cha Thịnh cho nghỉ chơi sau đó và nói với cả lớp:

- Chủ nhật này cha sẽ cho các con đi thăm cầu Bến Hải. Lớp học vỗ tay rào rào, cha tiếp:

- Cha cho các con tám trăm đồng để mua bánh trái thêm ăn buổi trưa, cha sẽ cho xe cam nhông chở các con đi.

Cha Thịnh dạy Triết cho tất cả các lớp đệ nhất nhưng năm nào cha cũng yêu nhất lớp đệ nhất C. Cha cho mỗi học trò một tấm hình của cha. Mỗi tuần học trò đều được thưởng tiền đi xi nê, ăn kẹo. Noel, Tết, lễ lớn học trò nhao nhao xin tiền cha tổ chức liên hoan. Học trò xin tiền cha rồi quay qua xin tiền những giáo sư khác. Các giáo sư phàn nàn.

- Chính cha Thịnh đã tập cho học trò cái tính xin tiền giáo sư. Chúng hễ thấy mặt giáo sư là xin tiền rát quá.

- Chúng bắt giáo sư phải cúng dường chúng.

- Cha Thịnh tập hư học trò… Ngày xưa học trò phải tết thầy, ngày nay thầy phải tết học trò. Cái tật xin tiền thật xấu.

Một hôm cha Thịnh nhìn xuống đám nữ sinh bảo:

- Đàn bà không được đọc truyện Kiều cũng như đàn bà không được bắt chước bà Ngô Đình Nhu.

Bầy con gái ngốc đầu rụt cổ hi hi cười:

- Răng rứa cha?

Cha Thịnh quay mặt ra cửa sổ:

- Đẹp thì đàn bà không đẹp, giỏi thì đàn bà cũng không giỏi. Bà ta chỉ được cái lợi là em dâu tổng thống.

Bọn con gái sụt sụt làm như chim bồ câu tranh chỗ ngủ… Cha không thích bà Nhu hở cha? Cha không thích chính trị của bà hay cha không thích bà? Cụ Ngô Đình Diệm lưu lạc phong trần mấy năm thì bà cũng truân chUyển giang hồ mấy năm.

Cha Thịnh lắc đầu:

- Bà Nhu hơn các con một nổi sung sướng là bà đã được yết kiến Đức Giáo Hoàng.

Phía cuối lớp, bọn con trai xầm xì. Đó đó, cha Thịnh sứp hát bài đạo ca rồi. Cha Thịnh chỉ cưng những đứa học trò có đi đạo. Những đứa Phật tử Phật tôn bị cha trù cả đời. Cả đời không được học bỗng, cả đời không được đi học ngoại quốc. Thằng Phú là thằng mất dạy, không có đạo mà cũng khai mình là Công giáo để kiếm chác.

Khuê lại tông cánh gà vào ba sườn Hằng. Mi có công nhận lòng nhân từ của cha Thịnh đôi khi cũng có hại.

Cha thương học trò lắm, nhưng học trò thì quá đông làm sao thương đủ được. Những đứa học trò không được thương đó sẽ nghĩ là mình bị cha ghét rồi thù cha.

Hằng nhún vai:

- Mi nói bậy, cả nước đều thương cha Thịnh và đang ca tụng công đức ngài.

Khuê bĩu môi, cái con Hằng động mở miệng là gọi cha Thịnh bằng ngài. Nịnh ghê! Nịnh tài thì ăn mắm mút vòi.

Ngồi trong lớp thỉnh thoảng Hằng nói: “Sang năm có lẽ cha Thịnh sẽ ăn lễ Ngân khánh của mình. Lễ Kim khánh của ngài chắc sẽ vô cùng trọng đại”.

Một buổi chiều, giữa bài học luân lý khô như bánh mì, cha Thịnh dừng lại:

- Đời cha là để phục vụ các con. Còn các con, không bao giờ cha có thể bỏ học đường được. Cha đã âm thành tranh đấu từ nhiều năm. Niên khóa mới thế nào chúng con sẽ có một trường đại học, thế nào Huế cũng sẽ có một trường đại học. Bằng mọi giá, cha đang tranh đấu.

Cha mơ màng lặp lại:

- Sang năm, thế nào Huế cũng có một đại học. Hè này cha sẽ đi tìm giáo sư cho các con. Làm cho Huế có một đại học, đó là công trình của chiến sĩ văn hóa Ngô Hồng Thịnh…

Sau lưng Khuê, một thằng con trai vỗ bàn. Chết ông nội tao rồi, ta đang mơ đi Saigon. Làm thế này thì ông bà vía tao bắt tao ở lại Huế rồi còn gì nữa? Đại học Huế nghèo lắm, mới mở ra chắc chỉ lèo tèo vài phân khoa, moa không có học rồi đa.

Cha Thịnh đã trao tiền cho hai chị em Loan và Hiển đi lo cái ăn để chủ nhật ra thăm sông Bến Hải.

Bảy giờ sáng chủ nhật, học trò tập trung trước sân nhà cha Thịnh. Mười lăm phút sau lên đường trên một chiếc xe G.M.C. Cái lạnh liếm sát da và cay cay mắt. Mưa lăn tăn, tất cả nữ sinh đều mặc áo dài trắng và khoác áo ấm bằng lên đan máy hai lớp đen đỏ. Khăn quàng mỏng đủ màu phất phới. Cha Thịnh ngồi xe bốn ngựa đen với hai giáo sư trường Đồng Khánh.

Cả bọn đi bộ lại cầu Hiền Lương. Hai miền của nước Việt Nam nhỏ xây lưng lại một dòng sông hẹp. Khí hậu lạnh u uất. Nơi đây không nhà ở và nhiều đồn bót.

Bên kia sông xa tít một vài người dân đang cúi xuống moi đất trồng rau. Những đôi mắt đang nhìn sâu, những bộ ngực đang thở nặng. Bọn con trai lẽo đẽo theo sau đám nữ sinh yêu kiều lặng lẽ tiến tới cầu. Một người lính trong đồn chạy ra đưa tay ngăn xin cha đừng cho học trò bước lên cầu.

Thầy trò dừng lại ở mũi cầu ngậm ngùi dài. Cha Thịnh nói:

- Còn cây cầu này, chúng ta còn được làm người tự do. Còn cây cầu này cuộc đời chúng ta còn, chúng ta còn được biết chúng ta là người Việt Nam. Các con hãy trút hết tình thương lên đầu lính…

Bọn học trò con trai chuyền nhau cái nhìn đập mạnh nghi ngờ. Cha Thịnh tiếp:

- Thanh niên chúng con đừng ủ rũ như gà dịch. Trong lúc thanh niên các con hát nhạc phản chiến than dài thở ngắn sướt, thì lính, những người lính đang ra công bảo vệ chiếc cầu này.

Cha Thịnh hắt hơi móc túi lấy mùi xoa hỉ mũi, tất cả học trò nặng nề im lặng.

Trời mưa lăn tăn hột cải. Cha Thịnh mặc chiếc áo bành tô to xù xù như người Mỹ, quàng phu la đen trắng. Bọn học trò con trai có người mặc veste như giáo sư.

Cha Thịnh nhìn quanh đám nữ sinh một lượt rồi tiếp:

- Lính đang chết thảm ở chiến trường, chết quá nhiều nếu những người dân các con mà cứ chán nản tuyệt vọng phản đối cái chết của họ, ta thán việc làm của họ, bôi đen con đường họ đi. Người lính sẽ thấy rằng sau lưng họ người ta âu sầu rủ rĩ, không ai ca ngợi họ, thì ở chiến trường họ sẽ âu sầu chán nản, họ sẽ lười biếng ngần ngại. Và một khi đã không hăng hái siêng năng, lính sẽ chết nhiều hơn nữa. Tuổi trẻ các con phải tỏ ra một thái độ nào đó để ở chiến trường lính bớt chết. Phải khen lính cho lính không ra, phải bốc lính cho lính bớt lười biếng.

Một người cháu của cha Thịnh cầm máy hình ra chụp. Hằng reo lên: anh Sinh chụp cho cả mấy chị em một tấm. Khuê kéo hai chị em Điệp và Dần lại múi cầu xin chụp hình. Ông lính gật đầu biểu mấy cô đừng kéo nhau ra tới giữa cầu rồi về không được đa. Hằng hỏi:

- Tôi chạy qua bên tê được không?

Người lính cười:

- Bên tê sẽ đón cô bằng một viên đạn.

Hằng cười:

- Bên tê chạy qua bên ni được không?

- Bên tê sẽ cản cô lại bằng một viên đạn.

- Bên tê có người lính gác cầu không?

- Bên tê có mấy người dân đang cuốc đất kìa.

Theo tầm chỉ của người lính, Khuê nhìn thấy một tốp dân quê đang cuốc đất trồng tỉa xa xa. Người lính cười nói đó không phải là dân quê cuốc đất trồng khoai đâu, đó là cán bộ trá hình bắn súng giỏi cả hai tay.

Cô nào lớ xớ chạy qua một cái là họ bắn liền. Họ trá hình cày cấy ruộng đất là cốt cho chúng ta thấy họ đang hưởng cảnh yên ổn làm ăn, họ sống an lạc ngay tại vùng địa đầu heo hút, họ đã hết ám ảnh chiến tranh rồi, không còn phòng bị gì nữa.

Khuê hỏi:

- Bác có khi mô qua bên nớ chơi không?

Người lính cười:

- Bữa tê tôi có bắc loa mời họ qua đây ăn cháo vịt với đánh cờ tướng.

Hằng bước lên một bước:

- Họ có qua không?

Người lính cười:

- Buồn quá giỡn chơi chút chớ ai làm thật.

Hằng lấy kẹo sô-cô-la mời mọi người. Bác lính nói tiếp:

- Hồi tám giờ một anh Việt Cộng vượt tuyến bằng cách bơi qua sông Bến Hải, ướt ngủm, áo quần cũng không mặc. Anh ta bơi lên bờ trần truồng trùi trụi, lát lâu mới có áo quần mặc.

Khuê hỏi:

- Anh ta bơi qua mà bên tê không bắn bõ chi hết hay răng?

- Có bắn chứ, bắn ùn ùn mà không trúng vô mô hết.

- Bác cho anh ta coi tí đi bác.

Bác lính giơ tay:

- Đó tê, đi vòng vòng ra dãy nhà sau mà coi.

Cả bọn nắm tay nhau lắc xắc chạy đi. Cha Thịnh với tụi học trò con trai đang đứng xung quanh một người ngồi bệt dưới đất mặc áo lính, quần xà lỏn hỏi lăng nhăng. Anh có vợ con chi không mà bỏ qua đây vậy anh? Anh bơi tài quá hé. Ở bên kia anh làm nghề chi? Ở bên kia phụ nữ đẹp như mấy cô này không? Ở bên kia có vị cha nào hiền lành như thế này không?

Cha Thịnh rỉ tai Hằng:

- Thằng cha đầu hàng giả đó để dọ thám đó. Họ sẽ bắt giam bây giờ đó.

Có chiếc xe Jeep chạy vào. Người tài xế nhảy xuống tìm trao cha Thịnh bức thư. Cha Thịnh coi xong bảo học trò:

- Ông Quận trưởng mời cha ra ăn cơm trưa.

Học trò nhao nhao:

- Có mời bọn con không cha?

Cha Thịnh lắc đầu, Hằng hỏi:

- Cha có đi không cha?

- Cha bỏ các con sao được. Cha bảo lãnh với phụ huynh các con ngày nay dắt các con đi du ngoạn mà.

Hằng bước lại:

- Ông Quận trưởng mời cha thứ gì cha?

- Ăn thịt nai, ông Quận trưởng bắn được con nai.

Cô giáo sư trường Đồng Khánh rủ mấy chị em đi chơi, gió thổi khô da và cay mắt. Bầy con gái kéo ra đứng nhìn xuống cánh đồng mạ non. Lá lúa bị gió thổi reo. Mẫu ruộng ọc ạch nước màu nâu sậm. Vài con ốc con rạm bò lên bờ ruộng. Cô giáo sư xuýt xoa giá có một lò than bên cạnh mà bắt ốc rạm nướng ăn thì phải biết.

Cô Tịnh nhìn sang chồng cười tươi như hoa. Hai vợ chồng đều là giáo sư danh tiếng, đều là huynh trưởng của hai gia đình Phật tử vững chắc. Họ không có con, lấy nhau bốn năm không có con thì lấy nhau mười bảy năm cũng không có con. Người chồng đổ tại người vợ, người vợ đổ tại người chồng. Người chồng phải đi thử tinh trùng ở Sài-gòn và người vợ lên Đà Lạt để nắn lại tử cung.

Kết quả vẫn không có con. Hai vợ chồng cũng là con của Phật. Đám cưới họ cử hành ngay ở chùa và tiệc vui cũng đãi ở chùa. Quên nói họ là hai kẻ mồ côi. Các thượng tọa cao thâm nhất đã đứng chủ hôn. Trong đám cưới họ, các ngài nói: Mai sau các con đông con, các con phải kỉnh chùa một đứa.

Cô Tịnh lại xuýt xoa:

- Không có chi ăn ngon bằng trứng rạm.

Hằng nói nhỏ:

- Cha Thịnh bảo là trong các học trò của cha, cha thương nhất là chị Tịnh.

Khuê hỏi ngay đến một lời đồn. Cha Thịnh thương chị Tịnh đến nỗi mười một giờ đêm còn sai tài xế nã một son thịt kho đến cho chồng chị ăn. Cha thương chị Tịnh đến thương lây cả chồng chị. Hằng méc với mọi người rằng mỗi niên khóa cha Thịnh đều có thương một nữ sinh. Những người cha thương không bắt buộc theo đạo Thiên Chúa. Chị Tịnh là một Phật tử dày công nhất.

Chị Tịnh có đôi mắt cứ hay trường tròng đen lóng lánh, chiếc mũi nhọn vừa phải, trên khuôn mặt thanh mỏng, đôi môi làm đầy chiếc miệng, đôi môi luôn luôn ở thế động. Chị Tịnh là một người đàn bà luôn khua môi. Một người đàn bà nói nhiều bên cạnh một ông chồng không lắm mồm nhưng khôi hài. Hai vợ chồng cùng gầy nhóm một cặp như cò hương.

Hằng nói vào tai Khuê:

- Cha Thịnh định sang năm sẽ cho chị Tịnh thay thế chức hiệu trưởng.

Có một vẽ khác biệt lồ lộ giữa Hằng và chị Tịnh, hai học trò cưng của cha Thịnh. Hằng cao lênh khênh, dài lưng và dài chân, thân hình gầy lõng khõng. Khuôn mặt dày tóp làm chiếc răng càng nhọn. Cái miệng có một chiếc răng chó đưa ra dễ thương chi lạ. Hai con mắt đen như hột nhung. Da mịn xanh. Hằng là một người con gái không có bụng mà có ngực. Cái mô hình đẹp đó là một lợi tức đương nhiên, Hằng mặc áo dài vào thật quyến rũ. Đó là một thân hình bom nổ của trường Quốc Học. Một Jayne Manstield trong phim “Người đẹp của ông Quận trưởng”. Khi Hằng lên đọc bài, giáo sư địa nhìn thân hình Hằng như tính toán điều gì – ông Phong mê tao – Hằng nói với Khuê câu đó. Hôm qua tao đi tem ở nhà dây thép, ông Phong chận tao lại nói chuyện đứng mỏi rục cả hai giò, về nhà phải bóp dầu.

Khuê kêu:

- Mi thể thao lắm mà. Tại sao đứng còn biết mỏi?

Hằng đáp:

- Càng thể thao, càng tránh những cái gì quá độ.

Nhìn quanh nhìn quất số nữ sinh trong trường, cô gái nào ngực cũng xẹp hết. Bởi đó, Hằng rực rỡ như một chiếc lồng đèn.

Bọn học trò trai phê bình:

- Con Hằng không có bụng, mấy con khác trời ơi, bụng ơi là bụng. Con gái con gung chi mà bụng căng như cái ức gà mái dầu.

- Con Hằng là Jayne Mansfield.

- Ông Phương khoái nhìn ngực con Hằng. Nhà trường không bắt buộc những người con gái nào đi học cũng mặc màu trắng. Xá xị trắng nhưng áo trắng của Hằng đặc biệt lắm, phải thứ hàng Cachsmire Ấn Độ và phải như lụa ngoại quốc nửa tơ nửa ni lông. Trong lúc đó, trường Quốc Học cũng như trường Đồng Khánh, học trò chưa ai dám mặc áo nilông cả.

Áo quần Hằng ủi khéo đến nỗi khi bỏ ra giặt tà và tay vẫn phẳng phiu như mặt bàn lót mi ca. Áo quần Hằng may ở những tiệm đặc biệt từ Đà Nẵng. Áo dài rất eo, và thật xuất sắc, áo dài của Hằng không kết nút bóp mà lại cột bằng những hàng dây lòng thòng ủi láng. Quần gài nút, chứ không phải quần thun như mọi người. Mỗi lần Hằng lên đọc bài ở bảng đen trông như một cô nào khác lạ. Tóc Hằng uốn hơi cháy, không bao giờ Hằng chải, Hằng nói:

- Mặc quần dây thun thật mọi rợ.

Hằng mang ba sắc áo đến trường: màu hồng mặt trời non, màu xanh da trời trẻ và màu nắng trắng. Áo nào cũng may kiểu cách như áo nào, cũng một đường sóng tang chế ở giữa và dây dợ thòng lòng thay cho hàng cúc chạy từ cổ xuống eo.

Suốt năm đệ nhất ngồi chung bàn, Khuê nghe Hằng hát lui hát tới một bài “Rừng thu ấp hơi sương, say ru lòng nhớ tới quê hương. Đàn vương bao nhớ thương. Sầu dâng mắt ai bóng hình thôn vắng, đời say gió muôn phương.

Và Hằng hát ư ử trong miệng ngay cả những lúc ngậm kẹo cao su.

- Làn môi hương phai rồi. Buồn nhớ tới dáng người yêu áo xanh.

Hằng ca đi lý lại những lời đó hoài như loài bồ câu ngâm không chán điệp khúc ù ù ù…

Khuê hỏi:

- Mi cả đời chỉ véo von có một bài “Nhớ” của Lê Trạch Lựu.

Răng khểnh cười:

- Cả đời Lê Trạch Lựu chỉ sáng tác có mỗi bài hát đó. Bài hát cô đọng bao nhiêu điều hay nên tao thích.

Khuê trề môi:

- Lê Trạch Lựu bỏ ra ba năm để sáng tác bài “Em tôi”. Bài hát đó nhất.

Hằng là con một gia đình giàu có ở Quảng Trị. Cha của Hằng có một thời làm tỉnh trưởng. Hằng là một người ăn sang, mặc sang, nói sang. Đó là một kẻ có khiếu quốc văn ngay từ thuở lớp ba. Bây giờ, những bài luận triết Hằng làm bao giờ cũng đầu điểm. Hằng không nuôi mộng trở thành nữ sĩ.

Vì kiếp họ nghèo. Hằng thường nói về mình trong những giờ giáo sư giảng bài. Tuổi tao là tuổi Đinh Sửu, kỵ nhất là kết hôn với người tuổi Mùi. Hai cái tuổi xung khắc nhau, làm không ra tiền. Sau này tao chỉ mơ có tiền để xài. Số tao phải ở chỗ cao chứ ở thấp không được, nghĩa là ở nhà lầu chớ không được ở nhà trệt. Khuê ơi, hôm qua dì tao gởi cho tao một con sâm có huyết. Anh tao tặng tao một hộp thuốc bổ Aspiserum. Một họp Aspiserum giá tiền ngàn hai. Thuốc bổ làm bằng chất dưỡng tinh của loài ong chúa mà. Đàn bà 60 tuổi uống vào còn hồi xuân được.

Uống một hộp lên 5 kilô. Kinh khủng chưa? Mi mà uống vô một hộp là lập tức mi béo ngậy như Thủ tướng U-Nu bên hồi chuông tự do. Dưỡng tinh của loài ong chúa mà! Một con ong chúa phải lấy bao nhiêu ong thợ ong đực, sức lực của hắn phải biết. Mỗi một năm tao chỉ uống có hai hộp thôi, sáu tháng một hộp. Thuốc bổ quá uống nhiều có hại. Mấy người đau gan không được uống thuốc này. Uống vào là nát gan liền.

Con gái mà uống Aspiserum cả năm không mọc một mụt mụn. Mi rờ cái mặt của tao mà coi, mịn như sắn hấp, mát như bột lọc. Khuê ơi, mi biết tao tắm rửa bằng xà bông chi không? Savon Sandale. Mi ngửi tay tao một cái là mi phục ngay mùi hương thơm. Mỗi cục một ngàn. Mỗi cục một ngàn bạc trong khi lương thư ký tháng nghìn hai. Savon này mỗi lần tắm là thơm phức cả nhà. Phải com-măng bên Tây mới có.

Hôm qua tao đi phố, vào tiệm An Vân hỏi có Savon Sadale không, họ đưa ra một đôi giày Sandale.

Khuê ngắt lời:

- Con người mi không bịnh hoạn sao mi cứ hay thắc mắc thuốc men?

Hằng mở to mắt:

- Ba tao bắt uống. Không uống thuốc bổ ba tao không nhận làm con.

Khuê kêu:

- Trời ơi!

Hằng vênh váo:

- Ba tao còn bắt tao tập thể thao nữa mi ơi. Tao mà làm biếng không tập là ba tao không cho tiền tiêu nữa.

Ngày nào tao cũng phải bơi qua bơi về sông An Cựu, cũng phải trèo dây thừng mấy chục thước, phải hít thở như lực sĩ. Bởi đó, mi ngắm cái thân hình bổn mạng tao ni, bắp đùi bắp vế tao ni, cổ tay cánh tay tao ni.

Khuê gật gù:

- Thân thể mi như bức tượng nắn, như hình nhân khắc bằng cây. Kiên từ dãy nhà đằng sau chạy ra, dáng lùn như một cậu nhỏ. Ê, mọi người, cha truyền ăn trưa rồi về ngay.

Cha Thịnh với hai vợ chồng Tịnh dùng trưa ở căn nhà lợp ngói mốc bên trong. Người tài xế của cha đã phóng xe ra tỉnh mua gà và chim mía về quay bơ. Nồi cơm và son canh do bác cai lãnh nấu. Học trò đứng vây quanh hai chiếc bàn lớn ăn bánh. Ăn xong, tên nào cũng còn kêu đói. Người tài xế được lịnh cha đem cho mỗi tên một điếu thuốc lá Cotab. Cha Thịnh với hai vợ chồng Tịnh dùng trưa xong đã ra ngồi nhập bọn. Kiên hết cầm tay cô này đến cô kia đòi coi chỉ tay. Cha Thịnh chìa bàn tay ra, học trò kêu ôi tay cha đỏ như phẩm. Bàn tay này phải làm đến tướng vương là ít. Cha thừa sức làm tổng thống, cha thừa sức làm thủ tướng.

Cha Thịnh cười:

- Các con có biết ông Tiến ở cửa Sáp không? Cái ông hai mắt mù mù mờ mờ đó, cha nghe tiếng ông ta bói hay như nói chuyện Tam Quốc. Một hôm cha đến ông ấy. Trời mưa cha mặc thường phục, cha chìa bàn tay ra hỏi về đường tình dUyển. Ông ta mới mò vào một cái đã bảo số ông có hai vợ.

Học trò cười, Phương ghé tai Khuê:

- Trường hợp tao là ông thầy bói, tao cũng chỉ biết nói vậy thôi.

Cha Thịnh truyền bảo ra về. Cha trao cho chị em Diên mấy trăm đồng bảo về đến Huế các con hãy vô ngay trường ngồi trong lớp đông đủ đợi cha đến dặn ít việc cần vì chiều thứ hai cha nghỉ. Học trò kêu lên sướng quá, vỗ tay, cha Thịnh dặn tiếp bọn con gái đi mua bánh mì sát phăng rông đem vô lớp cho cả tụi ăn.

Cả lớp đệ nhất leo lên xe G.M.C. trở lại Huế.

Về tới trường Quốc Học, anh chị em một đoàn tiến vô. Chiều chủ nhật tất cả các lớp học đều đóng cửa, bọn con trai đi kêu ông cai hô sếp ơi sếp mở cửa. Ông cai về làng, mụ cai chạy ra hỏi chi rứa. Bác, bác, mở cửa cho vô lớp. Ai với ai họp? Họp cái chi trong lớp? Mở cửa vô ngồi đợi cha Thịnh đến họp khẩn. Mấy anh mấy chị đã xin ông Hiệu ông Tổng chưa? Cha Thịnh đến bây giờ mà. Mụ cai cầm xâu chìa khóa đi lên lầu vừa mới tra chìa khóa vào ổ thì ông Tổng Giám thị xăm xăm chạy tới quát:

- Mở cửa làm chi? Ai cho phép mở cửa?

Mụ cai xoay lui:

- Mấy anh ni biểu mở cửa cho mấy anh vô ngồi để cha Thịnh dạy việc.

Ông Tổng Giám thị la:

- Không mở cửa.

Kiên nói:

- Cha Thịnh bảo đến mở cửa lớp ngồi đợi cha.

Tổng Giám thị kêu lên:

- Ngày chủ nhật không ai được vào lớp học phá.

Học trò đồng thanh:

- Cha Thịnh sai… cha biểu.

- Không có cha, không có thầy nào biểu cả… Ngày nghỉ học sinh không có quyền đến lớp phá.

Cả tụi:

- Cha… cha biểu chớ bộ.

- Không ai biểu được cả, tất cả hãy ra khỏi trường.

- Đợi cha tới, cha sắp tới.

- Đi về! Ra khỏi trường.

- Không, cha Thịnh biểu.

- Cha biểu cũng không được, thầy biểu cũng không được. Nhà thờ hay chùa chiền gì biểu cũng không được. Thiên Đàng, Niết Bàn hay địa ngục A tì biểu cũng không được. Tất cả hãy ra khỏi đây ngay lập tức. Ngày chủ nhật còn đến trường quấy phá! Về!

Hải xông ra trước đồng bọn rướn giọng:

- Thưa ông Tổng Giám thị, chúng tôi biết đến trường giờ phút này là không phải, nhưng chúng tôi vì vâng lời cha Thịnh. Chúng tôi chỉ rời khỏi nơi đây khi có lệnh của cha Thịnh.

- Tổng Giám thị ra lệnh, chúng mày rời khỏi nơi đây lập tức.

Học trò ồ lên, mấy tiếng cười ha ha, xì xì. Tổng Giám thị hét về ngay, chúng mày lì phải không? Bọn học trò cười hô hố đứng chụm vào nhau tay đút túi quần. Chúng mày gan, chúng mày nghinh hả? Ông Tổng lấy giấy bút ghi chú rồi bỏ đi. Kiên nói với Hằng:

- Biết vậy, xin cha viết mấy chữ gửi cho ông Tổng mượn phòng họp.

Cả bọn càng lấy làm ngạc nhiên tại sao hồi nãy ông Tổng Giám thị không bợp tai học trò. Hải nío thằng cha không đánh tụi mình, nhưng thằng cha ghi tên còn chết hơn nữa, ngày mai thằng cha sẽ gọi lên từng đứa tới văn phòng… Tổng Giám thị! Sấm sét học đường! Sấm sét học đường!

Bắt học trò quỳ ngoài cột cờ, quất học trò bằng roi mây. Đồng phục lỗi thời, huy hiệu lệch lạc: đuổi về. Đi xe đạp trong trường, tịch thu xe. Hút thuốc lá, đuổi ba ngày. Mặc quần ống túm, lấy kéo cắt ngang ống quần. Trễ năm phút, không cho vào lớp. Nghĩ một ngày không đưa đơn, viết giấy mời phụ huynh đến nói chuyện. Làm ồn trong lúc vắng giáo sư, quỳ cả lớp. Để lớp học dơ bẩn, cả lớp phải quét.

Buổi sáng, Tổng Giám thị đi tuần một lần, buổi chiều đi tuần quanh trường một lần, tay cầm cuốn sổ, tay giữ cây bút, mắt kiếng thì kéo cao lên tóc. Học trò đã viết trong cầu tiêu nhà trường: Tổng Giám thị lé, Tổng Giám thị mắt ba tròng, mặc quần không có ba ghết. Tổng giám thị ăn cháo lươn không bỏ ruột. Tổng giám thị khi chết vẫn còn mở trừng trừng hai mắt lé. Đàn ông mắt lé là thứ người dâm đãng nhất, xin ơn trên bóp cổ Tổng Giám thị, xin Bộ Giáo dục thuyên chuyển hắn ra Gio Linh dạy học.

Một bọn học trò nào đó trong trường đã đi ngang hông nhà Tổng Giám thị nói lớn:

- Người không ra gì mới giữ chức Tổng Giám thị trong trường.

Một giọng khác lớn hơn:

- Tổng Giám thị là cái gì nhỉ? Không là cái gì hết. Vô nghĩa, vô dụng.

- Ừ… ừ, thằng cha tưởng làm Tổng Giám thị là oai lắm. Mấy đứa con thằng Tổng Giám thị chúng ông sẽ nhổ lông chặt cánh hết. Tổng Giám thị là không hơn không kém một cục đất sét, một cục hột bắt. Tổng Giám thị, cái chức nhỏ xíu à. Không có cái chức chi nhỏ hơn chức Tổng Giám thị. Người ta thì là Tổng thống, Tổng trưởng, Tổng trấn, Tổng Giám đốc, hắn thì là Tổng Giám thị, không ra một cái gì hết.

Cả bọn không có chỗ họp định giải tán ra về thì cha Thịnh tới. Bầy con gái chạy đến bên cha.

Hằng nói trước:

- Thưa cha, ông Tổng Giám thị đuổi về không mở cửa lớp cho vô. Ông nạt nộ như trời gầm.

Tất cả vây cha vào giữa, tất cả lộn xộn như công nhân sở Mỹ đưa yêu sách đòi đừng sa thải.

Kiên tiếp lời:

- Ông Tổng Giám thị mắng mỏ chúng con như đạn súng máy ria.

Cha hỏi:

- Các con có làm gì mất kỷ luật không?

- Bọn con vào nhà ông cai xin chìa khóa mở cửa lớp để ngồi đợi cha. Ông Tổng Giám thị hùng hổ như một biệt động quân xông tới la mắng như gió táp mưa sa.

Cha Thịnh nghiêm nghị:

- Theo cha đi vào.

Cha Thịnh tiến vào lớp. Một tên học trò được lịnh đi kêu mụ cai. Ông Tổng Giám thị hấp tấp chạy đến. Học trò con trai một loạt vỗ tay. Cha Thịnh suỵt suỵt bảo im rồi cười với ông Tổng Giám thị:

- Xin lỗi ông Tổng, cho mượn phòng có chuyện cần.

Tổng Giám thị vồn vã:

- Thưa cha, nếu khi hồi cha viết mấy chữ vào miếng giấy thì đâu có gì rắc rối. Vì có lịnh ông đại diện bảo phải canh gác trường ốc cho kỹ.





CHƯƠNG HAI



Đêm đen láng. Đêm là một khoảng vô vi bao la dễ chịu. Giờ này nếu có một đoàn mèo mun dẫn nhau đi cũng không ai thấy. Đêm gắn muôn vàn khóe nhìn đăm đăm thật sát và phóng lớn đến vô tận. Đêm trời huyền, đêm có mái tóc dài, có màu lông ngựa ô, có mắt hạt nhãn và đêm là của riêng cho từng tâm hồn. Chùm lá tối tăm lay động trong thung lũng mực bao la căm lặng. Đêm đi vào trong sở hữu của từng tâm hồn khi ngày dứt ánh sáng không còn gì đáng thấy.

Trong không gian thoang thoảng hương của một loài hoa, cây hoa bại hoại mọc ở gần chiếc am nhỏ góc vườn. Đêm ở trong nhà cũng đẹp như đêm ngoài trời. Gió mát chan hòa, ngọn đèn dài trông cô đơn và lạc lõng. Bản dạ khúc nào cất lên nghe ngút ngàn nỗi nhớ. Nỗi cô đơn được nhân lên bao nhiêu lần là nỗi cô đơn chịu đựng được.

Đêm thơm như trầm mịn như tơ tằm và êm đềm như sóng lúa. Đêm hồng rực rỡ, đêm khỏa thân cho nỗi vui giòn tan và dí dỏm vỡ vụn ra thành từng mảnh ân tình. Đêm khơi mào tâm sự. Một đêm vui bằng vàng nghìn lượng. Trăng mon men đi theo một giãi mây, Bến Ngự đêm tàn nhưng tình không tàn. “Ai về Bến Ngự cho ta nhắn cùng. Nhớ chăng non nước hương Bình có những ngày xanh lưu luyến bao tình”.

Đêm đang tàn trên Bến Ngự. Cây thấp, sóng cạn, nhưng dòng nước nhỏ chảy qua cầu bạc là nơi neo thuyền lý tưởng khi màn đêm buông rộng. Đêm Bến Ngự hiền hòa với giọng hò mái nhì cất lên từ một thuyền cát dưới sóng tỏa rộng trong không gian âm vắng, lan trên những bụi hàng rào chè tàu xén đều như thành tường dày. Tiếng rao hàng rong buồn ảo não như tiếng a ơ chinh phụ dỗ con. Cầu một nhịp, sông Bến Ngự thuyền lớn không vào được, nên trên bến sông rảnh chỗ cho những người yêu nhau đứng tuần tự. Đêm run rủi những bước chân tìm đến nhau thật sát gót và làm tròn hy vọng. Đêm che chở vỗ về những gì ngày đã làm chói lói. Đêm an ủi những lo âu, giấu kín những tủi nhục. Đêm ngọt ngào như mật, tươi mát như da, thơm nồng như hơi thở.

Giữa im lặng và tối tăm, đêm chợt vỡ ra tiếng hát buồn dày: “Ai đời còn nhớ chăng? Xóm Nam Hương có một nàng. Lòng trinh muôn đời muôn kiếp, đem xuống tuyền đài oan ức ôm hờn ôi đến bao tan. Từ chồng ra đi, chiến tranh phân kỳ, dàu dàu chiếc thân, tàn canh soi bóng”.

Hằng đờ mặt lắng nghe và hướng mặt ra ngoài tìm kiếm. Đêm bồng bềnh rất nhẹ rất mát. Gió loãng hương cau dìu dặt lên từ bờ nước xoáy đập nhẹ vào bức mành tương nối bằng những cọng trúc ngắn.

Có rất nhiều gió, gió quen thuộc và gió quen biết. Hằng đến bên cửa sổ tì tay nhìn thẳng vào đêm dày. Cây ngọc lan có những búp bông nhỏ bằng ngón tay út ngâm mình trong đêm trăng láng như ướt nước. Tiếng hát lại trổi giọng kể lể: “Thằng bé kêu rằng, không không bố tôi đêm tối mới về, không không bố tôi đêm tối mới về… Ôi! Đau thương! Ôi! Ly tan!”.

Hằng biết đó là bài Thiếu phụ Nam Xương kể lể sự tích người lính trở về trong tiếng khóc, tiếng cười, tiếng bập bẹ của thằng bé con, tiếng chửi rủa của ông chồng ghen tương, vũ phu, nóng nảy, sôi nổi trong mối oan khiên dành cho người vợ trưởng chỉ biết có cái chết để tự chứng minh lòng trong trẻo trong sự hối hận lập đàn giải oan bên bờ sông vàng. Hằng như thấy trước mặt một hoạt cảnh âu sầu, người chồng xông lại bế con sau bao ngày xa cách, đứa bé hất tay đó không phải là cha của nó. Cha của nó chỉ xuất hiện ban đêm âm thầm và hiền lành: đi khi mẹ nó đi, đứng khi mẹ nó đứng, nằm khi mẹ nó nằm và chẳng bao giờ bế nó cả.

Hằng lẫm bẫm: Tiếng đàn của anh Minh, giọng hát của anh Minh. Đêm nào cũng hát bỏ cả học, ngày nào cũng đi hòa nhạc không đến trường chi hết. Anh ấy bây giờ chẳng còn ham cái chi cả ngoại trừ đàn hát. Cứ cầm cây đàn lên vai là mê đi, lú đi.

Hằng che miệng ngáp, nghĩ tiếp: Ba nhất định bắt anh phải trở thành một thứ sĩ gì to lớn, mà anh thì lại muốn trở thành nhạc sĩ.

Hằng định đóng cửa quay vào thì bỗng một tiếng thét rú lên đục thủng nỗi yên lặng. Tiếng thét nhọn, lao vút, kéo dài rồi tắt hẳn. Tiếng thét thứ hai kéo dài đều đều như tiếng còi, rồi tiếng thứ hai ngắn cụt đứt ngay.

Hằng lẩm bẩm:

- Chị Đức… đêm nào cũng ru nghe xốn tai quá. Thét rú liên hồi nghe như còi báo động. Cứ chạy ra góc vườn mà hét đứng lên.

Hằng hé cửa bước ra đứng ở chái sau. Tiếng thét giãn nở, loãng dần rồi im bặt. Một lúc lâu lại có tiếng hú dài bò ngòng nghèo. Rồi một giọng cười ré lên như tiếng đồng hồ báo thức xoay vào lá nhỉ rồi tan rã thành từng mảnh âm thanh chói tai ê óc. Tiếng cười chợt đổi thành tiếng khóc gào lên thê thiết thảm kể lể.

Hằng bươn bã chạy đến phòng cha đập cửa hồi lâu không thấy động tĩnh liền chạy ra. Chị Đức tối nay lên kinh quá, ghe hồn quá. Ba đi mô rồi không biết, thuốc men cho chị uống răng đây mình biết mô mà mò.

Dưới ánh trăng vàng loãng một bóng trắng xõa tóc đen mượt đang đứng ôm gốc cây tre mà khóc lóc thê thảm. Khóc lóc giậm chân, giật tay rồi bóng trắng dợm trèo lên cây.

Hằng kêu to:

- Chị Đức!

Hằng chạy tới ôm chầm lấy chị. Đời thuở nhà ai lại ôm cây tre mà trèo lên bao giờ. Vô lý như điên. Trèo lên cây tre không được trèo xuống cây tre lại càng không được.

Người con gái vẫn khóc lóc thảm thiết trèo lên không được lại tụt xuống ôm cứng thân tre mà nói lảm nhảm:

- Anh ấy đến đây rồi hả? Anh đến đây phải không? Em mong anh đến sao anh không đến? Anh nhất định không đến phải không anh? Thế mà em đã tin rằng anh sẽ đến. Em tự phĩnh phờ em rồi. Ngóng trông gặp gỡ là một ám ảnh và ngóng trông gặp gỡ cũng là một lừa gạt. Em xót ruột và em xót xa. Ánh trăng chảy thấm vào em, gió thổi bụi độc vấy em. Anh vĩnh viễn không đến. Từ hình người, anh đã tan thành bóng ma. Từ thịt xác anh đã chảy ra nước. Anh đã mất mà em vẫn còn.

Hằng kéo chị. Sau lưng Hằng có tiếng kêu tới tấp:

- Đức… Đức…

Ông Phủ tay cầm cây đèn bão sầm sầm đi tới, bên sau là mấy cậu con nhỏ.

Ông Phủ dồn dập kêu:

- Đức… Đức… Tỉnh đi con!

Hằng đưa tay gở tóc và lau mồ hôi cho Đức. Ông Phủ nói như rên:

- Khổ quá! Cứ chạy ra ôm cây tre mà khóc, dập đầu, vướng tóc… không biết làm răng đây? Khổ quá! Cứ vài ba đêm lại chạy ra ôm cây tre mà khóc một lần.

Hằng thở mạnh:

- Mọi khi chị Đức lên cơn nhẹ nhẹ, lần này ghê quá!

Ông Phủ lắc đầu:

- Hồi chiều đem đi bác sĩ có gì đâu… Tao đang ngủ nghe kêu la rát quá!

Đức cười khóc hỗn loạn, ôm cứng lấy cây tre, đu người lên mấy lượt đều rớt xuống.

Ông Phủ quay lui hai thằng con:

- Lại ôm lấy chị. Hằng gỡ tóc chị ra đi, gỡ tay ra nhẹ nhẹ rồi bồng vô trong nhà.

Đức giậm chân kêu la, hét rú thất thanh gào trời kêu đất. Anh, anh hẹn đến mà không thấy đến. Em gọi anh như gọi đò mà không thấy đến. Cứ hẹn lần hẹn rồi. Sự chờ đợi làm ươn tanh người ta. Lần nào hẹn cũng không thấy cái mặt. Mười lần hẹn chín lần thất, anh đi hoài đi mãi. Anh đi là cứ đi. Trăng trên đầu sáng rỡ là cứ sáng. Em đã chờ đợi, trăng đã đi qua bao nhiêu mùa, em vẫn chờ đợi trăng chấm dứt nhiệm kỳ, em vẫn chờ đợi. Trăng hết sáng anh vẫn chưa thấy lại. Trăng thật cô đơn và trăng thật lạnh lùng cho người nào chỉ có một bóng một mình. Em đêm nào cũng cô đơn, ngày nào cũng cô đơn.

Nhớ anh không làm sao chịu được. Anh, anh, anh muôn đời muôn kiếp.

Đức khóc hu hu:

- Anh, anh…

Tôi muốn đập bể đầu tôi. Tôi không có ý nghĩ nào muốn sống nữa. Tôi muốn chết cho tôi coi. Tôi không muốn cứu sống tôi nữa. Đừng ép tôi uống thuốc… Uống thuốc để làm gì, dang ra hết cho tôi yên, cho tôi tỉnh táo.

Hằng bước ngắn theo mọi người vào nhà nhìn chị dâu soạn thuốc chích cho Đức rồi bỏ về phòng. Dòng họ mình đời nào cũng có một người dại khùng rước lấy những rủi ro đen đủi của cuộc đời. Chị em mình thì được hưởng hết những diễm hồng đức đỏ. Chị Đức điên, một nỗi tuyệt tình thật cay độc. Chị Đức điên một cuộc thảm bại đau thương. Chị Đức thoát chết, chị Đức điên. Tình yêu khủng khiếp như một vũng máu. Người yêu của chị Đức là anh tuyền. Người bỏ chị Đức là anh Tuyền.

Hằng đột ngột lặng câm ngồi dựng thẳng, mắt đứng tròng và miệng ngậm kín. Một hai chiếc lá đã bay vào cửa sổ. Ha hạ mắt. Gió ớn lạnh. Lá rụng theo thói quen. Lá giữ màu xanh và màu vàng cũng do thói quen. Và Hằng đã thấy một ý nghĩa nào đó. Lá rụng do nỗi lòng của lá. Lá rụng do một ý muốn mạnh. Lá không rụng, mùa thu không linh hồn, và heo may hầu như bất động. Xác lá rụng tươi quay quắt nằm đó. Nỗi cô đơn nặng không cân nổi. Muôn vạn cõi lòng buồn nhớ và chán nản. Có một số chiếc lá nhất định rơi từ Tiên xuống. Ở Tiên, lá rơi vô kể.

Lá đào rứt mình ra khỏi cành tươi bay, lao đao một phút rồi nằm xuống rắc kín đường Thiên Thai làm bối cảnh cho biệt ly Lưu – Nguyễn với hai người tình tiên. Những con chim oanh nhìn xác lá để buông lời ngậm ngùi đưa hai người đáp xuống trần thế. Tiên cô sướt mướt thở dài. Lá rụng không đành ôi trời ơi! Chị Đức… tình yêu tưởng nhẹ mà bây giờ là vậy. Chị Đức còn lại như vậy đó. Một tặng phẩm cho gia đình.

Hằng thở như nấc khi Hằng đứng ngay ngắn nhớ lại cuộc gặp gỡ hồi chiều. Mắt Hằng mờ đi như nhìn qua một màn kính nhòa nước. Trí nhớ Hằng kéo về…



- Thưa cô, trò Hằng ăn bắp.

- Thưa cô, trò Hằng cứ đụng tay em hoài.

- Thưa cô, trò Hằng chửi tên ba em.

Cô Luyến suỵt suỵt. Hằng im đi. Hằng láu táu, lí lắc lắm nghe. Ngồi yên vòng tay lại. Còn nhúc nhích ngo ngoe nữa thì đuổi xuống bàn dưới với học trò con trai. Hằng muốn quỳ không? Hằng muốn ăn thước kẽ không?

Khi một đứa học trò con trai nói chuyện nhiều, cô Luyến phạt lên ngồi bàn trên với tụi con gái. Khi một đứa học trò con gái nói chuyện nhiều, cô Luyến phạt xuống dưới với học trò con trai. Trong lớp ba của Hằng có hai đứa bịnh: con Nhớ ghẻ hờm và thằng Bá thúi tai.

Sau giờ tập đọc, con Quyến đem tấm hình bà đầm đẹp ra cho mấy đứa coi. Hằng đưa tay chộp một cái mạnh làm rớt bình mực của con Quyến xuống đất, mực tím chảy qua cuốn sách chưa gấp lại.

Con Quyến níu Hằng:

- Bắt đền, bắt đền quyển sách.

Hằng vênh mặt:

- Đền con cóc đen.

Lập tức con Quyến đứng rột dậy:

- Thưa cô trò Hằng làm đổ mực trên sách em, em bắt đền thì trò Hằng chửi em.

Cô Luyến đánh cái thước xuống bàn:

- Hằng hư nghe, từ sáng đến giờ bị thưa không biết bao nhiêu tội.

Quyến lại dong tay:

- Thưa cô trò Hằng nhiếc em cằm nhọn như cằm con kiến, trò Hằng lại còn hăm ra đường sẽ đánh em nữa.

Cô giáo nạt:

- Hằng, xuống ngồi bàn con trai. Hằng đứng thẳng lên vòng hai tay lại, xuống bàn con trai ngồi.

Cô Luyến chỉ vào chỗ thằng Bá thúi tai. Thằng Bá vội ngồi xích vô vòng tay khổ sở. Hằng ôm cây xăm đi xuống ngồi vào bàn sau lưng thằng Bá chỗ Điệu Tân ngồi sát vào Điệu Tân. Có vài tiếng i a chí chóe. Điệu Tân vội xích vô lấn vào Điệu Lý.

Cô Luyến bảo:

- Thôi, ngồi đó cũng được. Trò Lang lên ngồi bàn trên đi.

Điệu Tân và Điệu Lý ngồi im như hai thằng ngồi gỗ. Hằng gãi cổ rồi qua nói chuyện:

- Điệu chấm mực xanh hay mực tím?

Chú tiểu tí hon đầu tròn trái dừa tóc trọc chỉ chừa hai cái bớt hai bên như chó và vội ngồi thu người như con cóc ngậm miệng cứng. Hằng thích cùi xích tới?

- Ê, Điệu Tân tui hỏi Điệu chấm mực xanh hay mực tím mà.

Chú tiểu Tân chao mắt nhìn cô giáo và ngồi vòng tay thật thẳng. Giờ chơi cô Luyến nhịp thước kẻ trên bàn ba lần học trò mới được ra. Điệu Tân nắm tay Điệu Lý đứng trên hai viên gạch, Hằng mon men chạy tới rũ:

- Điệu Tân, Điệu Lý, chút nữa về nhà thương điên coi bà Phi điên nói về nghe!

Hai chú tiểu lắc đầu nguầy nguậy:

- Không, không… tui không đi mô, ông tui khổ u trốt.

Hằng phụng phịu:

- Điệu Tân chi chi mô, khi hồi tui hỏi Điệu chấm mực xanh hay mực tím mà Điệu không trả lời.

Chú Tân nhìn xuống bàn chân mình:

- Tui chấm mực tím.

Hằng đứng xích lại một tí:

- Điệu Tân ơi, tui quên đem bình mực đi rồi, chút nữa Điệu cho tui chấm mực của Điệu với hỉ.

- Không, không… ông tui la, ông tui biểu một ve mực phải chấm một tuần lễ.

Hằng cầm dải áo nhảy lên một cái rồi nói:

- Điệu Tân ơi, Điệu xài ngòi bút lá tre hay lá vông?

Chú Tân nhổ nước bọt xuống đất:

- Tôi viết ngòi viết lá tre.

Hằng hít mũi:

- Điệu Tân ơi, Điệu có hai ngòi viết cho tui mượn một ngòi.

- Không, không… ông tui quở, ông tui biểu đừng làm rè ngòi viết. Ông tui giao mỗi ngòi viết phải viết trong một tháng lựn mà!

- Điệu Tân ơi, buổi sáng Điệu dậy mấy giờ?

Chú tiểu nhỏ ngước lên:

- Ông tui dạy phải dậy sớm học bài khi bụng đang đói thì dạ mới sáng. Học bài dể như ăn ốc, học kinh Phật mới khó. Bài kinh mô cũng dài dòng dọc, cũng ê a trúc trắc. Ông tui nói kinh viết theo chữ Ấn Độ học khó lắm, rứa mà tui chỉ tụng có hai lần là thuộc.

Hằng hỏi:

- Điệu dậy khi mấy giờ?

- Bốn giờ sớm.

- Điệu dậy chi mà sớm rứa? Rứa đi ngủ khi mấy giờ?

- Tụi tui ngủ với thức đều theo lịnh ông.

Điệu Lý nảy giờ rúc mặt vào nách Điệu Tân, từ từ chúm miệng lại rồi nói:

- Ông biểu chi làm nấy không ông chửi.

Giọng nói Điệu Lý líu lo ngọng nghịu trong khi cái đầu ngúc nga ngúc ngắc như đầu gà cồ. Điệu nói bắn nước bọt vào má Hằng. Người tu hành như tụi tui phải thức nhiều ngủ ít, phải tỉnh nhiều mê ít.

Buổi sớm ông tui thức dậy trước, ông tui rung hồi chuông thứ nhất, ông tui rung hồi chuông thứ hai, tui mới ngồi lên mặt nhăn mắt nháy. Tui chạy ra vại nước lấy gáo múc rửa qua loa như mèo làm dáng rồi mặc áo vô là đứng tụng kinh sau lưng sư cụ. Điệu Tân cũng vậy, chân tay sạch sẽ, áo mặc chỉnh tề, cũng lên đứng trước bàn thờ đánh từng hồi chuông ba tiếng. Tụng xong khóa kinh sớm, tụi tui mới xuống bếp nấu nước pha trà, lo nồi cơm. Ông tui. Ông tui uống trà ít thiệt ít, uống như nếm từng ngụm trà chát.

Tụi tui bày cơm ra trên tấm phản gỗ bời lời, Điệu Tân xách chén muỗng chạy ra sân múc tương. Rồi ông bắt hai đứa tui ngồi khoanh chân đâu mặt ăn lót lòng cơm gạo hẽo rằn rắc muối mè, rưới nước tương.

Hằng xuýt xoa:

- Ăn cơm với muối mè, với nước tương… cực quá hí? Ăn rứa nuốt răng vô?

Điệu Tân nhếch mép:

- Ăn quen mạng đi rồi.

Hằng nói:

- Tui ăn cơm với thịt gà.

Hai chú tiểu cùng rụt đầu:

- Ấy, ấy, không đi tu… mới ăn thịt gà.

Vô học, Hằng đem bài tập làm văn được sáu điểm ra khoe. Từ khi bị đổi xuống bàn con trai, Hằng bị bọn con gái tẩy chay khỏi những trận ù mọi, những vòng năm tiền, những cuộc thả dĩ ba đa, Hằng mon men chơi sát hai chú tiểu tí hon tẳn mẳn hỏi han cha chú chết chưa, mẹ chú còn hay không, chú ăn cơm một bữa mấy chén. Chú Tân kể rằng cha chú chết trước, mẹ chú chết sau, chú phải vào chùa ở tu năm lên bốn. Sư cụ chụp ngay cho chú một đầu tóc chó vá.

Chú cầm đũa chưa rựa, phải bốc cơm mà ăn trong chén sắt, cả ngày lũn đủn chạy vô chạy ra như con cún. Vào chùa ăn mãi cơm chay cho đến chết, buổi sáng cơm hẫm rưới tương, rắc muối mè, buổi chiều thêm ngọn rau lá cải. Ngày hai bữa cơm chắc bụng, rằm mồng một mới được ăn chao với đậu rán om cà chua. Sư cụ chùa Từ Linh triệt để bắt hai chú tiểu phải theo luật Phật, ăn ít, ngủ ít, làm nhiều.

Tuy nhiên, vì hai chú tiểu đều dưới mười tuổi nên mỗi tháng hai lần, các chú được quyền ăn cá ăn thịt chút ít. Các chú bị cấm không được bước chân vào chợ, sư cụ còn bắt các chú đến trường không nên đi con đường dẫn ngang qua chợ.

Mỗi lần các chú đi học, sư cụ đều dặn:

- Không được ngửa tay xin ai cái chi. Ai cho chi cũng đừng ngửa tay lấy. Tay chân phải sạch sẽ, miệng mồm đừng có ăn bậy ăn bạ, đừng có thóc mách bép xép.

Sau bữa cơm, chú Lý quét nhà lau nhà, chú Tân cầm chỗi xúc cươi. Chú Lý cuối cong người cầm cây chổi tàu cau moi móc sạch trơn những ngọn rác ở trong kẹt trong góc tường xó xỉnh rồi ra giếng múc một xô nước bắt đầu giặt khăn lau nhà, chú bò quanh nhà mà lau, đi bằng đầu gối mà lau sao cho sạch nền gạch bóng láng như bát ăn cơm. Sáng ra ông của chú sẽ khom người, dòm ngó mọi chỗ, ngồi bệ xuống đưa tay xoa xoa dưới nền nhà rồi đưa tay lên soi ngắm thử có nhám có hằn. Chỉ một câu la mắng, sư cụ có thể rền rĩ từ ngọ tới khuya tỉ mỉ như rau răm rau búng, kỹ càng như tụng kinh đọc kệ.

- Cái thằng Lý sáng ni vừa đọc tiểu thuyết vừa lau nhà hay răng mà dưới cái giường của tao cả cát và cát, tao sờ vào hắn nhám là nhám, tao mài tay cơ hồ chảy máu tay, thủng thủng cả tay.

Sư cụ ngồi nhâm nhi tách trà, nhón cục đường phèn cho vào miệng mút, mắt khép hờ nửa ngủ nửa thức, chợt chú Lý ôm cuốn tập đi qua, sư cụ choàng mở mắt càu nhàu:

- Cái thằng Lý sáng nay vừa đọc tiểu thuyết vừa lau nhà.

Sau giấc ngủ trưa, sư cụ nhấm trà xong, lên nhà lớn đọc kinh rồi lại xuống nhà đọc sách, nhác thấy chú Lý chạy lạng quạng ngoài sân, sư cụ vội ngầy:

- Cái thằng Lý sáng nay vừa đọc tiểu thuyết vừa lau nhà.

Chú Lý vội tụt xuống bếp, chú Tân hỏi:

- Ông quở chi chú rứa?

Điệu Lý cười nhe hàm răng mất cái giữa:

- Ông ca.

- Ca chi?

- Ông ca tui lau nhà không sạch.

- Điệu lau nhà ẩu phải không?

- Mô có!

Sư cụ vội chống gậy đi xuống:

- Hai cái thằng lép bép lắp bắp chi đó? Trong nhà chuột đã rúc, tụi bây còn rúc to hơn nữa, gà đã bươi, tụi bây còn bươi hơn nữa, chó đã sủa, tụi bây còn sủa to hơn nữa.

Sư Cụ lại lên ngồi đọc sách, hai chú tiểu lục lạo cái rương đựng quần áo, đụng vào cái chõ hong xôi rớt xuống đất kêu một tiếng lớn.

Sư cụ chạy vào hét:

- Hai cái thằng giỡn mỡ, giỡn mê, tụi bây uống đậu phụng cho no mập múp míp ra rồi tụi bay xô xáng đồ đoàng cho bể hết phải không? Tụi bay có muốn đi tu không? Nếu không thì tao kêu người làng người nước đến nhận tụi bay về.

Nhác thấy chú Tân cầm kéo, sư cụ lại hát:

- Mi định cầm kéo cúp tóc ca rê phải không? Đi tu mà còn đòi để tóc. Tụi bay muốn đi bán thuốc cao phải không? Tụi bây muốn đi làm kép hát phải không?



*

Mô#t buổi sáng lạnh tê, trên trời còn vài vì sao tròn thon kháu khỉnh, sư cụ đánh đến hồi chuông thứ ba, chú tiểu Tân vẫn còn nằm cuộn tròn như con sâu chiếu trên chiếc chõng tre xập xệ. Điệu Tân rên siết cần cổ chú cứng ngắc không cử động được. Khó Lễ sáng chỉ có Điệu Lý đứng hầu ông Từ Linh. Sư cụ niệm hương liền đi xuống chiếc buồng xếp ngồi vào đầu giường tre, đưa tay dỡ mền sờ lên trán chú Tân.

Sư cụ hỏi:

- Con đau chi rứa con?

Điệu Tân vội chụp tay cụ:

- Ông ơi, con lạnh run dữ quá, run đến muốn sập giường.

Sư cụ giữ hai đầu gối chú tiểu nhỏ:

- Con có nóng không?

- Hết lạnh rồi đến nóng, con nóng như ai đem con mà bỏ lò hấp.

Sư cụ khò khè hỏi:

- Con có nhức đầu không?

- Ông ơi,con nhức đầu như bị ai giã gạo trên đầu con rứa tê.

Sư cụ vỗ vai chú tiểu:

- Thôi được, nằm đi, đừng có rên không tốt.

- Ông ơi, hai hàm răng con cắn nhau kêu cạch cạch.

Sư cụ lập cập đi lên nhà trên lấy cái nang mực phơi khô mài ra với tí nước, sai chú Lý đỡ chú Tân ngồi dậy uống. Buổi sáng hôm đó, chú Tân không ăn được cháo, buổi trưa cũng nhịn đói và buổi tối, chú vừa mới xúc hai thìa cháo cho vào miệng đã mửa vọt ra ngoài. Sư cụ sai Điệu Lý đi rang nắm gạo lấy nước và biểu chú rót ra ly múc đút cho người bịnh. Qua ngày hôm sau, Điệu Tân càng nóng dữ dội, những mụt trắng nổi chung quanh miệng, chú kêu đau lá mía đau gan rồi chú chỉ tay ra ngoài vườn biểu hái cam cho chú ăn. Chú ăn được hai múi cam rồi nằm ngủ. Sư cụ sai chú Lý đi mua một lon sữa bò khui chế cho chu sung nhưng sữa nước uống vô mười lăm phút sau lại mửa ra sửa cục lợn cợn. Sư cụ lo ngại biểu chú Lý ra tiệm thuốc tây mua một viên thuốc.

Chú Lý cầm tờ bạc vê hình điếu thuốc lá và hỏi:

- Nói răng mà mua, ông?

Mi cứ ra biểu họ bán cho một viên thuốc chữa bệnh nóng lạnh. Mi đi mau mà về, không được chơi giữa đường như con nít can nó cù bơ cù bất lang thang vỉa hè nghe không con.

Chú Lý dạ một tiếng, cầm đồng tiền ù té chạy. Trời mưa mãi hoài như đùa dai. Chú chạy vô bếp lấy chiếc tới cá mang vào người mở cửa ra đi. Chú lận đồng bạc trong lưng quần và xắn ống quần lên tới háng. Chú đi những bước chân chim chuyền cánh cành tìm những vũng nước động mà lội bì bõm. Chú xoay chiếc tơi cá quanh người, mưa phía nào che phía đó. Chú đứng lại ngó người ta rớ cá, coi người ta câu ếch. Đi ngang chợ, chú nhảy lên từng cấp bước vô. Trong đình chợ la liệt những thức ăn màu sắc gợi thèm. Những trái thị, trái bứa vàng hoe, to bằng chén đơm cơm, bún bò cháo vịt bốc khói phì phào, bánh canh cua gạch đỏ ối, từng dĩa bánh bèo đánh hành mỡ rắc tôm cháy đều như nhuộm phẫm. Chú Lý rệu nước miếng, đưa tay sờ sờ đồng bạc giấy lận trong lưng quần. Chú cầm đồng bạc trong tay dùng dằng nửa muốn ngồi xuống trước cái trẹt đựng về chả tôm dày tới năm phân thoa lòng đỏ trứng vịt lên trên. Chú Lý uống tí nước bọng đang nhễu ra trong miệng và đưa tay mút, chú Lý trù trừ hoài, những lời căn dặn chát như hồng chưa ngâm của ông chùi vào đầy cả hai lỗ tai nhỏ xíu:

- Tụi bay đừng có ăn hàng chợ dọc đường. Tụi bay đừng có đi ngang chợ, đừng có khi mô đục mặt vô chợ hết. Một tháng ba mươi ngày, tụi bay có hai ngày ăn mặn rồi, đừng có thèm lạt chi nữa vô lối.

Chú Lý lao mình khỏi chợ cúi đầu chạy tới tiệm thuốc. Chú đi mất hai giờ đồng hồ mới đem về hộp thuốc nhỏ.

- Ông ơi ông, họ không bán một viên lẻ, họ bắt mua cả hộp.

Sư cụ lóng cóng cầm hộp thuốc mở ra lắc lắc rồi đổ mấy viên lên lòng bàn tay:

Chú Lý vội kêu:

- Ông ơi, để con đọc cho ông nghe ni.

Sư cụ chớp chớp mắt hỏi:

- Đọc cái chi răng mi?

Chú Lý hô lên:

- Chuyên trị các chứng đau ruột, các chứng đau bộ sinh dục, các chứng tiểu tiện đau của nữ giới nam giới (bọng đái viêm, thận viêm, chứng viêm khuẩn có ti), hợp chứng ruột thận, các chứng bịnh của bộ hô hấp (như các biến chứng của bịnh cúm), các bịnh mũi và họng. Các bịnh nhiễm độc thông thường, đau cuống họng trắng, thịt dư làm độc, nóng lạnh làm kinh.

Sư cụ nạt nhỏ:

- Đồ cái thằng con nhà cu li, tao biểu mi mua thuốc nóng lạnh cho hắn uống, răng mi lại mua thuốc ni.

Chú Tiểu Lý cãi:

- Thì con nói với họ bán cho tui thuốc nóng lạnh thì họ đưa thuốc ni mà.

Ông cằn nhằn:

- Cái thằng… cái thằng xài tiền như Mỹ xài. Người ta biểu chỉ mua thuốc nóng lạnh mà thôi, mà hắn đi na về cái thứ thuốc chữa nhiều bệnh cho mất tiền. Đau một bịnh thì mua thuốc chữa một bịnh, ai lại đi mua thuốc chữ bá bịnh cho mất tiền.

- Ông không biết chi cả, thuốc tây người ta chữa năm bảy bịnh một lúc, chữa hết mặt ni rồi qua mặt tê, chữa bịnh ni rồi bịnh khác. Không có thuốc tây mô chữa một bịnh cả, viên thuốc tây mô cũng chữa một lúc bảy tám bịnh.

Sư cụ ngơ ngác:

- Ai nói với mi viên thuốc tây mô cũng chữa một lúc bảy tám bịnh? Rứa thì đau bịnh chi uống bớt cả à? Đau chi uống nấy chứ bộ. Con người ta đau có một bịnh mà đi mua thuốc chữa bao nhiêu bịnh tốn tiền tốn của.

- Người ta không bán thuốc chữa một bịnh mà ông.

Điệu Lý buồn ngủ bắt rệu hai con mắt. Chú ngáp một cái ướt nhoẹt lệ sống. Sư cụ biểu:

- Thôi mi rót hớp nước cho hắn uống đi.

Viên thuốc với ngụm nước nuốt vào chưa ngậm miệng lại đã phọt ra ngay với chất cam trộn sửa vừa mới uống, chú Tân còn nôn khan nghe như những tiếng nấc. Sư cụ giương đôi mắt hườm hườm những đường chỉ đỏ nhìn chú Lý rồi cúi xuống ngó đất. Sau một lát sư cụ sai chú Lý vắt cam cho bịnh nhân uống với viên thuốc khác.

Chú Lý nói:

- Bịnh nặng tới óc rồi ông ơi. Ăn cam là bổ đại hạng mà còn mửa ra thì thôi. Người ta nói bữa mơi mà ăn cam là bổ như ăn gan trời, canh trưa mà ăn cam là bổ như ăn tim bụt, canh tối mà ăn cam thì tốt như phổi Bồ tát.

Ông quở:

- Cái thằng đừng ăn nói ba trồng ba trợn nữa đi… Lẹ lên cho hắn uống cho rồi mi.

Dạ, dạ, dạ, chú Lý dạ ba bốn tiếng rồi đi lấy dao, đứng khuỳnh chân vòng kiềng sắt hết hai trái cam mới được tí nước, chú la:

- Hai trái cam to đại đột mà được có chút xí nước ông ơi.

- Mi bỏ viên thuốc vô hòa cho hắn uống đi.

Chú Lý bỏ viên thuốc vào ly cam tươi, đưa ngón tay út, khuấy tròn, bưng lại. Chú tiểu Tân há họng uống xong lại ói mửa nữa, chú nằm vắt lưng qua chiếc gối nâu, ưỡn chiếc bụng căng cứng. Sư cụ đưa tay nắn, sờ sờ quanh rốn và bật kêu:

- Trời ơi, thằng ni hắn nổi cái hột chà là nơi bụng.

- Mô ông, mô ông, chú tiểu Lý lật đật hỏi và xoắn xít đặt tay lên bụng bạn rồi chú lật đật rút tay về. Trời ơi, bụng nóng như nướng thế ni trời. Sư cụ bảo thôi mi lên Phường Đúc mời thầy y tá lai cho tao. Chú Lý chạy ù một mạch chân không bén đất.

Thầy y tá cho chú Lý một nạm mít mật sấy, bảo chú vén áo lên ngồi sau bọt ba ga xe đạp rồi chở về chùa. Thầy y tá chích cho Tân hai ông thuốc, chú Tân ngủ một giấc dài đến chiếu mới dậy đòi uống nước. Mặt chú vàng ủng, cặp mắt lờ đờ, leo lét, cơ thể mềm nhủn tay chân cử động yếu ớt. Thầy ra về để lại hai viên thuốc dặn chú Lý cách bốn giờ cho bạn uống một lần.

Sáng hôm sau, thầy y tá trở lại nghe mạch chú Tân xong, cởi trần chú ra, ấp bàn tay bằng trên da ấn từ từ cả bề dài mấy ngón tay xuống bụng một lượt rồi dùng đầu ngón tay chỉ sâu vào bụng.

Thầy y tá hỏi:

- Thưa ông, mấy ngày nay Điệu ni có ăn chi không?

Sư cụ chớp chớp đôi mắt leo lét:

- Ăn chi vô, mửa ra nấy, ăn cam mửa ra cam, ăn sữa mửa ra sửa, uống thuốc mửa ra thuốc.

Thầy y tá cầm hộp thuốc chú Lý mua đưa cho sư cụ:

- Thứ thuốc ni, đừng xài đến nữa, ông cất kín đi ông. Chú ni uống thuốc tiêm thuốc của con trong hai ngày là hết bịnh. Chú ni bị cái bịnh thiếu chất bổ, trong người chú ni không có đồ ăn thịt cá trong bao tử, chú ni phải cho uống thuốc bổ máu, cho ăn thịt bò vô mới mạnh được, không thì cứ nằm hoài.

Ông lắc đầu:

- Thằng ni mà ăn thịt bò?

- Dạ, chú ni cần phải ăn thịt bò. Thịt bò là bổ nhất trong mọi món ăn.

Sư cụ đưa mắt nhìn ra cây đề xum xuê những chiếc lá lớn màu xanh bóng bên cạnh cây vú sữa treo những trái tròn mũm mĩm trên mái đình cong cong lợp ngói âm dương mà trụ gỗ trên nóc uốn khúc cặp long hổ chầu nguyệt. Bên bờ giếng sâu thăm thẳm xây bằng đá ong, hai người đàn bà đang kéo gàu giữa hai đôi nước trong ngọn gió đông tê tê da thịt.

Thầy y tá lại nói:

- Ông phải cho chú nhỏ ăn thịt ăn cá.

Sư cụ nhìn ra khu vườn nhỏ. Những cành chanh đã bắt đầu điểm và bong búp trắng bên dưới bẹ cau tươi mướt. Năm ngoái bão lụt làm gãy cây cau đang trổ hoa ở góc vườn, sư cụ sai chú tiểu Lý sang nhà bà Lân mời cô Mậu qua cắt bắp cau non làm gỏi. Cô Mậu xắt bắp cau non ra từng lát mỏng xát muối rồi trộn với dầu mè. Đĩa nõn cau trắng béo ngậy, ba ông con ăn một bụng ngon ngất tới cổ. Trời lạnh, hoa chanh, hoa bưởi đưa hương thật gần như sát vào mũi.

Thầy y tá nhắc lại:

- Ông phải cho chú nhỏ ăn thịt cá mới được.

Sư cụ móm mém trả lời:

- Hắn là người tu hành ăn đồ tanh răng được.

Chú Lý bưng ra mời khác nãi chuối mốc mốc chín bầm đen, tách nước nóng bỏng với mấy cái bánh chưng cưng như oẵn.

Thầy y tá lại kêu:

- Ông ơi, ông không cho chú ăn thịt ăn cá sợ chú bại chân đó. Ông nghĩ kỹ đi ông.

Sư cụ nhắm đôi mắt leo lét lại. Năm ngoái bà Thượng góa trong loàng mời ông với hai học trò lại nhà tụng kinh cúng chồng. Canh trưa, gia chủ dọn cơm cháy lớn lòe loẹt sắc màu.

Với những bát tiết canh, bát nham bò, bát giả cày, nem chua, nem bì, đĩa cá hấp, bí nhồi tàu, nộm sữa, chả giò tôm phích, chim om chua. Những bát đồ chay gợi thèm không thua gì các thức ăn thịt cá. Sư cụ phàn nàn rằng con tôm thật giống con tôm, con cua y hệt con cua, miếng mỡ ra miếng mỡ, miếng nạc đúng là miếng nạc, cục chả không khác gì cục chả, đầu cá hấp không thua gì đầu cá hấp, chén nước mắm giả cũng hấp dẫn như chén nước mắm thật. Mắt trông thấy mà thèm. Tất cả đều có cái hình cái sắc, cái vóc cái vẻ, cái dáng của những miếng ngon tục lụy. Nhưng đã đi tu là không lý đến chuyện đó, là rời xa, là cố tránh, là không tơ tưởng tới.

Ấy vậy mà còn diễn ra, còn bày ra để làm gì. Ấy vậy là chọc mắt, châm chích vào mắt. Hôm khác ba ông con lại được mời tụng kinh và ăn cơm tại nhà gia chủ. Mâm cơm đồ sộ dọn chung cho cả nhà cùng ăn với ba người khách. Ai nấy đều ăn đồ ăn lợi, duy có cụ chánh ông là nhậu tôm thịt. Cụ chánh ông lại sai bưng mâm cơm riêng của mình lại góc bàn me mé để vừa ăn vừa hỏi sư phụ vài câu về cái triết lý Mạnh Tử. Sư cụ khen bà nội trợ nấu đồ ăn chay ngon bổ tinh tấn.

Đang giữa bữa thì cậu Ba về. Cậu ngồi xề xuống ăn luôn. Cậu ăn mặn nhưng thỉnh thoảng cứ chòi chòi gắp miếng nộm chay. Đũa mặn của cậu ta dây vào tô canh sư cụ đang chan. Sư cụ ngửi ngay một mùi tanh, vội bỏ đũa ngồi nhìn xuống.

Cả nhà trưng mắt lặng lẽ ngó cậu Ba.

Sư cụ mở hai mắt leo lét ra, từ tốn nói:

- Hắn đi tu rồi, bắt hắn ăn mặn tội chết. Thầy y tá cứ để mặc hắn lại sức lần lần.

Thầy y tá cười:

- Ong ơi, sư bà Điệu Mẫn con của Vua Thành Thái ngày xưa lúc sắp chết còn uống một muỗng nước mắm nữa là… Ông ơi, câu chấp làm chi.

Sư cụ làm thinh, thầy y tá lại nói:

- Ông cho chú ăn cho rồi đi ông!

Sư cụ ngó ra đụn rơm vàng hình cây nấm lớn. Dưới đất, mấy mẹ con gà mái dầu lích thích kiếm mồi và chị lợn sề gếch mõm nằm dài tha hò cho đàn con ủn ỉn. Có tiếng cu gáy từ một vườn mít xa vọng tới. Ngoài vườn mấy con mít già năm nay nhiều trái cám quá.

Thầy y tá cất ống chích vào hộp:

- Mấy chú đây còn ăn mặn một tháng hai lần mà… Ông cho chú ni ăn mặn mười lăm lần một tháng lấy sức cũng chẳng sao mà.

Sư cụ nhìn xuống hai bàn tay mình:

- Rằm tháng hai vừa rồi chúng nó đã hết cái kỳ ăn mặn rồi. Từ đây sắp tới chúng nó ăn chay như người chín chắn tu hành rồi đó.

Thầy y tá cười:

- Trường hợp đau yếu phải khác chứ… Ông nới tay cho chú ấy nhờ mà.

Thầy y tá đăm đăm nhìn đường chân mày dài của sư cụ:

- Ông cho chú ăn trứng gà đi ông. Mơi con đem cho chú một chục trứng gà so. Ăn trứng nhiều chất vôi, trứng gà bổ lắm vì tự đó chui ra một con gà con.

Sư cụ nhẹ nhàng khoát tay:

- Bởi đó mà ăn răng được, ăn răng đành.

- Thôi thì ông cho chú ăn trứng gà không trống vậy. Ăn trứng không có khác chi ăn chay.

- Chay răng được mà chay. Ăn như rứa không được mô. Hắn đã qua cái cử ăn mặn rồi bắt hắn ăn trứng ăn cá lúc này là phải tội chết.

Thầy y tá cười:

- Trong cái lúc như lúc này, chú bắt buộc phải ăn chút chất bổ vô người cho có sức. Ăn thịt ăn cá lúc này cũng tỉ như uống thuốc bổ vậy mà ông.

Sư cụ lắc đầu:

- Một giọt mỡ cũng không cho lọt vô bao tử. Muốn lấy sứ, tui cho hắn cả vườn cam của chùa đó.

Thầy y tá đạp xe về rồi. Sư cụ lững thững chống gậy đi vu vơ quanh chùa. Cây dừa cao lêu nghêu xòe lá xanh bóng như giơ tay vẫy gọi những lọn mây trắng từ chân trời kéo lên lớp. Xa xa núi lạnh như trôi lững lờ, vì mây vắt ngang dỉnh. Sư cụ đưa mắt nhìn con thuyền đơn côi nao nao như trong khung cảnh một buổi tiễn đưa nhau trong sương mờ buổi sớm. Con thuyền vắng hơi người chèo chống, hình vóc tàn tạ, nước lưng lưng khoang, rêu lá phủ đầy làm buồn thêm vẻ ủ rũ một mùa sen sấp mất ở Khiêm Lăng. Sư cụ thở dài bước thẩn thờ như đi trong giấc mộng.

Trên con đường nhỏ rẽ vào chùa, một người đàn bà xăm xăm tiến bước thật nhanh.

Người đàn bà chào nhà sư bằng một cái lạy:

- Thưa ông… ông đi dạo?

Sư cụ nhướng cặp mắt leo lét:

- À, bà Sứ…

Người đàn bà mang áo gấm, đi guốc kinh, đeo vòng đeo xuyến. Sư cụ đưa tay sửa chiếc mũ lên đội đầu:

- Nghe nói bà Sứ sắp đi ngoại quốc phải không?

Bà Sứ xuýt xoa:

- Trời lạnh thế này mà ông đi dạo chi cho cảm ông?

Gió thổi hất tung tấm phu la dày, sư cụ cột thêm một vòng vô cổ nữa rồi đứng lùi lại ho khọt khẹt:

- Đi xây quanh một thể cho hắn khoẻ.

- Thôi ông, vô nhà đi không giá… Chiều ni gió nặng.

Bà Sứ lễ mễ xách một giỏ đầy đồ cúng có hai bó nhang dài thò ra. Hai người đi vô ngồi ở bộ ghế mây nhà ngang. Bà Sứ xuýt xoa dạ dạ mấy tiếng xin mượn cái khay bày bánh trái hương hoa ra. Hai bó nhang với hai hộp trà để lên bàn.

Sư cụ phàn nàn:

- Bà biếu xén cho chát chi nhiều quá.

- Có chút cúng Phật mà ông.

Sư cụ kêu Điệu Lý bưng nước. Bà Sứ xin lên lạy rồi xuống thưa chuyện. Bà Sứ trở xuống xoa đầu Điệu Lý:

- Cách mấy tháng bại chân đi chùa không được, bữa ni ngó lại Điệu Lý lớn mau quá!

Sư cụ nhăn nhó:

- Có làm việc chi cực khổ mô mà vẽ không mau lớn. Ăn rồi chơi giỡn thôi, không mau lớn sao được… Ăn rồi phá như giặc vậy.

Bà Sứ nhìn quanh:

- Còn Điệu tê mô rồi?

Sư cụ nhăn nhó:

- Hắn đau.

Bà Sứ mở to mắt:

- Điệu… Điệu Tân đau chi rứa?

Sư cụ chùi mặt:

- Đau chi không biết. Mấy ngày ni cơm lẫn nước không ăn không uống chi hết.

- Ông có cho uống thuốc chi không?

- Thầy Lương chữa cho hắn, thầy cho hắn uống nhiều thứ thuốc lắm.

- Thầy y tá không nói mặc bịnh chi răng ông?

- Thầy chẳng nói bịnh chi cả. Thầy nói nhiều cái rườm rà lắm… bắt cái ni dõi cái tê. Mỗi ngày thầy đều có lại đây coi mạch… Cái thằng không chịu ăn uống chi hết.

Bà Sứ uống một hớp nước rồi tiếp:

- Ông để con xuống thăm Điệu tí đi ông.

Bà Sứ không đi theo sư cụ xuống thăm chú tiểu. Bà bước ra ché sau mở náp mấy ghè tương cầm chiếc đũa cả khuấy lên một vòng. Hai cái Điệu nhỏ ni làm biếng quá trời, dặn mỗi lần múc tương là phải khoắng đều, múc lên cả nước lẫn cái, rứa mà không nghe, cứ xớt xớt múc hết cả nước ở trên. Cái ghè tương giờ chỉ còn xác phàm. Để biểu thằng Bứa xe lên chùa một lu tương. Bà Sứ đi lần ra sau bếp lần tới sạp gạo dở lên, gạo còn ăn được mười bữa nữa. Ui… để biểu thằng Bứa chở lên cho ông một tạ. Nhà chùa lúc này bết quá. Gạo hết, tương chao cũng hết.

Bà Sứ nhả miếng bã trầu, bước vô buồng xép nói một mình:

- Cau nhà chùa năm ni được mùa ghê, ông ơi, ông đã cho người bửa chưa ông?

Sư cụ và chú Tân cùng giựt mình nhìn ra. Bà Sứ tới ngòi bên người bịnh cầm tay hỏi:

- Điệu có mệt lắm không Điệu?

- Mệt lắm!

- Điệu có đắng miệng không Điệu?

- Đắng.

Bà Sứ cuối xuống:

- Điệu thèm ăn chi Điệu cứ nói ông sẽ cho Điệu ăn.

Chú Tân nhìn sư cụ lắc đầu. Ngay lúc ấy, Điệu Lý bưng cái chén sành chưng bảy lá chanh, bảy củ gừng, bảy quả trần bì, bảy lá kim châm, bảy trái táo tàu, bảy cục đường phèn nóng hổi hương bay.

Bà Sứ đỡ cái chén nói:

- Ăn đi chú! Ăn cho nóng cho ra mồ hôi.

Chú Tân húp được hai muỗng rồi nói vội vã lắc đầu. Bà Sứ ép chú húp thêm, Điệu Lý bưng ly nước cam lại. Bà Sứ nói:

- Thôi ông, ông đi ra ngoài cho con thưa câu chuyện.

Bà Sứ kéo chiếc ghế đẩu ngồi xích vào sư cụ:

- Không biết thầy y tá chửa cách răng đây mà con người ta chẳng ăn chẳng uống chi cả.

Sư cụ hạ kính tuổi xuống:

- Thầy y tá biểu cho thằng Tân ăn mặn đó.

Bà Sứ trợn mắt:

- Hiện ngụy… nói nghe hiện ngụy.

Sư cụ lắc đầu:

- Thầy đòi cho thằng Tân ăn trứng gà đó.

- Trời ơi! Không được rồi đa. Ai lại làm rứa, người ta là người tu hành mà.

Sư cụ gật đầu:

- Thầy còn nói tới chuyện uống nước mắm nữa.

- Bậy, bậy hết sức.

- Thầy nói nước mắm ăn vô một muỗng boor như uống một thang thuốc. Thầy nói con nít Tây mỗi tuần đều phải uống nửa chén nước mắm.

Bà Sứ trợn mắt:

- Khát nước cho mà chết cha chết bà.

Sư cụ ngồi gục đầu im lìm. Ngày sư cụ chưa vào chùa và còn đi học chữ nho ở ngoài đời, sư cụ là một thiếu niên mạnh giỏi, lanh lẹ, ăn nhiều, sư cụ luôn luôn có tiền trong túi, một hôm phải đi bộ một đoạn đường dài, sư cụ vừa đói bụng vừa khát nước vô cùng vô kể, ngài chỉ mong gặp một quán ăn, ngài hình dung bao màu sắc, bao mùi vị gợi cảm của những thức ăn ngon bổ sẽ đưa từ miệng vào bụng.

Ngồi quán, ngài sẽ ăn ào ào nhưng cuối cùng ngài đã không vào quán, ngài ghé một tiệm chạp phô bên đường mua một cục đường đen nhai từ từ. Lúc đó ngài cảm thấy cục đường đen ngon quá chừng, quá sức, ăn vào đến đâu khoẻ đến đó. Sức lực ngài tăng gấp bội, ngài hào hứng yêu đời.

Phải, một cục đường đen ngon ngọt ngào, ngon hơn bất cứ những thức gì ngon nhất. Chàng thanh niên ăn hết viên đường đen, lấy lại sức khoẻ tiếp tục lên đường. Chàng thấy rằng chàng có ý chí, có quả cảm, có nghị lực và không có những đòi hỏi, cám dỗ. Người ta phải đòi đủ tất cả cho căn phần người ta. Chàng, chàng chỉ một cục đường đen cũng đủ.

Bà Sứ, vứt cái bã trầu khỏi miệng:

- Chữa bịnh phải từ từ chứ cấp cấp làm sao được.

Sư cụ lắc đầu:

- Thầy y tá làm như chữa lửa.

Bà Sứ cho miếng trầu mới vào miệng:

- Thầy theo cách Tây.

- Đã đi tu thì phải tu cho đến cùng. Tui nhất định không cho thằng nhỏ phạm giới.

Ông dạy quá phải đi ông. Nói như thầy y tá thì lúc nào các sư sãi bịnh là các ngài phạm giới cả hay sao?

- Uống sữa cũng bổ lắm rồi. Phải luyện cho thằng nhỏ có ý chí ngay lúc này.

- Dạ, phải tụng kinh, phải cầu nguyện nhiều cho chú.

Bà Sứ đi vào buồng xép cầm tay chú tiểu nhỏ. Điệu ơi, Điệu cố mau lành bịnh nghe Điệu, Điệu chấp tay tụng kinh, Điệu cầu nguyện đi. Lúc nào ngủ thì thôi còn hễ thức thì Điệu cầu nguyện đi nhá. Đau ốm bịnh tật hoạn nạn mà cầu nguyện Trời Phật là không còn gì hơn.

Mình là con Phật, mình đau tức Phật ra tay cứu. Bà Sứ ra ngoài ngồi trước mặt sư cụ. Được, ông à, bắt chú cầu nguyện riết vào, không cho chú ăn mặn, tuyệt đối không cho một cái tròng đỏ trứng gà, một giọt mỡ, một muỗng nước mắm cũng không cho. Phải bắt chú lập công quả ngay từ bây giờ. Thầy y tá lại thì ông canh chừng thầy chỉ việc chích thuốc cho chú ấy thôi, ông phải ngó chăm chăm thầy, đừng cho thầy nhét trứng gà vào miệng chú. Thôi, thưa ông con về, để mơi mốt con lại đến thăm chùa và kỉnh ông một lu tương hột với tạ gạo. Chùa lúc này tương chao gạo củi gì cũng sắp cạn rồi.





CHƯƠNG BA



Chú Tân vừa đi vừa chạy lon ton, thỉnh thoảng vác một hòn đá liệng xuống ruộng. Chú vỗ thay khe khẽ, chú hú miệng lại huýt gió. Chú nhớ lại mấy câu hát con Hằng bày cho chú. Tóc em dài sao em không uống, tốn bao nhiêu anh trả tiền cho. Đây ví da cồm cộm sáu móng… Lên xe tiễn em đi, chưa bao giờ dơ thế! Trời mùa Đông Paris mấy tháng rồi không tắm.

Tắm đi em, tắm đi em, tắm đi em. Cô Hồng, cô Lý, hai cô anh ưng cô nào, cứ lấy nó đi hư hử hư hư. Cô Hồng, cô Lý, hai cô, anh ưng cô nào?

Chú Tân về tới cổng, chú Lý đã nói:

- Điệu lại nhà ông y tá phải không?

Chú Tân liếm môi:

- Tui đi chích thuốc.

Chú Lý hóm hỉnh:

- Tui biết Điệu lại nhà thầy y tá để ăn trứng gà.

Mặt chú Tân đỏ bừng bừng như nhuộm phẩm hoa hiên.

- Tại răng Điệu nói rứa?

- Tui nói rứa không được răng?

- Tui đi chích thuốc.

Chú Lý cười:

- Tôi biết Điệu chích thuốc rồi mà.

- Rứa tại răng Điệu nói tôi đi ăn trứng gà?

Chú Lý vẫn cười:

- Tôi biết người ta chữa bịnh theo cách Tây thì người ta chích thuốc với lại ăn trứng gà, với lại bắt mạch, với lại ăn thịt bò với chuối.

Chú Lý cười:

- Tôi hỏi Điệu thôi, hỏi cho biết vậy thôi, chớ tui có nói mát nói móc chi chú mô. Tui biết thầy y tá chích thuốc cho chú, ép chú hút trứng gà so là để chữa bịnh mà. Thầy chữa bịnh cho chú không lấy tiền. Thầy đem chú lại nhà thương mổ lấy cái hột chà là trong bụng chú ra mà.

Chú Tân đưa mắt nhìn dãy núi ngút ngàn tự chân mây xa. Chú lý nói tiếp:

- Chú Tân ơi, có phải đêm qua chú hát không? Tui nằm tui nghe chú hát cái bản chi chi đó. đi tu mà còn hát còn hò làm chi. Đi tu mà còn chụp hình chụp bóng làm chi? Làm mấy cái đó hắn sái cách đi, ông biết ông quở chết.

- Bắt được tay day được cánh… Chú đừng có hồ đồ, đổ thừa cho tui, chú đừng có thêm thắt bịa đặt cái ni cái tê. Con mắt người ta có hai tròng là tròng trắng với tròng điều… Con mắt không có tròng điều, cái trứng không có tròng đen. Chú đừng có thêm thắt bịa đặt để nói vui tui.

Chú Lý rùn vai:

- Tui nói vu chi chú, bộ chú không có lại nhà thầy y tá để kéo cái lưng quần xuống bày cái đít ra chích, để cầm cái trứng gà so lên soi soi ngắm ngắm, lấy cái tăm chích hai đầu hai lỗ rồi ngửa mặt lên mà hút một cái rột hay răng?

Chú Tân sừng sộ:

- Chú chộ tui ăn hồi mô? Thầy y tá biểu tui ăn mà tui không ăn, tui nói là tui chỉ đến đây xin chích thuốc mà thô, tui xin chích thuốc bổ để cho có sức mà ăn học. Thầy y tá nói thầy cho tui ăn trứng gà không có trống, không nở ra con, nên đó là một món ăn chay.

- Chay vay chay vảy.

Chú Lý vẹn cổ, ngước đầu lên, đôi mắt hướng thiên long trọng nhìn xuống bạn, miệng méo hẳn trong nụ cười mỉa. Rồi chú sửa dáng người đàng hoàng lại nhảy lò cò hai vòng quanh chú Tân. Lêu lêu mắc cỡ, lêu lêu mắc cỡ… trứng gà mà hô là món ăn chay. Lêu lêu mắc cỡ, trứng gà mà hô là món ăn chay. Chú Lý nhảy lò cò một vòng nữa, vỗ tay bốp bốp.

Sư cụ từ trong đi ra nạt lớn:

- Ê, hai cái thằng làm cái chi mà náo động thiên cung lên rứa? Vô xách giỏ đi chợ.

Hai chú nhỏ lẻng xẻng cúi đầu chạy miết. Chú Lý vừa chạy vừa kêu rền. Trứng gà là trứng gà so. Thằng cu ăn trộm trứng gà, mụ già bắt được cạo đầu thằng cu.



Như một cái giật mình vừa dứt ngỏanh lại hai chú tiểu linh như lớn ra rất nhiều.

Hai vạt tóc chó vá đã được cạo bóng, bộ bà ba nâu cụt được thế bằng lớp áo bảy tà. Các chú đàng hoàng ăn chay trường, các chú quần quật làm vường xương cứng da nâu. Bây giờ các chú không còn bị cấm đến trường đi ngang qua chợ mà các chú cách vài ngày phải vào chợ mua rau cải, mua gạo mua đậu, hai chú phải đi cùng đi, về cùng về.

Sư cụ đưa tiền chợ cho hai chú rồi dặn:

- Hai thằng vừa đi vừa trông coi nhau, không được ăn cháo ăn chè ngoài đường, không được đạp mạng, không được trèo cây nhảy rào hái trái mù u liệng vào người đi đường. Thấy đám ma thì ngó, thấy đám cưới thì không được dòm.

Hai chú tiểu cầm giỏ mây nhảy như châu chấu qua các bụi cỏ bờ rào và mê man với từng trái sim dại, từng cánh hoa mắt mèo trong một chiều ánh sáng tuyệt mỹ. Hai chú đi qua khu vườn đu đủ của ông Cử mọc thẳng những cây cao trồng song song. Cụ Cử mua đu đủ giống bên Tàu bên Nhật, các cây mới cao bằng đứa con nít sáu tuổi đa có trái chín dài bằng cái chai lít và tròn như cái tĩnh nước mắm, mõi trái ăn mười người không hết. Trái đu đủ bổ đôi ra ruột đỏ như ruột bí ngô ăn giòn tan và ngọt ngọt. Hai chú được bà Cử cho một trái, ăn xong lấy hột trồng mọc được bao nhiêu cây.

Chú Lý nói:

- Cây đu đủ đực lấy cây đu đủ cái đẻ ra cây đu đủ con. Không có cây đu đủ đực thì cây đu đủ cái không có trái được. Con gà mái không có con gà trống thì đẻ trứng không có ấp không nở. Con trùng thì cái đầu con trùng lấy cái đuôi con trùng đẻ ra trứng trùng.

Chú Tân trừng mắt:

- Đi tu mà nói tục.

Chú Lý xách bị lác. Chú Tân cầm cứng tiền trong tay bước vô chợ. Ông dặn mua cái bao tử về ăn với canh khoai mài nì, ông biểu mua mướp ngọt nấu với bún tàu. Ông sai mua đậu phộng nữa, mua muối về rang ni, mua mè ni, mua đậu ni, đong gạo nữa ni. Chú Lý đòi để tui mua cho, tui trả giá rẻ, chú Tân lắc đầu thôi thôi, đưa tiền họ bán là được rồi.

Chú Tân nói:

- Mình vô hàng cá coi người ta mua bán trước rồi trở ra mua đồ đoàng sau.

Chú Tân lắc đầu:

- Không, mình mua đồ trước, coi chợ sau.

- Không mua đồ trước rồi coi lâu, đồ ươn thì răng?

- Đồ chay mà ươn sao được?

Mệ bán mướp đang ăn cháo lòng vội đặt bát cháo xuống, lựa hai trái mướp dài quăng cái xạch vào giỏ cho không. Bà hàng bún gói biếu cho một gói to gấp ba gói thường. Mụ bán rau bán một bó biếu một bó. O hàng xà lách cho mấy cây. Hai chú tìm mua xì dầu. Chú Tân vô chỗ bán gao ngó qua chỗ bán cá thịt đứng một chập rồi bước tới gần rổ cá tràu.

Hai chú xoay mặt vào quày thịt. Hôm nay bà Lệ làm cả một con heo nứa mỡ vàng như mỡ gà, da mỏng như vỏ quít mà thịt dày cả một tấm. Thịt luộc rồi để một bên, thịt sống để một bên. Lòng heo cũng luộc chín một nửa, để sống một nửa. Lá phổi xốp để lên trên, ruột non, phèo huyết chín nằm cạnh nhau. Khúc dồi to căng cứng, nửa cái bao tử mài thật trắng thật nhậy. Lá gan cong lại và đầy cả bột béo. Chú Lý nhìn rớt hai con mắt vô chỗ lòng luộc trong khi chú Tân theo dõi cuộc cãi vã giữa cụ kẽ chài và mệ bán thịt quay. Cái o ni lạ chưa? Miếng thịt tui mua, tui trả tiền rồi cái trự bạc tui trả đỏ lòm ra đó. Mụ thịt quay nhảy lên đông đổng trả mô trả mô, miếng thịt quay mới cắt ra nóng hổi hồi, tiền chưa trả đã bốc lũm vô miệng rồi. Cụ đàn ông thề chết cha chết mẹ trả rồi trả rồi, bà bán thịt chửi tổ cha mi, lần ni ta tha, lần sau mà còn thì ta cắt cái đầu mi nhét vô quần. Cụ đàn ông cười, nhét ông vô quần, ông mở mắt ra ông thấy hết. Chú Tân xoay tròn mắt lia lịa. Bà khách mặc áo nịt dày, đánh móng tay màu xôi gấc cầm rổ rá lên hỏi bao nhiêu tiền mớ cá bóng mú ni? Năm đồng.

Chi dữ rứa? Một đồng bán không? The thía the thảy bảy chục một mớ. Một đồng rưỡi đó bán không? Bảy chục con cá đối ni bán mấy? Một chục đỏ lòm. Mắc quá, mắc quá! Cứa cổ cắt da người ta, hai đồng bán không? The thía the bảy mua cá mương mà ăn…Con cá thu ni bán mấy? The thía the bảy cá thu mà trả như cá mương, người chi mà chẳng biết người, biết của làm dâu họ rồi họ bán cho.

- Mua bứa ăn.

Chú Tân nghếch mắt:

- Tiền mô mà mua?

- Tiền Điệu cầm nơi tay đó.

- Tiền chợ ông chửi, ông đánh chết, ông đuổi đi.

- Lấy hai cắc, tui một cắt, Điệu một cắt, mua hai trái thị, mua hai trái bứa ăn.

Chú Lý kéo chú Tân đi, chú nói:

- Lại chỗ mụ Bảy chơi.

Hai chú đứng cầm tay nhau nhìn những trái thị màu vàng gấp thoảng mùi thơm bay nằng nặng. Những trái bứa cũng màu vàng nhìn mà ứa nước miếng.

Chú Lý thích cùi tay bạn:

Chú Tân lắc đầu:

- Ăn bớt tiền chợ ông chửi cho thì thôi.

Hai chú tiểu dắt tay nhau ra khỏi chợ, bước nhanh trên con đường láng bò theo dòng sông mềm. Hai ba chiếc đò không mui chở đầy những tĩnh nước mắm và trách đất, nồi gạch chèo xuống chợ Đông Ba bán. Chú Tân đứng lại nghếch mắt ngó chiếc bà kết bằng lồ ô trôi chầm chậm do hai người đàn ông chống sào đẩy đi. Mấy chiếc thuyền cát lõm sâu vào mặt nước bà í ách.

Trên con đò lá tre nhỏ, cụ Mo mò tôm đang lui cui nấu một nồi gì. Hai chú tiểu chạy ra giữa vài cầu đứng ngó thẳng xuống khoang đò. Không biết cụ Mo nấu cái nồi gì khói bốc ghê quá. Cụ Mo hầm xương chó? Cụ Mo nấu thịt chuột? Cụ Mo kho thịt chồn xào rắn, xào trăn? Bà Túc nói cụ Mo ăn thịt mèo nên mặt nổi phong lá. Cụ Mo làm nghề ăn trộm nữa. Ban đêm cụ chèo lên đò đến bên ông Tuần rồi mò lên bẻ thơm, hái dừa, bắt gà. Cụ còn gở những cánh cửa sổ kiên kiền nhà ông Giáo đem ra chợ bán rẻ.

Hai vợ chồng cụ Mo cũng bơi lội giỏi như rắn nước. Cụ Mo quấn chiếc khố, mụ Mo mặc cái quần đen, hai vợ chồng cầm hai cái rổ lăn xuống sông múc cát đổ lên đò.

Chú Tân nói:

- Hôm qua cụ Mo với mụ Mo đập lộn đùi đụi gần chìm chiếc đò.

Chú Lý bặm miệng:

- Cụ Mo đập mụ Mo, mụ Mo không biết chạy ngã mô.

Chú Tân nhìn bạn:

- Can chi mà chạy. Tại mụ Mo không chịu điểm huyệt, điểm huyệt mà trúng ngắt vào cái yếu huyệt đó là thằng chồng chết liền.

Hai chú về chùa bước vô cửa bếp, sư cụ đã chửi:

- Hai cái thằng đi chợ từ đầu đời nhà Minh đến cuốn đời Mãn Thanh mới về. Bộ tụi bay đi khai mỏ dầu răng? Bộ tụi bay đi họp hội nghị hay răng? Hay là tụi bay đi buôn lậu? Hay là tụi bay hút á phiện? Hay là tụi bay trai gái mèo chuột chi giữa đường?

Rồi sư cụ nhìn chằm chằm vào mặt hai chú tiểu:

- Tụi bay có ăn hàng không?

Tụi bay có ăn hàng rồi. Nhất định tụi bay có ăn lời tiền chợ mua hàng quà rồi. Sư cụ bắt các chú há họng, le lưỡi ra cho sư cụ hé mũi ngửi mùi mít chín, mùi quít, mùi thị, mùi bánh ram, bánh xào. Xong chú Tân lôi hết trong bị ra tính đi tính lại mấy lần hai bó rau mấy, gói bún tàu mấy, hai trái mướp mấy, vị chi là mấy. Trong khi chú Lý chạy ra ngoài lấy rỗ lên sắp đỗ vào, chú Tân nói:

- Hai trái mướp ngọt người ta cho không.

Sư cụ soát lại tất cả mấy món đậu rau. Sư cụ bắt hai chú đứng dậy rồi lần bàn tay vào lưng quần hai chú nắn nắn tìm kiếm.

Sư cụ đưa tay sửa cái mũ len:

- Tụi bay đi chợ tốt nhất đừng ăn bớt tiền cũng đừng xin xỏ chi của ai ngoài chợ.

Hai chú tiểu dọn dẹp mấy món đồ cất vào tủ rồi một người nhen lửa một người ra giếng vo gạo. Khi nồi cơm đã bắt lên bếp hai chú ngồi xuống đất nhặt rau.

Chú Lý nói:

- Tui có tiền đây nè làm răng đi thuê truyện mà coi. Tui mê coi tiểu thuyết tình với tiểu thuyết kiếm hiệp trinh thám.

Chú Tân nhìn lên nhà trên:

- Tại răng có tiền?

- Bà Sứ cho tui. Lúc Điệu đau nặng nằm mê man đó, bà Sứ tới bắt tui nấu nước rồi bà cho tụi mình đi thuê truyện coi.

Chú Tân cười:

- Ông biết, ông chửi chết.

Chú Lý cũng cười:

- Chú không méc làm răng ông biết được?

Chú Tân nói:

- Ông tài lắm, tụi mình làm chi ông cũng biết. Không ai méc cũng biết. Ông la cái chi là đúng cái đó.

Chú Lý cười:

- Ngày mơi mình đi học, mình ghé chỗ Lê Văn Mạch mình thuê truyện rồi mình giấu mình coi.

Chú Tân thè lưỡi:

- Ông móc con mắt ra.

- Mình giấu thiệt kỹ làm răng ông biết được?

Chú Tân lắc đầu:

- Giấu chỗ mô ông cũng lục tới hết, chôn dưới đất ông cũng moi lên, giấu trên mái ngói ông cũng dỡ ngói ra. Ông đánh hơi tài lắm, ông ngửi cái mặt mình là ông biết mình đang làm gì. Ông xe cái bụng mình là ông biết cái bụng mình có giấu một cục gian.

Chú Lý nhìn lên nhà trên:

- Tui phải đi thuê cuốn Chu Thiên Kiếm về coi lại cái đã. Cuốn Chu Thiên Kiếm hay vô số kể.

- Răng mà kêu là hay?

Chú Lý cười bày răng xiết ra hoa tay:

- Có hai vợ chồng mụ thợ rèn cả ngày thụt bộ, thụt được cây gươm thiệt quý, đem dâng ông vua, ông vua cầm cây gươm đó đâm mụ vợ, ông chồng mới cầm cây gươm đó đâm ông vua.

Chú Tân chà hai bàn chân xuống đất lắc đầu không phải. Chuyện Chu Thiên Kiếm không phải rứa. Tui có đọc cuốn “Dao bay” hay lịm người đi lận. Hay lắm hay lắm. Chú Lý cười, cầm hai chiếc đũa bếp đánh lanh canh, lanh canh vào nhau.

Sư cụ ở trên đi xuống hét:

- Cái thằng thiên tinh dịch vật, không được đánh đũa… người ta kiêng, đũa đánh nhau là người đập lộn. Tụi bay ưng có xích mích hả, tụi bay ưng có chào xáo, ưng có đánh lộn đập bậy à?

Sư cụ mắng xong hừ hừ đi lên còn lẩm bẩm hai cái thằng thiên vương la sát. Chú Tân chú Lý xới cơm dưới nồi cho vào cái vịm đạp lại. Chú lấy cái khay tróc sơn chắt chút tương vô chén mang lên đứng hầu ông thời một lát rồi ông cho xuống bếp ăn với chú Tân.

Sau buổi cơm chiều, ông kêu hai chú tiểu mang sách vở ra ngồi học trước mặt ông. Hai thằng lấy bài cách trí học chung cho mau thuộc rồi sắp vở lại đọc cho tao nghe. Thằng Lý sáng ni viết chánh tả tới ba lỗi. Mẹ cha mi, lúc cô giáo đọc bài mi không lắng mà nghe, bài chính tả ngắn bằng cái mũi mà phạm tới ba lỗi. Thằng Lý dốt toán như ăn mày, giá mạng có hai bài toán mà cũng làm trật một bài. Đồ ăn mót. Thằng Tân giảng bài cho hắn hiểu đi. Đồ ngu, đồ ốc sên, ốc bưu, ốc gạo.

Từ rày sắp sau, thằng Lý có mà nói chuyện trong lớp thì thằng Tân về méc tao, tao đem roi ra trường cho cô giáo đánh. Thôi, hai thằng học bài đi mà ngủ sớm.

Mai lại, thầy y tá đến chơi cho thuốc bổ. Sư cụ kêu hai chú tiểu vô rót nước, hầu chuyện và thay phiên nhau quạt cho khách.

Thầy y tá hỏi:

- Mó thuốc bổ đó ông đã uống hết chưa?

Sư cụ chớp đôi mắt leo lét:

- Tui uống hết một bụm, còn ba bụm để dành.

Thầy y tá uống một hớp nước:

- Ông uống hết đi ông, ông cho cả hai Điệu uống nữa đi ông.

Sư cụ nhìn vô trong:

- Bà Sứ mới xe tới cho gạo với lu tương bột.

Thầy y tá nói lớn:

- Ông cho hai Điệu uống thuốc bổ đi ông.

Sư cụ nhìn hai đệ tử nhỏ:

- Ui, hai cái thằng hồng hai… hai cái bụng như hai cái ghè, ăn sạt sạt hết cả lúa gạo của người ta còn chi nữa mà uống thuốc bổ. Tui để dành, đứa mô đau mới cho uống… Hai cái thằng ni chưa ních thuốc bổ vô mà dã ăn như hai cái thùng rác, hai cái thằng ni mà uống thuốc bổ vô thì bán bàn thờ Phật ni mà ăn.

Thầy y tá ăn miếng chuối:

- Ông cứ cho hai Điệu uống đi, hết rồi con đem kỉnh ông thứ khác. Tu hành, ăn rau ăn tương không có chất bổ phải uống thêm sinh tố vô chứ ông.

Sư cụ chỉ chú Tân:

- Thằng ni bữa cơm mô cũng ních cứng một bao tử. Cái thằng ăn nhiều mà thông minh thiệt là thông minh. Cái trí nhớ của hắn to bằng cái đội ô tô. Cái óc hắn sáng lắm như khi mô cũng có giấu một cái hộp quẹt ở trong.

Sư cụ đưa tay vuốt lên cái bình trà hình trái căm, cầm cái tách nhỏ bằng trái quít lên ngửa một cái rồi rót nước ra mời khách. Thầy y tá vội đón lấy thổi nguội húp từ từ.

Thầy y tá lôi hai cắt bạc dúi vào tay chú Tân. Hai Điệu cầm lấy mua đậu phộng rang mà ăn. Sư cụ nhìn hai đệ tử miệng lầm bầm. Hai cái thằng ni trong bọc khi mô cũng có tiền. Ai đi chùa lễ bái chi cũng cho hai thằng tiền. Cho chừng mô hết chừng đó, bắt mua bùng binh để dành thì hẹn lần, hẹn hồi rồi thì chừng mô lũm chừng nấy.

Thầy y tá cười nói với hai chú nhỏ:

- Hai Điệu đi mần việc thì đi đi, tui có chuyện ni thưa với ông một tí.

Chú Tân chú Lý chạy xòe tay làm cánh tàu bay ra sau vườn lượm hai lẽ củi đấu kiếm. Chu Thiên Kiếm đấu với dao bay, âm thanh kiếm chọi với bạch quang kiếm.

Thầy y tá về rồi, sư cụ kêu chú Tân vô biểu. Mi chơi cái chi mạnh tay mạnh chưn rứa mà cái mặt ướt rượt. Tụi bay mà chạy nhảy rượt đuổi cho lắm rách quần hết tao bắt ở lỗ. Chú Tân đứng yên đưa tay gải ót.

Thôi thằng Tân mi bắt cái ghế đẩu ngồi đó, mi ngồi yên đừng động đậy cái tay cái chân năm phút coi. Ai mượn mi vòng tay, để tay xuống, lưng thẳng lại, làm chi mà gù rứa? Coi cái tay tề, cái tay tháy máy rờ rịt chi rứa? Mi ngồi yên tao coi mà. Cái thằng mặt voi, đường nét gồ, tướng ngắn đưa ra mặt mày mắt mũi cái chi cũng cong cong như cầu vồng. Đôi mắt thằng ni ngắn ở cái bề rộng, mà dài ở cái bề dài, dài mà không có đuôi, đôi mắt như mắt ông tướng ra trận, cái mũi thằng ni coi mà thô, cái lỗ đầy cả lông cứ hếch hếch ngó trời, thằng ni có cái mũi không kín, tiền hậu bất nhất, không trung thành, không chung thủy. Cái miệng thằng ni, hai môi miếng thằng ni ngậm chặt quá không được, tức cười rồi vồ vập quá, lúc mím thì mím cứng cạy không ra. Tính nết thằng ni có lẽ hãy trở trái đột ngột. Cái mặt thằng ni dày, cái mặt thằng ni đầy minh bạch, lúc cười nói thì ba hoa tứ tán mà lúc nghiêm nghị thì kín bưng như bát úp. Thằng ni trái với thằng tê, thằng tê chu như miệng heo. Đó tay chân mi lại thấy mây động dậy, rờ rịt chỗ này chỗ nọ, cái thằng ba que ba còn, xở lá xỏ lơ, cái thằng tào lao xịch bộp. Lạ thiệt…

Chú Tân bưng miệng cười hi hi, sư cụ chau mặt:

- Con bà mi, mi cười chi? Con bà mi.

Chú Tân ngưng cười:

- Con có cười ông mô mà ông chửi con?

Sư cụ hấp háy mắt:

- Thằng ông mi, tao làm chi mà mi cười tao?

Chú Tân cười:

- Con có cười ông mô.

- Ngậm cái mõm lại.

Chú Tân dợm đứng dậy, sư cụ hét:

- Ngồi đó.

- Ngồi mãi rứa ông?

Sư cụ nạt:

- Ngồi một thì mà đã rên… Không biết thằng ni bị cái vía chi mà lắc lắc như con vụ.

- Có làm chi mô mà ông bắt con ngồi mãi rứa?

- Răng lại không làm chi? Cái thằng ni chừ lai trổ giọng thầy cúng thầy kiện ra nữa. Mi cải tao hả thằng tê?

Chú Tân phụng mặt:

- Con có dám cãi lời mô ông, ông la con chi mà luôn rứa?

Sư cụ mắng:

- Cái mặt mi không la để chi? Ngậm cái miệng lại đi…

Sư cụ lại vẫy tay:

- Thôi, cái thằng mi ngồi xuống đi.

Lạ thật, cái mặt thằng ni răng mà coi lúc làm nghiêm thì nặng như cái búa, cái mặt như cái búa, cái mặt như có dấu ngâm một cái gì sắc sảo, cái mặt như có dấu ngâm một con dao. Cái mặt hắn nửa sáng nửa tối, nửa trong nửa đục, nửa ma nửa quỷ, nửa chó sói nửa sài lang, nửa rồng nửa cá gáy, nửa tướng cướp nửa ông quán… Sư cụ ngẹo đầu ngẩn cổ, nói lầm bầm hoài.

Chú Tân cười hề hè châu mõ hỏi:

- Ông nói chi nữa rứa ông?

Sư cụ nhíu mày:

- Cái miệng mi như cái miệng chèo bẽo. Cái mặt mi như cục cức voi xoi bảy lỗ. Mi đi tu mà cái mặt mi không có vẻ tương chao chi hết cả.

Chú tiểu nhỏ lại cười hề hề. Sư cụ nghiêm mặt:

- Thôi mi đi chơi đi, kêu thằng Lý vô đây tao biểu. Chú Lý đang nghịch mũ mít nghe ông kêu vội chạy vô buồng xép mở thùng gạo ra chùi rửa tay vào đó rồi te ò đi lên. Sư cụ hục hặc ho. Ư hừ cái thằng, hai bàn tay mi làm chi mà quắc lại như đau bụng kinh niên rứa? Duỗi bàn tay ra… đồ cái thằng tù Côn Đảo, đồ cái thằng hôi như nước mắm Phú Quốc, đồ cái thằng không đáng một đồng tiền bể. Hai cái tay mi coi chừng ăn cắp bánh tráng đi bán, coi chừng bắt giun bắt dế, coi chừng vọc vô ghè tương thẫu chao, coi chừng bóc đậu rang ăn vụng.

Sư cụ nạt:

- Lý… đóng cái mõm lại… cười hi hi luôn vậy? Mẹ cha mi, hai hàm răng không khi mô đánh vàng khè khè… Mụ nội mi, mi có lấy xác cau khô mà chùi răng không? Mi có đâm than vụn ra, trộn với muối mà đánh răng không? Không được cười, cái miệng khi mô cũng meo méo cười, tao vả một cái chết. Áo quần mi đi đánh lộn với ai mà xốc xếch dữ vậy. Cái thằng không ra gì. Xà bông mô co mi giặc áo quần? Nước giếng mô cho mi tắm? Thằng nầy mi xếp hạng mấy trong lớp? Mi viết chính tả nhiều lỗi tao quật cái chết, mi làm toán trật nữa tao quật cái chết. Cái thằng mặt mày trơn trạc chưa. Ngồi xuống đó, tao biểu ngồi thiệt yên, đừng có cười như phao xì nữa. Bặm miệng lại tao coi. La thiệt, cái mặt thằng ni ngó rứa mà hiền ro hiện rui. Cái miệng hắn tưởng không ra gì sao lại hiền lành quá thế này. Nhưng đôi mắt hắn không sáng. Cái nhìn của hắn thẳng quá nhưng không được thông minh. Lạ, cái thằng coi mặt hắn hiền lành lừ đừ.

Sư cụ kêu:

- Ê, cái thằng Lý!

- Dạ.

- Bài kinh “Nhứt thiết đức Quang vô lượng oai lực” mi học đã thuộc chưa?

- Dạ ông, mới nửa nửa.

Sư cụ trợn mắt:

- Mẹ cha mi, mới nửa nửa là cái chi, biểu mi học gấp cho thuộc răng mi không học?

Chú Lý nhe răng:

- Ông ơi, con học cả tuần lễ đó mà chưa thuộc!

Sư cụ làu bàu:

- Đồ bò tót… con bò tót là mi. Tại răng thằng Tân học mau thuộc rứa? Cái đồ ngu, đọc nghe!

- Nam mô tất pha đát tha nga da pha lô chi dế Án nam bạ ra tam bạc ra hồng…

Chú Lý đọc không ra nữa, sư cụ quát:

- Há họng như họng cá mà kinh tụng thì tụng không ra… bài kinh ni trong mấy lần thằng tê?

Chú Lý nhìn xuống đất:

- Dạ mười hai lần phải không ông?

Sư cụ nạt:

- Thằng dốt, im đi! Mi ăn cái vỏ măng cụt răng mi dốt rứa? Bài kinh mi niệm tới hai mươi mốt lần… Mấy lần?

Chú Lý lặp lại:

- Dạ thưa ông, hai mươi mốt lần.

- Cái thằng ni hắn hiền hơn thằng tê. Thằng tê sáng láng hơn thằng ni. Hai đứa, không biết răng mà định.

Sư cụ nhìn đứa học trò:

- Thôi, mi đi ra ngoài đi, kêu cả thằng tê vô đây tao biểu.

Chú Lý nhảy cà tưng xuống bếp bóp cổ chú Tân:

- Ê, ê, ông đòi… lên nhà ông cho cái kèn tây mà thổi.

Hai Điệu cầm tay nhau bước vô, sư cụ hét:

- Bỏ tay ra, hai cái thằng giỡn nhau như chó liếm mặt rồi thì đánh nhau lúc mô không ai biết. Tụi bay còn nhỏ nhưng tụi bay là người tu hành rồi, phải đàng hoàng nghiêm trang, phải ngó lên những bậc thầy mà bắt chước, đừng học mót mấy cái thằng tinh ranh xỏ lá ngoài đường.

Đó… đó, hai đứa bỏ tay nhau ra đi, đứng sát vô nhau cho tao coi. Đứng im phắc không rung đùi, không bẻ ngón chân, mớ mắt ra ngó thẳng đằng trước như chụp hình vậy… Được, được, buông thẳng tay xuống coi nào.

Sư cụ bắt mắt ngó hai đệ tử một lát rồi xua tay:

- Thôi, thôi, tụi bay đi chỗ khác đi.

Hai đệ tử lui ra rồi, sư cụ ôm đầu. Hai thằng không biết lựa thằng mô. Thầy y tá biểu phải thằng thông minh, thằng xuất sắc, mà thằng Tân rõ ràng hơn thằng Lý nhiều. Thằng Lý chỉ được cái hiền lành. Trời ơi! Hai thằng, mình thương đồng đều, mình thương thằng mô cũng như thằng mô, thằng mô mình cũng muốn cho hắn thành tài, cho có bằng cấp mà cầm trong tay. Thầy y tá biểu phải lựa một thằng mà thôi. Mình mà lựa thằng Tân thì tội thằng Lý. Thầy y tá cũng khen thằng Tân ùn ùn.

Sư cụ đứng dậy chống gậy bước ra giàn dưa cấm cái dùi đánh vào chiếc phèn la ba cái. Chú Tân vộ phóng mình vào rồi đứng chắp tay.

Sư cụ chùi mặt:

- Mi đó hả Tân? Răng mi biết tao muốn kêu mi mà mi vô?

Chú Tân vòng tay dạ dạ, sư cụ sai chú bắt ghế đẩu ngồi rồi hỏi:

- Mi ưng học tới mô?

Chú Tân ngóc đầu lên:

- Dạ cái chi răng ông?

Sư cụ gắt:

- Tao hỏi mi ưng học thành tới mô?

Chú Tân gãi sột sột:

- Ông nuôi con ăn học tới mô cũng được ông à.

- Thúi như cá trích, ta hỏi mi răng mi không trả lời cho chững chạc?

Cái mặt đi tu mà còn thèm ăn kẹo. Đi tu là phải trở thành người lớn. Đi tu không được thèm ăn kẹo.

Chú Tân cười:

- Con có thèm ăn kẹo mô ông?

Sư cụ nạt:

- Im đi! Cái miệng cứ chách chách. Nói ra cái chi là vồ lấy chách chách…

Đột ngột sư cụ bảo chú Tân ngồi xích lại gần. Cầm hai vai chú mà lắc lắc. Thằng ni vai ngang như đòn gánh, thằng ni ngực tròn như ngực La Hán, thằng ni xương cứng như kim cương. Sư cụ đưa hai bàn tay xoa chiếc đầu như trái dừa của chú tiểu.

- Mi ăn của tao bao nhiêu gạo, tao nuôi mi như chim ấp trứng, như gà mẹ ủ gà con. Mi ở với tao sướng quá nên cái đầu của mi tròn xoay như trái mù u. Mi chạy mau hơn người ta, gân cốt mi cứng hơn người ta, hai bàn chân mi ngón nào cũng dài bằng nhau cả. Tao săn sóc mi từng mụt ghẻ mụt sài. Trời ơi, hai đứa bây giờ ở với tao, tao đổ mồ hôi ra cho tụi bay ào ào, tao hà hơi tao ra cho tụi bay, tao trầy da tróc vẩy, tao lóc xương rút gân cho tụi bay.

Cái miệng tao hay bàu bàu la tụi bây, nhưng thiệt cái lòng tao không nỡ. La mắng tụi bay là một việc làm hết sức trái lòng. Ngày mô tao cũng quở phạt tụi bay, đêm mô tao cũng nằm tao thương xót tụi bay… Sống với tao khó hơn đi tu, ở với tao khó hơn tuân theo giáo điều Phật, bay sốnng nổi với tao là bay đi tu đến nơi đến chốn được, bay thành thầy, thành hòa thượng cũng được. Tao đi mấy chùa khác, tao thấy đệ tử người ta không dạy không dỗ như tao đối với tụi bay đó, mấy thằng nhỏ nhởn nha nhởn nhơ như nộm đực.

Tao mà đã nhận nuôi học trò là tao lựa giống thật kỹ, tao nặn tao bóp kỹ lắm, tao tẩy tao chùi kỹ lắm. Học trò tao không có cái thứ vác mặt ra đường bắt tắc kè, không có cái thứ ăn hàng như mõ hoét, không có cái thứ mê chơi khoái giỡn… đứa mô hay cười hay nói tao đấm lọi răng, tao truốt lưỡi như truốt con lươn, tao moi bộ lòng ra tao làm dồi. Mình là kẻ tu hành, mình phải khóa mắt lại, bịt miệng lại, thấy vui không cười, thấy đẹp không ngó, mình dừng để người trần ai nhìn vô mình mà nói: Thưa thầy, cho con mượn cái lược.

Chú Tân vẫn ngồi kẹp hai chân vào cây trụ ghế, đầu miệng mường tượng mấy câu hét từ miệng con Hằng: “Không tiền cho nên đói ròng phải nằm co. Không tiền cho nên sống bà con không có. Con người như điên cũng vì thiếu thốn đồng tiền. Tiền luôn trong túi có ai khinh mình. Nhờ lúc phú quý bà con đông hàng ngàn. Dòm mình giàu có biết bao nhiêu bạn bè. Trong khi sa sút cúi mặt đành làm ngơ. Thương nhau có tiền, xa nhau túi không.

Chiến tranh do miếng ăn mà ra. Chiến tranh đến bao giờ mới thôi. Thật chán ngồi thấy đời sống, lừa dối chỉ cốt miếng ăn, dù biết người chết mình sống, lâm nguy bà con xô đuổi”. Cái con Hằng biết nhiều bài hát thật ngộ quá ta. Nghe nói anh con Hằng vừa đi xe đạp vừa đờn violon, vừa ăn chuối vừa thổi kèn tây. Nghe nói anh con Hằng đêm nào cũng đờn địch đến hai giờ sáng. Mà con Hằng giàu lắm, con Hằng không thèm ăn xôi, không thèm ăn trái bứa mà chỉ ăn trái giáng châu, không thèm ăn trái thị, chỉ ăn bom.

Chú Tân bất giác ngúc ngắc cái đầu, sư cụ hét:

- Cái thằng, cái đầu lâu mi làm chi ngúc nga ngúc ngắc như gà cồ vậy?

Chú Tân chíp miệng cúi xuống cười, chú chọt hai chân xuống đất thì sư cụ tiếp:

- Ngồi yên nà! Làm chi mà tay chân quơ như càng cua rứa?

Sư cụ chậm chạp uống hai chén nước trà nói tiếp, đưa tay dụi mắt hồi lâu mới nói:

- Thầy y tá vừa tin cho tao biết là hết cả bạn hàng trong chợ đều đồng tình đóng góp nuôi mi ăn học đến nơi đến chốn.

Chú Điệu chọt chân đứng xuống đất:

- Ông nói chi răng ông?

Sư cụ nhíu mày:

- Cái thằng mi làm chi mà lăng quăng lăng quăng cái bộ vài tới rứa? 

Chú Tân gãi đầu:

- Ông nói chi con không hiểu?

Sư cụ gắt:

- Mi làm chi mà luống cuống như con rết nhiều chân rứa?... Tao nói là tất cả anh chị em tiểu thương bán hàng ở bên chợ đều đã quyết định đóng góp cơm gạo bạc tiền nuôi mi ăn học cho tới cùng đích.

- Rứa là răng ông?

- Ai biết răng mà hỏi. Tao nói chi thì mi biết rứa là được rồi. Đừng hỏi nữa thằng móm.

Chú Tân chà chân xuống đất:

- Con không hiểu chi cả.

- Cái chi mi cũng ưng tra hỏi lục vấn om sòm.

Chú Tân nghiêm trang:

- Thầy y tá nói mấy mụ bên chợ nuôi con đi học đến nơi đến chốn. Ông ơi, tại răng rứa, tại răng mấy mụ lại thương con rứa? Tại răng mấy mụ không chọn Điệu Lý mà chọn con? Điệu Lý ông vẫn khen là đạo mạo hiền lành, còn con ông nói là ma lanh ma lảnh mà.

Sư cụ lại gắt:

- Thì thầy y tá nói rứa thì tao hay rứa chớ răng.

- Nhưng mà tại răng người ta lại không nuôi Điệu Lý rứa ông?

- Biết à?

- Tại răng người ta không nuôi cả hai đứa ông hè?

Sư cụ nạt:

- Hè hè cái tổ cha mi.

Chú tiểu cười:

- Tại răng ông hay chửi con rứa ông?

- Cha mi tao cũng chửi nữa chớ mi.

Sư cụ uống hết chén nước trà, giọng khàn khàn:

- Mi được người ta nuôi ăn học. Giới tiểu thương nuôi mi ăn học. Mụ bán trứng thì góp tiền bán trứng nuôi mi, mụ bán khoai lang thì nuôi mi bằng củ khoai lang, mụ bán cá thì nuôi mi bằng tiền bán cá, chị bán ớt thì góp bạc cắc bạc bán ớt nuôi mi, bà bán thịt, bán tôm, bán hàng xén, bán đồ gia vị, bán gạo, bán đậu, bán guốc, bán vải, bán cơm, bán cháo, bán bún bò v.v…

Người ta bán bưng nuôi con, nuôi chồng người ta, bây giờ người ta rút bớt máu huyết, rút bớt tủy sống người ta ra, người ta đổ thêm mồ hôi của người ta ra để nuôi mi ăn học đến nơi đến chốn làm sáng danh nhà chùa, làm sáng danh đạo Phật ra. Mi học để cho đạo Phật, mi phải thắp cho đạo Phật cả trăm ngọn đèn con ơi. Mi sẽ là vị đại đức đỗ đạt rất cao, mi phải đỗ tới tấn sĩ. Như vậy là mi sướng lắm con ơi. Mỗi người tiểu thương một vũng mồ hôi, mỗi người tiểu thương một búng máu, mỗi người tiểu thương một khúc xương ghép lại nuôi mi đó con ơi. Mi nhận ơn to nghĩa nặng lắm con ơi. Mi phải xoay mặt vào vách mà học, mi phải đào hang để xuống đó mà học, mi phải leo lên cây lớn để ôm cây mà học.Mi vừa học chữ mi vừa học kinh nhà Phật.

Mi phải nghiên cứu thật sâu xa cái triết lý của Phật Thích già. Mi phải nhất định trở thành một ông tấn sĩ, và song song với việc trở thành một ông tấn sĩ, mi phải trở thành một đại đức thượng tọa. Mi được đi ra ngoại quốc mà học đó con, nhưng khi trở về mi phải trước tao trụ trì cái chùa ni với thằng Lý. Mi phải cùng với thằng Lý cai quản chùa ni. Mi phải cố tu và cố học con ơi. Từng cọng rau nuôi mi, từng củ khoai nuôi mi, từng cái trứng nuôi mi… Mồ hôi bên chợ Đông Ba nuôi mi, nước mắt ở chợ Bến Ngự nuôi mi, hột gạo lứt gạo rằn ở chợ xếp nuôi mi, mi phải đội ơn từng muỗng nước mắm, từng trái ớt quả cà lon gạo…

- Dạ dạ bẩm ông ạ!

Hai thầy trò giựt mình, sư cụ hom hem nhìn lên, chú Tân kêu:

- Thầy y tá!

Sư cụ nạt:

- Cái thằng vô phép vô tắc. Vòng tay lại mà thưa thầy, ai cho mi kêu cộc lốc là thầy y tá?

Thầy y tá vỗ đầu chú Tân:

- Dạ được mà ông, ông đã kể cho Điệu nghe chưa?

Sư cụ:

- Tui đang kể cho hắn nghe đây.

Người đàn ông nhìn chú tiểu:

- Chú có cảm tưởng răng chứ?

Điệu Tân nhìn thầy y tá:

- Con sợ quá thầy y tá ơi!

Thầy y tá cười hề hề:

- Sợ chi mà sợ Điệu, ăn học bỗng của dân lao động mà đi học thì sợ cái chi mà sợ Điệu?

Người đàn ông quay qua vị sư già:

- Ông có ưng cho Điệu qua nước Anh không ông?

Sư cụ chớp chớp cặp mắt leo lét:

- Bên nước Anh có ai theo đạo Phật đi chùa đi chiền không?

- Răng lại không ông? Bên nước Mỹ còn có người đi tu nữa là…Chùa chiền mọc lên biết mấy mà kể.

- Nhưng người mình qua đó du học có nhiều không thầy?

- Bên nước Úc người ta còn qua nữa là.

Cặp mắt sư cụ hình như nhắm lại:

- Nước Úc là nước ra răng?

- Nước Úc là tù binh của nước Anh. Những tù binh nước Anh bị đày biệt xứ lập nên một nước gọi là nước Úc.

- Nước Úc có thầy tu không?

- Chắc không.

Sư cụ lắc đầu:

- Thôi, tôi không cho thằng Tân qua nước Anh học, cũng không cho thằng Tân qua nước Úc học. Nước Anh bắt con người ta làm tù binh nhiều quá là một nước độc ác, nước Úc toàn là kẻ tôi phạm là một nước xấu. Hai cái nước đó qua không được rồi đa.

Thầy y tá hất mặt tới trước:

- Con có chịu qua nước Mỹ học không?

Sư cụ nói:

- Người nước Anh không có gốc gác chi cả. Người dân ở đó chỉ ăn xài tầm bậy tầm bạ.

Thầy y tá cười:

- Nước Ý được không ông?

- Ui, nước đạo, nước Ý toàn người đạo ở, qua bên răng được.

- Qua nước mô ông cũng không ưng hết, vậy thì nước Pháp chắc ông cũng không ưng?

- Tây đầm họ có cúng kiến lễ bái ăn chay niệm Phật chi mô mà mình cho học trò mình qua bển.

Thầy ý tá cười hề hề:

- Ông ơi, khó đó ông ơi! Thôi, chú qua nước Ấn Độ đi, cả nước Phật. Đức Phật Thích Ca sinh ra ở nước Ấn Độ nên toàn dân nước Ấn đều theo đạo Phật, nhà cửa toàn chùa là chùa, con người ta bên đó ăn tòan rau toàn cỏ thấy heo là vái rồi đi, thấy bò cũng vái một cái rồi đi. Qua bên mà học thì tuyệt.

Sư cụ mở mắt ra:

- Mô có, nước đó giết gà nhiều quá. Cả nước họ ăn cà ri gà mà. Thầy không nghe người ta đồn đó răng? Trước tôi có ý định cho hắn qua nước Tàu, nhưng sau nghĩ lại người Tàu đâu có thông minh bằng nước mình nên tôi thôi.

Thầy y tá cúi xuống uống nước, gương mặt đăm chiêu. Sư cụ tiếp:

- Tui có ý định rồ, tui muốn cho thằng Tân qua du học bên nước Nhật Bản.

Thầy y tá vỗ tay:

- Ông nghĩ ra cái nước Nhật Bản thiệt hay rồi đa. Ông thiệt là cao kiến.

Thầy y tá bẻ hai trái chuối, hai tay cầm đưa ông một, mình ăn một. Sư cụ bóc trái chuối ra, trù trừ đưa lên miệng:

- Ờ mà thầy Lương nè! Đến lúc nào thì thằng Tân đi?

- Dạ, đợi chú được mười hai tuổi thì cho đi.

- Ờ, cũng chẳng bao xa.

Sư cụ quay qua kêu Điệu Tân:

- Thằng chó, mi cám ơn thầy y tá đi mi.

Thầy Lương xua tay:

- Tui có ơn có nghĩa chi mô… Bậy chú…

Sư cụ nói:

- Cũng nhờ thầy tUyển truyền, làm môi giới nên họ mới chịu nuôi thằng Tân. Mi vòng tay lại lạy thầy y tá đi Tân.

Mi sướng hơn ai hết đó Tân ơi, mi đẻ bọc điều… Rõ ràng rằng thằng ni là thằng đẻ bọc điều… Trời Phật ban ơn cho mi nhiều lắm. Mồ hôi bên chợ Đông Ba nuôi mi, nước mắt ở chợ Bến Ngự nuôi mi, mi phải đội ơn từng muỗng nước mắm, từng trái ớt quả cà lon gạo… Lạy bốn phương trời, lạy mời phương Phật đi con. Khóc đi con rồi cố gắng mà học, lạy tạ đi con rồi vùi đầu mà học. Học mà tu, tu mà học, vừa học vừa tu, học bao nhiêu, tu bấy nhiêu.

Tất cả bạn hàng tiểu thương bên phố nhịn ăn bớt tiêu nuôi mi để mi làm vẻ vang cho đạo Phật. Nhất định mi phải học để làm vẻ vang cho đạo Phật. Người ta nuôi mi để mi củng cố đạo pháp. Mi là người của đạo giáo, một cán bộ tu sĩ. Rồi đây mi không còn là học trò riêng của tao nữa, mi có lẽ cũng không còn là con riêng của ngôi chùa này nữa. Mi là của công, mi là của một xã hội nhỏ. Mi là con trời con Phật. Mi là đứa học trò quý nhất của tao, gắng học đi con cho ông sướng, cho ông mát ruột. Ông, ông cũng òa khóc với con đây Tân.

Cái số thằng Tân như rứa là đỏ gắt gay rồi. Tôi nghĩ lại mà tui thương thằng Lý quá! Răng thì răng tui cũng quyết cho hắn học tới tú tài. Huê lợi trong vườn tui bán cho hắn hết. Mấy món tiền lẻ bà Sứ cúng chùa, tui chôn dưới đất tui cũng mi lên cho hắn. Tui hay nhét bạc vào mái tranh, tui hay dít tiền vô kẹt giường. Tui cho thằng Lý hết, còn thằng Tân người ta cho hắn như thế là đủ rồi. Thôi thằng Tân mi ra tìm thằng Lý mà chơi đi.

Thầy y tá ngồi nói chuyện đến chạng vạng cơm dọn ra mới xin về. Sư cụ cầm ở lại ăn cơm nhưng không được.

Sư cụ biểu chú Tân:

- Mi ra kêu thằng Lý vô đây. Hai đứa trải chiếu ra ngồi ăn cơm dưới chân tao, mi gần đi rồi. Từ rày sắp sau tụi bay trải chiếu ngồi ăn cơm dưới chân tao cho tao thấy mặt.

Buổi cơm tối đó, sư cụ phát thêm cho hai chú nải chuối mật với hai cái bánh ú. Hai Điệu ăn bốn chén cơm, tráng miệng hết nải chuối rồi đứng dậy.

Sư cụ hỏi:

- Răng tụi bay không ăn bánh ú?

Chú Lý cười:

- Để dành ông ơi.

Sư cụ cho hai chú chạy chơi một lát rồi bắt vào học tới 9 giờ đêm. Hai chú bưng cây đèn bão vào buồng xép nhảy lên giường buông mùng mà nằm ngủ.

Điệu Lý trùm mền chừa mặt ra hỏi:

- Chú được đi Tây phải không chú?

Điệu Tân trở mình:

- Đi nước Nhật Bản chớ đâu có đi Tây.

- Thầy y tá cho Điệu đi hả?

- Mô, có bạn hàng ngoài chợ cho.

Điệu Lý xoay mạnh người đạp vào chân bạn:

- Điệu có mừng không Điệu?

Chú Tân lắc đầu:

- Tui không chi hết.

- Điệu đi Nhật nhớ học võ thêm nữa nghe.

- Ừ, tui học võ rồi tui truyền lại cho Điệu.

- Tui xin ông với Điệu được không he?

- Ờ, mấy bữa ni mi ông có vẻ hiền lắm, chú xin ông đi, chắc ông không chửi đâu!

Chú Lý rướn người lên nằm im lìm. Ngọn đèn bão xuống tim chỉ còn lờ mờ đủ sáng. Căn buồng xép hai chú tiểu ngủ đêm cũng như ngày không khi nào đóng cửa.

Chú Tân nói tiếp:

- Mà tôi chẳng ngán ông la rồi đa! Không phải vì ghét mà ông la tụi mình, ông la bao nhiêu, ông thương bấy nhiêu.

Chú Lý ngồi dậy:

- Ờ ờ… ông la luôn mà mình không oán, chú được đi Nhật tui cũng không buồn nữa, chú đi Nhật chú không được ở bên ông, tui ở đây tui ở bên ông suốt đời.

Chú Tân vùng ngồi dậy. Đôi mắt chú chợt ướt. Tui đi, tui không được ở với ông, tui xa ông vĩnh viễn rồi. Ông chết chắc tui không thấy mặt rồi, tui sẽ nói lại với thầy Lương là tui không đi gấp đâu, tui chờ ông chết tui mới ra đi.

Chú Tân mò mẫm cầm bàn tay bạn. Tui ở đây thêm với chú vài năm nữa. Lỡ ông “không” rồi, chú một mình trông coi chùa răng được.

Chú Lý thều thào:

- Thôi, chú qua bên nớ mà học văn học võ.

Chú Tân khóc oà:

- Không, không…

Chú Lý nói:

- Chú quên là ông có bao nhiêu đệ tử à. Ông trụ trì chùa Từ Thiện cũng là đệ tử của ông, thầy Minh Dưỡng cũng là học trò của ông. Tụi mình là đệ tử đời sau chót của ông mà… Ông “không” rồi, mấy thầy họ đến đây coi chùa.

Chú Tân nín khóc:

- Nhưng mấy thầy còn có chùa của mấy thầy. Mấy thầy họ cũng đang cần thu đệ tử để dạy dỗ. Ông nói với thầy y tá là ngôi chùa này ông giao toàn quyền cho chú.

Hai chiếc đầu trái dưa cùng chiếu lớn trên tường trong leo lét ánh sáng chiếc đèn nhuốm vẻ yểu mệnh. Giữa vo ve tiếng muỗi, hai chú bé ngồi ôm đầu gối thật giống nhau, nỗi buồn của họ cũng giống nhau và không tiện thở dài. Hai chú bé ngồi ôm đầu gối co ro người lại tròn hai cục.

Chú Tân ngáp:

- Bây giờ thì tui nửa ưng đi nửa không ưng đi.

Chú Lý tự nhiên rướn giọng:

- Thôi chú, chú qua bển mà học võ sướng rồi chú… Ngày xưa mấy vị cao tăng đều võ nghệ cao cường. Ngày xưa, ai đi tu cũng được học võ hết cả. Mỗi ngôi chùa là một trường dạy võ, vị sư già dạy cho vị sư trung niên, vị sư trung niên truyền nghề cho vị sư trẻ, vị sư trẻ dạy cho học trò, bọn đệ tử nhỏ như tụi mình cũng học tập thao luyện cả ngày để vài năm sau biến thành cao thủ.

Chú Tân gật cổ:

- Ừ, ừ, tại sao đời bây giờ nhà sư nào cũng yếu xìu nhì?

Chú Lý cười:

- Ông của tụi mình thì đêm nào cũng hục hặc ho hen. Trong con người ông chẳng có một miếng võ nào cả.

- Vậy mà tụi mình ngó ông oai ghê.

Chú Lý nắm tay bạn:

- Nhiều khi ông có võ mà ông giấu… Đêm khuya ông mới choàng áo đen bịt mắt đi bắt kẻ gian.

Hai chú chợt rít lên cười những tiếng hi hi thật cao. Chú Lý giỡn:

- Chú đi qua bên nớ học rồi về đổi ngôi chùa này thành chùa Thiếu Lâm đi chú!

ChúLý vỗ tay một phát, lắc đầu cụng vào trán bạn một cái và cả hai ngoác miệng cười giọng cao giọng thấp. Chú Tân bỗng nhìn lên nhà trên thè lưỡi rồi đưa tay che miệng lại. Nhưng cụ đã hiện ra ở cửa:

- Hai cái thằng khuya khoắt không ngủ còn phá rúc chi đó?

Hai chú tiểu vội nằm xuống nhắm mắt bậm miệng ngay đơ người như con cá ướp muối đem phơi. Sư cụ bước vô bên giường vạch màn thờ đưa mặt vào mắng:

- Hai cái thằng tại răng khuya rồi mà không ngủ? Tụi bay có muốn tao đánh một cái dập xương sụn ra không?

Hai chú nằm im phăng phắc. Sư cụ với lấy cây đèn bão soi lên hai người. Tụi bay giả đò ngủ phải không? Tụi bay nín thở phải không? Coi tề! Mắt nhắm lại để ngủ thì làm chi mà nhăn dữ rứa? Hai cái thằng chó, tụi bay muốn thức thì tao cho thức cả đêm đó. Hai cái thằng quỷ sứ, ban đêm nằm trong phòng mà cũng rượng. Có hai thằng đực ở với nhau không thôi mà cũng trững. Tụi bay muốn ra cầu tiêu mà ngủ không? Tụi bay muốn bốc dòi ở cầu tiêu mà ăn không? Hai cái thằng nuôi cho béo bự mập mỡ để đêm hôm này làm như giặc vậy. Tụi bay muốn phá cửa chùa xong ra phố ăn trộm tiệm vàng hả?

Tụi bay muốn đánh cướp nhà băng hả? Tụi bay muốn giật mìn chuyến xe lửa, muốn phá sập cầu cống hả? Nì nì! Tụi bay có muốn xin ra khỏi chùa thì tao cho liền. Tụi bay muốn ở đây ăn cơm đi học hay là muốn đi bán báo đánh giày? Tụi bay muốn ngủ trong buồng ấm hay là ôm chiếc chiếu rách mà lang thang đầu hè xó chợ giành cạp xương phở với mấy con chó?

Nãy giờ có tiếng khò khè ướt nước mắt, có tiếng sụt sịt mũi ngột ngạt, rồi cả hai chú tiểu cùng òa khóc một lúc. Sư cụ run run khổ người, lập cập bỏ cây đèn bão xuống đất rồi ngồi xuống giường quờ quạng đặt tay lên ngực hai chú tiểu. Tại răng tụi bay khóc? Mọi hôm tao la mắng ê chề tụi bay, tụi bay vẫn trơ trơ ra không khóc lóc gì hết. Tại răng tụi bay khóc? Các con giận ông hả? Ông mắng chửi các con chớ có bao giờ mắng thiệt các con đâu mà các con tủi? Ông hay có tật nói động mạnh tới các con, các con đừng chấp cái sự đó.

Lúc nào ông cũng thương các con như núm ruột trong bụng ông. Các con mà giận ông lỡ ông rầu ông bịnh ông chết thì ai ở với các con. Các con ở với ông lâu quá rồi, ông săn sóc các con từ mụt ghẻ, mụt sẩy. Ông tắm gộ cho các con, ông dữ ở cái miệng nhưng ông hiền ở cái bụng. Bụng ông chỉ biết các con mà thôi, ông muốn sống thật lâu để nuôi các con, ông muốn sống thật lâu để ăn miếng cháo các con nấu.

Tụi bây giận ông mà khóc, tụi bay lẫy ôn mà khóc. Sư cụ lấy tay áo quệt nước mắt cho hai chú tiểu. Thôi tụi bay nín đi, ông thương tụi bay. Ngày mai tụi bay muốn chi ông cũng chiều. Ông sẽ cho tụi bay tiền ăn kẹo kéo Bắc Kỳ, ăn bánh bò, ăn kẹo đậu phộng. Tụi bay đừng có nằm dính cục vào nhau mà khóc như vậy làm ông khổ lắm. Tụi bay có ông, tụi bay không sợ bơ vơ.

Ông muốn rằng đêm khuya tụi bay đừng có thức dậy nói chuyện côi cút với nhau nữa mà thảm lắm. Ngày mai ông sẽ nhờ bà Sáu đi chợ mua nấm về nấu cháo cho tụi bay ăn. Thôi ngủ đi hai con chó con, hai con cún.

Sáng hôm sau khi dứt khóa kinh đầu, hai chú tiểu không hối hả vo gạo nấu cơm. Sư cụ bảo chú Tân lấy những cây củi to nhúm bếp, sai chú Lý rửa cái nồi to bằng chiếc thúng gánh nước rồi ba ông con ngồi xúm lại cắt râu bắp mới hái chiều hôm qua cho vào thùng luộc.

Sư cụ uống xong bình trà thì bắp vừa chín. Hai chú tiểu vớt ra một thúng đầy. Ông biểu sắp hai đĩa bày lên bàn thờ cúng Phật sửa soạn một rổ đem biếu mầy bà bên cạnh. Còn lại bao nhiêu ba ông cháu ngồi cạp với nhau trên tấm ván gỗ. Bắp ngọt ghê ông ơi. Bắp đầu mùa ngọt thiệt ngọt, bẻ vô nấu ăn liền càng ngọt nữa. Ông ơi, ông uống nước luộc bắp không để con múc cho ông một chén. Bộ tụi bay cho đường vô hay răng mà nước ngọt dữ ri? Tụi bay uống mỗi đứa hai chén thôi kẻo học đái ra quần, tụi bay đổ hết cả nước vào ghè để dành uống cả ngày.

Chú Tân, chú Lý nhét mấy quả bắp vào túi vải mang đến trường. Chú Lý nói tui phải cho thằng Phê một trái vì hôm qua hắn cho tui cóp pi bài toán.

Chú Tân trợn mắt:

- Tui mét ông chú ngồi chú nói chuyện với con Hằng.

- Con Hằng nói chuyện với tui chớ tui đâu có nói chuyện với hắn.

Chú Lý cười:

- Chú không nói chuyện tại sao cái miệng chú cứ há hốc ra rồi tía lia tía lia?

Chú Tân lắc đầu:

- Tui không có ưng nói chuyện với hắn rồi đa.

- Chú phải nói chuyện với con Hằng, con Hằng mới nói chuyện với chú.

Chú Tân làm thinh, chú Lý tiếp:

- Chú đem bắp đi cho ai mà đem tới bốn trái?

- Tui đem cho thằng Thiện, thằng Thọ, hôm qua hắn cho tui chấm mực.

Chú Lý vỗ tay:

- Tui méc ong chú đi học mà quên đem bình mực tho.

Hai chú tiểu chúi mũi đi tới đám đông trước mặt khi chú Tân bước vô mái hiên trường, con Hằng cười:

- Kính chào quý vị thượng tọa, đại đức tăng ni…

Hai chú bé vào lớp cất cặp rồi đi moi đất đánh bi. Con Hằng xông tới:

- Cho tui đánh bi với.

Chú Tân nói:

- Con gái mà đánh bi chi. Con trai mới đánh bi.

Hằng bĩu môi:

- Con gái đánh căn cũng được chứ đừng nói đánh bi. Hai Điệu cho tui chơi với.

Chú Lý xua tay:

- O là con gái, o phải tới chơi mấy chỗ con gái.

Hằng phụng phịu:

- Tôi chơi đánh bi thôi.

Chú Lý chỉ ra sân:

- Nội đây nội đó con gái không ai chơi đánh bi hết.

- Mà tui có chơi thì làm răng?

- Hái lá bông mà chơi buôn bán đi.

- Tui chơi đánh bi với hai Điệu cơ.

- Tụi tui không chơi đánh bi nữa.

- Rứa hai Điệu chơi chi?

- Chơi chi mặc tui.

Con Hằng méo miệng mếu máo, nước mắt đong đầy. Chú Lý rỉ tai chú Tân: mắt con Hằng to bằng cái muỗng, Điệu cho con Hằng trái bắp đi. Chú Tân gật đầu:

- Ê ấy… ấy, cho ấy trái bắp đấy. Ấy đi chỗ khác chơi cho tụi tui đánh bi.

Chú Tân moi bị lấy ra trái bắp cho con Hằng. Cô bé bóc lá, lấy hết râu đưa lên miệng cạp. Người răng vác lẽ săn rứa. Hai hàm răng sún hết, cha lựa trái bắp cũng sún hết cha. Trái bắp rứa mà ngọt ghê! Chú ni biết lựa bắp ghê! Chú mua bắp ở mô ri? Hồi sáng dì hai cũng mua bắp cho cả nhà ăn điểm tâm. Tui ngồi lựa bắp với dì hai, tui lựa trái mô cũng ngon hết. Tui còn biết lựa mãng cầu, lựa cam lựa quít. Lựa quít thích lắm, trái quít mô da nổi lèng bèng mới ngon.

Bọn nhóc nhô chưa vào trường, đứng quay lấy nhau ở cổng. Đi hái me ăn. Đi lại nhà thương coi mụ điên. Đi lại nhà xác coi người chết. Thôi không đi coi người chết sợ đêm về nằm chộ. Đi coi mẹ điên thôi. Mụ điên trèo lên mái nhà dỡ ngói liệng xuống chiếc xe điện. Mụ điên cầm cành cây múa hát khóc một hồi rồi cười ré lên.

Cả bọn nhún chân vỗ tay, thằng Lãng chỉ vào mặt con Hằng:

- Ê, con ni có một người chị điên.

Thằng Chắc nheo mắt:

- Chị mi điên phải không Hằng? Chị mi thất tình nên điên. Lêu lêu mắc cở, em mụ điên.

Thằng Túc méo miệng:

- Chị con Hằng ưng ông Tây mà cha con Hằng không cho lấy. Chị con Hằng tự tử rồi điên luôn.

- Lêu lêu em mụ điên, em mụ điên. Má ơi, con má đã lớn má cho con lấy chồng. Lấy ai cũng lấy liền. Hu hu, lấy ai cũng lấy. Lấy Tây con lấy liền.

Con Hằng vứt cặp sách xuống đất chống nạnh. Thằng Lãng, thằng Chắc, thằng Tác, chút nữa vô học tao méc cô. Tụi bay có giỏi nói nữa đi. Ừ, chị tao điên đó. Tao không điên tao có xấu không? Chị tao điên chị tao có xấu không? Người điên không xấu. Đứa mô đi chọc người điên mới là đứa xấu. Cái đồ mất dạy hẽm hóc, cái đồ cù bơ cù bấc mới đi theo chọc người điên. Lát nữa tao méc cô tụi bay đừng trách tao. Cô giáo đi dạy trễ.

Thầy giáo lớp nhất qua bắt cả lớp đứng dậy mười lăm phút, sai thằng liên toán trưởng lên đứng trên bảng biên tên ai nói chuyện để phạt.

Thằng liên toán trưởng cầm cục phấn đứng trên bục gỗ hầm hầm nhìn xuống miệng ngậm cứng ngắc. Cả lớp vòng tay nhìn lên. Thằng Túc che miệng nói vào tai thằng Thiệu ba tao nói ăn trộm với ăn cướp là hai nghề khác nhau. Ăn cướp là giựt đồ giựt của ban đêm. Thằng liên toán trưởng liền viết lên bảng đen thằng Thiệu thằng Túc chồm qua chú Lý nói Hằng cho tao mượn cây viết chì cu lơ tí, tao vẽ trái cà chua chín, tao vẽ dĩa xà lách. Trưởng lớp bại biên vào bảng đen: Thiện.

Thằng Thiện đứng dậy:

- Trò Văn, tui nói chuyện mô mà trò biên tên tui?

Liên toán trưởng nói:

- Trò kêu Điệu Lý để nói chuyện.

- Tui rủ Điệu Lý đánh cờ ca rô, bộ đánh cờ ca rô cũng cấm nữa à? Con Hằng lấy miếng giấy nhỏ cầm cây bút chì viết. Điệu Tân ơi, đố Điệu Tân biết con đường Trần Hưng Đạo có tất cả mấy cây cột điện? Chú Tân vội lấy miếng giấy viết vội: Đường Trần Hưng Đạo có mười sáu cây cột đèn điện. Trật lất.

- Tui đếm rồi, đếm tất cả mười sáu cái cột điện từ đầu cầu Gia Hội lên. Đường Trần Hưng Đạo dài chừng mô chú biết không? Dài tám cây số. Không, đường Trần Hưng Đạo dài chừng mô? Dài từ mô? Từ cầu Gia Hội đến cầu Bạch Hổ. Ui, không phải, từ cầu Gia Hội đến cùa Linh Mụ. Từ cầu Gia Hội đến chùa Linh Mụ có bao nhiêu cột đèn điện? Không biết, tui chỉ đếm từ cầu Gia Hộ lên đến Phú Văn Lâu có mười sáu cột đèn điện. Hôm thầy y tá dẫn đi mua thuốc, tôi với Điệu Lý vừa đi vừa đếm.

Liên toán trưởng biên trên bảng đen:

Hằng.

Hằng đứng dậy:

- Tui làm chi mô? Ai nói chuyện chi mô mà biên tên người ta? Bộ muốn biên tên ai thì biên à?

Thằng liên toán trưởng bỗng đứng thẳng phắc hô nghiêm và hô khẩu hiệu của lớp. Thầy giáo lớp nhất đi vào nói:

- Cô Luyến nghỉ, cho các em về.

Bọn học trò reo giòn vỗ tay rập ranh nhau phóng mình ra khỏi lớp, vài đứa đưa tay lên miệng a a. Vài đứa hát ò kè thằng kè đánh đu, thằng Tây nhảy dù, Zoro bắng súng. Tiến lên Zoro nhào vô, Tarzan nhảy dù, thằn lằn cụt đuôi.

Con Hằng đi theo hai chú tiểu nhỏ rủ:

- Đi tới đường Lê Lợi chơi! Đi tới đếm con đường Lê Lợi có bao nhiêu cột đèn.

Điệu Lý nhìn Điệu Tân:

- Ông la chừ, ông không cho đi lêu lõng giữa đường.

Con Hằng đưa tròn tròng mắt:

- Hay là về nhà tôi hái me ăn?

Điệu Lý lắc đầu:

- Ông tui dặn không được vô vườn tược nhà ai mà leo trèo.

Ba đứa trẻ lúc thúc đi với nhau. Ngang qua con đường rẽ vào nhà mình, con Hằng không quẹo. Hắn đi theo hai chú nhỏ lại nhà sách Ngô Văn Mạch thuê truyện về coi.

Điệu Lý nói:

- Ấy, ấy, ấy đi mô thì đi riêng, đừng đi chung với tụi tui.

Con Hằng bĩu môi:

- Được lục lộ ai chộ nấy đi. Đường của chính phủ chứ bộ đường của chùa hay răng cấm tui đi?

- Thì ấy cứ đi trên trước, hoặc đi ra sau, tại răng ấy cứ kè kè theo tụi tui hoài?

Con Hằng cười:

- Tui lên chùa méc ông hai Điệu đi tới nhà sách Ngô Văn Mạch thuê truyện về đọc.

Chú Lý ré lên:

- Cửa chùa đóng kín. Ai cho đồ con nít vô chùa mà ham. Ấy mà bước chân vô chùa là ông sai múc nước ông dội ra.

Con Hằng xì một cái dài, bỏ lề đường bước ra ngoài đi bên cạnh chú Tân. Hằng vào tiệm thuê một bộ truyện cầm trên tay. Hai chú tiểu thè lưỡi nhìn nhau. Ba con Hằng hiền quá không cấm con Hằng đọc tiểu thuyết. Con Hằng mà ở với ông chắc ông cốc thủng đầu.

Con Hằng bước ra khỏi nhà sách, vẫy một chiếc xe kéo trèo lên. Con bé quay đầu ngoắc hai chú tiểu. Ê ê, muốn về mau thì chạy theo xe kéo. A lê. A lê.

Hai chú tiểu về tới nhà chua đi ra sau sửa soạn nấu cơm. Sư cụ gập người lại ho rồi kêu hai đứa vô tao biểu.

Sư cụ nói:

- Bà Sứ vừa đi Tây về.

Hai chú tiểu rệu nước miếng nhìn mâm đồ quả đặt trên bàn. Trái hồng xiêm có hột đen thui ăn vào ngọt líu lưỡi, những quả mận Saigon điều lòm ăn không khác chi đào xứ Huế. Mấy trái bom sáu… bảy… mười … trái bom xanh bóng. Hai chú tiểu vẫn ước ao một ngày nào đó, sư cụ phát cho mỗi chú một trái bom đó cầm ăn ngon lành.

Hai chú sẽ lấy tay xoa cho bóng thêm, hun trái bom một cái, hít trái bom một cái rồi nhe răng cắn một miếng, cắn cho hết cả trái thì ngọt ngọt, chua chua, dòn dòn lại có ti tí mùi rượu.

Sư cụ chậm rãi:

- Bà Sứ đi Tây về rồi bà mới lên thăm chùa hồi sáng.

Hai chú bé vẫn gắn cái nhìn vào mâm đồ quả, sư cụ tiếp:

- Bà vừa mới về một chốc thì tụi bay về.

Sư cụ cuối cổ ho mấy tiếng đục đàm:

- Bà Sứ có cho tụi bay áo đi mưa, bằng vải dầu.

Sư cụ đưa cho hai chú tiểu hai tấm áo tơi màu nâu:

- Tụi bay trân ra mà coi.

Hai chiếc áo dầu có màu nâu có tay như người lằn, có mũ, có dây nịt, có túi.

- Tụi bay mặc thử coi.

Chú Lý chưa tròng xong chiếc áo vào người đã cúi xuống ngắm, chú kêu:

- Dài quá ông ơi!

- Dài chi mà dài. Sang năm thì vừa, mua áo cho con nít người ta trừ ra chớ có ai trừ vô, tụi bay lớn như vọt.

Chú Tân nói:

- Mặc vô người nóng quá ông ơi. Chưa chi mồ hôi đã chảy ra. Cái áo của con có mùi chi thơm thơm, cái áo của Điệu Lý cũng có mùi chi thơm thơm.

Chú Lý gục gặc:

- Ừ, có mùi chi thơm thơm như dâu tây.

Sư cụ gãi má:

- Thôi, tụi bay cởi áo ra đi, xếp lại bỏ trong bị lác, đi mô cũng nhớ mang theo, trời mưa trời nắng chi cũng mang theo hết. Thôi, tụi bay đi chỗ khác đi… A! Hai thằng sang mâm đồ quả đem ra giếng rửa sạch rồi bày lên bàn thờ cúng Phật.

Hai chú nhỏ khệ nệ bưng mầm đồ quả ra giếng rửa. Chú Lý thòng dây múc nước xối, chú tân trang trọng nâng từng trái cây kỳ cọ miệng háy eo éo “Ông nhà tôi vốn là một người thương cháu, hay cho chúng tôi ăn quà. Lúc nào cũng thế, các cháu cứ đòi ông bế ông chỉ vuốt râu cười xòa, rồi ông khUyển cháu. Đứng yên ông kể chuyện này, cháu gần ông ngay.

Chú Lý chỉ mặt bạn:

- Ê hát… Hát bỏng hoài vậy? Con Hằng hát cho chú bài hát đó phải không? Cái miệng không lo tụng niệm kinh Phật cứ hát xạch xạch cả ngày.

Chú Tân sừng sộ:

- Bộ chú là ông hay răng mà chú khắc bắt người ta từng ly từng tí vậy?

Chú Lý đứng thẳng người:

- Muốn dỡ giọng thầy kiện thầy cúng ra hả?

Chú Tân ngồi xuống:

- Bài hát ni là bài hát tử tế hát chỗ mô cũng được.

- Con Hằng bày cho chú hát bài hát đó.

- Tui nghe học trò lớp nhứt hát tui thuộc.

Hai chú bưng mầm đồ quả vào, thắp hương đốt đèn lên cho ông cùng rồi lui xuống nhà, hai chú nhảy tưng tưng miệng chắc chắc. Ông cúng bây giờ, không chừng chiều ông phát cho mỗi đứa một trái bom. Cả đời tui chỉ mơ ước được cầm một trái bom mà cạp. Chiều ông cúng chưa xong đâu, mai mới xong. Mà chưa chắc mai ông đã cho ăn. Còn chuối còn đào còn sa bô chê để chi. Nhưng rồi thế nào mình cũng được ăn bom. Hai đứa hai trái cầm cắn bốp bốp.

Chú Tân chợt nhảy cỡn lên, ôm chiếc bị lác vào lòng, lấy chiếc áo đi mưa ra hít ngửi. Thơm quá! Thơm quá! Bà Sứ hứa năm nay cho hai đứa hai cai áo tơi là cho ngay. Áo tới mưa mua bên Tây “bề” quá! Cả trường chỉ độ mười lăm thằng có áo tơi dầu như tụi mình.

Sướng chi lạ. Lạy trời ngày mai trời mưa. Mưa thiệt to, gió thiệt lớn, mưa dầm dề cả tháng trời. Mấy tụi ở trường phải mang tới ca, tơi dọt thì mình được mang áo dầu, đội mũ dầu. Lạy trời mai mưa mình đi học xong rồi mình đi phố. Mình mặc áo tới dầu đẹp như những nhà trinh thám. Mấy tụi mang tới cá, tơi dọt quê như cu li, áo tơi mình có nút gài lại ấm ơi là ấm. Mang tơi cá hở đằng trước, hở đằng sau, mưa hắt phía nào tơi che phía ấy. Rồi khi mưa tạnh gió im, nắng lên mình cởi áo tơi dầu ra xếp lại cho vào bị nhẹ như mộ mấy tụi mang tơi cá, tơi dọt phải mang cá tơi to tướng lù lù mà về.

Trò Xoan nói mặc áo đầm là làm đĩ…

Con Hằng khóc méo xệch miệng. Cô Luyến gọi một lúc hai chục đứa học trò lên quỳ trên bảng đen.

Con Hằng về chỗ viết cho chú Tân mảnh giấy: Tui mặc áo đầm chú có ghét tui hôn? Chú Tân không viết giấy trả lời, chú nhìn qua con Hằng lắc đầu. Con Hằng viết tiếp: Tui mặc áo đầm đẹp hay xấu? Chú Tân lại nhìn qua lắc đầu.

Cô giáo Luyến la to:

- Hằng! Vừa kiện cáo xong đã về lớp phá phách.

Con Hằng đứng dậy vòng tay:

- Thưa cô em có phá mô?

Cô giáo trợn mắt:

- Trò viết cái giấy gì đưa cho Điệu Tân?

- Thưa cô em không viết.

- Cô thấy em viết đưa cho Điệu Tân rồi Điệu Tân lắc đầu.

- Thưa cô không có.

Cô giáo vỗ bàn:

- Điệu Tân, trò Hằng viết cái gì cho Điệu?

Chú tiểu ấp úng:

- Thưa cô có.

- Đưa lên đây.

Cô giáo mở hai miếng giấy vo tròn ra, lại chuyện áo đầm. Trò Hằng có hai tội, xé vở với tội nói chuyện ngầm trong lớp. Trò có muốn quỳ ngay tại chỗ không? Phá phách, nghịch ngợm.

Cô giáo kêu Hằng trả bài. Hằng lên đứng trên bảng đen đọc ro ro một mạch. Cô giáo phát bài tập làm văn. Hằng làm luận hay như người lớn, cô giáo nói:

- Trò Hằng học giỏi, nếu trò Hằng bỏ cái tật nói chuyện đi, trò Hằng sẽ giỏi hơn nữa. Trò Hằng mặc áo đầm thật đẹp như búp bê, các em không được cười. Mỗi người một hoàn cảnh, mỗi người một túi tiền. Gia đình trò Hằng có đủ điều kiện để may áo đầm cho trò Hằng mặc, các em không nên trêu chọc. Trò Hằng mặc áo đầm thật xinh như con búp bê. Các em có thấy vậy không, các em phải vỗ tay hoan hô mới đúng.

Cô giáo lặp đi lặp lại câu trò Hằng mặc áo đầm đẹp như búp bê, cả lớp im lặng, cô Luyến gõ thước tiếp:

- Các em có đồng ý không?

Cả lớp nói lên một lượt như đọc bài:

- Chúng em rất đồng ý.

Sau giờ toán chạy, cô giáo cho học trò về sớm nửa giờ. Bọn tiểu yêu tranh nhau ra khỏi lớp, con Hằng loay hoay về sau cùng với hai chú tiểu.

Con Hằng đi sát vào chú Tân:

- Dì tui đi Tây về mua cho tui hai cái áo đầm, hai đôi xăng đan với cái mũ.

Chú Lý lay vai chú Tân:

- Bà Sứ đi Tây về mua cho tụi mình hai cái áo tơi hi!

Con Hằng chỉ ngón tay:

- Dì tui nói cho tui đi phi dê tóc nữa, dì tui nói cho tui chiếc xe đạp đầm để đi học nữa, dì tui mua cho tui cái mũ đỏ thắt nơ vàng.

Hai chú tiểu cầm tay nhau đi ngược lên con đường Nam Giao rề xuống mấy con đường kích không thẳng.

Con Hằng lết bết chạy theo mấy Điệu hái cho tui nhánh bông bò bò đi, mấy Điệu nhổ cho tui cây éo éo này đi. Bắt cho con kè kè nướng ăn với muối ớt. Con nhền nhện đẻ cái bọc trứng to quá, em tui có tật đái dầm, mấy Điệu bắt con nhền nhện đi để tui về nướng cho em tui ăn cho khỏi chứng đái dầm.

Chú Lý cười hí hí:

- Ấy ấy, em của ấy đái dầm, còn chị của ấy đái ra đường phải không? Đái xong có bầy kiến lại bu. Bắt con dơi nướng mà ăn.

Chú Tân làm thinh, con Hằng giậm chân, chú Lý tiếp:

- Hay là bắt con thằn lắn sống nuốt cái ực vô bụng. Chú Lý cười to lên, chú Tân nói:

- Nói tào lao xích đế. Méc ông cho mà coi!

Chú Lý nheo một mắt:

- Xí, trong lớp chú ngồi nói chuyện với con Hằng ai méc chú không?

Con Hằng chỉ tay:

- Đi tu mà cái miệng phèn phẹt, phèn phẹt nhánh lúa. Mấy con rạm nhỏ bò ngang xương lên những bãi cỏ già khằn. Chú Lý cũng hái một nhánh lúa cầm tay. Con Hằng kêu eo éo Điệu Tân ơi, Điệu hái cho tui một ghe lúa đi, ba đứa trẻ cầm những gié lúa đứng trên giường ruộng đưa vào miệng cắn từng hột. Lúa non ăn ngon ghê. Cắn một cái bụp sữa chảy ra. chú Tân kêu ăn vừa thôi, ăn nhiều xót miệng.

Con Hằng nói:

- Vô chùa chơi đi hai Điệu. Vô chùa xin ổi ăn.

Chú Lý xô con Hằng ra:

- Ông cầm chổi ông xúc ấy ra.

Con Hằng trợn mắt:

- Vô chùa khác chứ ai vô chùa của chú.

Chú Lý trề môi:

- Chùa nào cũng người đứng đắn đằm đẹ mới vô được. Cái thứ lắc xắc láu táu người ta đuổi ra.

Con Hằng nhún vai:

- Tui mà về nhà tui đi chùa với ba tui là chùa nào cũng mô chính ra đón rước. Sư cụ, hòa thượng, thượng tọa, đại đức, sư mô vải vóc chi chi cũng đều sắp hàng hai bên mời vô ăn chuối uống nước. Rồi ba tui mới đưa cho nhà chùa một phong bao đựng tiền. Lúc đó, sư cụ của chú tiếp tui trên ghế khách mấy chú phải đứng hầu.

Chú Lý lừ mắt:

- Con quan? Ai không biết ấy con quan, quan ăn bòn của dân. Ông quan lấy nhiều vợ đẻ con ra cho mặc áo đầm.

Chú Lý dừng một lát rồi tiếp:

- Ông quan lấy nhiều vợ mà chỉ có bà vợ chính là oai, còn mấy bà vợ lẻ nghèo lắm không có tiền mua dầu dừa mà xức tóc nữa. Ấy con bà vợ lẻ.

Con Hằng nói:

- Tui con bà chính.

- Ấy con bà thứ. Con bà vợ chính phải lớn lớn như thế này này. Ấy con mụ hầu không có tiền mua dầu dừa xức tóc.

Con Hằng giậm chân:

- Tui con bà chính, tui không phải con dì Hai. Dì Hai không có con, me tui mới có con.

Điệu lý ngó bạn:

- Con Hằng con mụ hầu chứ không phải mụ chính hí. Làm hầu là cướp chồng bà chính.

Con Hằng háy:

- Làm hầu là để hầu hạ vợ chính. Tui là con bà chính, không phải con dì Hai.

Điệu Lý cười oang oang:

- Con Hằng là con bà Hai, bà Hai đẻ ra con Hằng, nhưng bà Hai là mụ hầu nên con Hằng không được kêu bà bằng mẹ, kêu bằng dì.

Chú Tân lay vai chú Lý:

- Điệu hay rắc rối lằng nhằng quá, tui méc ông cho mà coi.

Chú Tân bỏ ra về trước, chú Lý với con Hằng lót tót theo sau. Con Hằng nói:

- Chú Tân đàng hoàng đứng đắn, còn chú thì ba hoa khoác lác quá trời, chú Tân có hay bị ông la không?

Điệu Lý chỉ ngón tay:

- Ấy, ấy giàu mà ấy không được đi ngoại quốc. Điệu Tân được đi ngoại quốc, nghèo mà đi ngoại quốc.

- Đi ngoại quốc là răng?

- Đi nước Nhật Bản để học.

- Tiền mô mà đi?

- Họ nuôi. Đồng bào bên chợ nuôi Điệu đi Nhật học. Con Hằng lơn xơn chạy lên ngang hàng chú Tân.

- Ê, ê bồ sắp đi Nhật hả bồ?

Chú Tân lầm lì đi cúi mặt. Đến cổng chùa hai chú nhỏ cùng xua đuổi con Hằng ra về.

Con Hằng rẽ xuống giường ruộng đi tắt.



Con Hằng ngủ trưa dậy thì chị bếp vô kêu đi rửa mặt lên nhà trên ba biểu.

Ông Phủ kêu:

- Vô chào cô đi Hằng.

Cô Luyến nhìn Hằng cười:

- Bốn giờ chiều con ngủ trưa mới dậy… Ngủ chi mà hung rứa Hằng? Ngày ngủ nhiều đêm thức khuya bậy lắm.

Ông Phủ nhìn cô giáo:

- Cháu hắn nhác học lắm cô giáo ạ!

Cô Luyến cười:

- Dạ, em Hằng thông minh, làm luận hay lắm.

Ông Phủ cười:

- Hắn đọc trộm tiểu thuyết, tui bắt được luôn. Hắn trốn trong buồng hắn đọc tiểu thuyết.

Cô Luyến uống chén nước nữa rồi về. Ông Phủ nói với Hằng:

- Thôi từ rày sắp con bé đừng mặc áo đầm đi học nữa.

Hằng phụng phịu:

- Răng rứa ba?

Ông Phủ cười:

- Treo cái áo đầm lên, không cho mặc.

Hằng giậm chân:

- Con không chịu, con không chịu.

Ông Phủ nói:

- Treo cái áo đầm lên, khi mô đi phố mới được mặc.

- Tại răng không được mặc đi học hở ba? Con thích mặc áo đầm.

- Không được mặc áo đầm đi học, khi mô đi chơi mới được mặc.

Hằng mếu:

- Không.

- Cô giáo không cho mặc.

- Tại răng rứa ba?

- Cô giáo nói đi học thì nên ăn mặc như người ta, đừng làm khác, học trò bu lại cành nanh nói xấu:

- Cô giáo la phạt mấy tụi rồi.

- Cô giáo nói ở trường con người ta đi học chỉ mặc áo quần xoàng xoàng, mình mặc sang làm người ta dòm.

Hằng lắc đầu:

- Con mặc áo đầm đẹp, con không chịu.

Ông Phủ trừng mắt:

- Đi học đi hành không được ăn diện. Người ta răng thì mình rứa, người ta mặc áo cụt quần đen, người ta mặc đồ bộ… Mình phải y như người ta mới được.



CHƯƠNG BỐN





Ngồi đối diện với ông Phủ, bà Hai mặc áo gấm, mang hài thêu, ngọc dắt, huyền đeo, nâng chung trà nhỏ nhắp từng ngụm chắp chắp hít hà. Hằng đi ngang, dừng lại rót một chén, ngồi xuống bên cha. Nốt ruồi bám ở má Hằng là một dấu hiệu có dUyển nằm trên khuôn mặt hây hây hồng. Chiếc mũi thanh gọc trông như miếng đu đủ được cắt tỉa ra. Đôi mắt dài hình đuôi cá đựng cái nhìn không thẳng hút hồn.

Ông Phủ nhìn bà Hai:

- Cả đi chợ hay là còn đi mô nữa không mà ăn mặc bề vậy?

Bà Hai ho và nói:

- Đi phố, đi chợ.

Ông Phủ nhăn mặt:

- Đừng có đi lại Đền nghe không?

Bà Hai cúi xuống chiếc áo gấm màu đồng hỏi Hằng có đứa mô muốn đi chợ không? Những đứa con gái mặt chưa rửa lần lượt ra ngồi vào những chiếc ghế trống. Chị em Hằng đẹp không hơn không kém nhau, người nào cũng láu táu, tinh ranh. Chị Trang của Hằng đã có chồng mang cái bụng con so về nhà đẻ thằng cu đúng ba tháng thì biết lật.

Ông Phủ nhìn lại bà Hai:

- Cả đi mô thì nhớ mau mau mà về nhà sắp có khách đó.

Bà Hai ngước lên:

- Có khách à?

Ông Phủ cười:

- Khách quý lắm, đặc biệt lắm! Hân hạnh lắm!

Trang lanh miệng:

- Ai mà hồi hộp rứa ba?

- Một ông thầy, một nhà sư tốt nghiệp Tiến sĩ, dân chúng học ở ngoại quốc về, thầy Thiện Tân.

Hằng ngang giọng:

- Điệu Tân, cái Điệu Tân học trường Trần Cao Vân năm xưa với con đó. Mới nhỏ chút chéo đó mà bây giờ đã trở thành Thượng tọa với Đại đức… Học hành tu hành hoán cải mà mau dữ vậy không biết?

Đức che miệng ngáp, nhìn vào bức tranh Khổng Tử ú ớ một điều gì.

Hằng lại cười, mặt như được chiếu ánh sáng hồng:

- Năm xưa năm xửa ông ta học một lớp với con, cùng đi cùng về.

Ông Phủ nhìn Hằng:

- Bây giờ chắc thầy Thiện Tân không nhớ mi mô. Thầy đã đỗ Tiến sĩ.

Hằng cười:

- Lẹ quá! Bây giờ ai cũng gọi bằng sư bằng thầy… Lúc xưa anh chàng quê rích quê rang nói năng như mọi ú ớ… Lúc học lớp với con đó, anh chàng sún hết cả hai hàm răng, đầu tóc thì cạo láng còn chừa hai cái vá múc cháo… Cái đầu anh ta như đầu chó vá. Anh ta thông minh một cách kỳ lạ. Hồi đó hình như có một chàng tiểu nhỏ tên là Lý chi chi đó.

Ông Phủ nói giọng trầm:

- Điệu Lý chừ cũng lên thượng tọa rồi… hiền lành phúc đức như sư cụ chùa Từ linh năm xưa.

Hằng cong môi:

- Điệu Lý dốt lắm… miệng mồm ba hoa khoác lác mà học hành thì dốt ình. Cửu chương ba học mấy cũng không thuộc.

Bà Hai lấy trầu ăn:

- Người ta dốt chữ nhưng tu hành kinh kệ thì người ta giỏi. Sư cụ chùa Từ Linh thiệt có phước, đệ tử đều làm nên nấu chín.

Đức lên tiếng:

- Bên Phật tu hành dễ òm. Chịu khó ăn chay một tí là thành.

Bà Hai trừng mắt:

- Nói bậy tội chết.

Đức đều giọng:

- Tu hành bên Phật dễ hơn bên đạo nhiều, ai tu cũng thành hết.

Ông Phủ nạt:

- Đừng nói ba lơn rồi quen miệng đi.

Đức nói:

- Ăn chay là một luật điều hết sức khó, con co snói ăn chay dễ đâu. Phải dày công dày quả lắm mới ăn chay dài cả đời để làm thầy chú… Con đâu có bảo ăn chay là dễ. Ăn chay khó lắm, nên có người mới giấu đĩa rau muống một cái trứng vịt.

Bà Hai nghiêm mặt ngó Đức:

- Ai bảo con là có người ăn chay giấu trứng vịt dưới dĩa rau muống?

Đức nói:

- Người ta còn giấu cả thịt tôm ở dưới nữa.

Bà Hai nhăn nhó:

- Con đừng nói bậy.

Đức cười:

- Có nhiều người không đi tu được vì ăn chay không được.

Bà Hai đứng dậy sai Hằng vô lấy xách tay với nón quay găng. Ông Phủ nhìn vợ:

- Cả đi chợ mau mau về đó! Cả nhớ mua vài mớ mắm thật ngon trưa xào nấu đãi thầy.

Bà Hai cười:

- Còn hốt mấy mớ hụi rồi mới đi chợ.

Mỗi ngày bà Hai chơi hàng chục bát hụi nhỏ ngoài chợ với mấy mụ bán thịt bán cá bán rau, hành cải gạo cơm bún cháo bánh lá bánh hỏi. Bà Hai xuất ra một số vốn khá lớn cho mấy bạn hàng đó sớm vay chiều trả.

Mỗi ngày bà đóng tới hơn nghìn bạc, chừng hai tháng sau thu về đủ cho cả nhà ăn tiêu rộng rãi số tiền lời trong vài tháng. Còn cái vốn đem đóng lại. Bà quen mặt hết bạn hàng trong chợ búa và chưa bị họ giật tiền lần nào. Cái uy thế của ông Phủ, cái mồm miệng ma quái của bà khiến bạn hàng chợ không dám lèo lá lật lọng. Bà la to quở nhỏ, hét lên rú xuống nên cả chợ gọi bà là bà la.

Ông Phủ sai mở rộng cửa giữa đón Thượng tọa Thiện Tân vào. Sau chén trà Vũ Di, ông cho người nhà vô gọi mấy cô ai rảnh thì ra chào thầy.

Hằng đến trước mặt nha sư trẻ reo vui:

- Thưa thầy… Điệu Tân, Điệu còn nhớ con Hằng học trường Trần Cao Vân với thầy năm xưa không?

Nhà sư nhỏ nhìn thẳng một đường:

- Dạ cô… cô Hằng.

Hằng cười:

- Điệu Lý chừ cũng lớn rồi…

Ông Phủ nhìn con:

- Thầy đã đậu tiến sĩ, thầy đã được lên thượng tọa. Thầy Lý cũng lên thượng tọa, con đừng đùa nữa.

Ông Phủ quay qua nhà sư:

- Cháu Hằng lúc trước học lớp với thầy. Lúc nhỏ cháu thiệt thông minh. Nhưng lớn lên cháu bị bịnh tim phải nghỉ học tới ba năm rồi đi học lại, nhưng thi đâu hỏng đó. Bây giờ cháu mới học lớp đệ nhất thôi.

Ông Phủ chỉ Trang tiếp:

- Còn cháu đây là cháu Trang, vừa đẻ con so là một thằng cu. À, Trang, con vô bốc thằng cu ra đây cho thầy thưởng. Hằng trợn mắt đen huyền:

- Bốc thằng cu ra chào thầy răng được. Thằng cu đang làm nghề lật đi sông hoa cà hoa cải, đi tướt phèn phẹt. Ai “tướt” đi ngoài sương gió.

Mấy chị em cười hức hức nhìn ông thầy. Ông Phủ cau mặt:

- Tụi bay không biết thưa chuyện với thầy, cứ ba lơn hoài.

Hằng nói:

- Bây giờ kêu bằng thầy. Cứ nghĩ ngày xưa cứ ê Điệu Tân, ê Điệu Lý hoài mà cười chết luôn.

Ông Phủ nghiêm đôi mắt nhìn con gái. Thầy đây cái tâm vững hơn đồng, cái chí cứng hơn thép, trí có ngời như mặt nguyệt đêm rằm.

Thầy có chí hơn Trần Minh khố chuối, hơn Châu Trí đốt lá. Thầy cha mẹ không mô có. Sư cụ chùa Từ Linh nghèo xơ xác nhận thầy làm đệ tử nuôi thầy học kệ bữa cháo bữa rau. Rồi dân bạn hàng bên chợ thương thầy thông minh ý chí mới lạc qUyển tiền bạc đóng góp máu huyết với tủy sống của mình để đào tạo thầy nên danh nên trạng để thầy đem cái học lớn ra mà bưng đạo, thầy đem cái tài cao ra mà chống đỡ cho Phật giáo đứng vững, thầy thiệt giỏi không ai giỏi hơn thầy rồi đa. Học một biết mười, biết trăm. Thầy trẻ tuổi mà thiệt đáng phục rồi đa. Thầy thiệt xứng đáng với sự đóng góp của đồng bào tiểu thương. Từ những cái trứng, từ những bó rau, những của cải, những nắm đậu, nắm mè, những lon gạo, những mớ cá mớ tôm, miếng thịt, thầy đã thành danh một ông tấn sĩ, thầy đã thành danh một thượng tọa đức độ. Ai cũng khâm phục, ai cũng nể vì Phật giáo thật đã đến thời kỳ hưng thịnh.

Người tu hành chậm rãi nói:

- Chúng ta đang sống trong một cuộc sát sanh thật vĩ đại. Chiến tranh được tổ chức để ngăn chưa đừng cho đất nước thống nhất. Người lính ra trận đánh giặc để minh xác hai miền bờ cõi. Chủ đích của những người gây chiến là đừng để đất nước thống nhất nhưng lại hô hào hòa bình thống nhất quen mồm đi, để ngụy trang cho chiến tranh. Rồi những bài hát tuyên truyền, những bài văn tuyên truyền mong mỏi ca ngợi hy vọng hòa bình, thâu gồm một mối giang sơn để nối nhịp cầu Hiền Lương… Những bài kịch giả tạo đó chỉ là hia mão bằng giấy để tế cô hồn tử sĩ hoặc để an ủi thập loại chúng sanh mà thôi.

Ông Phủ đặt đũa xuống mâm:

- Ui trời ơi… bao nhiêu kẻ bị mắc cạn trong cái chiến tranh.

Đôi môi Hằng hồng đều như trong một cơn sốt rực rỡ. Hằng múc một chén cháo chay cầm muỗng lên ăn.

Đôi vai vuông được vắt xéo qua tấm áo màu cờ vàng thượng tọa, Thiện Tân có một dáng dấp chững chạc, vững vàng với hai bắp thịt tay no tròn. Đôi vai nhà sư không ngang bằng, bên khoác áo được đưa cao và bên kia hạ xuống, trông nhà sư có vẻ hiền lành chịu đựng. Mắt bí ẩn và miệng mím chặt.

Hằng bấm Uyển cười nhỏ:

- Cái miệng ông thầy, chuyện tình nhất định cạy không ra mà chuyện thời sự thì phun có vòi.

Uyển cười:

- Buồn cười nhất là ba mình, bỗng dưng đâm ra phản chiến. Mới ngày hôm kia ba còn thực dân phong kiến một cây.

Hằng to mắt:

- Thực dân phong kiến! Ba mà là một cây à! Ba một rừng chớ bộ.

Giọng nói người tu hành bằng bằng trầm hẳn xuống:

- Quả tim lính Mỹ đã ngừng đập ở đây, hơi lính Mỹ đã tắt ở đây, máu họ đã đổ ào, xương họ đã phơi trắng, và hồn ma họ lẫn khuất đâu đây trong bờ bụi, lùm cây ngọn cỏ. Không biết họ sát sinh vì ai và họ tự sát để cho ai? Chỉ biết rằng họ đã chi tiền để nuôi dưỡng chiến tranh, họ tung ra những thế cờ mà chính họ phá cũng không nổi. Những người Việt Nam được ủy nhiệm giữ cái chiến tranh này.

Hằng nhanh nhảu trả lời:

- Chết nhiều như dịch, chưa bao giờ tôi thấy số đàn ông chết nhiều như lúc này. Vâng, bởi đó, đàn ông đi tu nhiều như đi trốn, trốn chui trốn nhủi vào nhà chùa.

Trang đưa tay dưới bàn véo Hằng một cái mạnh. Hằng rụt cổ lại rồi nói tiếp:

- Chớ sao nữa? Còn chi nữa? Làm đàn ông là phải đẫm máu, phải hiến huyết, phải làm than làm củi, phải tự thiêu, phải tự siết cổ, phải hy sinh, phải bi đát. Có những bàn tay vô hình nấp sau lưng xô đẩy đàn ông vào chỗ chết, những bàn tay xô ập tới, và những đàn ông nằm sắp chết.

Có những bàn tay khổng lồ cầm ngang tuổi trẻ, cầm ngang eo xách cổ túm đầu ném vào bếp lửa… Báo đăng, radio đọc ngày hôm qua có chín mươi chín người chết ngày hôm nay có bảy mươi bảy người chết, và những người đàn ông nằm sắp chết. Mỗi ngày mỗi chết… Nam mô tiếp dẫn đạo sư A di Đà Phậ.

Giọng nói người con gái giòn như sụn rướn lên, giảm xuống. Hằng gục mặt cười thành cơn. Mặt Hằng đẹp nõn nà, mắt mũi miệng thân hình chi chi cũng đều thơm tho xinh xắn. Hằng đã qua Nhật sửa nhan sắc, thay đổi vài nét trên bộ mặt cho đẹp hơn nữa để đem về nước một giai phẩm hình hài tuyệt hảo. Nhà sư lắc đầu nhìn qua hơi hé cười rồi lại ngồi ngay ngắn liền.

Ông Phủ trứng mắt:

- Cái miệng con Hằng lúc nào cũng be be lóc lách chọt chét không ra cái chi chi hết, có khách có khứa mà.

Hằng bấm Uyển:

- Ngó mặt mũi nhà sư non này tui tức cười quá! Hi! Ngày xưa anh chàng ngốc nghếch quê mùa cười chết luôn. Anh chàng nói cái thứ tiếng chi mà sai chính tả hết… Mỗi lần tui sáp lại hỏi chuyện là anh chàng lập tức chui vào nách anh chàng kia. Điệu Tân, Điệu Lý, cả hai đều mê đọc tiểu thuyết. Quê ơi là quê.

Uyển xì hơi:

- Người ta là ông thầy mà kêu là anh chàng. Trường hợp mình là bạn bè cũ nên kêu bằng chú…

Quanh mâm cơm, sự hoạt động đều đều và từ từ. Mọi người ăn vui ăn ngon. Ông Phủ hết lòng mời cơm khách. Cơm chay mà biết nấu ăn còn ngon hơn ăn mắm. Theo tôi thì mỗi tháng nên ăn chay thật nhiều lần cho nhẹ bụng. Ăn chay trí óc dễ thông minh hơn ăn mặn. Cái bao tử mà nhét đầy thịt cá thì dục vọng dễ xông lên mờ óc não đi.

Hằng nhếch mép cười cầm hơi:

- Ngày xưa tổ cha chúng ta là Lạc Long Quân, tổ mẹ chúng ta là Âu Cơ quanh năm ăn thịt sống cá sống nên dục vọng quá phát triển, làm ái tình với nhau, ăn ở với nhau một trăm mặt con trai rồi chán nhau, xung khắc nhau, đòi đi riêng. Đẻ một trăm thằng con trai sờ sờ ra đó mà còn ly dị, mà còn ly thân, mà còn chia đôi con cái rồi mạnh bà bà đem lên núi, mạnh ông ông đem xuống biển. Người xưa đã không hòa, thì người nay, chúng ta hòa sao được. Gương xấu của tiền nhân còn để lại kếch xù ra đó dạy cho chúng ta chỉ ly khai chứ đừng có liên hiệp.

Bà Hai nhìn Hằng:

- Phiền, con gái con gung mà cứ ưng nói mấy chuyện cái chuyện chi mô. Đức phát lên cười. Minh lừ mắt đứng dậy. Giữa bữa ăn có nhạc. Nhạc mát như hai cánh cửa đã mở toát: một buổi mai mùa xuân trời xanh thẳm và mây bay lửng thửng, có một đàn chim nhỏ từ thiên đường bay xuống trần gian ríu rít kể chuyện nàng tiên vì một lỗi lầm vụng về bị lưu đày vào chốn bụi hồng ở chung với người hạ giới, nàng tiên biến thành một đóa hoa thơm ngát và cõi trần tự đó cũng thơm lừng.

Nàng tiên rời bỏ thiên đường bằng lòng nhập cuộc ái ân tục lụy. Tự nó không gian mênh mông ngập đầy thương nhớ và đời được chất ngất lớp mộng mị mỏng dày. Cõi tục là cõi tình bát ngát không thể tích có người nam người nữ yêu nhau. Ở cõi tiên chuyện gì cũng thường quá vì người nam người nữ đều đi tu. Ở cõi trên, tình yêu không có.

Bà hai nhìn Minh:

- Mấy cái đĩa “Hoa rơi cửa Phật, “Sự tích Quan Âm Thị Kính” cho người ta mượn thì lấy về để chạy hầu thầy đi con.

Đức cười:

- Phải rồi, đòi cái đĩa “Hoa rơi cửa Phật” về để chạy cho thầy nghe.

Ông Phủ ngó thầy Thiện Tân:

- Thưa thầy, cháu Đức bị bịnh, cháu hay nói năng bất thường.

Đức vẫn cười đùa:

- Ông thầy chắc mê bản “Hoa rơi cửa Phật”. Ôi chưa đầy hai năm mà một vẻ đẹp thùy mị trước kia nay đã thành thân tàn ma dại. Em Lan ôi, tội tình chi mà em phải dọa đày, anh đã đoạn tình cùng Thúy Liễu, anh lên đây rước em về.

Ông Phủ quắc mắt:

- Đức!

Bà Hai đứng dậy đi vào trong đem ra mấy chùm vải trạn. Mới tráng miệng, vải vườn nhà đó. Cây vải trạn trái sai thiệt sai rồi đa, đúng ba năm mới có trái một lần. Trái nào trái nấy tròn ú hộ xép xẹp toàn cả cơm không à, mời thầy tráng miệng.

Ông Phủ hỏi:

- Thầy về nước thầy có đi thăm ngôi trường cũ mình học năm xưa không?

Thiện Tân trù trừ chưa trả lời, Đức cười:

- Thầy làm nên nấu chín rồi, thầy phải đi thăm mái trường xưa mới oai. Như ông Carnot xưa là một ông quan to nước Pháp, một hôm nhân rảnh việc về thăm quê nhà, nhân đi ngang qua ngôi trường cũ ngày xưa, ông ghé vào thăm, thấy ông thầy dạy mình học ngày xưa…

Ông Phủ nạt:

- Đức!

Bà Hai lắc đầu:

- Ăn nói chướng ghê! Con gái càng lớn càng ngang phành phành như cua bò. Chuyện người ta đang xuôi thẳng mà cứ đâm cứ quẹo vô hoài. Con nên đợi khi nào thầy rảnh để hỏi han sách vở kinh kệ.

Minh lừ mắt:

- Cứ lăng phăng, lảm nhảm, lè nhè hoài à.

Thượng tọa Thiện Tân vừa bóc vỏ vải vừa từ tốn nói:

- Từ khi về nước tôi chưa thăm lại ngôi trường cũ nhưng tôi đã đi thăm các chợ.

Ông Phủ ngước lên:

- Đồng bào các chợ có lên thăm chùa mà!

Thiện Tân cười:

- Dạ, bổn phận tôi phải thăm chợ trước. Tôi bước vô chợ Đông Ba lúc trời mưa ào ào, nước bẩn thỉu ngập tới mắt cá. Tôi lại chỗ hàng gạo với hàng thịt đứng nhìn như ngày xưa tôi với chú Lý đứng chu mõm nghếch mắt ngó bà hàng thịt quay cãi lộn với cụ Chắc mua thịt quên trả tiền, bà hàng cá nói thách trên trời nhưng lại bán bằng cái giá quá thấp như mặt đất. Bà Bá vẫn ngồi sau quày thịt heo, một bên bán thịt luộc, một bên bán thịt sống. Tôi đi hết đình chợ ngang qua hàng rau mệ bán mướp giờ đã chết, vợ ông cảnh sát bán đồ gia vị vẫn hàm hồ chửi khách hàng có quai ở miệng, bác bán đậu vẫn còn ngồi bán đậu. Tôi đi ra phía cây thị.

Những trái bứa, những trái thị, trái chay, chùm dâu sậu tôi không còn mê ăn nữa, chú Lý cũng không còn mê ăn nữa. Thầy Lý nay rỡ ràng là một bậc chân tu.

Thượng tọa Thiện Tân đứng dậy.

Qua giấc ngủ trưa nhà sư đang ngồi đọc sách thì Đức đi vào, nhà sư luống cuống đứng dậy, Đức cười:

- Thưa thầy, Đức có thể gọi thầy bằng chú được không. Nhà sư ngồi xuống chiếc ghế trường kỹ, đôi mắt chỉ nhìn ngang cổ người con gái.

Đức long lanh cái nhìn:

- Những người quen tôi từ xưa vẫn gọi tôi bằng cô.

Đức bưng miệng cười một chút rồi nói lớn:

- Có những người xuất gia rồi mà thật lắm tài sẵn… Thầy có đọc bài thơ tình của ngài đại đức gì đó không? Có cả một biển bọt mê đắm tình tứ. Đây này thầy:

“Ngày xưa anh đón em,

Trên gác chuông chùa nọ.

Bây giờ anh qua đó

Còn thấy chữ trong chuông.



Anh khoác áo nâu sòng,

Em chân trời biền biệt

Tên ai còn tha thiết,

Trong tiếng vọng chuông đưa”.

Đức lại cười, đôi môi nắn nót thành nét vẽ khác:

- Thầy coi tu hành dễ có mấy tay!

Nhà sư lắc đầu nhẹ rồi lẳng lặng cúi xuống bàn, ánh mắt bám chặt trang sách.

Đức nhỗm người lên:

- Đi tu còn có quyền làm thơ tình không hở thầy?

Thiện Tân nói:

- Tôi không nghiêm khắc, tôi cũng không buông lơi nên tôi không xét đoán được.

Mắt Đức sáng rực:

- Thầy có chấp nhận giọng thơ đó không?

- Đó là một phút nhớ lại của thi sĩ.

Đức trề môi cười:

- Thầy có làm thơ lối đó được không?

Nhà sư lắc đầu dìu dịu.

Đức hỏi:

- Thầy qua Nhật thầy có học võ Nhu đạo không?

Thiện Tân cất tiếng cười cụt ngủn:

- Lúc xưa tôi đã ao ước qua Nhật sẽ học võ đó cô… Thầy Lý cũng biểu tôi qua bển học võ xong rồi về nước truyền lại cho thầy.

Đức cười giòn tan:

- Nhưng thầy có học võ không?

Nhà sư lắc đầu. Ngày xưa tôi tưởng mình có thể học hết mọi món võ của nước ngoài. Thầy Lý biểu tui trước hết học Judo, học Hiệp khí đạo, học võ vật bậy, võ Tàu rồi sau lại học đánh bốc, võ Karaté. Qua bển mới thấy cái sức của mình chỉ đủ để học chữ nghĩa kinh kệ xong rồi về.

Đức lắc đầu:

- Học Nhu đạo phải ăn nhiều, như thượng tọa Thích Trí Giác mỗi ngày phải ăn mười bảy miếng đậu.

Nhà sư cười tươi:

- Hơi nhiều.

- Còn phải ăn rau nữa, mỗi ngày thầy thượng tọa đó phải ăn sáu ký rau.

-??

- Vâng, sáu ký rau với bốn nải chuối.

Nhà sư cười vừa phải:

- Mỗi ngày phải ăn mười bảy miếng đậu, sáu ký rau cải với bốn nải chuối… Học võ như vậy tốn quá, học làm gì.

Có tiếng bà Hai kêu Đức ở nhà ngoài.

Thượng tọa Thiện Tân đứng dưới dàn dưa xếp những lá to ướt láng. Những tiếng nổ lớn như rót cầu vồng từ một vài hố đen thâm kia. Nhà sư nhớ lại những đêm ân ái cũ.

Những đêm không tiếng nổ, ngã tư không ông lính cầm súng, lòng đường không biển cấm, cuộc sống giòn và đều thênh thang chảy từ cái khúc sông thanh bình của buổi chiều nắng nhạt, chảy sang cái dòng suối thở kêu của buổi tối lên đèn, chảy tiếp vào cái chiều sâu độ lượng nhất của đêm không giới nghiêm chảy sang tới cái ánh hồng buổi sáng hôm sau.

Thượng tọa Thiện Tân chợt đứng lặng nghe tiếng hát. Một tiếng hát đi lên theo những đường nét mơ hồ thật bát ngát và thật mênh mông rộng ra nhưng vẫn còn thể tích và êm đềm uốn éo như dải lụa dài múa từ tay cô gái cổ, thật cao nhưng không xoáy mà lãng đãng như toán mây du mục, mà vút lên thăm thẳm. Một tiếng rực rỡ nhưng không hoa hòe chói chang như tuyết băng nằm dưới ánh trời, mà rực rỡ màu vàng của tóc cô gái Tây phương. Và cũng láng như mỡ gà, và cũng âm thầm như sò hến. Và cũng tha thiết như tiếng người cha ngâm truyện Kiều thay vợ dỗ con ngủ. Và cũng lẳng lơ như mắt thôn nữ khi đối diện chàng trai đẹp đêm hát chao.

Vài tiếng nổ nữa lẻ tẻ, đạn rơi xa. Xa mình nhưng gần người. Thượng tọa Thiện Tân lãng sang những tiếng nổ lẻ rồi lại quay về với những âm thanh đang lượn vòng chung quanh. Con gái nhà này hình như ai hát cũng hay. Cậu Minh đờn tài lắm. Lúc nhỏ mình vẫn thán phục. Lúc học trường Trần Cao Vân, Hằng nó bày cho mình mấy bài hát ngộ quá, hát lên một cái là ông la mắng sa đà cả ngày. Thượng tọa Thiện Tân như ngước nhìn tiếng hát. Có lẽ đây là giọng của Hằng,. Anh suốt đời mong chờ mùa thu xanh và anh yêu đàn bướm nhiều màu đậu trên liếp hoa cải vàng giỡn cười trên khóm hồng gai góc và vì em cứ mặc áo màu xanh hoài. Anh yêu mùa thu suốt đời và suốt đời anh không quên áo em, mặc dầu em chỉ đến với anh mùa thu đó. Thu nay anh nhớ nhiều tiếc nhiều. Đêm thao thức nghe cây trút lá, anh chỗi dậy dạo bản đàn cũ và cảm thấy thương yêu em và tha thứ em vô cùng.

- Dạ thưa thầy, quan của con mời thầy vô dùng nước trà.

Thiện Tân đi theo người nhà vào ngồi trong phong ông Phủ. Người bạn vong niên của nhà sư đeo kính cận như đang xem sách.

Ông Phủ đẩy tách nước trà về phía Thiện Tân:

- Thầy có quen uống nước trà đêm không?

Nhà sư lễ phép:

- Dạ.

Ông Phủ cười:

- Uống nước trà về đêm đâu có mất ngủ như người ta in trí… Tôi tuổi già rồi thầy… tôi sục sạo ăn uống cho tới mười hai giờ đêm mới đi ngủ.

Nhà sư hỏi:

- Dạ, cụ đi nghỉ như rứa là hơi khuya.

- Bất cứ ông quan Việt Nam nào cũng hư hỏng hết thầy ạ, tui là một ông quan tài thức khuya dậy trưa quen đi rồi.

Ông Phủ mở rộng hộp giấy bóng hồng điều. Đây mời thầy dùng, bánh ngọt dì Hai làm đấy, dì Hai cái gì cũng biết làm, còn mấy đứa con thì cả ngày cả đêm tưng tưng ca hát. Cái con Hằng có khiếu âm nhạc ghê gớm lắm. Cháu ưng làm ca sĩ mà tui nghĩ nhà mình danh giá tui không cho.

Ông Phủ nhìn ngay vào người đối diện. Thiện Tân nghiêm trang đường bệ như tượng.

Ông Phủ hỏi:

- Hồi chiều có phải con cháu Đức qua phá thầy?

Thiện Tân lắc đầu:

- Dạ không, cô ấy sang nói chuyện vui tí rồi thôi.

Ông Phủ bình thản:

- Con cháu Đức lúc trước hắn điên la làng ơi ới cả đêm, chữa chạy xoắn vó lên mà không khỏi. Rồi tui cứ liều để rứa, mấy năm sau hắn tỉnh dần dần. Bây giờ hắn có vẽ bình thường rồi, nhưng thỉnh thoảng hơi khùng một chút.

Nhà sư im lặng, ông Phủ nói luôn:

- Hình như ông có để lại một bộ sách thuốc gia truyền bí mật lắm, khi nào rãnh thầy lục lại cho tôi mượn để tra cứu mà chữa bịnh cho các cháu.

Nhà sư ân cần:

- Dạ cuốn sách đó lúc nào cháu cũng đem theo bên mình cả, để xin đưa cụ mượn.

Ông Phủ ngả đầu lên ghế lim dim mắt. Tui bây giờ không có đọc sách báo hằng ngày rồi đa! Mặc kệ cha thời thế răng thì răng, miễn mình sống cho sướng là được và đừng làm quấy làm phiền ai hết. Mặc kệ cái cha tình hình ra răng thì ra. Bây giờ được ngồi mạn đàm với thầy đây, lòng thấy hể hả sung sướng. Lát nữa vào giường ngủ ngay một giấc thật nhẹ. Ngày mai thức dậy sẽ thấy ngày mai thật tươi với ly nước trà thật vàng. Rửa mặt xong đủng đỉnh ra ngoài vườn thăm cây thăm lá.

Tia nắng non đầu ngày rực hồng khuyến khích chúng ta bắt tay vào việc. Mấy con chim nuôi trong lồng cũng hót hay như chim tự do, gió quạt từng đợt mỏng, mình cảm thấy hết sức bằng lòng cái buổi sáng trước mắt mình. Thế là mình có hạnh phúc rồi dù có hạnh phúc đó nó rẻ, nó dễ. Rồi buổi trưa đến khó thở một chút nhưng vẫn có một chút gì ảo mộng mình lim dim mắt nghĩ đến một giấc ngủ ngắn, vứt cuốn sách đọc nửa chừng xuống giường. Mình phải thu hẹp giấc ngủ trưa lại để có một buổi chiều dài. Phải tắm một phát vì nắng càng vàng càng nóng, không khí hơi ồn lên một tí, mình phải làm việc. Đợi buổi chiều dịu lại rồi mình mới trầm tư.

Mình có thể trầm tư, có thể mơ mộng, có thể nhớ dai đến những chuyện buồn hay chuyện vui… là một ngày của tôi, một ngày đẹp, một ngày dễ chịu, một ngày vừa ý phải không thầy?

Nhà sư đáp:

- Dạ, thời gian này là thời gian cụ rút về an hưởng.

Ông Phủ tiếp:

- Mấy thằng con trái của tui ở ngoại quốc cứ gởi thư về hoài mời tui đi du chơi một chuyến mà tôi ngại lắm. Mình ở Việt Nam trưởng giả quen rồi.

Ông Phủ cầm Thiện Tân ở lại nói chuyện tới 11 giờ đêm.

Bà Hai tự tay mang đồ điểm tâm vào phòng. Mời thầy dùng ngay cho nóng thầy. Bánh bao bánh bé bột la khê nhân thập cẩm với nấm đây thầy, mấy mẹ con thức dậy hồi năm giờ sáng nhồi bột bắt bột rồi hấp liền đó. Ông Phủ tui vô Saigon ăn bánh bao ở nhà hàng Đại La Thiên ngon quá, về khen mãi bắt mấy mẹ con tập làm mãi không được. Làm mãi làm hoài thành ra thứ bánh này đây, ông Phủ tui ổng ăn ổng khen lắm. Thầy dùng đi cho nóng thầy.

Thiện Tân hơi đỏ mặt:

- Cháu ở đây được hai cụ cho ăn ngon không hơ… sợ về chùa ăn kham khổ không được.

Bà Hai cười:

- Thầy nói chi rứa thầy? Rước được thầy về là may cho cả nhà rồi còn chi nữa.

Thiện Tân cầm chiếc bánh bao đưa lên ăn khi bà Hai đi ra đóng cửa lại… Bánh bao ngày xưa thầy Lý biểu mình đi chỗ nào người ta dọn bánh bao thì đừng ăn. Bánh bao nhân thịt người, trong ruột bánh có chiếc móng tay ngày xưa, cái đầu sao lúc nào cũng đầy tưởng tượng.

Thiện Tân ngồi xem sách hết trọn buổi. Bốn giờ chiều ông Phủ mời nhà sư cùng đi xuống Dạ Lê xem một miếng đất.

Ông Phủ nói:

- Ngôi chùa Từ Linh phía sau mối ăn nhiều quá… Để tui sẽ kêu thợ xây alị… Đập hẳn ra xây lại.

Thiện Tân chắp tay:

- Dạ… làm như vậy tốn kém quá! Tui sẽ xin đi dạy học kiếm tiền rồi để dành tiền dần dần… Nay sửa cái này, mai sửa cái khác.

Ông Phủ xua tay:

- Ồ, có chi thầy, sức tui còn lo được chùa, thầy cứ để tui lo.

Thiện Tân hỏi:

- Cụ xem miếng đất này của ai ạ?

Tui có cho hai vợ chồng một ông bạn mượn năm chục nghìn đồng bạc từ năm một ngàn chín trăm ba mươi mốt lận. Hai vợ chồng làm ăn thua quá… Họ không trả tiền cho tui… Mấy chục năm rồi họ cũng vẫn chưa trả mà tui thì cũng đòi lấy lệ, không có đòi thật tình… Ba chục năm rồi đó thầy… Trong ba chục năm đó thì số tiền kia đẻ ra bao nhiêu tiền lời.

Nhà sư nói:

- Nợ từ ba chục năm không lấy vốn lời gì hết?

Ông Phủ gật:

- Ba chục năm vẫn cứ năm chục ngàn. Bây giờ bà ấy về Saigon bà ấy mới cấn miếng đất cho tui. Tui ngần ngại hết sức, đất đai thì trồng trọt được nhưng ai làm nhà làm cửa ở đây. Thầy coi thử miếng đất này có được không? Tui xin cúng cho chùa.

Hằng khẽ đọc hai câu thơ của Chu Mạnh Trinh rồi lim dim mắt êm đềm kể lể. Thầy đi tu từ tấm bé, đời của thầy là một gian phòng kín gạt bỏ ra ngoài hết cả những tạp âm ồn nặng của cảnh ở ngoài, thầy có những lời trầm quế châu ngọc dành cho đời. Đời thầy là một cuộc vật lộn lâu dài, thầy coi thân xác thầy là một sự vay mượn. Sống là tạm, chết là về, thầy về thẳng Niết Bàn. Ở Niết Bàn không có con, con có mặt ở địa ngục.

Hằng nói bằng một giọng dài êm không còn lim dim mà nhướng lên ngó nhà sư. Thượng tọa Thiện Tân ngậm miệng cứng cắm cúi nhìn nghiêm chỉnh vào những trang sách đang trải trước mặt để khỏi phì cười trước những lời lẽ ngây thơ quan niệm đi tu là làm một cuộc phiêu lưu đẹp, là bước vào một giấc trường mộng huy hoàng rực rỡ dưng bằng nét vẽ tưởng tượng.

Hằng khẽ đọc:

“Thỏ thẻ rừng mai chim cùng trái,

Lững lờ khe yến cá nghe kinh

Thoáng bên tai một tiếng chài kình

Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.

Này suối giải oan, này hang Cửa Võng,

Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh.

Nhác trông lên ai khéo vẽ hình

Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt”.

Thượng tọa Thiện Tân phì cười vui tươi hỏi:

- Chắc cô đang muốn lên tiên…Cô vừa phác họa ra một bồng lai tiên cảnh.

Hằng nhanh nhảu:

- Không, đó là Niết Bàn… Vì ở đó không có tình yêu và không có thịt súc vật, không có cả mắm tôm cua.

Hằng cười nụ nhỏ phác họa ngay một cửa chùa nhỏ, một vị trí niềm tin góc cạnh khổ lớn.

Tiếng nói của nàng thật êm:

- Mỗi năm vào buổi chiều Nguyên đán con đều đi thăm chùa, đi thăm thật nhiều ngôi chùa, không khí ở đâu cũng giống ở đâu, những mặt người ở đâu cũng giống ở đâu.

Nhà sư hỏi:

- Tại sao những mặt người ở đâu cũng giống ở đâu?

Người con gái trầm giọng:

- Những nhà sư mà con đã gặp trong ngày mùng một Tết, con nhìn thấy những chiếc đầu ai cũng không có chứa những giấc mộng, những đôi mắt của ai cũng không đựng những tham vọng.

Hằng lim dim lát lâu mới tiếp:

- Hình hài chỉ là một sự cầm tạm nên ngày mồng một Tết những nhà sư miễn cưỡng ăn mứt.

Thượng tọa cười:

- Ăn cả bánh chưng nữa.

Hằng gật:

- Bánh chưng chay nhân đậu xanh ngọt.

Nhà sư dịu giọng hỏi:

- Có phải cô cố ý đi chùa ngày mồng một Tết?

Hằng cười:

- Đó là thói quen của ba và cả nhà bắt chước.

Nhà sư vui vẻ hỏi:

- Ngoài ra cả năm cô không còn đi chùa ngày nào nữa?

- Đi nhiều chứ. Đi với dì Hai. Dì Hai đi chùa vào những ngày rằm. Không đi chùa thì dì Hai ăn không được ngủ không được.

Nhà sư nhướng mắt:

- Sao vậy?

- Dạ, vì yên tâm. Có những người đàn bà quan niệm rằng là mình cứ làm những việc ác đi, cứ làm đi rồi vào chùa sẽ hết tội liền một khi.

Nhà sư trầm ngâm, đôi môi mím chặt khó cạy. Hằng vội lật đật nói tiếp:

- Ấy ấy, con nói vậy là đại khái thôi, thầy đừng lầm tưởng dì Hai con độc ác. Không phải vậy đâu, dì Hai hiền lắm.

Căn nhà của vợ chồng Trang đã mở cửa, bà vú múc xô nước lớn nhúng giẻ vào lau những cây song cửa sổ. Lùm cây đằng trước cổng xanh um, trong đó có cây nhãn năm nào cũng không có trái.

Hằng cười giữa hai nét môi vui:

- Em là con của dì Hai, dì Hai làm vợ bé nên em không được gọi mẹ em bằng mẹ. Em ức quá, mẹ em mà em không được gọi bằng mẹ.. Em phải gọi mẹ em bằng dì.

Thiện Tân:

- Bà Hai thật tốt.

Hằng đưa tay soạn chồng sách trước mặt. Những ngón tay đẹp như những búp ngọc lan. Ngón tay cái tròn hơn những ngón tay khác.

Hằng đặt tay lên gáy vàng một cuốn tự điển:

- Em bắt đầu học chữ Tàu có hơn hai năm mà em đã biết khá nhiều… Ba em dạy cho em dịch được cả sách Tàu, em đọc được bộ Đông Chu Liệt Quốc mà đọc cả ngyên văn cơ. Ba em còn dạy em thưởng thức cả thơ Đường, em đang ham dịch thơ của Lý Thương Ẩn, em dịch trọn cả bài “Ba sơn dạ vũ” cũng theo thể thơ bảy chữ tám câu.

Nhà sư cười:

- Cô Hằng dịch thơ Lý Thương Ẩn chứ không phải cô Hằng hát nhạc cải cách.

Hằng reo giòn:

- Ngày xưa em dạy thầy bài hát gì nè?

- Không tiền cho nên đói ròng nằm co. Không tiền cho nên sống bà con không có.

Hằng tiếp:

- Con người như điên cũng vì thiếu thốn tiền. Tiền luôn trong túi có ai khinh mình.

Hai người cùng cười, Hằng vui:

- Ngày xưa đi học Điệu Lý luôn luôn cáu kỉnh.

- Thầy ấy bị ảnh hưởng tính nết của ông tui.

Hằng rút vai:

- Nghe nói ông gắt như mắm mòi.

Hằng nói dứt câu thè lưỡi dài như rắn học trò. Có tiếng động ở cửa, bà vú giữ con của Trang cầm chổi cau ra quét sân vào đụn rơm vàng hình nấm rơm. Đàn gà con đang lích tích kiếm mồi, đi lúc thúc tròn trịa. Mỗi con gà đẹp như một nấm bông phết màu.

Hằng nhún nhẩy nhẹ:

- Thầy còn nhớ năm xưa đi học trường Trần Cao Vân không? Em là người học trò đầu tiên mặc áo đầm đi ọch… Em mặc áo đầm làm mấy tụi chửi quá, cô giáo cũng không ưa. Cô giáo đến nhà khuyên em không được mặc áo đầm đi học.

Hằng rút cổ miệng hư hư ư ử nheo mắt nhìn vào một chỗ nào đó. Hằng cười một tiếng ngắn rồi mặt mày tỉnh rót như không:

- Ngày xưa em đố thầy đường Lê Lợi với đường Trần Hưng Đạo có mấy cây cột đèn điện, thầy trả lời trật lất. Bây giờ em đố thầy lại, thầy trả lời được không?

Nhà sư lắc đầu:

- Ngày nay còn dốt hơn ngày xưa nữa.

Hằng nói sau tiếng hít hà:

- Ngày xưa mấy tụi cũng hay xúi thầy với thầy Lý đi coi nước lụt người ta câu cá, tới nhà xác coi người ta chết, đi tới nhà thương điên coi mụ điên méo miệng hát lên đồng. Thấy thấy bây giờ thầy đã là một thượng tọa danh tiếng rồi, những kỷ niệm ngày xưa thầy còn thấy đẹp nữa không?

Nhà sư đăm chiêu:

- Mỗi một đời sống chúng ta gồm rất nhiều đoạn hạnh phúc hồng.

Hằng nhìn xa xăm và chợt cười:

- Vui ghê thầy ơi, năm nay em học viết với cha Thịnh, cha thương em vô số kể. Đến trường thì em gặp cha, về nhà thì em có thầy, nghĩa là ở nhà thì có Niết Bàn còn ở trường học thì có Thiên Đàng.

Nhà sư chép miệng:

- Cha Thịnh là nhất rồi còn gì nữa.

- Ui, cha giảng bài thì đều đều một giọng buồn ngủ quá là, nhưng khi cha kể chuyện thì vui lắm, cha ăn nói bạo mồm bạo miệng bạo gan bạo phổi.

- Vì ngài giỏi quá nên ngài khinh đời và ai ngài cũng khinh hết.

- Trừ thầy ngài không khinh vì thầy cũng giỏi như ngài.

Nhà sư đưa tay:

- Cô Hằng để tôi nói thêm: ngài cao cả quá nên ngài thương người và ai cũng thương ngài hết.

Hằng mím môi:

- Cha Thịnh có nhiều người ghét lắm, học trò cũng rất nhiều đứa ghét cha vì cha hơi một tí bất công. Đúng hơn vì cha hay ban ơn cho người ta quá và sự ban ơn đó không đồng đều, những kẻ không được hưởng ơn đã ghét cha.

Nhà sư gật đầu:

- Có lẽ đúng.

- Cha Thịnh là một chính khách thì đúng hơn.

Hằng rút cổ miệng hư hư ư ử nheo mắt nhìn vào một chỗ nào đó. Hằng hát lên thật nhỏ, Hằng cười thật nhiều tiếng ngắn rồi mặt mày tỉnh rót như không:

- Em sẽ bỏ nghiên cứu âm nhạc ít lâu, vì em bắt đầu yêu thơ Đường. Thơ Đường đẹp vì chúng ta có âm thanh để rung nó. Thơ Đường thật sâu sắc không tài nào hiểu nổi, sâu sắc đến độ làm người ta hiểu lầm. Khi đọc lên, em cảm thấy có một chút hơi lạnh se se cho cảm giác muốn nhâm nhi tách trà thơm, khiến em trông ngóng một đốm nắng vàng hanh, khiến em mềm người ra mơ mộng. Bao giờ đọc hai câu thơ kết, em cũng thấy có một bẹ cau non nào đó nhô ra ngoài để ngậm giọt sương trời. Đó là một thứ mầm cây thật chất non dai và cũng thật đầy hy vọng. Bài thơ đường đẹp như một sự bắt đầu của tàn tạ của tàn tạ của tuyệt vọng nó mang một dấu hiệu ngầm hết sức bí mật của tình yêu, dễ dàng hòa vào kỷ niệm sẵn có trong lòng chúng ta.

Thượng tọa Thiện Tân nhấc môi cười méo mó, ánh mắt bừng sáng rụt rè:

- Không ngờ cô Hằng mê thơ Đường đến vậy. Lý Thương Ẩn có làm một bài thơ bí hiểm từ xưa chưa có ai dịch cả. Bài thơ hay ghê!

Hằng xoay đầu:

- Bài thơ gì vậy thầy?

- Tôi quên bẵng ngay cái đầu đề… Lát nữa tìm lại xem.

Có tiếng Trang gọi bà vú giật giọng như gọi đò. Bội nói bà Trang cái miệng như cái tu huýt. Lúc còn bé bà ấy gầy quá nên nhà kêu là con Còi, lớn lên cái miệng y hệt như cái còi.

Thiện Tân lơ đãng uống trà, Hằng tiếp:

- Thơ tự nó đã hay, đã sẵn âm nhạc. Em nghĩ rằng người ta không cần phổ những bài thơ thành ca khúc. Như thế, sẽ mất cái giọng thơ đi.

Nhà sư trẻ xa xôi:

- Giữa thời buổi này chẳng có gì tồn tại cả. Thơ rồi cũng sẽ bay lên trời, nhạc rồi cũng sẽ bay lên trời cất giọng than khóc cho thế giới. Thế giới bây giờ chỉ có sự đau khổ là thật.

Trong nhà có tiếng kêu Hằng. Hằng nói với thầy Thiện Tân em vào trong này một chút. Cả nhà đang ngồi chung quanh mâm cháo gà chưa ăn, tiếng bà Hai mắng chị bếp bên dưới:

- Rau muống thì lặt ngắn ngắn, gắp miếng mô chấm vừa miếng nấy, lặt chi mà dài lòng thòng kéo lên cả nùi như râu ông cố đạo rứa không biết.

- Rau nấu canh thì lặt ngắn, rau luộc thì phải lặt dài mỗi đọt chấm mỗi miếng.

- Dài quá thì phải ngắt ngăn phần già đi chớ bộ… À, chị đem trầu ra cho tui têm cho chị đi, rửa nải chuối cho tui cúng… Ui cái chị ni tệ quá, nải chuối cau chị mua nhằm chuối vú vôi rồi.

- Chuối chín cây đó, đâu phải chuối vú vôi.

Tiếng bà Hai:

- Ngó cái nước da vàng nhợt thế này mà chín cây… chín cây cái con cầy. Mua chuối phải lựa cái phần sau mua cau lựa phần trước… già rồi mà còn hớ.

Nụ cười bật nhỏ ngộ nghĩnh, Túc đứng lên rồi Túc ngồi xuống. Đôi mắt Túc bén như dao thuốc bắc. Ông Phủ biểu Minh vô kêu dì Hai ra ăn cháo.

Ông Phủ vừa vắt múi chanh vào chén cháo bỗng rụt tay lại:

- Chết, ngày nay tao ăn độ lạt với thầy.

Đức cười:

- Rằm tháng tám năm ngoái, ba dùng lộn bánh Trung thu nhân thập cẩm vi cá có cái trứng vịt muối nằm tổ bố ở bên trong.

Ông Phủ bước ra, quanh mâm còn lại bà Hai với lũ con lớn.

Bà hai hỏi Trang:

- Tối qua hai vợ chồng đi coi kịch có hay không?

Trang cười:

- Tụi con năn nỉ dì mà dì không đi. Vở kịch hay ngất đi được. Dì thì thôi, cả đời dì chỉ có làm chứ không có ăn, có đẻ chứ không có ăn. Đường phải sống thơi thới một tí mới được… Cả đời cứ làm việc cần cù hoài, dại quá!

Mình nói:

- Dì đi qua Mệ Sáu bánh bài đi dì.

Đức cười:

- Dì rủ ba đi coi hát bội đi. Hát bội miền Trung hay lắm, người ta đi nườm nượp.

Trang nhìn mẹ:

- Vở kịch hay phát run lên được.

Bà Hai cười:

- Đừng kể cái cốt kịch ra, để đêm nay tao đi với cha.

Hằng liến thoắng:

- Ba bỏ dì rồi, ba mê thầy Thiện Tân, ba bỏ dì rồi.

Mâ#y chị em cười dài, Trang nhìn Hằng:

- Cả vở kịch tao thích nhất cái đoạn cuối… cái kết luận ăn tiền quá. Thằng tướng Tàu chết về một tay cô gái Việt, lúc sắp sửa thở cá, hắn thều thào với cô gái: người đẹp không có tội, người đẹp không bao giờ chết.

Hằng cười hắc hắc:

- Tôi không có tội, tôi không bao giờ chết.

Minh đập bàn:

- Con Hằng tự xưng mình đẹp… Ui!

Nụ cười của Hằng có đuôi ở cuối mắt, có đuôi ở khóe môi, nụ cười lên cao tin tưởng của một kẻ như đang cầm như chắc trong tay chuyện gì.

Túc lườm:

- Khi người đẹp biết mình đẹp thì cái nhan sắ từ hạng ưu sẽ tụt nhanh xuống hạng bình, khi người đẹp nói ra rằng mình đẹp thì cái nhan sắc chỉ còn hạng thứ.

Hằng lầm bầm:

- Tao chỉ muốn nói cho tao bớt tội mà thôi. Tộ của tao lê mê như chè kê trộn đậu.

Minh mím môi:

- Mi làm chi mà có tội?

Hằng nhìn mặt anh chi chít tàn nhang. Cái anh Minh có vẻ giống mấy cái thằng Tây con ngổ ngáo trong các phim mình đã xem. Hằng nghĩ nhỏ Minh đang tưởng tới hơi lạnh của một cuộc sống lứa đôi. Minh tưởng tượng như đang bước chân lên những hòn đá chông chênh, bên dưới là thung lũng xanh lạnh, một vùng vô vi ở độ thấp. Hôm qua đi coi đại nhạc hội đặc biệt hình ảnh ca sĩ đứng hát một mình có vẻ lạnh chi lạ.

Hằng ăn hai chén cháo nóng, thịt gà khá mềm nhưng mùi hành hăng quá! Hằng đứng dậy bỏ đi. Nắng đã lớn lên ngoài trời. Nắng lớn lên không biết bao nhiêu mà kể. Nắng ăn ruồng cả bầu trời. Nắng xuân hồng rực rỡ. Nắng vàng non tưng bừng. Hằng cười mặt tươi nhìn xuống cổ đàn, những áo quấn Hằng đang mang trên người thật nhẹ đứng như tơ. Hằng cảm tưởng như hai bàn tay dạo trên một lớp lông mềm. Hằng chơi gấp rút dồn dập bài Flots du Danube, bài Fontaine des amours, bài Moulin rouge, bài Riviere sans retour. Buổi chiều Hằng dạo bài Tristesse, bài Serenate.

Cơm tối xong, Hằng tránh mọi người, bước ra mái hiên.

Trăng tròn quay, trăng lên bình thản, trăng hiện ra với sự chờ đợi trắng xóa. Tiếng vĩ cầm uyển chuyển của Túc dài như quàng ôm lấy Hằng.

“Biển như biết hát, trăng như một kho ngọc đựng chứa hàng ngàn sự tích huyền và cũng có những bầy tiên nhẹ múa khúc nghê thường. Dưới màu trắng ngà của trăng, xiêm y thanh thoát chỉ là những hình sương và những nét khôi. Trong im lặng mênh mông, tâm hồn nhẹ tênh theo khúc nhạc mơ hồ đi vào thoát tục. Trăng vừa lên cùng muôn ánh sao sáng soi, đưa hồn ta phiêu diêu nơi xa vời. Gió đắm say vờn vờn muôn xiêm áo. Ngàn hương thơm thoáng bay trong trời mơ”…

Hằng bước vội ra vườn một lát rồi hấp tấp đi vào phòng ngủ. Hằng nghĩ lẩn quẩn đến vạt đất nhỏ trồng rau sau vườn. Vườn rau trồng đủ thứ cho cả nhà ăn.

Giờ này, những cây xà lách chắc sẽ tươi bóng đến lạnh mình, những cây rau diếp chắc cũng lấp lánh như ướt nước, những cây rau thơm, rau húng, rau răm, rau ngò, rau é lộn trông chưa chắc đã lặng im mà hình như đang ngà ngà say rạo rực, những cây cải cay, cây tía tô, lá hành lá hẹ, cây rau dền, rau trái không giữ nỗi bình tĩnh vì đang trong cơn sốt huy hoàng hâm hấp. Cơn sốt đang nóng lên vài độ. Những cây rau nhỏ lên cơn sốt thật khả ái. Giàn bí giàn bầu sắp tàn, chỉ còn vài trái để giống treo lủng lẳng. Gần cửa sổ phòng Hằng có mấy trái mướp khô.

Hằng trở dậy lúc năm giờ sáng khi mọi người an toàn ngủ ngon. Hằng rửa mặt đánh răng chải thẳng cuốn tóc màu lông mèo mun và ngồi vào bàn học. Hằng láp nháp đọc vài trang sách rồi ngáp dài dài. Nàng vội chạy vào nhà trong bật đèn pha một tách cà phê thật đen uống một hơi như uống nước lọc và cơn buồn ngủ vẫn còn ướt rệu ở đôi mắt. Hằng rút cuốn sách của một nhà văn viết cao nhất nước đọc vài trang rồi bỏ. Nửa giờ đã trôi qua, cô gái mở hộp bánh bích quy ăn liền hai cái.

Mấy hôm nay trời nóng quá, ai cũng kêu ăn không được. Hằng cầm cây bút vẽ bao nhiêu vòng tròn lên trang giấy trắng trước mặt, viết tên viết họ mấy chục hàng và ký tên vụt vụt. Sáu giờ sáng nàng vẫn chưa thuộc được nửa trang bài học. Hai bàn tay tháy máy đưa lên đầu nhổ đứt mấy sợi tóc. Sáu giờ rưởi qua cả kính đóng kín, trời đã ửng sáng. Nhà bếp đã dậy sửa soạn bữa điểm tâm. Hằng lấy cuốn sách giáo khoa của cha Thịnh tắt đèn, bước ra sân vừa đi vừa đọc. Nàng bước lui bước tới từ gốc khế sang cây trứng cá, cây mãng cầu, dừng lại bên khóm tường vi đưa tay sờ vào mấy nhánh hoa.

Những con chim nhỏ nhất vườn ngẩng cao chiếc đầu tròn hót líu lo. Hằng ngồi xuống đất vạch mấy bụi hoa violette tìm hái. Bảy giờ sáng bà Hai kêu cả nhà vào ăn xôi đậu đen.

Hằng vắt từng nắm xôi chấm muối mè. Cuốn sách của Cha Thịnh để trên bàn ăn.

Bà Hai hỏi:

- Con Hằng năm giờ sáng đã dậy rồi!

- Đêm nóng quá con học bài không được.

Minh ngáp:

- Sáng ra trời vẫn nóng thua chi ban đêm, ngủ dậy nhìn hàn thử biểu đúng ngắt ba mươi bốn độ… Buổi sáng mai mà đã ba mươi bốn độ, đến trưa không biết mấy.

Bà Hai nói:

- Chắc sáu chục độ.

Mấy anh em cười, bà Hai nhìn Hằng:

- Cứ năm giờ sáng đã dậy rồi, đến ngày thi chắc đuối sức. Hằng cười, năm giờ sáng dậy, nhưng từ năm đến bảy giờ sáng mình có thuộc trang chữ giáo khoa này đâu. Cũng thức khuya dậy sớm như ai nhưng học đâu có vô. Mình lớn tuổi quá, mình học hết vô rồi, trí não ranh khôn mà vẫn học hành không được. Buổi sáng nào cũng dậy ngồi không, chịu. Học hết nổi.

Hằng lên nhà chải đầu trước gương sửa soạn đến trường. Mình bây giờ đến trường ngồi trước mặt giáo sư cũng để tiêu cho hết thì giờ. Mấy ông giảng bài có lọt tai mình đâu. Sức mình đậu nổi cái bằng tú tài bán phần kể cũng đã may lắm rồi.

Hằng kéo dĩa xôi đến gần:

- Xôi đậu đến ăn thật ngon.

Đức nói:

- Tao ghét xôi, ăn nóng cổ.

Hằng nhìn Minh:

- Anh biết tại răng ông nhạc sĩ Huỳnh thao lao làm mấy bài “Tình vàng cho em” không?

- Ai biết.

- Thằng cha mê con ca sĩ Kim Hoài… thằng cha làm mấy bài “Tình vàng cho em”, tình vàng… vàng là kim đó mà.

- Con Kim Hoài có mê lại thằng cha không?

- Ai biết.

Đức gõ đũa:

- Tại răng con Hằng biết?

- Thì có người đồn mới biết được.

- Thế con vợ của thằng chả…

Hằng cười:

- Chắc là ghen chứ còn gì? Nghe nói con mẹ ghen đến nổi hát không được nữa. Con mẹ vẫn còn hát sân khấu mà. Nghe nói con mẹ ghen đến nỗi ra sân khấu hát nửa chừng quên cha cả bài hát phải bỏ vô.

Minh nhìn ra ngoài mâm xôi:

- Con mẹ là một cựu ca sĩ có giọng hát vô địch ngày xưa… Ngày xưa lừng lẫy làm mưa làm gió... Ca sĩ mất thị trường đau khổ thật.

Bà Hai vỗ tay:

- Thôi chứ… ăn xong rồi sửa soạn đi học chứ.

Hằng ngáp:

- Con cúp cua thôi… Sáng nay lười đi học quá.

Bà Hai trừng mắt:

- Dậy năm giờ sáng học bài còn được…

Hằng xô ghế đứng dậy đi lên phòng mở tủ lấy bộ áo quần kêu con Nấm ủi lại, mi ủi cả bộ này cho tao, ủi nhăn thì chết, ủi cháy thì đền, ủi đẹp thì thưởng.

Hằng chải đầu xong, con Nấm vẫn ủi chưa rồi.

- Trời ơi! Rờ rờ vậy? Chết tao.

- Hàng xá xị Tây khó ủi lắm.

- Xoa Ấn Độ của người ta mà hô là xá xị. Ủi mau lên cho người ta mặc.

Hằng chải lại tóc lần nữa, soi gương kỹ cả khổ người, lấy nón đội bước ra. Đức nhún vai nhìn theo. Đi học mà diện như đi ăn. Áo dài mà eo như trái bầu, tóc mỗi tuần mỗi đi chải. Ăn rồi vác cặp tới trường mà trong bụng không có một câu sử địa, một câu vạn vật, tiếng Tây thì chia động từ Avoir còn trật…

Hằng để ra nửa giờ để đi bộ đến trường. Đi trong gió đẹp, đi trong nắng đẹp, đi dưới hàng cây đẹp. Trời ban mai nhưng người con gái nào cũng đội nón và hầu hết những chiếc nón đều cột bằng quai nhung đen. Bà mẹ nào cũng bảo con gái đi học đầu trần có vẻ lẳng lơ, phải đội nón dầy, kéo sụp xuống. Không có người con gái nào đâm vào chiếc nón của mình một lỗ cả.

Hằng bước vào trường đi ngang qua đám con trai. Người đẹp của các giáo sư đã đến kia. Lưng thì cao, cẳng thì dài, cằm thì nhọn. Người đẹp cúp cua năm ngày rồi. Đi Saigon thi hoa hậu cho rồi, ở đây làm chi. Hằng mở nón cầm ở tay vênh mặt bước. Đầu tóc chải búp ăng lê buông lòng thòng như lạp xưởng, mỗi cuộn đều tẩm dầu thơm. Vài đứa con trai lên miệng tự hôn một cái. Ê, Sophia Loren, ê Jayne Manstield, ê Gina Lolorgiida, nàng bước vào lớp học lộng lẫy như bước vào hội chợ. Hằng đi lại xóm con gái. Chị Hằng lại mặc áo mới, người đẹp mặc thứ lụa nào cũng đẹp. Chị Hằng ơi, ở nhà chị còn chiếc áo nào không mới không? Con người chi mà áo mùa hè cũng đẹp như áo mùa đông. Con Hằng có tướng mệnh phụ quá.

Chiếc áo lụa Ấn Độ nổi bật giữa những tấm áo vải quyến, xá xị bệch bạc, bụng lỏng eo thùng.

Hằng vỗ vai Diên:

- Ê, cho tui mượn vở lý hóa với vở sử địa chép bài mai trả.

Cái tướng con Hằng là cái tướng chồng hắn làm nên chứ không phải hắn làm nên, cái tướng vượng phu. Ăn mày lấy hắn rồi cũng lên. Hôm qua Hằng nghỉ học, ông thầy sử địa chới với hỏi thăm. Ông vừa giảng bài vừa gãi đầu gối, ông giảng bài như người hấp hối. Ông thầy vạn vật đi lui đi tới đầu đập mấy lần vào tường. Hằng cao lênh khênh giữa đám bạn gái ngực bụng. Diên cười:

- Biết ngày mai Hằng có đi học không?

Hằng đánh bạn:

- Ngày mai đưa mô không đi học trời đánh.

Diên hỏi:

- Mấy ngày ni đi mô mà nghỉ học rứa?

Hằng cao vai:

- Đi tu!

Diên kêu to:

- Mấy chị ơi, Hằng đi tu rồi.

Hằng đi tu rồi! Nhóm bạn gái nhẹ lặp lại rồi nhẹ cười.

Thanh đi tới vỗ vai Hằng:

- May bao nhiêu áo dài để cho ai mà đi tu?

Thúy nói theo:

- Đàn ông chưa vào hết trường tương tư, chị đi tu sao đành?

Hằng dong dỏng cao trên đôi guốc sắt. Ngồi trong lớp Hằng chống tay mơ qua cửa sổ. Ông giáo sư địa gọi tên, Hằng quên không trả lời tiếng có, ông điểm danh hết quyển sổ thở phào.

- Sáng nay không ai vắng mặt hết. Chác các anh chị đều thuộc bài như cháo lỏng?

Ông đưa tay với cuốn sổ điểm. Học trò la lên thưa thầy tha cho khỏi đọc bài. Lớn rồi ai trả bài như con nít vậy. Thầy tha cho khỏi đọc bài để phúc đức mà lấy vợ. Ngày mai thầy sẽ có vợ. Thầy sẽ có vợ ngày mai chứ không qua ngày mốt.

Giáo sư gấp cuốn sổ lại:

- Thử lòng các anh chị chơi chứ hôm nay ai bắt đọc bài bao giờ. Nhìn sơ mặt các anh chị đều biết thuộc bài rồi. Phải không?

Học trò nhao nhao lên:

- Dạ, dạ buổi sáng đẹp trời ai lại bắt đọc bài.

Thưa thầy cho chơi, thưa thầy cho đi chơi xa thành phố. Thầy tổ chức cắm trại ở chùa Từ Linh Mụ đi thầy. Thầy cho tiền ăn kẹo, thầy cho tiền thầy. 

Giáo sư nói:

- Xin tiền giáo sư xấu lắm… Hôm nay tôi tha đọc bài, nhưng hôm nào tôi cho bài kiểm soát các bạn làm không được thì chủ nhật sẽ mời đi consinge cả lớp đấy nhé. Ngày chủ nhật mà đi chép phạt thì không dễ thương một tí nào cả.

Giáo sư sử địa có thể cho trò chơi cả giờ, có thể cho học trò làm bài suốt cả hai giờ đồng hồ, cả tháng không bắt trả bài nhưng mỗi lần chấm bản đồ là cả một sự bố ráp đau khổ, anh không biết vẽ bản đồ, chị kẽ ô sai, anh tô màu ẩu, cô đánh bóng không được. Từ đầu sổ đến cuối sổ mỗi người đều một điểm. Hai giờ sau cha Thịnh nghĩ thầy giám thị già sai học trò đưa cho Hằng miếng giấy gấp đôi.

“Hằng, cha không khoẻ trong người nên ở nhà, con lại cha biểu. Cha Thịnh”.

Hằng chải lại tóc, đi ngược con đường dẫn về nhà mình. Tư thất của cha Thịnh là một ngôi biệt thự vôi vàng cửa xanh cổng sắt đóng kín. Hằng bấm chuông ba lần không ai ra mở liền thò tay vào lỗ khoét tròn kéo nhẹ chốt sắt. Con chó ác đức dữ tợn bị tròng lại đứng ở hàng ba nhìn ra. Hằng đi thẳng ra sau bếp. Bà già nấu ăn cầm đôi đũa cả nhăn mặt hỏi Hằng:

- Cô muốn hỏi gì?

Hằng xoay cái nón:

- Cháu lại gặp cha.

Bà bếp cau có:

- Cha đau, cha không tiếp ai cả.

Hằng cười:

- Cha biểu cháu lại đây mà.

Giọng người đàn bà hơi lạ gắt:

- Ngài đau từ đêm qua tới giờ. Các cha dưới dòng lên ngài cũng không ngồi dậy được.

Hằng nhíu đôi mày. Ai đến với cha Thịnh cũng thất kinh với bà bếp. Bà không muốn ai vào nói chuyện với cha cả, bà sợ cha cho người ta tiền, sợ cha mời người ta ăn hết cam hết táo. Chính cha Thịnh đôi khi cũng tỏ ra sợ bà. Ngoài tiền công trả trước một năm, tháng nào cha cũng cho bà uống thuốc bắc, cho quần áo.

Hằng nói:

- Bà cứ lên bẩm với cha là cô Hằng tới.

Bà bếp đứng một chút nữa mới xẹt đi lên, cha Thịnh tiếp Hằng ở phòng khách. Cha vẫn mập vẫn hồng như những lúc ngồi dạy học. Cha mặc bà ba bằng lụa Quảng.

Hằng nói:

- Bà bếp nhất định đuổi con về.

Cha Thịnh cười:

- Bà ấy đáng sợ lắm. Chính cha còn sợ bà.

Hằng hỏi:

- Cha đau chi mà nghỉ dạy rứa cha?

- Mấy ngày nay cha bị lên máu.

- Cha kêu con lại đây có việc chi cha?

Cha Thịnh cầm tách nước trà uống một mình:

- Con vừa học hai giờ ông Chu phải không?

- Dạ hai giờ đầu là hai giờ sử địa. Ông Chu cho chơi hết một giờ.

Cha Thịnh chăm chú nhìn Hằng:

- Ông Chu là học trò giỏi nhất của cha. Con có cảm tình với ông không?

Hằng cười:

- Con nhìn ông Chu, con thấy ông Chu có thật nhiều tình cảm đối với con.

Cha Thịnh hất hàm:

- Còn con thì sao?

Hằng cúi nhìn vạt áo mình:

- Mấy giáo sư của con ông nào con cũng khả kính cả.

Cha Thịnh nghiêm giọng:

- Ông Chu nhiều tình cảm với con lắm.

Hằng cười:

- Tại sao cha cũng biết?

- Ông kể với cha. Ngày nào ông cũng lại đây tâm sự.

- Ông có nói chi nhiều về con không cha?

- Ông đối tốt với con lắm.

- Cả lớp thương ông.

- Riêng con, con có thương ông không?

- Con dốt sử địa quá… Con không thích học giờ ông tí nào cả.

- Môn sử địa thì ai mà giỏi được.

Hằng lắc đầu:

- Học trò con trai chăm học lắm, giờ ông Chu chúng móc sổ tay ra ghi chép.

- Sử địa thì học thuộc lòng là đủ.

Hằng cười:

- Bài của ông Chu bài nào cũng như bài báo. Giờ làm bài của ông là con một điểm rồi đa, giờ chấm bản đồ cũng một điểm không hơn không kém.

Cha Thịnh điềm tĩnh nói:

- Công bằng.

Cha Thịnh ngoái cổ vô kêu bà Ninh đem chè khoai mài ra cho cô ăn đấy. Không biết chè khoai mài ăn ra sao dây mà người Huế ca ngợi quá xá. Cha phải sai bà Ninh đi mua về nấu ăn thử.

Hằng nhướng mắt:

- Con người Huế mà con cũng chưa ăn chè khoai mài lần nào.

- Cha có ăn canh khoai nấu thịt thôi.

Bà Ninh bưng khay chè vào nhanh trở về cũng nhanh. Cha Thịnh mời hai ba lần Hằng vẫn chưa cầm muỗng.

- Buổi lễ mừng chào tuổi lớn của cha Thịnh, Chu nói đã lâu nhưng vẫn chưa làm.

Một hôm trong lớp Kiên đứng dậy hỏi thầy Chu:

- Thưa thầy, em đi cùng cả thành phố Huế rồi, em xem kỹ cả bản đồ Saigon – Chợ Lớn – Gia Định rồi, em nghiên cứu thật kỹ cả tên đường … thưa thầy, tại sao không có con đường nào mang tên Trần Thủ Độ và Hồ Quý Ly cả.

Thầy Chu khựng lại giây lát:

- Ừ, ừ, Việt Nam chưa có con đường nào tên Trần Thủ Độ và Hồ Quý Ly hết.

Kiên tiếp:

- Thưa thầy, tại sao?

Thầy Chu cười:

- Có lẽ người đặt tên đường nghĩ rằng Trần Thủ Độ và Hồ Quý Ly là hai đại gian thần.

Kiên lại đứng dậy:

- Nhưng Trần Thủ Độ là cây trụ dựng lên nhà Trần, không có Trần Thủ Độ thì làm gì có nhà Trần để mà đẻ ra những Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Bình Trọng. Trần Thủ Độ đã là một công thần của tổ quốc. Đó là một nhà lập quốc đại tài… Còn Hồ Quý Ly… đó là một nhân tài có óc tổ chức xã hội. Ông sửa sang được thật nhiều thứ trong xã hội, gương ông thật lớn đến nay người ta đang noi… Hai người đó tại sao không có con đường nào tên họ cả… trong khi bao nhiêu kẻ tối tăm lại được lấy tên để đặt vào đường sá.

Thầy Chu nhíu mày:

- Sự vô lý quá lớn… Có lẽ Trần Thủ Độ và Hồ Quý Ly là hai gian thần cướp ngôi độc ác.

- Thưa thầy, nhưng họ có con.

- Em hãy ngồi xuống thầy nghĩ rằng có lẽ kẻ đặt tên đường sá đã có óc tôn quân quá lớn, họ đã triệt hạ bọn ngụy quyền.

Kiên đứng dậy:

- Thưa thầy, em rất đồng ý … Có lẽ những tên đường được đặt ra dưới thời Bảo Đại.

Cha Thịnh ho hai cái, mấy ngày nay cha bị cúm. Thầy chu ăn hết chén chè khoai mài và ép Hằng ăn.

Hằng cười:

- Thưa thầy con ghét ăn ngọt lắm.

Cha Thịnh nói:

- Thầy Chu hãy còn rất trẻ. Hằng đừng xưng con, xưng em nghe nó có lý hơn.

Da mặt người con gái dậy hồng. Cả lớp không có nữ sinh nào dám xưng em với nam giáo sư cả, mình mà xưng em với thầy Chu tụi hắn cặp đôi liền. Tụi hắn vẫn tráo miệng thầy Chu mê mình. Ui! Thầy Chu càng mê mình thì giờ làm bài mình càng bị một điểm, giờ chấm bản đồ, cũng một điểm không hơn không kém.

Cha Thịnh nhìn thầy Chu:

- Sau chuyến đi Saigon, cha và con sẽ ghé nhà Hằng yết kiến ông thân sinh.

Thầy Chu hỏi:

- Hằng đã đi Saigon lần nào chưa?

Hằng cúi đầu:

- Dạ rồi… nhiều lần.

Thầy Chu nói:

- Hằng có vẻ khôn ngoan ghê!



Cả lớp nhìn hết lên bảng đen:

- Cha đáng ra là một chính khách lỗi lạc, không có chúng ta đáng lẽ cha đã chiếm một chỗ đứng lớn lao bề thế ở chính trường. Vì chúng ta nên cha phải ở cả đời với học đường.

Cả lớp ầm lên, độ ồn ào bằng một cơn mưa lào xào. Quang đứng dậy:

- Thưa thầy, nhưng cha là một nhà tu, cha đã khoác áo chùng thâm.

Thầy Chu đập nhẹ trên cuốn sổ điểm:

- Cha Uyển thâm văn hóa và chính trị ngày cha chưa khoác áo dòng.

Hằng nhìn qua vuông cửa sổ cắt hình một miếng trời tươi hoa thẫm đậm. Những cây bông lạ vườn ông Tỉnh trưởng vươn cao bằng nhà lầu ngôi trường, hoa phượng đỏ môi son bám sát màu vàng nghệ của một thứ hoa ngoại quốc, xa xa hoa sầu đông ủ dột trong cơn mộng lớn, từng chùm lá tím khổng lồ lắc mình thật nhẹ trong bầu trời xanh hớn hả. Cha Thịnh đã bao lần nói phải đổi chỗ. Hằng kg cho nó ngồi ở góc đó nữa. Nó ngồi nhìn ra trời đẹp quá nó quên học hành nữa.

Cha nói giữa lớp:

- Cha Thịnh là một nhà giáo nhiều học trò nhất, chúng ta đều là học trò của cha… Lớp học trò cũ, chúng tôi định tổ chức một lễ lớn chào mừng tuổi thọ của cha.

Buổi lễ mừng chào tuổi lớn của cha Thịnh, thầy Chu nói đã lâu vẫn chưa làm.

- Nghe nói cô Hằng sành âm nhạc lắm phải không?

- Dạ, biết chút thôi.

- Nghe ai cũng khen cô Hằng hát hay lắm.

- Dạ không có chi.

- Có phải cô Hằng cũng là một cây thể thao?

- Dạ ngày nào cũng cố gắng tập thể dục chứ không chơi thể thao.

Đôi mắt thầy Chu ngắm dài khổ người Hằng:

- Nhìn Hằng người ta thấy thật nhiều bài học thể dục.

Hằng ngậm miệng. Thầy Chu ăn thêm chén chè khoai mài nữa, cha Thịnh nhìn hai người lắc đầu:

- Các con nói chuyện không giòn… Người hỏi thì hỏi từng miếng, người trả lời cũng trả lời từng miếng.

Thầy Chu cười:

- Hằng làm như con đang dồn Hằng vào phút nói thật. Hằng điệu lắm, cha mời chè khoai mãi Hằng cũng không ăn, bắt con ăn ớn quá.



Hằng ngồi nặng như một khối đá. Hình như không gian đang đè cứng Hằng, đang dìm Hằng xuống thật sâu và không gian lại mát rượi như nước. Hằng đứng dậy bước tần ngần. Thầy Thiện Tân giờ này chắc đang đọc sách, thầy Thiện Tân ngoài chuyện đọc sách ra là hết chuyện. Anh Minh bảo thầy là một cây Nhu đạo mà chẳng thấy tập dượt chi cả. Học võ mà không luyện, trông thầy xoàng xỉnh như trăm người đàn ông mình gặp ngoài phố. Mình phải vô hỏi thầy áo quần võ sinh của thầy đâu sao không mặc? Đai vàng, đai đỏ của thầy sao không thắt? Thầy có dám dạy mình học Judo không? Thầy có biết giáo sư sử địa mê lấy mình làm vợ không?

Thiện Tân mặc áo bà ba màu chàm đang nằm viết chữ Tàu. Hằng gây một tiếng động ở cửa. Thiện Tân nhìn lên khá lâu mới cười.

Hằng vỗ tay như chào mừng một em bé:

- Thầy thầy, em có phá rối thầy không?

Nhà sư nói:

- Tôi đang chép mấy cái toa thuốc cho bác ông.

Hằng reo:

- Thầy bổ thuốc bắc được. Thầy bổ cho em một thang đi.

Nhà sư nhếch mắt:

- Cô Hằng đau chi?

Hằng nói:

- Đợi phải đau mới uống thuốc bổ?

Hằng chìa hai bàn tay ra. Thầy coi tướng cho em đi, thầy coi chỉ tay cho em đi. Mấy nhà đại tướng số phần nhiều giỏi chữ Tàu như thầy cả. Đường đời của em chắc cũng phải như đường đời của thầy. Tay thầy không có đường tình. Lòng em đang tâm nguyện một chuyện, thầy coi cho em thử có đạt được không?

Thiện Tân lắc đầu:

- Tôi không biết thứ đó.

Hằng câm ngay lát lâu mới lên tiếng:

- Mới một đề nghị của em mà thầy đã không biết. Em thì lắm đề nghị mà thầy thì lắm điều không biết.

Nhà sư cười:

- Tôi có ông bạn nhà báo nghiên cứu khoa coi chỉ tay kỹ lắm. Ông ta cho rằng khoa coi chỉ tay không đúng, có nhiều ông trung úy, thiếu úy chết thật sớm mà lật lòng bàn tay họ ra, đường đời thật dài.

Hằng cười:

- Tuổi thọ của con người không phải chỉ coi ở đường đời trên hai bàn tay thôi mà còn phải coi ở nhân trung có sâu và dài, ở mũi ở mắt nữa.

Thiện Tân vui vẻ:

- Ông bạn tôi còn nói rằng coi chỉ tay là sai vì bàn tay con khỉ cũng có đường chỉ y hệt như bàn tay người.

Hằng đi lại bàn viết. Cuốn Đông Chu liệt quốc mở nửa chừng, thầy muốn nghiên cứu mưu lược của người xưa phải không thầy. Đọc cuốn này phải có một bản đồ Trung Hoa vĩ đại cổ xưa để trước mắt mới thú, cái bản đồ ghi tên đủ các nước chư hầu. Nước Tịnh, nước Tống, nước Tàu, nước Tấn, nước Hàn, nước Triệu, nước Sở, nước Sái, nước Lương, nước Lỗ, nước Tề, nước Ngô, nước Ba, nước Hoa, nước Hoàng… hợp thành cái thế chiến quốc đánh nhau lung tung túi bụi mù trời.

Nhà sư cười:

- Cô Hằng đã mê tiểu thuyết còn mê Đông Chu liệt quốc nữa… Trong cuốn Đông Chu liệt quốc có ai đồng điệu với cô Hằng không, cô Hằng?

Hằng lắc đầu:

- Em đâu dám ví… cuốn truyện toàn trai hoang gái hư.

Nhà sư gật đầu, Hằng tiếp:

- Họ hoang họ hư hơn mình bây giờ nữa.

Thiện Tân cười nhỏ. Hằng đưa tay lên miệng:

- Quên không có thầy… Thầy đã thần du ngoại vật bất biết, bất nghe, bất cảm rồi. Thầy Tân lúc xưa lúc thầy còn là Điệu Tân để tóc chó vá, thầy mê đọc tiểu thuyết lắm, bây giờ thầy còn mê không?

- Tôi vẫn đọc…

- Nhưng thầy còn mê không?

- Tôi hết ham ăn rồi nên cũng hết mê đọc tiểu thuyết.

Hằng hồng hào cười:

- Vậy giờ thầy mê cái gì?

Nhà sư cúi xuống trang sách đen đặc chữ Tàu làm thinh rồi cầm bút lông quệt thoăn thoắt.

Người tu hành cầm ngược bút lông nhẹ thoăn thoắt. Người con gái đứng dậy lại bên bức tranh một vị lão thần áo xanh tóc bạc nhìn thẳng tấp giữa hai chậu trúc cao gần tới cổ. Hằng vịn tay vào khung tranh, mặt ngước lên, miệng hé hát những lời kể lể êm như nhung, mịn như tơ, mát như rau muống và dẻo như mạch nha. Lời hát bay bên trên và dòng suối chảy bên dưới. Suối đang mơ cũng như lòng đang mơ bên rừng thu vắng dòng nước suối luân lưu rất yểu điệu, rất từ tốn dưới nắng hanh non. Tiếng nhạc tròn càng lăn càng tròn: Chàng hẹn cùng em xây nhà bên suối. Nghe tiếng suối róc rách hoa thơm lừng gió ngát, đàn nai đùa trên nắm lá vàng khô. Tiếng ca mát rượi mềm mại. Đó là lời tình tự của đôi chim đẹp nhất trong thế giới uyên ương. Lời nỉ non tâm sự lãng mạn huyền mun như suối tóc hàng liễu. Đẹp hơn thơ, êm hơn nhạc là khung cảnh một dòng suối gấm róc rách nằm trông lên từng mây bông gòn lê thê kéo dài nắng vàng xao động.

Chiều đây hoàng hôn tưới xuống dòng suối thật nhẹ, ánh nắng ép sát mặt nước, ôm quàng mặt nước mà hôn. Chiều lơ mơ êm đềm. Chiều dài và nên thơ bằng muôn ngàn mộ khúc ghép lại. Ngày mất đi một cách dịu dàng. Thời gian mướt mát dậy mến hăng hăng chất rượu cay cay vị quế, ngát ngát mùi trầm. Chiều còn là những cái hôn biên giới giữa ngày và đêm. Chiều còn là những ước hẹn buồn dò dẫm lên bao mối sầu riêng rẻ. Vài hột nắng vàng bám nhẹ vài nắm mưa sa xuống trên từng nỗi đau nguội trên từng nỗi nhớ.

Và niềm đơn côi đứng dậy với thể tích rộng. Một vài sự thân mật, một vài sự gần gũi, mối tương tư dày tự dòng suối dấy lên cuộc chiến, dấy lên cuộc tình cuồn cuộn từng lòng chảo êm đềm, bao quả tim cùng thèm chứa kỷ niệm. Quá khứ hiện tại và tương lai thời gian có hào quang và thời gian yêu dấu.

Dòng suối mơ reo vui trong buổi chiều. Suối mơ bên rừng thu vắng, dòng nước trôi lững lờ ngoài nắng. Chiều chưa đi.

Cuối câu hát, Hằng rung thật êm ái liếc nhanh về phía người tu hành. Thiện Tân vẫn cầm bút thoăn thoắt đưa lên đưa xuống.

Hằng chạy lại trầm trồ:

- Ui chà! Chớp mắt một cái thầy đã viết bao trang sách, chữ thầy đẹp quá… chắc thầy văn hay chữ tốt lắm lắm.

Nhà sư cười:

- Cô Hằng luôn luôn có tài. Cô Hằng có tài từ thuở nhỏ ngày xưa cô đã hát F…

Hằng cười hức hức, hi hi rồi che miệng:

- Nhớ ngày xưa đi học trường Trần Cao Vân, Hằng bày cho Điệu Tân, Điệu Lý những bài hát bậy bạ.

Người tu hành lắc đầu:

- Những bài hát ngày xưa đâu có bậy bạ.

Hằng cũng cười:

- Ngày xưa còn bé Hằng vẫn chí chóe gọi kêu Điệu Tân, Điệu Lý… Bây giờ phải gọi bằng thầy… chán quá!

Thiện Tân nhìn thẳng cô gái:

- Tại sao lại chán?

Hằng ngước mắt:

- Đi tu mà không chán sao? Em không thích thấy ai đi tu hết.

Nhà sư bậm môi. Hằng vội nói:

- Nhưng có lẽ… người ta vẫn quan niệm rằng đi tu không thích cũng không… chán. Mỗi người ở một đời riêng.

Thiện Tân nhìn xuống, người con gái đều giọng:

- Nhưng đi tu có cái sướng của đi tu… Niết Bàn là một xứ sở hoa gấm có những ông tiên, có những bà Bồ Tát. Đi tu là lạc vào một xứ đẹp, là đặt bước chân trên một cầu vồng huy hoàng.

Thượng tọa Thiện Tân mở miệng ngậm cứng cắm cúi nhìn nghiêm chỉnh vào những trang sách đang trải trước mặt để khỏi cười về những lời lẽ ngây thơ quan niệm đi tu là làm những cuộc phiêu lưu đẹp, là bước vào những giấc trường mộng huy hoàng rực rỡ đựng bằng nét vẽ tưởng tượng.

Hồi lâu, nhà sư vui tươi hỏi:

- Cô Hằng vẫn ngây thơ như xưa… Chắc cô Hằng muốn lên Tiên… Cô Hằng vừa phác họa ra một bồng lai tiên cảnh!

Hằng nhanh miệng:

- Làm gì có bồng lai tiên cảnh.

- Hằng vừa nói đó.

Hằng cười:

- Đó là Niết Bàn. Vì ở đó không có tình yêu và không có thịt súc vật, không có cá khô và nước mắm, không có nem chua.

Hằng xổ tung đầu tóc ra rồi cặp lại. Hai vành tai hơn vẫu một tí khiến khuôn mặt sáng hơn. Nhà sư và cô gái cùng nhìn ra hướng ngoài. Cây mãng cầu lẳng lơ chìa cành lá non vào khung cửa sổ. Nắng đã lớn lên ngoài trời. Nắng sáng xuân hồng rực rỡ. Nắng vàng non tưng bừng. Hằng cười mát rượi:

- Thầy để em lấy cuốn sách sử địa với mấy quyển vở của em, thầy nhớ đề tên em vào trang đầu bằng chữ Hán.

Nhà sư ngạc nhiên:

- Để làm gì vậy cô Hằng?

Hằng cười:

- Để người ta tưởng em chữ tốt… Văn hay chữ tốt.

Nhà sư lại cúi xuống làm việc, ánh mắt bám chặt trang sách. Hằng đi vào trong, lòng vui rộn hỉ tin đăng trên báo. Trang, Uyển và Túc đang ngồi xếp bè be trên chiếc sập tróc sơn ăn nem chua với tỏ. Trang lột lá cầm miếng nem hòng màu thịt tươi đưa tọt vào miệng, cắn múi tỏi cái rụp, nhai rúm rum.

Uyển nói:

- Nếu đời không có nem chua, không có chả bò, không có thịt gà bóp muối tiêu rau răm, không có trái cật heo chưng cách thủy thì mới đi tu.

Hằng ngồi xuống cười:

- Có mấy thứ đó tao cũng đi tu.

Trang háy dài:

- Tu! Rót nước mắm chám cá thu chiên đi. Con Hằng mà đi tu. Tu hú tu huyền, mi mà đi tu. Trong người đang thấy tháng mà cứ rà rà đứng sát rịt bên thầy Thiện Tân. Tao mà lúc nào tao thấy tháng chồng tao lai vãng trước lỗ mũi của tao, tao dộng cho một đạp té lăn ba thước liền. Con Hằng là một đứa đại đa tình.

Uyển gật đầu:

- Uốn éo như cá nghéo động trời… Chị Hằng là một con ong chúa đầy dưỡng tính.

Túc hít mũi:

- Có ngày chị Hằng chan nước mắm vô tô canh cho thầy Thiện Tân ăn. Có ngày chị Hằng nhét nem nướng vô giữa miếng đậu hấp cho thầy Thiện Tân ăn.

Hằng bốc một lọn nem:

- Thầy Thiện Tân trước khi đi tu cũng không ăn ngon, sau khi đi tu cũng không ăn ngon.

Trang bĩu môi:

- Sau khi đi tu mà ăn thịt cá là xong cái phiên tu rồi. Thầy Thiện Tân đi tu kể cũng hơi uổng.

Túc đưa một ngón tay:

- Ai làm cho thầy Thiện Tân đừng đi tu nữa, tui thưởng cho một triệu.

Giọng nói Túc khẽ đặc đặc như vịt xiêm lai. Đôi mắt rất to mà cười một cái là tít tịt nhỏ xíu lại. Túc cười bằng cả mắt mũi miệng má. Hằng hứ hừ mấy cái. Nhà này là một sào huyệt không ôn hòa con gái con gung, cả ngày chót chét cái miệng be be cái mõm và dài lưỡi ra lý con sáo với nhau, cả mấy chị em hình như cùng một tính, hình như cùng một ngôn ngữ.

Túc kêu nhỏ:

- Mấy ngày ni tui thấy chị Hằng cứ lân la tới phòng thầy Tân nói chuyện ni đến chuyện tê. Khi thì chị nhắc đến nhạc sĩ Hoàng Quý, khi thì chị nhắc đến chùa Hương, nhắc đến con voi không có bộ phận sinh dục.

Hằng đỏ má đỏ vành tai:

- Ăn nói như lá chuối khô chùi đít.

Uyển hứ một cái:

- Chị đuổi tới chị ruột người ta quá dài… Người ta đang chạy bán sống bán chết.

Bà hai ở dưới bếp đi lên, tay cầm một khoanh chả bò nhai chách chách đứng lại hỏi:

- Cái chi rứa? Cái chi mà chạy bán sống bán chết?

Túc lí lắc:

- Người ta đâu có chạy dì, người ta đứng chình ình giữa lộ.

Bà Hai chong mắt:

- Ai?

Uyển cười:

- Ông cai bến đò dì ạ.

Bà Hai cười:

- Mấy con ngựa khùng cứ lý sự, mấy con ngựa bà cứ nói lý với nhau hăng như tỏi không ai hiểu muối tiêu chi cả… Ngày nào cũng túm tụm họp đảng.

Mấy chị em nháy khó, bà Hai cười lặp lại:

- May con ngựa khùng cứ lý sự, mấy con ngựa bà cứ lý điềm với nhau không ai hiểu muối tiêu chanh hẹ chi cả.

Trang chỉ tay:

- Chúng nó lý ngựa ô đó gì.

Những tia nắng ngoài trời đã thật già và thật sung sướng. Nắng liếm cảnh vật bằng chiếc lưỡi nóng của nắng. Qua cửa sổ song sắt uốn lượn, Hằng mải mê đưa mắt nhìn thật xa mà chẳng thấy gì… Túc hát nhẹ như Túc thở: “Chùa Hương với đồi núi cao, biết bao êm đềm. Con thuyền đưa tôi tới nơi thần tiên…”.

Loáng thoáng như xa hơn tầm mắt, Hằng thấy có một khung trời mê hoang với những màu xanh cây lá ngút ngàn, với từng núi mây nhọn và dày. Hằng nghe như có nhiều hơi thở chung quanh mình. Trăng hắt hơi hai lần liền. Chi giật mình nhẹ khẽ lay Hằng ra khỏi cơn ngủ ngắn tỉnh táo. Hằng bừng mắt, miệng cười tươi như hoa:

- Chị Trang cảm rồi.

Trang lại hắt hơi nữa và nói:

- Tao cảm có thuốc. Mi cảm không có thuốc nào uống nổi.

Uyển xua tay:

- Không, không, chị Hằng không cảm cúm, đặc giọng chị nói thơ mộng thảnh thót lắm. Chị Hằng hát cho ông thầy nghe bài chùa Hương có thằng chết trôi, nổi lên thúi ình.

Trang cười:

- Ê, con Hằng đừng kêu ông thầy nữa, kêu bằng anh xưng em hoặc bằng chú xưng cháu đi.

Túc lắc xắc:

- Bỏ cái tiếng thưa thầy đi, nó khệ nệ, khệ nệ lắm… Thưa thầy thằng Thụ thèm thịt thỏ thúi ấy à…!

Trang lỏng tay làm rơi múi tỏi chưa lột:

- Con Hằng thì… thì… thầy giáo dạy mình không mê, lại mê thầy chùa, tội chết.

Bà Hai bỏ đi ra vườn nãy giờ trở vào kể cho tụi con nghe chuyện con cá gáy ở chùa Hương sống cả trăm năm. Người ta nuôi con cá gáy đó cho ăn chay trường. Cá gáy ăn tôm ăn tép không được, cá nhỏ cũng ăn không được. Con cá tu mà to bằng đứa con nít, không ai dám làm gì nó cả. Nhà chùa nuôi con cá như nuôi một gia súc thân ái, một tín đồ thân ái.

Trong đám đạo hữu có người nghịch ngợm vứt cau trầu xuống nước cho con cá gáy ăn… Rồi chiến tranh lan tràn, Việt Cộng đói quá bắt con cá gáy mà ăn. Cả một tiểu đội ăn hết con cá gáy khổng lồ ấy. Cả một tiểu đội Việt Minh ngộ độc chết tươi. Người ta đồn rằng vì loạn lạc không ai cúng chùa thả tác phẩm xuống cho con cá ăn, cá phải ăn xác người trôi về nên con cá tỉnh thức độc giết cả một tiểu đội Việt Minh. Về sau nhà thương cho mổ bụng những người ăn con cá đó ra để khám xét, nhà thương xác nhận là con cá bị bỏ đói không có chi ăn, phải ăn lá cây rừng độc địa nên thịt con cá bị độc, người ăn vào phải chết ngắt.

Hằng xuýt xoa ngầm:

- Câu chuyện con cá gáy hay rứa mà mình không biết để kể cho thầy Thiện Tân nghe, mình cứ hát, nói chuyện âm nhạc với thầy đối với văn nghệ dốt bỏ xừ làm răng hiểu được.

Trang hỏi:

- Tại sao nhà mình không ăn cá gáy dì?

Bà Hai nói trong khi nhai trầu:

- Người bắc kêu là con cá chép… Nhà mình người Huế mình không ăn cá gáy vì đó là giống cá sẽ hóa rồng. “Cá vượt vũ môn” để hóa rồng mà! Những gia đình thờ Phật không ai ăn cá gáy cả. Cá đó linh lắm, ăn tội.

Trang thè lưỡi:

- Ăn ngon chớ tội gì… Tội lội xuống sông, mai mốt có chồng lội lên.

Hằng nói:

- Cá gáy là cá ngon nhất trong tất cả mấy thứ cá… ngon nhất là cái đuôi. Đuôi cá gáy mà chiên với mỡ là thơm lừng cả nước, mấy nhà tu hành phỗng mũi ngửi quên tụng kinh. Cá gáy ăn bổ lắm. Trong sách “Nhị thập tứ hiếu” có bài nói về người mẹ mê ăn cá gáy, đứa con trai phải cởi trần nằm trên tuyết đợi hai con cá gáy nhảy ra bắt về nấu cháo cho mẹ ăn, mẹ hết bịnh.

Bà Hai chép miệng:

- Tụi bay răng hay nói bậy, nói khống, nói dại. Ăn nói ba trật ba trệu không sợ mất lòng mất bể chi ai hết. Nói câu gì thì phải trù người ta giận hay vui. Tụi bay thiệt khác tính ba, ba nói ra cái chi thì ba nói có bảy phần, còn ba phần phải dè dặt lại. Đừng nghĩ rằng mình là người không ai nỡ nổi giận.

Hằng chỉ tay cười:

- Mấy người ở đây ví bắt con.

Bà Hai nghiêm mặt:

- Giỡn vừa vừa, đừng làm mất sự yên tĩnh của thầy.

Túc nói nhỏ:

- Dì nể thầy còn hơn ba nữa.

Bà Hai mê đi chùa, bà Hai mê đi lễ đền lên đồng lên bóng. Bà sắm đến ba rương quần áo tốn gần vạn bạc để ngồi đồng. Bà mê ngồi đồng từ lúc chưa lấy ông Phủ. Lấy ông Phủ rồi, bà Hai trốn chồng một tháng đi lễ một lần và ông Phủ cấm ngặt, cấm thật ngặt không cho bà bước chân vào đền ngồi chầu rồi uốn éo lắc lư nhảy múa la hét.

Ông Phủ dí tay vào trán vợ:

- Tui cấm mình, tui cấm mình không được lên đồng. Dị lắm! Lắc lư la hét áo đỏ áo xanh không ra chi cả …

Bà Hai cúi mặt:

- Chuyện trên đầu trên cổ người ta mà mình nói tức cười chưa!

Ông Phủ sầm mặt:

- Mình mà còn đi lên đồng nữa thì tui ly dị, tui bỏ mình đi cưới cô Thơm. Mình còn trẻ mà tin chi mấy cái chuyện đó.

Ông Phủ đi vô hỏi làm chi mà tụ hết cả đây vậy? Ông Phủ nhìn đống lá gói nem ở trên sập. Ăn chi mà dữ rứa? Mấy mẹ con mà ăn hết một đống nem vứt lá ra kia kìa… ăn rứa rồi còn bụng mô mà ăn nữa.

Ông Phủ ngồi xuống sập. Bà Hai hỏi ăn chả hay ăn nem để biểu hắn lấy. Hằng cười ba aen nem ăn chả thì ăn chùng ăn vụng, đừng ăn trước mặt thầy Tân mà thầy thèm.

Thằng nhỏ làm vườn chạy bô báo:

- Bẩm quan bẩm bà, có ông cha bên đạo đi với một người nữa đến thăm quan thăm bà.

- Ai rứa hè? Ai rứa hè? Hai vợ chồng ngơ ngác hỏi nhau.

Bà Hai nói:

- Ông cha bên đạo? Mình có đi đạo bao giờ đâu mà ông cha bà sơ đến nhà!

Hằng mở to mắt:

- Hay là cha Thịnh dạy con ở trường…

Ông Phủ lật đật đi mặc áo… Bà Hai cũng lật đật đi mặc áo. Hai ông bà cùng lên phòng khách một lượt. Hằng nhăn nhó:

- Dì thiệt cà, tiếp cha Thịnh thì để một mình ba được rồi. Dì ra ngoài làm chi không biết.

Trang cười:

- Ba làm cái chi là dì làm theo ba, đi đâu là đi theo ba. Ái tình hai người bây giờ còn lại được cái thủ tục đó. Ngày xưa hồi tụi mình còn nhỏ, ba đi đâu một mình là dì tức tốc sai tài xế mang xe đi kêu về. Bạn bè quen biết từ đó hễ mời mọc ba đi đâu là cũng mời dì đi luôn, không thì đang ăn uống nửa chừng dì đùng đùng đến kéo ba về.

Hằng đi lên nhà trên nhìn vào phòng khách rồi chạy xuống:

- Đúng là cha Thịnh.

Trang, Bội, Túc im lặng. Hằng tiếp:

- Cha Thịnh đi với ông thầy Chu dạy tui sử địa.

Trang nhìn Hằng:

- Có chuyện chi không he?

Hằng mím môi:

- Chắc để mách chuyện tui học dốt.

Túc cười:

- Kêu thầy Thiện Tân ra tiếp cha.

Hằng vỗ tay:

- Ừ, Thiên Đàng với Niết Bàn đụng nhau cái độp!

- Ừ, nhà mình đủ màu, có cả cha lẫn thầy.

Túc, Uyển đi lên phòng trên nghe chuyện rồi chạy xuống ào ào. Thằng cha giáo sư chi mà làm duyên quá. Thằng cha đau bịnh tạng da dẻ trắng nhợt. Làm duyên ác! Uốn éo như cá nghéo động trời.

Túc láu táu:

- Cái miệng thằng cha Chu như cái bầu vịt. Cha Thịnh và thầy Chu ngồi tới hai tuần trà mới ra về. Hằng chạy vào phòng Thượng tọa Thiện Tân nói nói cười cười:

- Trong nhà này sắp có một cuộc đấu kiếm.

Nhà sư đứng xem sách ngước lên ngơ ngác:

- Đấu kiếm gì?

Hằng ba hoa:

- Thiên Đàng và Niết Bàn uýnh lộn.

Thiện Tân hơi đỏ mặt:

- Uýnh lộn cái gì?

- Cha Thịnh vừa ở đây về, con định kêu thầy ra vây đánh. Năm nay gia đình con chắc có người đi tu, trong nhà đã có thượng tọa ở chùa rồi, còn có linh mục lại thăm nữa. Thiên Đàng và Niết Bàn có thể sống chung hòa bình được rồi đa.

Thiện Tân cười:

- Cô Hằng giỡn quá!

Cái nhìn tròn bằng vòng mắt dẹp đệu trên khuôn mặt đang hốt hoảng hồng. Hàng xá nhà sư một cái rồi bước vội ra. Đi ngang chỗ bà Hai, ngồi mài sắn cơm, Hằng ngừng lại ngồi xuống. Bột sắn cơm có ngon lành chi mà dì ngồi mài quanh năm suốt tháng hôi òm, lại đau bụng chảy nữa. Bà Hai chóp chép nhai trầu hứ một cái. Ba đau bụng bón khô đặc, mài cho ba uống cho mát. Tụi bay là con gái đoảng, hấp ta hấp tấp trợn tròng trợn trạc như đàn ông. Phụ nữ đời xưa cả ngày người ta chăm lo làm việc. Những lúc rãnh rổi đáng lý được ngồi nghỉ ngơi ăn trầu nói chuyện rỉ rả với nhau, các bà cũng đem sắn cơm ra mài. Mài sắn cơm xong thì xoay qua mài củ bình tinh.

Ông Phủ bước tới nhìn Hằng:

- Cha Thịnh cả xứ này ai cũng phục… Cha đến nhà mình thiệt hân hạnh.

Bà Hai ngước lên:

- Ông giáo sư chi đó cũng đậu bằng cấp ngoại quốc mà.

Ông phủ gật gù:

- Giáo sư Chu… Ngoài ra, ông ta còn là một họa sĩ, ông ta trang hoàng nhà cửa đẹp lắm.

Cha Thịnh nói là cha đi cùng cả xứ mà chưa thấy nhà ai trang hoàng thẩm mỹ bằng.

Bà Hai kéo giật tay Hằng:

- Mi đừng có tọc mạch vô méc với thầy Thiện Tân rằng có cha Thịnh đến nhà mà thầy giận.

Hằng hỏi:

- Tại sao giận?

- Sợ thầy bỏ bụng giận vì mình là người Lương mà đi kết nạp thân mật với ông cha ông chú bên đạo.

Hằng trề môi thở hắt:

- Ui ui dì ơi, mấy người như cha Thịnh, thầy Thiện Tân bụng độ người ta rộng chứ đâu có hẹp hòi như cái chõ hong xôi nhà mình.

Túc hỏi:

- Ông cha với ông giáo sư tới nhà mình để khiển trách hạnh kiểm của chị Hằng phải không ba?

Ông Phủ cười:

- Cha Thịnh hỏi mượn bộ sách…

Túc ngước mắt:

- Rứa còn ông giáo sư?

- Thì đi theo chơi với cha. Cha Thịnh bây giờ học trò cũ từng đàn từng lũ, cha đi đâu cũng có đệ tử đi theo.

Bà Hai gõ gõ chiếc bàn mài, cầm củ sắn cơm lên ngắm nghía. Củ sắn nhiều dây quá. Sắn năm nay ít bột, đợi mùa bình tinh tới mình mua vài thùng mài lấy bột.

Bà Hai đứng dậy:

- Thôi, đi vô bếp và sửa soạn nấu cơm tối. Con Hằng có rãnh thì vô với tao để tao sai vặt.

Hằng nói nhanh:

- Dì không để bà bếp làm cho?

Bà Hai lắc đầu:

- Ui! Bà bếp chuyên nấu đồ ăn mặn, đồ chay bà làm không ngon. Ui! Với lại… làm mâm cơm đãi thầy, mình phải lăn vào bếp tự tay làm lấy cho thơm tho tinh tấn, sợ bà bếp nêm ẩu nước mắm vô thầy ăn tội.

Bà Hai cho rằng ăn chay ngon miệng hơn ăn mặn. Mai kia ông Phủ chết bà sẽ vào chùa làm vãi sau khi kêu đại mấy thằng đàn ông gả hết cả bầy con gái. Ui! Chồng chết mà vô chùa là hợp lý nhất, khỏi bắt buộc con cái báo hiếu. Vô chùa ở là nên nhất, ở với con cái mất tự do đi.

Vô chùa ở cho sướng già, cả cái thây mà nằm nhà bắt con báo hiếu cực lắm. Con ăn của mình thì được chứ mình ăn lại của con nực cái bụng lắm. Bà Tham Vinh, bà Đốc Phú … chồng họ chết, họ vô chùa nấu ăn giặt áo cho các thầy, không lý chi đến chuyện đời nữa. Bà Tham Vinh đó, con trai út đậu tiến sĩ bên Tây rồi làm ra tiền biết bao nhiêu, lên chùa đó mời bà về để phụng dưỡng mà bà nhất định không về là không. Ngày cậu Út lấy vợ, bà cũng không chịu về đón dâu, giao hết đám cưới cho ông anh cả. Sướng thiệt là sướng! Cao đầu áo không lo không nghĩ… Ta mà hễ ba bay mà chết là tao lên chùa.

Hằng bĩu môi:

- Chồng chết lên chùa ở với thầy… kỳ thấy mẹ.

Bà Hai trợn mắt:

- Ở đầy tớ cho chùa thì kỳ chi mà kỳ.

Có tiếng kêu từ nhà trên dì ơi dì ơi rồi Đức chạy xộc xuống:

- Dì dì! Bà Đệ đến thăm dì.

Bà Hai vừa múc nếm chén cháo chay, vôi quăng cái vá chạy lên nhà. Bà Độ lắc đầu hoa tay:

- Mất rồi, mất rồi bà ơi. Tai họa rồi! Tai họa rồi!

Bà Hai hốt hoảng:

- Chuyện chi? Chuyện chi?

- Bị giựt hụi rồi… Mụ Tư trốn rồi.

Bà Hai mặt tái dách hét:

- Con mẹ Tư trốn rồi trốn rồi… Sái nghìn bạc…

Bà Độ đứng dậy:

- Đi ngay, mặc áo vô đi ngay lại nhà thằng cha Thừa.

Đức xuống nhà biểu Hằng dì đi rồi, dì bị giựt hụi dì đi kiện rồi, mi với bà bếp lo nấu xào cơm canh dọn lên mời thầy. Hằng đuổi bà bếp ra ngoài:

- Chị để tui làm bếp cho, chị tới nhà con Loan mượn cho tui cái này.

Hằng trao cho chị bếp miếng giấy gấp tư rồi lật đật vào bếp. Ui! Bà già đã nêm xong món cháo chưa đây? Hơi lạt một tí. Bà già tài quá, nồi cháo nấu không có thịt, không có xương mà ngọt quá là ngọt. Nồi cháo chay đây… Bà già sang quá ta, bà già không thổi bằng gạo mà thổi bằng bo bo với phù chúc, với nấm rơm, nấm đông cô, đậu phụ, kim châm… Ui! Bà già thương ông thầy quá! Nồi cháo hơi lạt… Thôi, ta cho vào hai muỗng nước mắm Phú Quốc với một tí vị tinh nữa là ngon. Hằng mở gác măng rê. Ui trời, làm đồ chay mà có cá hấp nữa! Trái mướp đắng mà bà già cắt giả hình y như con cá sông, có cả đậu xanh nữa, cả bột mì được, cả nấm mèo lại cả dứa nữa, cà chua chín nữa. Không khác chi con cá mù hấp kiểu Tàu. Thôi nêm vào hai muỗng nước mắm nữa cho mặn mòi thấm thía. Nồi giả cầy bà già cũng nấu rồi nữa. Nồi giả cầy coi bộ không ngon, chuối xanh nấu với đậu phụ với nấm mèo nêm với tương, với bột nghệ trộn đậu phụng rồi xào với đậu nành thì làm sao ngon được.

Thôi! Cũng thêm vô hai muỗng nước mắm nữa đi, cho vào hai viên súp gà nữa là yên chuyện. Món chả đã cắt sẵn. Món chả thì phải để vậy vì không thể chan nước mắm vô được… Mình phải làm món đồ xào… Chỉ còn món đồ xào nữa thôi. Giá này, đậu phụ rán này, bắp cải thái chỉ này, khoai tây, cà rốt, lá hẹ, bỏ cả mấy thứ vô xào chung với dầu lạc. Ui! Bỏ cái món dầu lạc đi, mình xào với mỡ. Phải ba muỗng mỡ mới béo được. Ba muỗng mỡ, hai muỗng nước mắm với tiêu, với bột magi.

Hằng lau bát đũa, lấy chồng chén, xới cơm, múc đồ ăn rồi gọi bà bếp đem lên. Nàng rửa mặt kẹp gọn đầu tóc ngúc ngắc bước lên nhà lớn thì bà Hai vừa về.

Ông Phủ đứng dậy hấp tấp:

- Răng đó? Răng đó?

Bà Hai đưa tay đè ngực:

- May quá, chút xíu nửa mất tôi sái nghìn bạc, chụp được cổ con mẹ Tư ở nhà mụ Thừa.

Đức nói nhanh:

- Khỏi mất tiền rồi.

Ông Phủ nhìn vợ:

- Như vậy là phước của cả còn đỏ lắm… Bao năm chơi hụi mà chưa hề bị giựt…Thôi cả đi thay áo mà ăn cơm.

Bà Hai vào nhà trong một lát bước ra giòn giã cười:

- Mời thầy dùng, ba dùng đi ba… Bữa nay có con gái của tui xuống bếp nấu đồ chay… Mọi người người nếm thử cái tài của tay khéo! Để coi nào… Ăn cái món đồ xào thử có ngon không nào.

Ông Phủ đưa tay:

- Khoan! Mời thầy dùng cháo đã. Ngó cái nồi cháo màu mè nổi lên là đoán biết ngon rồi… Con Hằng vô bếp được đấy chứ.

- Con Hằng rứa mà khéo ghê! Nấu ăn món gì cũng ngon… nấu ăn ngon còn trình bày đẹp nữa, khéo ghê! Mâm cơm ngon lành ghê.

Đức cười:

- Bao nhiêu món ăn dì đều làm hết, con Hằng chỉ có món xào. Bắt chảo lên trở lại xẹt xẹt là xong.

Bà Hai nói lớn:

- Hắn làm lấy hết để thầy dùng, dì đi lo việc dì chứ đâu có rảnh… Thưa thầy, thầy dùng thử coi cháu Hằng nấu nướng có được không ạ.

Nhà sư lễ phép:

- Dạ ngon lắm.

Hằng chỉ tay thẳng mặt nhà sư:

- Nhưng thầy đã dùng món chi đâu, thầy chỉ mới chan nước xì dầu…

Quanh mâm cơm mỗi người một tiếng cười, nhà sư cúi mặt. Hằng nhai mãi miếng cơm quên nuốt. Ui, bao nhiêu dĩa đồ chay ở đây đều trần tục mỡ màng nước mắm hết rồi, nếu thầy Thiện Tân là một bậc chân tu thầy sẽ ngửi được một sự hôi tanh nào đó mà buông đũa. Ngày xưa sư cụ chùa Từ Linh ngửi được mùi thịt gà ở trong cù lao canh thập cẩm nấu lợt sư cụ đã thở dài nhịn đói tụng kinh suốt từ chiều tới đêm mà không hề phiền gia chủ một lời. Bây giờ để coi thầy Thiện Tân có bằng được chút chéo nào sư phụ không? Để coi thầy Thiện Tân sẽ bỏ đũa hay vẫn tì tí nhai nuốt như mọi hôm? Mình thử giám sát cái công quả tu hành của thầy ấy xem.

Hằng khó nhọc để chan canh vào bát cơm để nuốt cho dễ. Nháy mắt một cái, Trang đã đón bát cơm từ tay nhà sư bới đầy. Hằng cười nụ nhỏ. Hằng chưa ăn hết chén cơm thứ nhất, nhà sư đã đưa Trang đơm đến lần thứ tư. Ui! thầy chẳng đánh hơi, chẳng ngửi mùi được chi cả, nhai nuốt thẳng thừng.

Nhà sư buông đũa, bà Hai hỏi:

- Cháu Hằng khéo đấy chớ thầy?

Thiện Tân cười:

- Dạ giỏi quá!

Ông Phủ hỏi có chi tráng miệng không. Bà Hai sai Minh vào trong bưng chè khoai mài ra. Thiện Tân nói:

- Ở đây được hai bác cho ăn ngon hoài, về chùa sợ hư nết ăn tương ăn chao không được.

Bà Hai cầm cùi dia chọc vào chén chè.

Hai người lại để tâm nghe tiếng máy bay. Một lát ngắn Hằng kêu:

- Ba sắp về rồi đó thầy.

Nhà sư ngậm miệng cứng. Ba bề bốn bên có những tiếng động nhỏ, có những tiếng ồn lẽ. Người con gái ôm cổ nói:

- Trong lớp học của em có nhiều tên học trò bần tiện ghê. Tụi hắn thấy cha Thịnh oai vang tụi hắn muốn xin theo đạo để cha cấp học bỗng cho đi ngoại quốc, nhà sư lắc đầu như một cái gạt phắt. Có một sự ra công quan sát khắp gian phòng. Người con gái kêu nhà sư:

- Bây giờ còn đang có một hiện tượng khá mới… Mấy anh chàng nhạc sĩ động một tiếng là kêu gào tới Chúa. Buồn cũng kêu Chúa, muốn lấy chồng cũng kêu Chúa, thất tình cũng Chúa ơi, nguyện cầu cũng Chúa ơi.

Nhà sư cãi:

- Người ta kêu tới Phật nhiều hơn.

Hằng đứng dậy, đi từng bước ngắn trên mỗi viên ca rô, nhặm lẹ dẻo mềm đến trước mặt Thiện Tân:

- Thầy nhắm em đi tu có được không thầy?

Nhà sư ne né đầu:

- Tối nay cô Hằng có phần không được tỉnh.

Người con gái phụng phịu:

- Sao thầy không trả lời em?

Nhà sư nói:

- Tối nay cô không được tỉnh.

Hằng kêu:

- Người ta đang tỉnh rót thế này mà bảo người ta không tỉnh.

- Cô Hằng nói ú ớ như mê ngủ trong lúc cô Hằng hát thật hay, nấu ăn thật ngon.

Hằng vẫn đứng trước mặt nhà sư mặt chong tròn:

- Chắc em đi tu được vì em có tài nấu đồ chay. Hồi nãy thầy thấy em nấu ăn có ngon không?

- Tuyệt!

- Rứa là em đi tu được rồi.

Thiện Tân cười:

- Cô Hằng mê ngủ rồi! Cô Hằng hãy trở về nghỉ ngơi.

Hằng giậm chân:

- Giờ này chỉ có gà Việt Nam ngủ, còn gà Mỹ vẫn còn thức để ăn cám gà. Gà trống thì cám sinh tố, gà mái thì ăn cám đẻ, gà con thì ăn cám bột, gà choai choai thì ăn cám dậy thì.

Nhà sư nói:

- Cô Hằng hình như đang ở trong một cơn mê nào đó.

Hằng ngồi xuống đối mặt:

- Em đang hoàn toàn có hồn. Cả nước giờ này không có con gà nào gáy cả. Lúc nào thầy cũng tự hào rằng chỉ mình thầy tỉnh.

Thượng tọa Thiện Tân nhìn đồng hồ:

- Cô Hằng thưa lại với cụ… Tối nay cụ mệt, tôi không thể ngồi hầu cụ được.

Nhà sư đứng phắt dậy lầm lũi đi nhanh. Người con gái trở về phòng mình vừa đi nhảy trên những viên ca rô.

Hằng nhìn vào gương, mớ tóc mèo mun vén thẳng lồ lộ màu trán trắng như bánh trôi một đường chỉ kẻ đen mỏng sát tận vào mí mắt, một chút phấn hồng ướt đập lên má. Hằng thở dài không một chút buồn phiền đứng lên đi rửa mặt đánh răng rồi ngồi vào bàn học ký tên Thu Hằng liên miên trên giấy trắng, cầm bút nguệch ngoạc vẽ hoa là mặt người. Hằng xé mấy tờ giấy vụn ra uể oải cầm cuốn sách coi qua loa rồi ngáp. Thôi để ngủ. Ngủ mấy cũng không vừa, ngủ cũng như cơm không bao giờ chán được.



Cha Thịnh đến nhà chơi nói với ông Phủ thầy Chu muốn xin cưới Hằng. Hằng lắc đầu ngay với cha. Ui chà! Thấy không cân rồi, không hạp rồi. Mới dạy người ta có mấy tháng đã đi hỏi người ta rồi trở tay không kịp mà suy nghĩ nữa. Con thì thủng tha thủng thẳng khoan thai cầm chân. Con chưa cần có gia đình.

Hằng đến trường mách với Khuê:

- Ông thầy Chu đi hỏi tao rồi.

Khuê chớp mắt:

- Cha Thịnh làm mối ai mà không biết… mi có sướng không?

- Tao mừng quá.

Khuê liếc nhanh bạn bĩu môi:

- Khi nào đám cưới?

Hằng nói nhanh:

- Tao không ưng lấy mô mà làm đám cưới?

- Hừ! Mi mừng lắm mà.

Hằng cầm tay bạn đứng lại:

- Mừng là một chuyện, mà ưng là một chuyện… Bây giờ ai đi hỏi tao, tao cũng mừng cả… Càng nhiều người càng mừng.

Khuê nhún vai:

- Một cuộc sưu tầm.

Hai người đi dưới những cây mù u mới trồng… Hằng đưa tay ngắt cành thầu đâu nhỏ. Ông Tổng Giám thị đi ngang lừ mắt. Hai cô gái vội ngã nón cúi đầu chào.

Khuê nói:

- Lấy giáo sư oai lắm mà… Tại sao mi không chịu?

Hằng cười:

- Ông thầy Chu khó thương bắt chết.

- Bộ mi dễ thương lắm chắc?

- Ông thầy Chu thì không dễ thương rồi đa.

- Chắc mi thương người mô rồi?

Hằng đột ngột đi tách bạn ra vài bước, lột chiếc nón xuống cầm tay quay vòng vòng.

Hằng bỗng cười:

- Tao đang phá.

Khuê nhìn qua:

- Tại sao mi không ưng ông thầy Chu?

- Ông thầy Chu đâu có đáng yêu bằng người tao đang phá.

Hai ba người học trò trai đi ngược chiều chăm chắm nhìn Hằng, người đẹp sáng nay diện màu xanh, luôn gì gì cũng mau xanh hết… Đố anh bảo sao trời xanh thì anh sẽ bảo anh yêu nàng. Xin em đừng bỏ áo màu xanh, đẹp như màu trời, đẹp như tình anh.

Hai người học trò trai đã đi xa, Khuê hỏi:

- Mi đang phá ai?

Hằng bật cười:

- Phá chùa chiền, đàn áp tôn giáo! Chọc ghẹo kẻ tu hành.

Khuê nói:

- Ông thầy Chu là giáo sư, mình là học trò… Thầy đã hỏi mình mà mình không ưng, thầy sẽ bẻ mặt. Thầy sẽ khó xử với những đồng nghiệp, thầy sẽ mắc cỡ với học trò trong trường.

Đối với thầy giáo mình phải có thái độ mềm. Có thể mình không yêu thầy, nhưng vì những sợ sệt để lại từ xưa, vì vâng lời, sự vâng lời có từ tiền kiếp, mà mình phải nhận cái đề nghị sống chung với thầy. Hằng muốn ông thầy Chu yêu Hằng thật say thật ngất, yêu dở sống dở chết, trong khi Hằng không yêu ông ta, Hằng muốn bao nhiêu người đàn ông cũng nhiều vô Hằng trong một lúc, Hằng không nhào vào ai hết… Hằng cũng không nghĩ rằng, được thầy giáo đề nghị kết hôn, đó là một lệnh đẹp. Mình phải tỏ rõ mình có óc tôn sư và lòng tri ân dạy dỗ.

Mình không nên liệt ông thầy Chu vào cái hạng học trò trai nhóc con trong trường… Đối với bọn đó Hằng sẵn sàng vật chúng như vật ngóe, như vật nhái. Hằng nói thật, ông thầy Chu không cưới được Hằng, vậy ai cưới được Hằng? Đừng có đem uy tín của thầy ra để chơi, để giỡn.

Hằng đáp chậm:

- Tao lấy sự đả phá hành hạ kẻ khác để vui. Tuy nhiên cuối cùng tao xây dựng.

Ông thầy Chu mà mi chê? Vậy ai mi mới lấy?

Hằng nói:

- Tao phải lấy người tao yêu, lấy cho kỳ được, lấy bằng đủ mọi giá, mọi thủ đoạn.

- Ai vậy?

- Một người không có nợ đời…

Thầy Chu đến trường trễ năm phút. Khi thầy Chu vào lớp bọn nam sinh vỗ tay rào rào. Hoan hô thầy! Vạn tuế thầy!... Con người thầy là một cây hỉ tín… Thầy có tin vui, thầy cho chúng em tiền đi thầy, thầy cho chúng em ăn bánh ít đi thầy, cho ăn trầu đi thầy, cho uống rượu đi thầy, cho vé xi nê đi thầy.

Bao giờ đám hỏi hả thầy? Bao giờ đám cưới hả thầy? Cho cả lớp đi phụ rể, đi đưa dâu… Cô dâu chú rể cân quá thầy ơi. Trông thầy đẹp trai mãn nguyện quá! Con người có đại hỉ trong bụng có khác.

Bộ mặt thầy Chu đỏ hực như hấp nóng. Hằng cúi gầm trên bàn mái tóc bồng phủ che đến cằm. Suốt giờ đầu thầy Chu không giảng được một chữ một câu. Chàng chưa kịp mở miệng, học trò đã hò hét gào rống lên. Chàng nghẹn cứng cổ, cười trừ mấy cũng không hết thẹn. Hằng bất động ngồi đến đông đặc máu không nhúc nhích.

Giờ ra chơi, thầy Chu nhảy vụt xuống cầu thang lướt nhanh vào phòng giáo sư quên mang cặp theo. Hằng cầm tay chị em Diên cắm cúi đi xuống chỗ để xe. Bọn học trò ở lại trong lớp lấy cặp của Hằng đặt lên bàn giáo sư và lấy cặp của thầy Chu để vào chỗ của Hằng.

Hết giờ chơi, thầy Chu vào trễ năm phút, học trò lại vỗ tay rầm rập, thầy Chu lắc đầu:

- Thôi một giờ đã trôi không rồi… Các anh các chị lấy vở ra chép bài.

Chàng mở cặp lấy cuốn thế giới sử. Chàng vội rụt tay lại, và chàng đã đặt lên bàn cuốn vở Vạn vật đề tên Tôn Nữ Thu Hằng. Chàng ngó vào cặp, chiếc ví nhỏ đựng tiền xinh xinh, hai cái kẹp tóc bằng đồi mồi, mảnh khăn tay màu hồng phấn xếp làm tư. Thầy Chu thấy cả chiếc lược hồng và mảnh gương tròn mặt. Chàng ngồi sửng như củ khoai môn sượng liếc xuống bàn đầu xóm nữ sinh. Hằng chống má ngồi cứng ngắc như hình gỗ.

Bọn con trai giục:

- Thưa thầy đọc cho chép đi.

- Thầy lên tiếng đọc đi.

- Tất cả đã lấy vở ra rồi, cả chị Hằng cũng lấy vở ra rồi, đọc đi cho chép.

Thầy Chu cười đỏ lòm mặt. Thầy, thầy dạy đi thầy, ngồi không cả giờ rồi. Học ra học, chơi ra chơi thầy. Năm nay thi mà thầy, thầy có tin vui rồi thầy lơ là việc giáo dục.

Hằng bấm diệp:

- Tụi con trai tráo cặp tao với ông thầy Chu, mi lên đổi lại cho tao đi.

Diệp đứng dậy đem cặp sách của thầy Chu lên, lấy cặp Hằng xuống. Bọn con trai vỗ tay giậm chân đập bàn cười rộ.

Tan học, Khuê về cùng đường với Hằng, Khuê nói:

- Chuyện mi với ông thầy Chu hẳn um sùm lên cả thành phố biết rồi. Ai cũng biết hết cả rồi.

Hằng càu nhàu:

- Phiền cha Thịnh ghê! Tự nhiên làm mối làm mai… Từ đây tao bở giờ ông thầy Chu, tao không đi học.

- Thật có hại cho thể diện ông thầy Chu… Mi nghĩ lại đi. Hằng đi gần bạn:

- Cha Thịnh thật đáng trách.

Khuê hử:

- Cha làm đúng… Mi mà từ chối ông thầy Chu, rồi đây ông thầy Chu đi dạy học khó thở lắm, học trò chọc cho chết luôn.

Qua khỏi cây cầu bạc, Khuê lên dốc, Hằng rẽ xuống con đường nằm dọc bờ sông vào nhà. Giàn hoa giấy xanh um càng phơi nắng càng trổ bông sum suê. Mấy cây dừa xiêm sà là xuống thấp như muốn vuốt vai những người qua đường. Dọc hàng rào có trồng toàn cây tơ hồng có vài bụi tường vi vươn cành gai góc.

Hằng vào phòng quăng cặp thay quần áo rồi chạy ngang qua nhà Trang bế thằng Cu. Ui thằng Cu, thằng Cu ăn trộm trứng gà, bà già bắt được cốc đầu thằng Cu. Ui thằng Cu, đem thằng Cu lên thầy Thiện Tân xin quy y.

Trang nói:

- Sáng nay chị Đức đòi đi tu.

Hằng nhỏ giọng:

- Trong nhà mình, chị Đức đẹp nhất lại rủi ro nhất… Phiền! Quanh năm uống thuốc bổ, quanh năm ăn chay cũng phiền, quanh năm uống thuốc bổ cũng phiền.

Trang cho con uống nước xong quay sang:

- Mi sắp có chồng sướng hí?

Hằng trợn mắt:

- Lấy đâu mà có?

- Cái ông giáo sư dạy mi ở trường chứ ai?

Hằng hất vai:

- Ui chà, được ông ấy đi hỏi phồng mũi lên một tí, nhưng tới trường bọn học trò con trai hắn chọc quá, ngồi sượng trân cả mặt mũi.

Hai giờ sử địa sáng nay không học được một chữ, tụi nó vỗ tay giậm chân rào rào, lấy cặp sách của em đưa cho ông Chu rồi đem cặp ông Chu xuống đặt trước mặt em.

Trang kêu:

- Được giáo sư đi hỏi là sang lắm rồi… Lúc tao đi học có mấy thằng bạn con trai gởi thư…

Hằng lắc đầu:

- Nhưng em không yêu ông thầy Chu, không lấy thầy Chu.

Buổi chiều Hằng nghỉ học đi phố với Trang rồi về nhà dạo đàn cho đến tối. Thầy Thiện Tân lên chùa lấy sách hai ngày chưa trả lời, ông Phủ phải đi mời. Hai người ăn cơm ở chùa, gần khuya ông Phủ kéo thầy về đánh cờ.

Hằng đi thơ thẩn nghĩ đến giấc ngủ và sự yên nghĩ. Hằng cho rằng nếu ngày là hy vọng thì mầm hy vọng chỉ đến một nửa, chính về đêm hy vọng mới tròn, mới tự đặt gọc trong ngưỡng cửa hạnh phúc. Một sự run rủi nào đó khiến những bước chân người tình tìm đến với nhau. Một sự che chở vỗ về nào đó trước những gì ngày đã làm chói lóa. Ngày là một sự mệt, đêm là một sự khốn.

Đêm là khắc canh của hạnh phúc. Đêm đầy ắp những chia lìa và những gặp gỡ, có thể an ủi những lo âu, có thể giấu kín những tủi nhục, có thể ngọt ngào như mật, có thể tươi mát như da, có thể nồng nóng như hơi thở.

Hằng vẫn đi thơ thẩn, mười hai giờ đêm lúc mọi người an giấc. Hằng nhìn ba bề bốn bên im lặng rồi tách mình qua cây ngâu, bước tới gõ cửa phòng thượng tọa Thiện Tân. Hằng gõ cửa không luôn tay mà từng tiếng từng tiếng.

Cánh cửa vừa hé, Hằng đã nhào vào và ngả kềnh ra trên nền gạch bông.

Thượng tọa Thiện Tân đứng như bất tỉnh, miệng há ra như con ngao luộc. Nhà tu hành đứng mê lú, kinh hoảng cứng đờ, mắt không chớp.

Người con gái lóp ngóp ngồi dậy òa lên khóc. Miệng mếu con nít, nước mắt đong đầy. Cơn khóc có dấu ngắt, cơn khóc dài sướt mướt, chan hòa dầm dề, lai láng. Cơn khóc ầm ĩ, có âm thanh nổi.

Người tu hành đã nhắm mắt.

Người con gái nghẹn ngào:

- Thầy ơi! Em sắp bỏ nhà ra đi.

Người tu hành nhắm mắt và miệng ngậm cứng.

Người con gái rền rĩ:

- Em phải thoát ly gia đình để khỏi tự tử.

Nhà tu hành mở mắt ra, đầu cổ cũng tê liệt.

Người con gái ái oán:

- Em đi xa biệt tích hay em chết cũng vậy thôi… Thầy thầy… em đi.

Thiện Tân cúi đầu, Hằng não nùng:

- Em đi, nhất định đi… Em sang từ giã thầy. Sau khi em đi rồi, gia đình khám phá ra mất em, xin thầy hãy nói lại là em đã… Thôi, xin thầy trao hai cái thư này lại cho gia đình.

Thiện Tân ngước lên nhìn Hằng tiếp:

- Em đi hay em chết cũng vậy thôi.

Thượng tọa Thiện Tân chạy lại núp sau chiếc tủ, thở không ra mà mồ hôi vã đầy. Thượng tọa úp mặt vào góc vuông giữa bức tường và chiếc tủ trong lúc Hằng hổn hển:

- Thầy không giúp em thì em chết mất.

Người tu hành rút vai dụi đầu vào hơn nữa. Hằng héo úa:

- Em đang tuyệt vọng cùng cực đây, thầy hãy tỏ ra một chút thiện chí giúp em đi thầy, em chết mất.

Nhà sư vẫn không quay lại, hai tay ôm rị lấy má:

- Thầy thầy, ai phạt thầy quay mặt vào vách ba năm vậy thầy?

Hằng bỗng phát lên cười rát tai:

- Thầy đi tu để trốn quân dịch phải không? Thầy đi tu để hoạt động cách mạng phải không?

Thượng tọa Thiện Tân dợm bước đi, Hằng nhảy phóc một cái túm ngay vạt áo:

- Thầy, thầy hãy buông vài lời cứu rỗi em. Em sẽ thoát ly đây. Ba với dì ép em ức quá, em không muốn lấy người ta, em sẽ đi trôi dạt vào một trại tế bần, một nhà thương thí, em sẽ chết vì lao phổi hoặc bịnh sài xương chết âm thầm khắc khoải không thân nhân nào bên cạnh, không được ngắc ngoải trăn trối với ai một lời. Thây ma của em được quàng trong nhà xác, em sẽ được đem đi chôn bó gọn trong chiếc chiếu.

Giọng nói nhà sư run run:

- Nhưng mà chuyện chi đã xảy ra cho cô?

Hằng nức nở:

- Thầy hỏi với giọng gượng gạo quá, em không đủ can đảm khai với thầy. Thầy có thực tâm giúp em đâu.

Hằng nhắm mắt, mặt ngước lên cho hai lỗ mũi lộ rõ. Đôi môi hồng nóng hực. Sau cơn khóc mặt tươi lại, Hằng đột ngột lặng câm ngồi dựng thẳng, mắt đứng tròng mà miệng ngậm cứng. Một hai tiếng động gì đó từ ngoài vườn.

Người con gái lay động tròng mắt ngơ ngác:

- Thầy ơi thầy, em xa lạ với ngôi nhà của em quá. Đây là đâu? Là chùa hay là nhà? Em sợ quá! Thầy là đàn ông một trăm phần trăm, thầy không phải là thượng tọa nữa rồi, thầy không phải là một vị trụ trì nữa rồi, thầy cởi áo để hoàn tục đi thầy. Thầy đi tu làm chi? Bày đặt. Thầy đưa áo vàng cờ cho em cất giữ đi thầy. Thầy mặc áo màu cờ vàng trong khi những nhà sư khác mặc áo nâu sồng. Một cánh tay thầy để trần trông hấp dẫn quá. Đêm nay, thầy mặc áo bà ba trông khoẻ mạnh hút hồn quá! Thầy đưa áo tu cho em xé đi thầy! Đi tu làm gì thầy? Đi tu cho ai nhờ đó thầy? Ai đi tu nấy thành Phật. Ai đi tu nấy nhờ. Ích kỷ tột độ. Đi tu là vì mình chứ không phải vì người.

Đừng đi tu nữa có hơn không? Tu hú tu huyền chỉ có loài người mới đi tu. Vì chỉ có loài người mới độc ác. Sợ loài khỉ cũng bắt chước loài người mà đi tu mất. Đi tu làm chi cho đọa đày. Hãy ở yên giữa đời mà làm người. Làm đàn ông làm đàn bà. Tiên nữ mà còn xuống trần đưa cánh cho người để người ta nhận làm vợ nữa là. Thầy có biết tiên cô đưa cánh cho tiều phu giữ không? Xưa có một người tiều phu vào rừng đốn củi… Hết!

Thầy, thầy đi tu làm gì thầy? Đi tu chẳng có ích gì cho mình cũng chẳng có ích gì cho ai. Đời bây giờ đi tu mà làm gì. Đời bây giờ đừng từ bi với ai cả đi thầy… Đời bây giờ chết nay sống mai… Hươu nai chó mèo chiến tranh… mệt thấy mẹ! Đi tu mà làm gì? Đời bây giờ, chữ tình chữ lý chữ nghĩa, chữ nhân, tu gạch toẹt một cái là hết.

Thiện Tân tái mặt:

- Cô Hằng nói xàm rồi! Cô Hằng nói mê rồi!

Hằng trợn mắt:

- Ai có mắc bịnh chi đâu mà mê man nói xàm nói bậy. Hằng tỉnh còn hơn thầy Thiện Tân nữa.

Nhà sư bặm miệng:

- Cô mê ngủ hay mê hoảng vậy cô Hằng? Tôi sang thưa với cụ Phủ vực cô về ngủ.

Hằng đưa tay lên miệng:

- Ấy chết… chết cả hai. Em sang đây nhờ thầy cứu giải cho mà.

Nhà sư lắc đầu:

- Đêm khuya khoắt, cô Hằng về ngủ. Cô Hằng đừng rườm lời sợ xảy ra chuyện không tốt.

Hằng đứng bật dậy, đôi mắt khổ lớn mở sáng nhất nhìn Thiện Tân. Hàm răng trên hé trọn. Hằng cười mà không ra cười khi nhà sư quỳ xuống đánh ba tiếng chuông chấp tay đọc bài sám hối:

Xưa kia gây nên bao ác nghiệp,

Đều vì ba nghiệp thâm, sân, si,

Bởi thân miệng ý phát sinh ra,

Hết thảy từ nay xin sám hối.

Nhà sư vái xuống, đánh ba tiếng chuông rồi đứng dậy vừa kể vừa đọc:

Sám hối phát nguyện rồi

Con xin dốc lòng kính lạy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cùng hết thảy Phật pháp Tăng thường ở khắp mười phương.

Hằng xua tay cười nhạt:

- Bài kinh Sám hối bắt em nghe làm chi không biết? Đồng hồ chạy mau bắt xộp phổi. Em không muốn nghe thầy tụng kinh bao giờ hết, tí nào hết, thầy hãy ngậm câm đi.

Thiện Tân cười:

- Bây giờ cô Hằng hãy hát lên như con sao sáo.

Hằng rên lên:

- Thôi đi, thầy giữ mình một cách ích kỷ, thầy giữ cho cái tiếng tốt tu hành của thầy. Thầy gây ra tiếng động để chứng tỏ lòng quang minh chính đại.

Em không thích nghe tiếng tụng niệm bây giờ. Em không thích nghe hát bây giờ. Hay huyên náo đó là bờ thành ngăn cách chia đôi em và thầy, là sức đẩy tống em lăn xa thầy, là đường chéo cắt rẽ thầy ra khỏi m. Hai huyên náo đó nói lên lời phân biệt, tạo thành ranh giới gắn giữa hai hồn.

Thiện Tân tụng tiếp bài kệ mõ kinh:

Phép mầu nhiệm ao sâu khôn xiết,

Trăm nghìn muôn ức hiếp khó tìm.

Hằng bịt tai:

- Một bài kệ mà bà mà dì thường tụng. Thầy vẫn đem tiếng ồn ra làm chứng cho lòng quang minh để tách rõ cái tà tâm của em. Thầy Thiện Tân, Điệu Tân của con bé Hằng ngày xưa, Điệu có cho Hằng ngồi đây nữa không?

Nhà sư dịu giọng:

- Giữa chúng ta vẫn không có gì để chia rẽ ra. Hằng về ngủ đi, Hằng sắp sửa là của người ta rồi.

Hằng hét nhỏ:

- Ai nói với thầy chuyện đó? Tại sao thầy biết chuyện đó?

Nhà sư điềm tỉnh:

- Cụ nhà rất hoan hỉ về chuyện này. Cụ bảo rằng Hằng sắp là một phu nhân của một vị giáo sư ở ngoại quốc về.

Hằng phụng phịu:

- Thầy không được tin như vậy. Không ai có quyền chấp nhận chuyện đó.

Thiện Tân chợt cười cao lên, cười thắng với Hằng rồi Thiện Tân lắc đầu, nụ cười vẫn tiếp ở trên môi, ở trên mắt. Cái nhìn người con gái ướt rượt sáng rỡ. Hằng đang hít ngửi mùi bông bại hoại thơm ngát mùi trong đêm, một thứ bông cành nhỏ dại buông thỏng xuống mỏng manh uốn lượn không thẳng, một thứ bông màu xanh như lá úa, một thứ bông mang cái tên rất xấu nhưng êm đềm hòa nhã thơm nức trong nhà và thơm xa đến tận hàng xóm.

Hằng từ từ đi tới:

- Tôi không bao giờ có thể lấy ông Chu… Ông ta muốn lấy tôi, cha mẹ tôi muốn gả tôi cho ông, nhưng tôi không muốn. Hôm nay tôi sang đây nhờ thầy Thiện Tân can thiệp với cha mẹ tôi rằng tôi không muốn bị ép làm vợ giáo sư Chu.

Thiện Tân nói:

- Nhưng… tôi và bất cứ ai cũng đồng ý với cụ Phủ.

- Thầy không được nói bậy.

Nhà sư nói:

- Thôi, cô về ngủ đi.

- Hứ.

Nhà sư gục đầu, miệng ngậm cứng mặt vuông mạnh.

Hằng bỗng cười dài:

- Hai giờ khuya rồi… chắc thầy đang muốn phi thân lên mái ngói. Thầy phi em cũng phi theo.

Thiện Tân đứng phắt dậy bỏ đi ra ngoài phòng khách ngồi xuống chiếc ghế dài đọc sách cho đến sáng.

Thượng tọa Thiện Tân chỉ điểm tâm một ly sữa rồi lấy xe đạp đến thư viện ngồi đọc sách quên bữa ăn trưa và bốn giờ chiều thượng tọa trở lại nói với ông Phủ xin về chùa.

Ông Phủ chưng hửng:

- Ui! Chi lạ rứa?

Ông quay ngó bà Hai:

- Cái chi lạ rứa?

Bà Hai ngưng nhai trầu:

- Thầy mới chơi có một bữa sao đã về gấp vậy? Thầy đã bỏ về tuần qua rồi, ông nhà tui lên chùa năn nỉ rước thầy về được có một đêm đã lại di. Xin thầy ở lại chơi với ông nhà tui cho sáng nhà sáng cửa.

Nhà sư chấp tay:

- Thưa hai cụ, tôi xin phép trở về giữ chùa để thầy Lý đi Đà Lạt ít bữa.

Bà Hai vội vái:

- Mời thầy ở chơi đã.

Ông Phủ cũng nói:

Thầy bỏ về, chúng tôi thật hết sức buồn, hết sức áy náy.

Nhà sư lạnh buồn.

Xin phép hai cụ để phải về chùa lo công chuyện.

Hằng ngủ trưa dậy năm giờ chiều thì sư đã về chùa. Đức cầm ly nước lọc đi vào:

- Thầy Thiện Tân chắc phải có tâm sự. Đêm qua tao thấy thầy ra phòng khách ngồi tới sáng.

Hằng ngáp:

- Ui! Tu hành gì mà cũng tâm sự.

Sáng hôm sau Hằng bỏ buổi học đi xe lên chùa Từ Linh. Ngõ vào nhà chùa đi qua những bóng mít xoài cam ổi âm u. Chưa có chiếc tàu bay nào đi qua khác biệt tinh thần bầy chim sẻ nhỏ đang họp đảng trên đỉnh mù u.

Hằng vào nhà ngang đợi cả tiếng mới thấy Thiện Tân đi xuống. Người con gái đứng dậy:

- Thưa Thầy, thầy Lý mô không thấy ạ?

Nhà sư nhìn thẳng:

- Thầy Lý về quê của thầy rước mẹ… Thầy Lý đã mua được căn nhà ở An Cựu cho bà cụ ở.

Người con gái cười. Thầy Lý giàu có quá, thầy Tân chắc cũng rất giàu, chắc cũng có bất động sản?

Hằng mở tròn mắt:

- Sao bảo thầy Lý không còn cha mẹ?

- Thầy nói mới nhận được mẹ cách mấy năm nay… Trước kia chính thầy ấy cũng tưởng mình mồ côi.

Thượng tọa Thiện Tân đặt réchaud nấu nước rồi pha trà. Hằng xua tay: Em không uống, em không ăn chuối, em chỉ muốn xin thầy tha lỗi, vì em đã làm phiền một cách lõa lồ. Thầy Tân hãy khinh bỉ em vừa phải thôi, đừng nhiều và cũng đừng ít. Thầy hãy bỏ qua những lời em mê sảng, những câu nói em nói liều, những việc em làm dại. Thầy bỏ về chùa đột ngột, một người đã làm thầy giận cả nhà.

Thiện Tân nói:

- Đừng nhắc đến chuyện gì ở đây.

Người con gái cười:

- Sáng nay em bỏ học lên xin lỗi thầy.

Nhà tu hành lắc đầu:

- Cô Hằng không có lỗi.

- Em mang tội với thầy thật nhiều không phải chỉ mới đêm qua.

Nhà sư lắc đầu, Hằng tiếp:

- Em đã phá công tu của thầy.

- Chưa phải vậy, chưa đến lúc.

- Em đã cho nước mắm, cho mỡ heo vào những dĩa chay.

Nhà sư đứng vụt dậy.

- Em đã cho rất ít lòng đỏ hột gà vào cốc cà phê sữa thầy điểm tâm buổi sáng.

Nhà sư để rơi người trên chỗ ngồi.

- Em đã bắt con chó mi-nô ăn chay suốt năm tuần lễ nay.

Hai cánh mi người tu hành kéhp lại.

- Em đã tắm nước hoa lên kinh sách của thầy và làm rơi phấn bôi mặt vào những trang kinh sách.

Nhà sư gục cổ. Người con gái nâng cằm mình:

- Em đã đổ cả soong nước luộc gà vào nồi miến măng chay trưa ngày rằm hôm kia.

- Hôm mồng năm, nhà nấu phở chay đãi thầy em sợ nồi nước dùng không ngọt, em quăng vào mấy cụ xương heo.

Nhà sư ôm đầu, người con gái bóp trán:

- Những tội nhỏ đó không phải thầy phạm mà em phạm.

Nhà sư khô khan:

- Cô Hằng tinh nghịch quá!

Hằng đứng lại sát bên người tu hành:

- Em đã phạm những lỗi đó nhưng xin thầy đừng phiền em. Em dại như con dế mèn mà thầy.

Nhà sư cười phì:

- Cô mà dại, cô khôn vụn khôn vặt đến độc ác.

Hằng mở lớn mắt:

- Trên cuộc đời có bao nhiêu kẻ độc ác hả thầy? Chỉ có em không thôi phải không thầy?

Ấm nước sôi bốc khói phì phì. Hằng khom người xuống nhấc lên, vặn nhỏ réchaud, thổi tắt. Hằng pha trà và cả hai cùng đợi trà ngấm.

Hằng nhìn cuốn sách dưới hai cùi chỏ nhà sư:

- Thầy đang đọc những trang kinh ngọc. Thầy là một nhà chân tu nhưng còn thấy thấp thoáng ở thầy một con người rất tiểu thuyết, rất thi ca, rất âm nhạc, rất…

Chị Trang, con Túc, con Uyển đã coi thầy như một mùa đông già cỗi, một buổi chiều đã xế. Thầy âm thầm, nghiêm trang, lạnh nhạt. Họ còn coi thầy như con tàu buồn thở dài trước khi đến. Họ còn coi thầy như một bản tin buồn đọc chậm. Không, thầy không như mùa đông vì mùa đông vừa buồn vừa phiền. Ngọn đông phong nửa đêm rát buốt nhức da, tê thịt dù chăn mền đã ủ kín buồng ngực. Sáng ra mặt trời đã trốn mất sau những bức thành dãy mây chì nặng trĩu. Cây cối bị bốc lột trụi! … Lá rụng tự lúc nào không ai biết. Lá rụng khi cây tự ý thở dài. Không, anh không như mùa đông.

Thiện Tân cười:

- Cái gì cũng được.

Hằng kêu:

- Trời sập cũng được sao?

Nhà sư chợt nghiêm mặt. Người con gái cười:

- Thầy làm thơ hay ghê! Em có một bài thơ của thầy.

Da mặt Thiện Tân chợt đỏ ánh, Hằng xoa hai bàn tay vào nhau:

- Bài thơ của thầy hay ghê. Thầy kêu tên nàng Lộng Ngọc hoài trong thơ.

Nhà tu hành lẩm bẩm:

- Kêu tên nàng Lộng Ngọc…

- Dạ…

- Tôi kêu tên nàng Lộng Ngọc hồi nào?

- Bất cứ lúc nào. Em không là nàng Lộng Ngọc, em là một đứa đại đa tình, em dâm như ngựa giống. Nàng Lộng Ngọc thanh khiết trong trẻo, mắt như nước lã suông lạt, như những đĩa đồ chay. Em tục lụy, em lợn mỡ. Ngày thôi nôi của Lộng Ngọc nàng đã chọn hòn ngọc nên ngày hạnh phúc nàng đã đạt được một vòng chân không, trên đầu nàng đã đạt được một vùng vô vi tâm hồn ngát rộng. Nhưng em là Hằng, em mê cuộc đời nên em không ưng lấy Tiên Sử, tình yêu không phải là một cuộc hòa nhạc tiếng tiêu quấn quyện tiếng sáo.

Nàng với chàng ở với đời tạm nửa năm rồi về tiên. Hai người khinh cuộc đời của em quá! Số phận của Lộng Ngọc chắc chỉ có một mình Lộng Ngọc thích. Em không thích, em không ham. Mối tình của nàng chỉ là một tiểu thuyết. Mối tình của nàng là một phiên tu, chỉ là một sự gạn lọc những cặn bã thể xác để mà bay cao lên trời. Không đứng trong quê hương mà yêu nhau, tình yêu đó thật buồn. Không đứng giữa cuộc đời mà yêu nhau, tình yêu ấy không còn sướng khoái.

Lộng Ngọc đã lấy một ông thần, một ông tiên, một ông bụt. Em không muốn cái số phận đó. Lộng Ngọc không được lấy người, người đàn ông. Em phải lấy một người và phải đứng trong cõi tục. Tiên làm gì có tình ái. Chỉ loài người mới có tình ái với nhau. Người nam lấy người nữ, Lộng Ngọc phải từ chối sớm, từ chối thịt cá rau cải, và có lẽ phải bấm bụng không làm ái tình sinh lý, Lộng Ngọc và Tiên Sử, chưa chắc đó là một tình yêu mà chắc đó là tu. Đó là tu. Đời còn gì buồn hơn là đi tu. Lộng Ngọc đã bị áp giải lên tiên. Trên tiên làm gì có chuyện vợ chồng. Muốn làm vợ làm chồng, có những vị tiên nam nữ đã trốn xuống trần. Hoặc xin với trời cái đặc ân đầu thai làm người hạ giới. Giữa cõi tiên và cõi trần, em xin ở lại trần…

Nhà sư cười hồng:

- Cô khôn ngoan lý sự quá.

Hằng cũng cười:

- Lý quạ kêu… Quạ kêu nữ đáo nam phòng…

- Bậy bạ.

- Em về nghe thầy.

- Cũng được.

- Thầy đuổi em về phải không?

- Hằng ngồi lại.

- Em ngồi lại suốt ngày. Em ngồi lại suốt đêm nhé!

- Hằng ngồi lại rồi Hằng hát cho tôi nghe chẳng hạn.

- Hết hơi rồi thầy ơi.

Thiện Tân mời Hằng ăn chuối, Hằng lắc đầu. Thầy ra vườn hái ổi cho em đi, hái gửi về cho nhà em mỗi người một trái.

Nhà sư nghiêm giọng:

- Cô Hằng lên đây có việc gì nữa không?

Hằng mắt ướt:

- Chủ ý em lên đây để làm gì em đâu dám khai. Em là người nấu xôi vò, nhưng, tay em không già, không khéo nên bao nhiêu xôi vò đều thành xôi xéo hết… Bây giờ em xin xéo về vậy. Thầy Tân, em xéo nhé, em về nhà.

Hằng trở lại nhà ngủ trưa với mấy giọt buồn trong mắt. Hằng nằm nướng, có tiếng nhạc huyền. Có một cành lá run run chòi vào cánh cửa khi con chim nhỏ cất cánh reo ca từng giọt chuông trong trẻo.

Hằng ngồi dậy, chiều thật khó chịu. Hằng thật hiểu lòng mình. Ngoài hiên sau, áo quần đàn bà phơi đầy hai sợi dây thép. Hằng đắng ngắt miệng, ngồi dậy bước ra phòng khách đưa cả hai chân lên ghế. Người con gái cúi xuống nhìn những móng tay móng chân cũng đỏ. Hằng gãi bụng, gãi lưng và gãi cùng cả đùi trong lúc chiếc đầu và bao nhiêu tóc cũng cảm thấy ngứa rồi đôi tay Hằng tình cờ ôm đôi vai. Buổi chiều nặng trịch, thái độ ngồi ngâm của mình cũng nặng trịch.

Có tiếng gót giày cứng bước vô. Thầy Chu đứng ở cửa khi Hằng ngước lên:

- Thầy!

Người đàn ông ngồi xuống ngay:

- Chiều thứ bảy không đi chơi sao Hằng?

- Dạ ngồi đây cũng được.

Thầy Chu cười:

- Ngồi đây có khác gì tự cất mình vào kho.

- Con cũng là hàng tồn kho mà thầy.

Hằng đi xuống nhà biểu thằng nhỏ pha nước và đứng chần chờ một lát lâu mới lên:

- Hằng đừng xưng con với tôi nữa.

Cái rùng mình rõ ràng nằm ở vai. Hằng ngước lên ngó người đối diện làm thinh. Da thầy Chu trắng quá. Đàn ông da trắng quá không nên. Da trắng, mắt vàng, răng vàng. Phải rồi, tôi xưng con với thầy dạy, tôi xưng em với thầy tu. Tôi muốn gọi thầy giáo bằng ông, tôi muốn gọi thầy tu bằng anh.

Thầy Chu lại nói:

- Hằng đừng xưng con với tôi nữa.

- Thầy là giáo sư…

- Tôi đang là một thí sinh của Hằng.

Hằng cười lừng khừng:

- Đừng nên làm vậy.

- Cha Thịnh đã nói rõ cái quyết định của tôi với cụ nhà rồi. Hằng… Tôi không bị loại từ vòng đầu chứ?

Hằng cúi xuống những tấm gạch bông:

- Hằng không yêu thầy, Hằng không lấy thầy. Thầy hãy về hỏi vợ chỗ khác.

Màu da của thầy Chu càng bệch bạc. Hai mắt chàng nhắm lại thật nhiều phút. Người đàn ông ngồi trước mặt Hằng không có duyên một tí nào cả. Học trò chọc “Chu bạch tạng, Chu sán lãi…” thật đúng.

Chu mở mắt:

- Tôi mà bị từ chối sao Hằng? Tôi đi hỏi Hằng mà không được sao Hằng?

Hằng gật:

- Nếu được thì dễ quá! Đi hỏi Hằng làm vợ không phải là chuyện như trở bàn tay.

Người đàn ông tái mặt:

- Vạn cấm Hằng?

Hằng cười không hé răng. Thầy dốc, thầy cao ngạo quá, thầy không chịu đồng hàng với những người đàn ông trước mắt Hằng. Học trò gái của thầy thầy tưởng bảo nó lấy thầy là nó vâng lời cái rụp sao?

Hằng nói:

- Ngày xưa Hằng đi học lớp ba, thầy giáo sai gì cũng làm. Sai về nhà lấy quạt, lấy sách, tưới cây, làm cỏ… Làm bài toán trật thầy vẽ râu lên mặt. Bây giờ… bây giờ…

Thầy Chu xoa tay:

- Giữa chúng ta không có một sự thông cảm mênh mông.

Thượng tọa Thiện Tân xách hai thùng nước vào đã thấy Hằng ngồi ở nhà khách rồi.

Hằng đứng dậy cười:

- Ngày nào thây cũng thấy em bên thầy. Vì thầy mà em nghỉ học, vì thầy mà em… Thầy còn đuổi em về như hôm qua không?

Nhà sư buồn so:

- Hằng ngồi… Lòng thành thật của Hằng sáng vằng vặc…

Hằng hớn hở:

- Thầy Tân… thầy mời em ngồi chơi phải không? Em càng ngồi chơi với thầy, càng có lợi cho em phải không? Em đã bắt đầu có thắng lợi phải không thầy?

- Tôi không biết… Cô nên về là hơn.

Hằng rên:

- Em dễ ghét đến kỳ cùng vậy hả thầy?

Thiện Tân lắc đầu:

- Hằng nên lấy giáo sư Chu.

Hằng háy dài:

- Nói đi nói lại mãi cũng câu đó. Dễ ghét!

Hằng nên làm điều đúng.

Nhà tu hành nhìn theo mắt cô gái, thấy nàng ngó mãi chân mình:

- Cô Hằng lại mê man lảm nhảm.

- Vâng, em mê man quá rồi, em điên quá rồi. Đêm qua em chạy ra vườn ôm gốc cây tre vừa trèo vừa trút.

Nhà sư nhìn đồng hồ:

- Trời sắp tối rồi, cô Hằng nên về cho kịp cơm.

- Em không về, em không ăn.

- Trời tối rồi.

- Em không sợ ma.

- Đi trong đêm bất tiện.

- Thì em ở đây vậy.

- Hằng đừng nói nhảm nữa. Hằng nên về.

Hằng nhắm mắt, Hằng mở mắt ra, Hằng nhào tới đứng trước mũi nhà sư:

- Chỗ này tá túc cũng được chớ thầy? Ở đây cũng có phòng ăn, phòng ngủ, phòng học, nhà tắm, nhà tiêu. Em cũng có thể ngủ lại đây được chứ bộ? Chẳng bao giờ thầy bắt em ra ngủ ở bụi tre cả.

Nhà sư lắp bắp:

- Cô Hằng!

Nhà sư đứng xuôi tay trong một thế hàng phục nào đó. Cô gái nhoẻn miệng cười đong đưa mềm. Cô gái bước tới đưa mặt vào mũi Thiện Tân:

- Thầy đừng cứng ngắc như cây tre chỉ có mười đốt, đừng khô khan như cây tre lòa xòa rễ, đừng vô tích sự như cây tre già năm năm. Em không muốn ôm cây tre, em chỉ muốn ôm thầy.

Thiện Tân hó hé không được, ú ớ không được, miệng há lớn có thể nhét một đồng bạc Ngô Đình Diệm, Hằng vụt đưa thẳng cánh tay tát vào mặt nhà sư một cái:

- Tỉnh đi, tỉnh đi… đừng trơ mắt cua, chết không ra chết, sống không ra sống. Đừng ì ì cái mặt mo ra, võ nghệ cũng không có. Mặt mày như anh đồ tể làm xổng con heo, mặt mày như anh bán thuốc cao mất đồ nghề.

Hằng cười reo réo khi bóng tối bắt đầu ùa vào nhà. Thiện Tân ngộp thở, Hằng cầm cổ Thiện Tân, Hằng lay vai, lắc đầu, đánh đeo vào người nhà tu hành và ép sát thân hình mình vào thân hình người tu hành. Thầy, thầy… thầy tu em cũng tu theo. Thầy, thầy, phòng ngủ của thầy em ngủ không được sao? Giường chiếu của thầy em không ngả mình được sao? Cánh tay của thầy em không làm gối được sao? Ngực nách thầy em rúc vào không được sao?

Em là đàn bà bấy lâu thầy thiếu, em là xác thịt bấy lâu thầy nhìn, em là mỡ béo bấy lâu thầy thèm, em là tên đẹp bấy lâu thầy không gọi, em là một vấn đề bấy lâu thầy không đặt, em là nghi vấn bấy lâu thầy không ngờ. Em là Hằng, một sự phá sản, một tai họa, một mưu đen, một biến cố, một sự trở mặt, một cuộc đánh úp, một vé số, một ổ vi trùng, một bịnh truyền nhiễm, một tiếng nổ.

Em là… một trong từng cái ấy. Thầy, thầy có thấy em không? Em đang đứng trên hồi chuông thức tỉnh, em đang chen vào giữa câu kinh tiếng kệ, em đang ép mình như con bướm khô trong mấy trang sách, em ẩn như ma, em hiện như quỷ, em chập chờn như đom đóm, em gào kêu như dế.

Thiện Tân co rúm những nét trên mặt, nghiến ken két hai hàm răng lấy hết sức đấm bàn tay vào tường.

Hằng la nhỏ:

- Đừng đánh thầy… Không ai có quyền đánh mình, đừng hành hạ bàn tay thầy … Em đau quá thầy ơi.

Thiện Tân mở miệng:

- Cô Hằng, nếu cô mê, hãy trở lại nhà tiếp tục cơn mê. Nếu cô vẫn tỉnh, hãy thôi chơi cái trò quỷ quái, hãy dẹp cái chuyện đùa trẻ con sang một bên. Hãy đàng hoàng với nhau, chúng ta là hai người lớn, tôi vẫn tôn trọng cô.

- Thầy!

- Tôi vẫn còn tôn trọng cô.

- Em quá thương thầy.

- Tôi vẫn còn tôn trọng cô. Người đàn bà sẽ là vợ giáo sư Chu.

Hằng hét:

- Em càng nói càng liều… Em không ưng ông Chu.

Thiện Tân cũng hét:

- Về nhà ngay đi.

Hằng hổn hển:

- Em sắp ngất xỉu vì việc em làm đây. Một là em với thầy cùng chui vào một lỗ hạnh phúc, hai là em với thầy cùng nhảy đại vào hòm, chui qua ô cửa. Thầy, trong giờ phút này, làm đàn ông chỉ có một bổn phận… Hãy hiểu biết cái bổn phận đó.

Hằng đánh đu thân hình dưới cần cổ nhà sư. Hãy đi lui đi tới trong tranh tối tranh sáng này cho em hót cổ đánh đu. Đừng bạ em xuống đất rồi đá em cái bốc, rồi tống em một đạp cho long lốc. Nhưng liệng em trên giường cũng được, vứt em trên chiếu cũng được. Chúng ta hãy diễn ra một trận và ký kết hòa đàm.

Thầy ơi, em run lên vì nóng, em rên leen vì khoẻ. Thầy, thầy… hoạt động, cử động, di động, xúc động… đi thầy. Cho nhau lửa, cho nhau nhiệt, cho nhau muối, cho nhau sữa, cho nhau đường. Đừng nhắm mắt nhăn nheo như vậy. Không ngủ mà nhắm mắt khó coi lắm. Không ngủ mà nhắm mắt coi ra tuồng con nít lắm. Em thương thầy, em thèm thầy. Bao nhiêu người thương em, bao nhiêu người thèm em. Xin thầy lâu quá, đòi hỏi thầy khó quá. Cởi áo màu vàng ra để làm chồng, mặc áo cờ vàng thì không làm được gì hết.

Mặc kệ loài người, chúng ta lấy nhau, mặc kệ đức Phật, chúng ta lấy nhau. Từ đây em xa thầy không được nữa rồi. Em sẽ buồn tênh buồn teo. Vắng thầy em không còn có những ngón tay dài đẻ mà đàn để mà trống. Vắng thầy em sẽ hết đi dạo dù báo chí ngọt lịm gió. Vắng thầy em tê chân không còn đến trường học tập nữa. Vắng thầy em cô đơn trong buổi chợ, em cô đơn giữa gia đình đông đủ.

Nhà sư lắp bắp:

- Đừng làm bậy, đừng làm chuyện này xấu.

Người con gái ngước mặt lên:

- Hãy cùng xấu với em đi! Hãy cùng lố bịch với em đi! Hãy cùng đáng khinh với em đi.

Thiện Tân vùng vẫy, cố đạp muốn hất Hằng xuống đất ngh cô gái đã bám cứng hai vai như con “hót cổ” bám vào tàu lá chuối.

- Tôi lạy cô… cô Hằng… Đức Phật đã thử thách con như vậy là đủ lắm rồi… Cô Hằng hãy thương người tu hành. Tôi là người tu hành từ tấm bé.

Hằng cười héo úa:

- Em đã cương quyết lên đây với thầy, em thấy không có con đường nào cho em trở về nhà nữa. Em không muốn trở lại nhà em tí nào nữa hết. Tất cả lối đường ra khỏi đây hình như đã bít hết. Em đã kêu ba hồn chín vía của em mà thề với chiếu chăn mền gối rằng: “Em lên đây như một con ma dại, em sẽ trở về nhà như một oan hồn được thỏa mãn bằng chè xôi chuối người ta cúng tế. Hãy cho em làm một oan hồn thỏa mãn.

Em không thể trở về như một con người được, một con người đã nghe theo lẽ phải của thầy mà trở về.

Hằng bỗng giãy nảy, hai chân làm nhà tu hành ngã ình ra đất. Hằng ngồi lên và Hằng nằm lên trên:

- Cô Hằng ơi, chọc ghẹo tôi như thế vừa rồi… Cô hãy về đi, để tôi suy tính vài ngày sẽ trả lời cho biết.

Hằng cười:

- Gan em khô rồi, mặt em teo rồi.

- Về đi, tôi sẽ trả lời sau.

- Đây không phải là một vấn đề, đây không phải là một yêu sách, đây không phải là một thương lượng, một đề nghị, một cưỡng hiếp, một áp bức, một ăn cướp, một đè bẹp, một gian lận nên em đâu có cần thầy trả lời, chỉ cần ở thầy một đáp ứng có nghĩa.

- Tôi sẽ trả lời, về đi, về đi.

- Em ngủ đây đêm nay, em không muốn về, nhất định em không về. Hai chúng ta cùng liều một chuyến chơi. Em không về.

- Tôi đuổi cô về, cô phải về.

Hằng cụng đầu Thiện Tân một cái:

- Hứ.

Nhà sư gục cổ, Ngài ngậm cứng, mặt vuông bạnh. Cô gái nhích người lên, mặt đưa sát mặt. Nhà sư vung mạnh:

- Tất cả mọi chuyện mai mốt tôi sẽ trả lời cho cô biết. Tôi vào chùa từ bốn tuổi, thể xác tinh thần tôi đều được tôi luyện rắn rỏi quá rồi. Da tôi là một giáp sắt, mỗi cái xương đầu cứng như song sắt. Tôi thâm hiểm vô cùng. Những lời trêu ghẹo ngoài da chỉ là những cào xước quá nhẹ. Cô Hằng, tôi học võ Đại Hàn, nội công cũng như võ công đều thâm hậu.

Hằng ngơ ngác giương tròn mắt:

- Thầy đánh em bằng võ? Thầy dùng võ để đánh em?

Thiện Tân mở miệng:

- Cô hãy về đi! Cô sắp chết đến nơi rồi. Cô hãy về đi!

- Thầy dọa em!

- Trường hợp cuối cùng tôi tự vệ, bắt buộc tôi phải tự vệ.

Hằng cừng sửng cổ, cứng sửng vành tai, nhưng đôi mắt vẫn liếc được:

- Thầy nỡ đánh em hở thầy? Thầy nỡ có thái độ với em sao thầy?

Thiện Tân nhìn thẳng:

- Tôi có tay để chặt, để đấm. Tôi sẽ chặt cô như chặt gạch. Tôi sẽ đấm cô như đấm cát.

Đôi mắt Hằng ướt sáng:

- Thật vậy hả thầy?

- Lúc này mà không nói thật thì còn đợi đến lúc nào nữa?

Hằng bưng mặt:

- Thầy ghét em kinh thiên động địa vậy thầy?

Thiện Tân đưa ra quả đấm:

- Tôi nộ khí xung thiên lâu rồi.

Người con gái ngửa mặt hé răng:

- Thôi, thầy cứ chặt, cứ đấm em đi. Em tình nguyện chết như muối bột dưới tay thầy… giải quyết em đi! Giải quyết cấp tốc đi!

- Cô đừng hối hận nhé!

- Em bằng lòng… đấm em đi, chặt em đi, em bằng lòng.

- Sau đó đừng trách.

- Em không trách chi hết. Giờ phút này em chỉ có thấy anh là Tây Môn Khánh, còn em là Kim Liên. Giờ phút này em chỉ thấy có anh là Bùi Như Hải, còn em là Sảo Vân… Anh đọc Thủy hử thì anh biết những nhân vật ấy. Anh đọc Kim Bình Mai anh cũng biết.

Thiện Tân cười:

- Được, cô đã muốn ăn đòn… Tôi chỉ tự vệ.

- Lại dọa đánh em nữa?

Nhà tu nghiến răng:

- Tôi chỉ tự vệ chứ tôi không có hung hăng ác ý.

Hằng bụm mặt:

- Đồ sư hổ mang! Đồ sư hổ lửa! Đồ ác tăng thất đức! Đồ tướng cướp trá hình!

Nhà sư hét vang một tiếng lớn. Nhà sư nhảy lên, giậm chân và rống to hơn nữa. Người con gái uốn cong chiếc lưng trợn mắt rồi buông lỏng hai tay ra.

Thiện Tân chợt cười cao lên, cười thẳng với Hằng rồi Thiện Tân lắc đầu. Nụ cười vẫn tiếp ở trên môi, ở trên mắt. Cái nhìn của Hằng ướt rượt sáng rỡ.

Người tu hành lại lắc đầu lần nữa khi cô gái từ từ đi tới.

- Hình như em vừa gọi thầy bằng anh. Cách đây mấy phút em vừa gọi thầy bằng anh… anh Tân…

- Hằng hãy đi về! Hằng quý hơn của cải.

Hằng cười héo:

- Em chỉ là một chút vốn trong khi anh nhắm lần tới một chân trời.

Nhà sư nhắm mắt:

- Em đã mất hết cả giá trị trước mắt anh và trước mắt em rồi.

Thiện Tân áp trán nóng rực vào vách tường. Hằng chui mặt vào đùi nhà sư:

- Em hết cả rồi, em phá sản hết trơn hết trụi rồi. Em không còn có chân tướng nào nữa để lộ ra trước mắt anh. Nghề quyến rũ, em cũng xài hết rồi. Đòn khiêu khích, em cũng đã tận dụng hết cả sức lực rồi. Em là con chồn tinh đã hết phép. Em là con rắn thiêng bị đoạt ngọc trong ngày mồng năm. Em không còn hơi sức nữa để hớp hồn anh, em không còn màu mè nữa để ma mị lòng anh, em không còn thể thống nào nữa để che giấu nhục dục của em, em không còn chút tinh quái nào nữa để ghẹo anh, em không còn lớp vỏ nào nữa, không còn lốt, không còn phong bì… Trong anh, em đã thấy không có người đàn ông nào vùng dậy, trong anh em đã thấy không có một con thú nào nổi lên, trong anh ma quỷ cũng không có. Không có gì trong tấm thân xác giống đực này cả. Không có gì phàm tục trong tấm thân xác đực này. Em đã có một kho tàng đem tặng chẳng nhằm nơi. Em yêu sai duyên, em mến chẳng trúng người.

Thiện Tân từ bi:

- Thôi, phá vừa vừa, để cho tui tu.

Hằng ảo não:

- Anh không biết gì ngoài tu?

Thiện Tân cúi xuống rủ liệt:

- Hằng đem cho tôi tiếng nhưng tôi cần chân trời vì tôi là một người tu hành.

Hằng mếu:

- Anh có hy sinh được cho em không?

Thiện Tân cúi xuống lắc đầu và Thiện Tân ngước lên vững chãi.

- Tài sản của Hằng không mất. Tôi tôn trọng.

Hằng khóc:

- Anh không lấy gì cho em cả. Anh không cho gì em xin cả.

Nhà sư thở kêu qua cái hít dài vô tận. Hằng cười mắt ướt nước khóc.

- Hãy nhìn em tận diệt em, hãy nhìn em tự hủy em.

Thiện Tân cứng mắt răng nghiến, miệng bặm. Thiện Tân ngóc đầu cao, mũi hẵng một đường.

- Em đã tự lấy hết khẩu cung của em rồi.

Nhà sư vẫn đứng ngay đơ như nặn bằng đất, đúc bằng chì. Người con gái mặc áo quần lại sụt sùi.

- Người võ sĩ Nhật vừa mổ bụng. Em như một người võ sĩ Nhật vừa mổ bụng… Em như vậy đó… nhưng không phải so sánh cái tinh thần… em chỉ so sánh về cái đâu, về cái lượng của sự đau đớn. Người võ sĩ Nhật cũng chỉ đau như em vậy thôi. Em đau đớn ngất ngư. Trời ơi… anh vẫn nhắm mắt lại.

Thiện Tân thở mạnh:

- Hằng đáng quý giá nhất… Hằng dễ thương nhất… nhưng chính tôi đã hóa đá, tôi đã đông lạnh…

Hai người đang đứng im. Bóng tối sẫm đậm đè nhẹ. Hai người không nhìn thấy nhau nữa. Thiện Tân bỏ đi thắp đèn. Người con gái lấy khăn tay chậm mồ hôi rồi đi theo nhà sư ở sau bếp. Thầy đốt có một cây đèn cầy mà làm gì lâu dữ vậy. Em linh cảm anh sẽ trốn ra ngoài đi một mình… Anh Tân, em cương quyết lấy anh, nhất định chiếm anh cho được dù cam go đến đâu, dù đã làm đủ trò yêu ma quỷ quái mà anh vẫn không rung rinh… Em nhất định xé toang tấm áo cà sa vàng nghệ như người tiều phu đã chặt đôi cánh tiên của vợ.

Thiện Tân đứng thẳng cầm cây đèn cày dong cao:

- Để đừng ai khổ sở. Để cứu tôi và cũng để tự cứu Hằng, Hằng nên kết hôn với giáo sư Chu.

- Em đã mỏi môi, em đã tê lưỡi kêu như ve sầu với anh là em không bao giờ có duyên với giáo sư Chu cả. Em có duyên với anh thôi.

Thiện Tân nghiêm mặt:

- Bây giờ thì không nên chần chờ gì nữa. Hằng về đi.

Hằng cười:

- Sao khó quá vậy anh? Quyến rũ như em vậy là đến cùng, hấp dẫn như em vậy là đến cùng, dâm tà như em vậy làm đến cùng, táo tợn như em vậy là đến cùng, mà anh vẫn trơ trơ. Anh tu tài quá. Anh tu thật chứ không phải tu giả… Em đã không may mắn gặp một sư hổ mang, một sư hổ lửa, một tướng cướp trá hình. Em rủi ro như rệp, em đen đủi như mõm chó.

- Hằng tốt quá, rất tốt…

Người con gái giương mắt. Nhà sư tiếp:

- Hằng tốt, nếu Hằng đi về thì Hằng sẽ tốt hơn nữa.

- Em không cần tốt, em chỉ muốn thành công.

- Hằng rất thành thật. Hằng tốt…

- Anh là một thánh tăng.

- Không có.

- Anh là một thiền sư Tây Tạng.

- Không có.

- Anh là một cao tăng.

- Càng nói càng trật!

- Anh là một đại sư uy nghiêm bí trí dũng.

- Hằng giỡn dai quá.

- Anh sẽ là vị thánh tử đạo.

Thiện Tân cười, Hằng tiếp:

- Em sẽ tử vì tình.

- Hằng nói ẩu…

Người con gái bình thản:

- Anh chỉ biết có chân trời… có một chân trời mà anh đang lần đến mà thôi, ngoài ra không có chi hết.

Nhà sư cười:

- Hằng đã có vẻ biết điều. Hằng đã ra chiều thông cảm… Giữa chúng ta vui vẻ Hằng nhỉ? Hằng về đi!

Hằng lắc đầu:

- Lại đuổi… Lúc nào cũng đuổi. Vui cũng đuổi, buồn cũng đuổi.

Nhà sư nhắm mắt:

- Về là phải.

Hằng cười:

- Ở lại cũng phải.

Thiện Tân quay mặt. Vài tiếng muỗi vo ve nghe thật phiền. Ánh đèn vàng sẫm cháy không đủ sáng một căn phòng. Người con gái nghe lưng nóng, nàng mở cặp lấy chiếc quạt trầm hương trầm “thơm mãi Hằng ơi”. Hằng đã ghi vào nan quạt bằng chữ ấy. Hằng mở rộng chiếc quạt. Hình cô gái Nhật Bản mặc quốc phục lúng túng trên đôi dép triệt trông thật dễ té.

Người con gái áp chiếc quạt vào ngực, cười:

- Tình cảm anh là tình cảm đó. Giả sử bây giờ Cộng sản cũng quyến rũ anh như em quyến rũ anh vậy, thì em tin chắc anh sẽ xiêu lòng vì Cộng sản.

Nhà sư cắn môi. Hằng tiếp:

- Anh không yêu em, em vẫn lặp đi lặp lại những câu tỏ tình. Em như một nữ tướng Tàu đang chim trai giữa trận tiền. Em hát hỏng liên ca bất tận như loài cá có lớp vú hớp hồn những lính thủy. Em làm gì anh cũng không yêu em, em làm gì anh cũng như cây cột đồng. Anh là một nhà chân tu sắt thép. Anh chỉ thích ở chùa với thầy Lý, với hình bóng khả kính của ông không còn sống nữa! Anh không yêu em tí nào hết. Tại sao anh không yêu em tí nào hết? Em đã tự hạ nhục em vô cùng trong việc quyến rũ anh mà anh vẫn không yêu em tí nào hết. Em thù anh thâm xương, em sẽ nuôi một mối thâm thù và xương cốt của em sẽ nám đen vì thù anh. Mối thâm thù sẽ làm em chết dần chết mòn và anh không chết. Ai mang mối thù này thiệt vào thân.

Đêm đã khá sâu, lác đác vài nỗi huyên náo lẽ. Thỉnh thoảng những con chim mất ngủ kêu lên như trẻ con khóc dạ đề. Hằng vẫn giữ chiếc quạt áp vào ngực, Hằng cũng nhắm mắt lại như nhà sư.

Thiện Tân dịu dàng:

- Cô không thể ngồi nán lại ở đây nữa! Cô phải về gấp!

Hằng lắc đầu:

- Em vừa nhắm mắt lại rồi em mở mắt ra. Đời không sáng như đèn, đời mờ như căn nhà đóng kín cửa.

- Sao Hằng không về đi? Hằng ở đây thật phí công phí của.

Hằng dịu giọng:

- Anh hãy cố gắng đừng đuổi em, đừng buồn ngủ và đừng đói bụng, hãy cố gắng giữ em ở đây thêm một chút nữa đi anh. Kẻ thắng trận không thích đứng giữa trận tiền, chỉ có kẻ thua trận với xác chết thích còn lại trên mặt trận mà thôi.

Thiện Tân ngơ ngác:

- Đánh nhau đâu mà có kẻ thắng trận với kẻ thua trận? Hằng hãy chỉ cho tôi xem cái chiến trường bí mật đó.

Hằng áo não:

- Em chỉ biết em đang bại trận xiểng liểng mà thôi.

- Không ngờ lại có chuyện này… không ngờ lại buồn như thế này!

Hằng rên:

- Tại sao anh không phải là một sư hổ mang, một sư hổ lửa, một tên cướp trá hình?

Người con gái ngồi xịch xuống như một phé nhân. Nhà tu hành thu nhỏ đôi mắt lại nói đều đều một giọng như trong một bài tụng kinh lầm bầm. Cô Hằng, tôi đi tu từ bốn tuổi. Tôi ăn rau ăn cải ăn tương ăn đậu với ông tôi. Ông tôi đổ máu ra làm lụng nuôi tôi, ông tôi hụt hơi, ông tôi trầy da tróc vẩy, lóc thịt rút gân để nuôi tôi. Ơn to như ơn cha, ơn nặng như ơn mẹ. Tôi từ nhỏ đã quyết đi tu để trở thành một người như ông tôi, để trở thành thầy, để trở thành đại đức, thượng tọa… Nhưng ông tôi nghèo.

Ông tôi nuôi tôi thì nổi, chứ nuôi tôi học thì không nổi. Tôi còn nhớ một buổi chiều ông tôi kêu tôi vô nói: “Tất cả mấy anh chị em tiểu thương bạn hàng chợ đã quyết định đóng góp nuôi mi ăn học tới đích. Mụ bán trứng thì góp tiền bán trứng nuôi mi, mụ bán xà lách thì góp tiền bán xà lách nuôi mi, mụ bán khoai lang thì nuôi mi bằng củ khoai lang, mụ bán cá thì nuôi mi bằng tiền bán cá, mụ bán thịt, bán tôm, bán hàng xén, bán đồ gia vị, bán gạo, bán đậu, bán vải, bán cơm, bán cháo, bán guốc v.v… Người ta đi làm ăn nuôi con người ta, nuôi chồng người ta, bây giờ người ta rút bớt máu huyết, rút bớt tủy sống của người ta ra, người ta đổ thêm mồ hôi của người ta ra để nuôi mi ăn học đến nơi đến chốn làm sáng danh đạo Phật ta. Mi như vậy là sướng lắm con ơi! Mỗi người một vũng mồ hôi, mỗi người một búng máu, mỗi người một khúc xương góp lại nuôi mi đó con ơi. Mi nhận ơn to nghĩa nặng lắm con ơi. Mi phải xoay mặt vào vách mà học, mi phải leo lên cây lớn mà học. Mi vừa học chữ, mi vừa học kinh Phật. Mi phải trở thành một tấn sĩ và song song với việc trở thành một ông tấn sĩ, mi phải trở thành một đại đức, một thượng tọa. Mi phải cố tu và cố học con ơi. Từng cọng rau nuôi mi, từng củ khoai lang nuôi mi, từng cái trứng nuôi mi. Mồ hôi bên chợ Đông Ba nuôi mi, nước mắt bên chợ Bến Ngự nuôi mi.

Mi phải đội ơn từng muỗng nước mắm, từng trái ớt, quả cà, lon gạo. Ông tôi nhủ khóc đi con rồi cố gắng mà học, lạy tạ đi con rồi cố gắng mà học. Học mà tu, tu mà học, vừa học vừa tu, học bao nhiêu tu bấy nhiêu. Tất cả bạn hàng tiểu thương bên phố nhịn ăn, bớt tiêu nuôi mi để mi học cho đạo Phật. Mi đã thành người của đạo giáo, mi là một cán bộ tu sĩ, mi không còn là học trò riêng của tao nữa, mi không còn là đệ tử riêng của ngôi chùa này nữa. Mi là của công, mi là tác phẩm do một xã hội nhỏ đào tạo ra. Gắng học đi con cho ông sướng, gắng học đi con cho ông mát ruột.

Tự bao giờ, đồng hồ đã chết ì ở con số tám. Hai ba con thằn lằn đã ra cho đến bò xuống thật thấp. Hằng ngập nước mắt nhìn Thiện Tân.

Thượng tọa nói tiếp:

- Tôi là người của một quần chúng, tôi là người của một đám đông. Chợ Đông Ba, chợ Bến Ngự, chợ Xép, chợ An Cựu, Chợ Bao Vinh, tôi mang ơn, tôi tri ơn… Ơn còn đang nặng, ơn còn đang đầy vì tôi chưa hề trả, tôi chưa hề bắt đầu dền.

Hằng ủ ê:

- Bởi đó mà anh là một vị chân tư săt đá. Bởi đó mà anh không hề thiếu nợ em. Anh Tân cần gì mà phải trả ơn cho bà con bên các chợ. Quỵt cha cái ơn nghĩa đó đi anh. Đức Phật Thích Ca trước khi xuất gia cũng phải lấy vợ đẻ con cho đời đã mà! Đức Phật tạo được vốn riêng rồi mới tu.

Thiện Tân cười:

- Hãy chấm dứt cái trò chơi phiền não, hãy ra khỏ cuộc đùa cay nghiệt. Đừng dông dài với nhau nữa.

- Cứ phản bội Phật đi anh! Phật sẽ tha thứ. Đừng gây thù oán với em, em thù thâm muôn thuở. Hãy xử xấu với Phật, hãy xử tốt với người.

- Đừng, đừng nói nữa! Khuya khoắt quá rồi hãy nên về! Hãy giúp cho tôi đạt được công quả tu hành.

Hằng ứa khóc:

- Anh không muốn là kẻ phản bội. Em rủi ro không gặp một sư hổ mang, một sư hổ lửa, một tướng cướp trá hình, một tên lính đào tẩu, một thanh niên trốn quân dịch.

Thiện Tân nhỏ dịu:

- Đừng gặp họ, cô Hằng! Hai kẻ làm bậy không sao có thể sống với nhau nổi.

Hằng cười:

- Anh lại càng không phải là một sư hippi nữa!

Nhà sư cười to:

- Chữ hippi đó còn đang ở nước ngoài, chưa nhập cảng mà Hằng đã xài.

Hằng đứng lên lại gần bên Thiện Tân:

- Cùng đường cạn lối em đi tu với anh được không anh Tân?

Nhà sư ngồi yên, Hằng xích lại gần hơn nữa:

- Em nghe đồn trong Chợ Lớn có một nhà sư hổ mang.

Thiện Tân xua tay:

- Cứ sư hổ mang với sư hổ lửa.

Hằng cũng xua tay:

- Em vẫn còn đang mở mặt trận mà anh… Vâng, trong Chợ Lớn có một nhà sư hổ mang cầm đầu một tổ chức bắt cóc con gái nhỏ hai ba tuổi về chọc mù mắt rồi nuôi cho lớn, cho ăn ngon mặc đẹp, cho gội đầu, cho xoa dầu thơm ngan ngát rồi dạy cho cách đi đứng, dạy cho cung cách lễ phép để…

Hằng ngưng lại, Thiện Tân cúi mặt, Hằng nhăn mặt:

- Hãy nghe em khiêu dâm anh… Anh hãy làm bộ vểnh tai nghe cho em lấy can đảm để kể tiếp đi anh.

Thiện Tân cười gật gù. Hằng kể:

- Để… để họ dạy cho những đứa con gái đó học nghề tẩm quất. Tẩm quất cho những người đàn ông. Họ bắt đầu dạy thật sớm để đến mười bốn mười lăm tuổi thì những đứa con gái đó ra nghề. Những đứa con gái bị chọc mù mắt đó có hai bàn tay rất thông minh linh động, rất thiện nghệ, sáng suốt trong việc tẩm quất. Hai bàn tay mềm như bột, dẻo như kẹo kéo, mau như máu chạy chờn vờn trên thân thể đàn ông vừa chặt vừa đấm cho những chiếc xương kêu canh cách, vừa uốn nắn, vừa bóp, vừa mân mê, vừa thoa vừa gãi bất kỳ chỗ nào… và tràn lan mọi chỗ… Những đứa con gái trắng mũm mĩm đó mù mắt nên mặt mày chúng rất ngây thơ dại khờ, chúng đâu biết thân thể đàn ông có cái gì, nên chúng tẩm quất vô tội và hết lòng, chúng tẩm quất tích cực và thành kính… Chúng lại được ăn mặc sạch sẽ, cài hoa trên tóc.

Chúng vừa trắng vừa thơm, nhiệt độ thân thể cuộc sống chắc không bao giờ cao quá ba mươi sáu độ vì bàn tay chúng mát như thạch, mặt mày tươi tỉnh, non khờ ngốc nghếch không biết chi hết, chỉ lồ lộ một cái đẹp mà thôi. Vì chúng đui mù nên khác mới nghĩ rằng chúng đích thực là trinh nữ. Vì chúng đui nên chúng mới làm cái công việc chỉ dành cho điếm thập thành mà thôi. Vì chúng đui nên những người khách mới cảm thấy sung sướng được trinh nữ tẩm quất cái cảm giác thật khác biệt. Con gái điếm hầu hạ thì chuyện quá thường đi rồi. Nếu càng sáng mắt chúng là điếm.

Nhà sư nhíu mày:

- Khuya rồi Hằng không về lại kể những chuyện nhảm nhí đó làm gì?

Hằng lừ mắt:

- Chuyện khiêu dâm mà anh, tất cả mọi câu chuyện khiêu dâm dều rất lợi ích cho em.

Ngọn gió khuất mặt mướt mát thổi vào khung cửa rộng. Qua cửa sổ song sắt cục mịch, những con sáo nhỏ thầm thì trong một triều ray rứt hoài không thôi. Lùm cây lá cỏ đã hòa tan vào màn đêm đến. Vài tiếng ồn lẻ nghe thật rõ.

Người con gái cười hắt:

- Chúng mình ở đây như hai kẻ trốn đời.

Nhà sư lim dim mắt:

- Hằng về đi. Giờ phút này tôi không có Hằng trong con mắt, tôi không có Hằng trước mặt. Tôi đang thấy con đò nhẹ bỗng bò lốc lách trong sương tìm đến vùng tín ngưỡng trầm mặc của ngôi chùa huyền nhiệm như ở cõi tiên.

Nhà sư mở mắt ra, khuôn mặt người con gái ướt nhoẹt:

- Anh quạt em liền liền… Khi thì trực tiếp khi thì gián tiếp.

Thiện Tân gật đầu:

- Hă#ng và tôi… hai người sống hai cõi…

Hằng héo úa:

- Em là một đứa đại dâm đãng.

Thiện Tân buồn bã đứng dậy. Người con gái ôm mặt:

- Làm gì thì làm, nói gì thì nói, anh vẫn đá trơ đồng vững.

- Tôi xin lỗi Hằng thật nhiều.

Hằng khóc:

- Ngồi thêm hay ở lại cũng không xơ múi hột mít gì… Em xin về.

Thiện Tân đưa tay ra trước:

- Phải… Hằng làm vậy là phải… Hằng về nhà rồi Hằng sẽ lần lần lại tỉnh thần trí.

Người con gái nhìn ra cửa:

- Trời tối hù, em sợ ma lắm, anh đưa em về.

Nhà sư cười:

- Hằng mà còn biết sợ à? Cô khôi hài nhiều quá. Cô vui vẻ quá.

Hằng xô nhà sư lui một bước:

- Đồ ích kỷ.

Hằng khóc òa, đưa tay áo ni lông quệt nước mắt:

- Sư mô gì mà ác, mà ích kỷ. Sư mô gõ mõ tụng niệm… cả đời gõ mõ tụng niệm… Sư mô gì dở òm không biết làm việc xã hội. Làm việc xã hội mới giỏi… Sư với mô chỉ biết gõ mõ… Việc xã hội thì ngu đần.

*



CHƯƠNG V



Cả một nhà người ta mà hãm đứng. Người ta là người tu hành để yên cho người ta ở trên chùa, rủ người ta vô cùng nhà mình làm chi? Con gái ùn ùn mỗi đứa một phòng ùa ra vây cứng lấy người ta, giằng co giành giựt người ta, mạnh ai nấy kéo ông thầy thật tội nghiệp. Một bè con gái đứa nào cũng chưa chồng lùa ví người ta vào mê trận, đứa thì kêu ông thầy bằng anh bằng mình, đứa thì lấy tay xoa đầu, đứa thì vít vai hót cổ, đứa thì bẹo má hôn môi. Ông thầy cũng là người ta chứ đâu phải cái thùng thiếc mà không động tâm.

Chúng vẫn xoay làm ngũ tạng ông thầy lộn lạo như đĩa đồ xào, như tô canh hổ lấu. Tu làm sao được nữa mà tu. Ông cha thì nay cúng thầy món này, mai kỉnh thầy món khác, bà mẹ thì lui cui vô bếp nấu ăn ba ngày một tiệc nhỏ, năm ngày một tiệc lớn, tẩm bổ tấm béo cho ông thầy. Mụ cho cả cao hổ cốt vô cả cái cù lao nấu canh, mụ nhét yến sào vô cả nồi súp.

Người ta tu là tu cả cái miệng không được ăn ngon, rứa mà mụ nhét cao lương mỹ vị vô bao tử người ta… của ngon vật bổ vô trong người nó xúi dại con thú hoang làm bậy… Còn cái ông thầy kể cũng nguy, nhà người ta đông con gái như vậy mà không chạy đi còn chen vô ở mấy ngày làm chi không biết… Mà ở lì cả tháng chứ đâu phải mấy ngày. Nghe nói mỗi đêm ông thầy chun vô mỗi phòng… Ê tào lao… tào lao nào! Nhà người ta là nhà đứng đắn, ông thầy là bậc chân tu đạo mạo… Mấy cô con gái chỉ mình con Hằng mê thầy tu thôi. Con Hằng nhất định ăn vạ, con Hằng nhất định chiếm cho được.

Nó ép thầy phải lấy nó, ép bẹp dí, ép xẹp lép, ông thầy phải ôm đùm chạy về chùa. Nó lên tận chùa màu mè quyến rũ ông thầy, khóc lóc, cười cợt, la ó, giỡn hớt chim chuột ôm thầy. Con gái chi mà như con ngao cái. Mèo ngao cắn cổ ông thầy. Cái con Hằng nó năn nỉ ông thầy làm bậy, lạy lục ông thầy làmbậy. Không có cái phương pháp chi để đem ra hoạn, đem ra lặt đầu đàn bà con gái chứ con Hằng đáng lặt đáng thiến lắm. Ông thầy đã trốn đi Đà Lạt rồi. Phải, ông thầy đã trốn đi Đà Lạt rồi, ông thầy không mê con Hằng một chút nào cả. Ông tế con Hằng, ông lạy con Hằng xin để cho ông tu.

Thầy Thiện Tân đâu có quyền cởi áo, thầy Thiện Tân phải tu để trả nợ bà con bên chợ. Họ nuôi thầy ăn học mà. Không có mấy mụ bán tôm bên chợ thì thầy đâu thành ông tấn sĩ. Nhất định chúng ta không thể để cho thầy ấy quỵt chúng ta, thầy ấy giựt nợ chúng ta. Nhất định, nhị định, tam định chúng ta không chịu.

Bà Hai vừa bước vô hàng cá định dừng lại trước rổ cá bạc má bỗng nghe có người nói sau lưng:

- Ăn chay mà làm chi? Niệm Phật mà làm chi? Răng không về bẻ cổ con gái cho người ta nhờ.

Bà Hai loạng choạng, người giật lui hai bước, bà nổi máu xám lên đứng dựa vào quầy thịt. Bà moi chai dầu cảm gió trong túi ra xoa cùng mặt mũi rồi cầm cái giỏ ra khỏi chợ lên xe về nhà.

Ông Phủ đang ngồi cột cái eo cho một chậu cây kiểng lớn, thấy vợ đi vào, ngẩng lên hỏi:

- Răng cả về sớm rứa cà?

Bà Hai mím chặt miệng đi tới, ông Phủ nhìn vào giỏ chợ:

- Về không hả? Làm răng mầ cả phải xách giỏ về không rứa?

Bà vợ rên:

- Tui xám xoàng, tui ché chết giả…

Ông Phủ đứng dậy:

- Thôi chết, cả bị gió phải không?

Mặt người đàn bà tái dách như con cá bạc má:

- Người ta tát cả nước cá vô mặt tui, người ta ném ruột cá vô mặt tui, người ta liệng đầu tôm vô người tui.

Ông Phủ loạng choạng người:

- Mà răng đến nỗi rứa?

Bà vợ đưa tay lên ngực thở:

- Ba vô đây tui nói cho nghe.

Ông Phủ vứt cái bay vào bồn hoa cắt theo nửa vòng tròn, phủi tay đi sau lưng vợ. Bà Hai bước vô nhà ngang liệng cái giỏ ngồi xuống tấm phản. Bà ngồi co một chân lên nhìn thẳng ra cửa sổ trở sang vườn bên cạnh. Ông Phủ nhìn thấy những giọt mồ hôi lạnh lấm tấm trên má vợ:

Ông Phủ dịu giọng:

- Có chuyện chi răng cả?

Bà Hai thở nặng:

- Cả chợ người ta đồn ùm lên, đồn xỉa vào lỗ tai. Ông đem sư hổ mang, hổ lửa, sư rắn rít về nhà lấy hết cả bầy con gái mình… Ông tán tỉnh người ta bỏ chùa về ăn dầm ở dề nhà mình, phá hư công đức của người ta. Người ta không tu hành được nữa, người ta thông dâm hủ hóa với con gái mình… cả bầy con mình hư hỏng hết rồi… cả bầy con gái mình nát như tương hết rồi.

Bà Hai cho cả hai chân lên tấm phản gỗ, đầu gối đưa cao ngang tai. Cả tỉnh người ta nói xấu mình ông ơi. Con gái mình sẽ mốc như chanh muối không phơi nắng, sẽ ế rình ra đó không ai thèm lấy… Nhất là con Hằng, con Hằng bị dư luận quệt nặng nhất. Tội nghiệp thầy Tân bị mang cái tiếng nặng nề quá. Tội nghiệp… Đồn chi mà đồn độc, thấy con gái người ta đẹp rồi đồn độc. Đồ cả tỉnh ỉa chảy, đồ cả tỉnh xả xối hôi tanh! Ông ơi, bỏ cái tỉnh này mà đi cho rồi, bán quách nhà cửa mà đi cho rồi.

Ở đây đâu được nữa, người ta nám đùm mắm nêm vô mặt. Có chịu được không? Họ đồn con Hằng lên chùa ép uổng thầy Tân lấy hắn. Trời ơi, con gái của tui, ông này ưng ông kia ưng mà còn kén đã chịu lấy ai mô.

Ông Phủ giận ở cái miệng, run ở cái môi và đỏ mặt. Bà Hai dựa đầu vào tường đánh cộp.

Ông Phủ chui tay vào hàm râu cứng:

- Cả yên lặng đi cả. Trước hết hãy yên lặng đi đã. Cả đi lên đây.

Ông bước lên phòng khách. Bà Hai năm phút sau mới lẹp xẹp đi lên. Không khí hầm như tức giông.

Bà Hai nói nhỏ:

- Sai ai lên chùa hỏi thử có phải thầy Tân đã đi Đà Lạt. Người ta nói thầy đã bỏ trốn đi Đà Lạt rồi.

Ông Phủ đứng dậy đi lui đi tới, chiếc quần chân quê tréo hẳn đáy về một bên, ông quay nhìn vợ:

- Người ta nói thầy Tân sợ lánh đi ở Đà Lạt hả? Nhà mình chưa có chuyện gì xảy ra cả. Tại sao thầy Tân phải lánh đi Đà Lạt?

Bà Hai hoảng hốt nhỏ giọng:

- Con Hằng lại nghỉ học cả tuần nay. Con Hằng bỏ cơm nữa. Làm như đau vậy.

Những gốc râu cứng ngắn trên mép ông quan về hưu đầu ươn ướt. Lai thêm chuyện con Hằng nữa. Cả hãy để yên tui coi. Cả cứ yên lặng đi đã. Con Hằng coi bộ buồn, cả vô kêu con Hằng ra đây.

Bà Hai bước về phía tay trái đến phòng Hằng vặn hột xoài xô cửa:

- Hằng, Hằng… ba kêu.

Hằng đang nằm vẫn nằm. Hai mẹ con nói với nhau. Hằng nói chậm:

- Ba kêu có chuyện chi không?

Cứ ra ba biểu đã.

Người con gái vặn vẹo ngồi dậy cặp lại tóc.

Ông Phủ hỏi:

- Tại sao con nghỉ học?

Hằng đứng hai chân không yên:

- Cả tuần nay không có giờ học quan trọng, con ở nhà ôn bài triết.

Bà Hai hỏi:

- Con ra đường con có nghe người ta đồn xấu nhà mình không?

Người con gái kinh ngạc mở to đôi mắt quá cỡ:

- Đồn xấu răng dì? Người ta đồn xấu nhà mình à?

Ông Phủ lên tiếng:

- Mi không biết chi cả hả?

Người con gái lắc đầu ngồi xuống mân me những ngón chân móng hồng. Ông cha bà mẹ cùng nhìn vào con Hằng làm vài cử chỉ nhỏ săn sóc móng chân móng tay, đầu cúi xuống, chiếc lưng cong cong, vẻ mặt bình yên.

Bà Hai nói:

- Thầy Thiện Tân bỏ đi Đà Lạt rồi.

Người con gái vẫn yên lặng sửa móng chân, duỗi dài đùi kêu rắc rắc, mặt mày không qua một phản ứng nhỏ. Ông cha bà mẹ nhìn con kỹ như tra xét. Vẻ lì lợm của người con gái rất nhẹ nhàng và Hằng ngồi đó mơ mộng dễ dàng.

Bà Hai nói tiếp:

- Mi có biết răng thầy Thiện Tân bỏ đi Đà Lạt không?

- Hằng thong thả ngước lên:

- Con không nghe ai đồn chuyện đó cả. Suốt tuần nay có có đi ra đường đâu.

Mười ngón tay đẹp vẫn mân mê hai bàn chân, khuôn mặt người con gái thoáng mang mang một vẻ lạnh lùng Ai Cập ngước lên trần nhà. Con Hằng này đã nổi mặt lì lên rồi, miệng hắn cạy không ra, mắt hắn lừ lừ không chớp, hắn có thể ngồi trịch một chỗ cong vòng xương sống cả buổi. Hắn là một đứa con gái rơi từ cực khác chứ không bao giờ đứng ở giữa. Nóng hực đó rồi tắt nguội ngay, thẳng càng đến cực độ rồi chùng hẳn xuống, huyên náo đó rồi lặng ngắt đó, chảy như nước rồi tắt ngòi liền, láu liên lia lịa rồi nín câm khẩu liền.

Ông Phủ, bà Hai bỏ đi vô phòng đóng cửa.

Hằng cảm thấy mình lịm đi trong một cơn tê nhẹ không khó chịu nhưng không thể duỗi ra hay co về được. Lớp lệ che mờ con ngươi, Hằng vươn cổ lên cao hơn. Anh Tân! Chúng ta thấy thời thơ ấu của nhau, chứng kiến nhau làm con nít. Chúng ta như hai hòn bi búng trúng nhau, bắn xa nhau, quên phắt nhau trong thản nhiên rồi gặp lại khi hai bên đều lớn như thế này.

Anh là dòng điện nhẹ em chạm phải. Anh là đá lửa và anh cũng là đá lạnh mà em cầm thấy. Anh chẳng phải là một cây không nhựa. Anh chẳng phải là một mùa đông chỉ toàn mây chi. Anh là đàn ông mà em mê đến tê dại. Vì em đã không mê anh như một tác phẩm, một sáng tạo, một công trình, một ý nghĩa. Tình yêu đến với em như một sự lạm phát đau đớn nhất. Em đã lần lần tự giải phẫu trước mắt anh. Anh Tân! Em đã van xin anh đừng tu, đừng tu anh Tân. Lấy em anh Tân. Anh Tân của muôn thuở muôn thì, anh Tân của một quả tim mà em dành hết chiều dài đời em để quý mến. Mặt em trơ miệng em sượn, máu em đông, tay em bải hoải khi tấn công anh đủ mặt, tại chỗ và tại trận. Như chim muông có một bình minh dài để ca hót, như cỏ cây có một thì một thuở để sản xuất lá non, anh phải như em, phải có một lần để yêu và không thể yêu thêm lần thứ hai nữa. Em thương anh bằng cả lòng tham không đáy, yêu như giết, yêu như trừng trị, yêu như oan báo, yêu bằng cả ngọn đèn sáng nhất mà em đang thắp ngay trong miệng, và em nghĩ rằng trong tình yêu thật đếm không xuể những nỗi nhỏ bất hạnh.

Em yêu anh ngay như con chó ngoạm miếng thịt, như con mèo vồ cục mỡ, như con chuột chụp quả trứng.

Và cũng như người khác đã yêu anh, em nghĩ rằng em bắt đầu nói, em bắt đầu nghe và em bắt đầu một thế giới. Và yêu anh, em đã thấy cái chết tự nó có một nhan sắc. Những đêm khuya, em mơ mộng lu bù, em ước muốn tràn lan, em muốn chúng ta cùng đi dạo dưới những cơn mưa ấm vàng, những cơn nắng gấm óng ả, và đan những ngón tay thành kỷ niệm. Đi bên anh, em nghe những vỗ về của gió, những rét mướt của rừng, những bơ vơ của núi.

Ôi! Những cơn mơ trật bậy trật bạ hết cả. Thực tế khác những cơn mơ nhiều quá. Anh ì ra như một đầu máy chết, anh trơ trơ như những người chiến sĩ sắt đặt ở mấy công trường. Còn em thì múa như vũ nữ khêu gơi, như các nàng giang hồ… Làm gì cũng không được anh trả cho một cử chỉ yêu.

Anh đã trốn chạy em như trốn chạy một con khủng long, một luồng dịch, một cuộc truy nã… Anh đã chạy mặt em như một chiếc mã chở người thắng trận hay như một chuyến tàu rầu rĩ đưa những tù binh tàn phế trở về quê cũ. Anh đã trốn chạy em thật nhanh. Vua An Dương Vương đem con gái đi trốn quân Tàu cũng như vậy là cùng. Chớp một cái anh đã đi rồi. Thở dài chưa hết anh đã đi rồi. Cổ chưa ngẩng lên anh đã đi rồi. Can không kịp, trở tay không kịp.

Hằng vẫn ngước cao cổ, nước mắt dồn lên, hai tay vòng qua gối. Bà Hai xô cửa bước ra vấp vào cánh cửa. Người con gái sượng trân.

Bà Hai đặt tay lên vai con:

- Hằng… con cái chi mà lì. Lì như đá mài dao.

Hằng cười hắt:

- Đá mài dao thì chi mà lì… Mài riết cũng mòn.

Bà Hai gắt:

- Đừng có bò càng như cua rạm nữa mi ơi!

- Con có làm chi mô dì?

Bà Hai vứt bã trầu:

- Ngồi như đúc chì ra đó mà không lì… Nhà mình có chuyện buồn mà mi không biết chi cả… Thầy Thiện Tân bỏ đi Đà Lạt rồi, mi nghĩ răng Hằng?

- Thì như nước rút vô lỗ cống… thì như chuột rúc vô lỗ cống.

Bà Hai cằn nhằn:

- Ăn nói như mổ vào mặt người ta… Con gái tử tế mà mở miệng ra là như quạ diều hâu. Tại răng con lại nói rứa? Thầy Tân là một người cao minh chân chính, thầy ở trong nhà mình như ngọn đèn thắp giữa nhà. Gia đình mình một bụng ăn chay tụng kinh. Nay thầy bị người ta chu mõm gieo tai vạ cùng với gia đình mình, mình phải thông cảm thầm mới được. Dù ở trường hợp nào mình cũng phải tôn kính thầy. Hằng cười gằn:

- Tôn kính quá rồi chứ còn gì nữa… Trước mặt ông có ai dám lấc cấc láo cáo, ba gai ba góc, ba trợn ba trạc gì đâu.

Bà Hai đưa tay lên gãi vai. Chiếc lụa Quảng hơi mỏng in rõ hai sợi dây tréo nhau của tấm áo lót. Bà Hai mặc quần lãnh đen bóng lộn hoa to bằng cái đĩa. Chiếc cằm đôi càng làm cho mặt bà phúc hậu bệ vê. Hằng nghĩ rằng mỗi tháng mẹ mình ăn chay tới sáu ngày còn chi là ngon miệng nữa.

Bà Hai nhìn con gái:

- Ba mắng tụi bay đó, tụi bay có cái tật ăn nói vô hậu, ăn nói như đập đòn gánh vào mặt người ta… Tụi bay cứ tưởng mình nói câu chi cũng có duyên, mình làm việc gì cũng ý nghĩa. Tụi bay phải tôn trọng thầy Thiện Tân hơn cả cha mẹ bay mới phải. Thầy mới tí teo tuổi mà đã lên thượng tọa rồi. Thầy chỉ thông minh uyên bác trong chữ nghĩa kinh sách mà thôi, còn việc phàm tục thầy có biết chi mô, thầy sạch như tiên.

Hằng dựa lưng vào tường ngó ra ngoài vườn:

- Thầy thấy đàn bà khỏa thân rồi đó. Cách đây năm sáu ngày có người con gái đã tụt quần trước mắt thầy, sát bên lỗ mũi thầy.

Bà Hai xoa tay kêu chí chóe:

- Miệng mồm đâu mà nói được mấy cái tiếng đó. Bá láp bá xàm nói không sợ bị tội. Người ta là bậc chân tu tâm hồn trong trẻo như ngỗng trời.

Hằng cười hắc hắc:

- Thầy ôm cả khổ thân thể con gái nóng bỏng trong tay rồi đó.

Bà Hai hét:

- Hiện ngụy thiên tinh chưa? Trong nhà trong cửa nội ngoại với nhau mà còn đồn ẩu huống hồ người ngoài.

Cô gái vuốt tóc mình:

- Thầy nghe biết đủ mọi câu khiêu dâm mời mọc, thầy biết cả chuyện con heo bẩn thỉu như ai đó, dì à.

Bà Hai dậm chân:

- Hằng… mi mê mớ chi đó con tê… nói độc nói địa.

Người con gái vẫn cười:

- Rồi thầy sẽ biết tán gái.

- Thôi, tao không nghe mi nói nữa.

- Thầy ăn nước mắm rồi.

- Nói như dơi mổ mãng cầu.

- Thầy ăn cả mỡ heo, thầy ăn cả mỡ gà, thầy ăn cả xương súp viên thành viên nhỏ người ta mua về cho vào nồi nước dùng cho ngọt.

Người mẹ quay quắt:

- Trời… tao méc với ba… Con trùng còn có đầu có đuôi, mi ăn nói không có xuôi có ngược chi hết. Cái ông Phủ, đẻ con gái cho lắm để đứa nào cũng điên điên đảo đảo… Cái ông Phủ không dạy con, tui đẻ ra ông phải dạy chứ, tui đã đẻ mà còn bảo tui dạy nữa… Chết! Con cái hư hỏng tai họa hết rồi. Làm răng đây?

Bà Hai ngồi xuống, giọng nhỏ lại:

- Hằng, hay là mi có xúc phạm chi đến thầy Tân?

Hằng ngáp:

- Dì chống mắt coi thầy Tân lấy vợ.

Bà Hai quẩy mạnh người đứng dậy la lớn ông Phủ ơi rồi lết bết đi vào trong. Hằng lại ngồi ôm hai bàn chân mặt ngước cao, mắt ứa ướt. Anh Tân! Em vừa cung xưng xong, em vừa thú tội với dì… Cung xưng xong rồi, thú tội xong rồi em mới ghê tởm tội em quá chừng, em mới sững sờ cái tội em làm. Em đã phá phách anh bằng hai bàn tay vung tròn múa loạn, em đã đạp đổ bằng hai bàn chân nhảy đành đạch. Tội em xưng ra đó thật táo tợn khủng khiếp. Em chỉ sợ thôi chứ em không hối hận. Em sẽ làm thêm tội nữa, em sẽ gây thêm tội nữa. Phật thần sầu, Phật quỷ khóc. Em sẽ tìm anh, sẽ đuổi theo anh dù eo bể dù bầu trời. Anh không thoát khỏi em đâu. Anh không lọt lưới em đâu. Lưới của em giăng ra cũng lồng lộng như lưới trời. Em sẽ làm tới nữa. Em sẽ làm nhiều tội dù tổn thọ. Việc em làm sẽ thành. Em chưa tuyệt vọng dù hy vọng có mất chút ít. Em còn hơi thở, em còn giằng co níu kéo anh. Em còn hơi thở em còn hại anh đến kỳ cùng. Hại anh, hại anh nhân tiện em hại em. Hại anh, em tự phạt em bằng một hình phạt sung sướng.

Hằng lấy vé xe hàng đi Đà Lạt với mớ hành lý nhỏ. Chỗ ngồi chật đến nỗi cầm cuốn sách trên tay nàng cũng cảm thấy vướng víu khó chịu. Xe tới Phú Bài còn nhận thêm hai hành khách nữa chen nhau dẹp lép.

Xe lên đến độ cao của con đèo Hải Vân; Hằng đưa mắt nhìn ra biển tù mù, nước la hét đập vào ghềnh đá lởm chởm răng cưa. Đoạn đường vừa qua Hằng thấy như cả một sự trụt dài.

Xe qua khỏi đèo dừng lại để hành khách xả hơi ăn điểm tâm. Hằng chậm chậm đi trong bình minh thắm. Thời gian như dậy mến, như hăng hăng chất rượu, như cay cay vị quế, như ngát mùi trầm. Bình minh như có sức thôi miên, bình minh như hy vọng buồn dò dẫm trên bao niềm suy tư riêng rẻ. Bình minh hồng tươi, sâu như lòng chảo và khối tim Hằng thật mênh mông trống vắng. Trời cao ngất, da trời màu ruột quít, mây trắng nhạt đi mông lung, lan man. Hằng ngồi xuống bực đát bất động, đôi mắt trông ra theo triền nước nắng lóa. Đá xếp từng lớp dưới chân nàng như mệt mỏi, như buồn bực, như gắng gượng, như cau có gắt gỏng suốt đời.

Hằng đến nhà Xuyến vào buổi trưa, nghỉ một ngày rồi lấy vé máy bay đi Đà Lạt ở trọ nhà một người bạn gái dạy trường Bùi Thị Xuân.

Hằng hơi ngượng, mình chẳng đem theo một tí quà quê hương nào cho bạn. Một chục nem cũng không, một đòn chả cũng không.

Lục tiếp Hằng sau giấc ngủ chiều:

- Mi đang đi học mà? Giữa niên khóa sao bỏ đi đâu vậy?

Hằng cười gượng:

- Bỏ học luôn… Gấp quá! Tao muốn đi là nhảy phòng ra đi không có mua nem chua nem chả gì cho mi được.

Lục xua tay:

- Mi lên đây hơi trễ, hết mùa mận rồi.

- Không bao giờ tao đi Đà Lạt vì dâu vì mận với xà lách.

- Trời cũng sắp hết lạnh ròi.

Hằng nhìn ra cửa:

- Hơi tiếc một chút… Phải hưởng cái lạnh của Đà Lạt một tí mới vui… mặc áo ấm thú lắm.

Hằng quay lại ngó Lục:

- Mi dạo ni mập ghê! Ở xứ lạnh nguy mệt là cái người mập ra lúc nào không hay.

Ở đây không có cái không khí ăn chơi, xong công việc về nhà ngủ… Ngủ đầy cả đêm, ngủ cả ngày, lại ăn cơm chiều, lại gặp thời tiết lạnh… cứ quanh năm mặc áo ấm che giấu thân hình, không thấy thân hình phì nộn ra… Mi phải đi Saigon mi mới biết mi mập.

Lục cười:

- Cứ về Saigon vài bữa lại chạy lên Đà Lạt gấp.

Hằng nhìn ra bầu trời màu trắng dịu mơ hồ, nắng hình như chẻ thành những đường kẽ thẳng xuyên qua từng gốc cây, không khí hắt hiu loãng nhạt và buổi chiều trở mình nhẹ nhàng.

Tiếng Lục:

- Năm nay thi cử lại đang giữa niên khóa, mi tốc ra đi như vậy thiệt ẩu không chịu được.

Hằng cào rối đầu tóc:

- Tao làm chi mi cũng nên coi việc làm của người mất trí. Tao thôi học luôn.

- Gắng học thêm sáu tháng nữa, còn có sáu tháng nữa thi rồi.

Hằng ra nằm ở chiếc ghế dài lim dim mắt, Lục nói mi đi tàu bay mệt ngủ một tí đi.

Anh Tân! Bấy giờ gia đình em đang khám phá ra chuyện mất em. Bây giờ dì Hai và ba nhận thấy những lời thiên hạ nói là đúng. Bây giờ gia đình em đều vỡ mặt ra, vỡ mật ra, vỡ mạch máu ra. Con Hằng mê sư ông, con Hằng chim sư ông, con Hằng đi theo sư ông. Em đạp nhào gia đình để săn anh nhất định đây, săn anh nhất định khó hơn săn vàng nhất định khó hơn săn cá voi. Trời đất mênh mông tìm anh đâu thấy, em đi tìm anh như người vợ trong truyện ca Trầu cau đi tìm chồng đã mọc thành cây.

Nàng đi tìm chồng trong mối tình ly kỳ hòa đồng tình yêu chồng vợ, tình yêu anh em. Người chồng của nàng yêu em như anh yêu Phật vậy. Anh chỉ có Phật. Nước mắt mâu thuẫn trong truyện ca Trầu cau là nước mắt hy sinh, hòa đồng hình ảnh cây trầu quấn quít quanh cây cau. Tình anh em, tình vợ chồng, tình chị dâu em chồng ba chỗ nung đá thành vôi quệt vào trầu với cau kết thành màu máu đỏ thắm.

Anh Tân! Anh ở đâu hãy hệin ra cho em bắt. Anh đừng trốn, anh hãy hiện ra. Đà Lạt nhiều rừng, em sẽ đốt hết rừng cho anh hiện ra. Thế nào anh cũng hiện ra. Anh hiện ra không dưới lốt một tu sĩ mà dưới lốt một người đàn ông, tóc anh dưỡng rẽ dài, anh đi mạnh như lính, anh mặc âu phục quý phái, anh mặc âu phục toàn đen đi bên em áo dài trắng sáng. Tất cả mọi người đàn bà không bao giờ biết ơn người đàn ông đã lấy mình nhưng em biết ơn anh triệt để. Em không biết ơn anh chị bầu bạn em trong tình gia đình ruột thịt, không biết một bụi bặm ơn nghĩa của ai hết. Em chỉ biết ơn anh mà thôi.

Trên đời chỉ có một ơn nghĩa tàn khốc đó mà thôi… Hãy ló đầu ra với em, hãy cho em gặp lại anh tại Đà Lạt đẹp. Hãy cho em nghĩ rằng sẽ có một cuộc gặp gỡ tại Đà Lạt đẹp. Em lên đây hớn hở, em lên đây tràn trề hy vọng. Em lên đây vì quyết định của lòng và của trời.

Bắt đầu ngày mai là một cuộc lùng kiếm. Em đi lùng anh, em đi bắt bớ bố ráp anh. Anh nợ em một khoảng tình. Không bao giờ anh có thể trốn nợ được. Em như thế này thì làm sao anh trốn được. Đam mê hơn kẻ bỏ quên vợ ở nhà ngậm ngãi tìm trầm. Tối ám như ông vua Ngu nước Tề của bộ chuyện đông Chu Liệt Quốc yêu em gái ruột của mình trong an bài của một định mệnh khấp khểnh ác độc. Em đã hư, em quyết càng lăn lộn nữa để hư thêm, hư đến cùng. Hư với anh, em không biết xấu biết trẻn một mình quyết sự dâm đãng của em như sở y tế quyết diệt trừ muỗi sốt rét, như sở cảnh sát diệt trừ nạn ma túy. Vô ích, em, em sẽ quấn anh từng vòng như con trăn dài. Một khối nợ mà em phải đòi. Nợ như ngày xưa chàng Hứa Văn nợ nàng Bạch Ngọc một khối. Chàng Hứa Văn là con rắn trắng tu luyện thành thần. Hai nhân vật chính của bộ truyện Bạch xà… Chàng Hứa Văn trốn nợ, nàng Bạch Ngọc quyết đòi nợ. Đuổi bắt đẹp như bươm bướm mà đòi nợ, phục kích mà đòi nợ, dùng mưu đen mà đòi nợ. Con nợ chạy không được. Em không thua, em không thua con rắn ngọc đó đâu. Rắn mà còn quyến rũ người được…

Ngoài nhà, Lục đang có khách đến chơi.

Giọng Huế con gái trong trẻo:

- Tối nay đi xi nê, ăn phở.

Lục nói nhỏ:

- Ui! Không được… Có con bạn ở Huế mới lên… nó đang mệt. Tối nay tâm sự đã… Ngày mai còn điệu hắn đi viếng cảnh nữa, dắt hắn đi vô rừng nữa.

Chị bạn nói chuyện được năm phút kêu mỏi lưng, kêu chán, thôi biếu cái đá, lại rủ con Hoa đi chơi đã.

Tuyết lon ton chạy vào ê Hằng ngủ hả, nằm đi để ta xuống bếp làm món súp, tối nay hai đứa ăn xúp đậu đũa.

Hằng phát ngán món súp đậu đũa của bạn. Hằng chỉ ăn bánh mì nướng quệt bơ.

Tám giờ tối, mấy cô gái ở những cư xá kế bên dồn sang nói chuyện. Moi mặc áo ấm tự tay mình đan hết sức đạp và mỗi người đều đang thoăn thoắt đan len. Những cánh cửa kính đóng gạt buổi tối thanh bình ra ngoài. Hơi lạnh ngai ngái, Hằng tự nhiên thấy bằng lòng cái thứ lạnh ngai ngái đang ủ đều trên da thật nhiều, thứ lạnh có cả mùi thơm lạ lùng của cao nguyên rừng và mây.

Hằng ngồi duỗi chân dài, người nằm lên ghế nệm, hai con mắt bay đi khung trời nào xa lạ.

Cúc nhìn Lục:

- Chị Hằng dạy học ở Huế?

Hằng vội vã lắc đầu:

- Em còn đi học… Năm nay thi nhưng không muốn thi nữa, em bỏ lên đây.

Cúc cười:

- Chị Hằng nghệ sĩ…

Hằng nhìn vẽ tầm thường ở những người bạn mới. Hằng thấy mình thật xa vời đối với họ, nhưng Hằng lại gần gũi với màu trời ngoài kia, bóng tối xuống đầy sương phiêu lưu và cỏ biếc, hương thơm của một chất dầu trên mái tóc với đêm nhung bên ngoài chập chờn kết đọng lại.

Hằng hỏi:

- Hình như ở Đà Lạt nhà nào cũng có lò sưởi?

Tuyết bĩu môi:

- Nhà tao là cư xá chính phủ cho ở vừa đủ, chỗ đâu mà xây lò sưởi.

Cúc nói:

- Lò sưởi trong nhà là một thứ bối cảnh.

Châu, người trẻ nhất trong bọn nhún vai:

- Ở cư xá này toàn là con gái độc thân hết.

Hằng cười:

- Một thứ ngân hàng.

Có tiếng kêu cửa Lục ơi. Người vừa vào là một thiếu phụ mang bầu. Lục giới thiệu:

- Chị Thái.

Hằng kêu:

- Chị Châu vừa nói ở đây toàn con gái.

Thái kêu mỏi chân ngồi xuống ngay. Thái đang đan một chiếc vớ với sáu cây kim nhỏ.

Hằng nói mấy chị ở Đà Lạt cả ngày không làm gì ngoài chuyện đan len, các chị có đan thuê không? Các chị có đan len bằng máy không? Ui! Người Vinh sang ở Đà Lạt không ai thích mặc áo lên đan máy đâu, mỗi người con gái đều có hai tay để tự đan áo cho mình.

Hằng hỏi:

- Chị Thái đan cho tí nhau sắp ra đời mấy bộ đồ lên rồi?

Thái đấm lưng:

- Đan hoài, kiểu nào cũng mô…

- Chị đan áo bé trai hay bé gái?

- Áo bé gái… Cứ nghĩ mình sẽ sinh con gái đầu lòng…

Căn phòng chợt nhiều tiếng nói hơn. Đẻ con gái tuyệt hơn đẻ con trai chứ. Lần làm mẹ đầu tiên mình còn nghĩ là mình cũng đang chơi búp bê. Người khôn mới thích đẻ con gái, đẻ con gái sinh lợi, báo hiếu được nhiều. Con gái bây giờ thật rất dễ dàng ế chồng, ế chồng để ở lại nuôi cha mẹ…

Hằng hỏi:

- Ở đây đêm nào cũng có họp ngân hàng?

Lục gật:

- Lai rai thôi…

- Có đánh bạc không?

Lục lắc đầu:

- Không bao giờ… Bọn này thỉnh thoảng họp nhau nói chuyện nói quên cả đêm khuya, nói tào lao khổ cả nước bọt, nói đến mất ngủ… Cứ nói chuyện rồi bỏ ngủ… Tối thứ bảy nào cũng vậy… nhưng, sáng chủ nhật vẫn dậy sớm kéo nhau đi ăn phở. Phải bắt con Hằng ăn phở Đà Lạt mới được… Ngon nhất… Ăn phở Đà Lạt rồi không còn muốn ăn phở Huế nữa… Cái không khí ở đây uống cà phê với ăn phở thật hợp.

Thái kêu mỏi lưng đứng dậy về ngủ trước, mấy người nán lại tới nửa đêm. Buổi sáng trước khi đi ăn phở, Lục hỏi:

- Anh Tánh dạo này thế nào?

Ông anh nghệ sĩ của Hằng, ông anh con bà vợ cả, ông anh dành hết căn phần tài hoa của các em. Minh cũng hát hay đờn giỏi nhưng trước Tánh, cái tài của Minh vứt đi. Tánh là một ca sĩ góp giọng quý trên những đài phát thanh trong nước, một ca sĩ tài tử hát với cái tên thật của mình do cha mẹ đặt ra và hát hay không ai hát lại. Em đến thăm anh một chiều mưa, Ngọc Lan, Tiếng thời gian, Đêm tàn bến ngự, Thiên thai, Suối mơ, Biệt ly. Tang tóc bài nào qua miệng Tánh cũng trở thành những ca khúc bất tử hoàn tích. Giọng hát của Tánh không tròn không kín, nhưng mịn như nhiễu tàu, ấm như hơi cơm bốc và chùng xuống thấp lè tè để la đà trên một thung lũng nào đó. Giọng hát được bao nhiêu người mê và Tánh cũng mê bao nhiêu người.

Cô Thoa y tá, cô Út hàng xén chợ Bến Ngự, cô Hồng Sơn ca sĩ. Tánh hát cho gái nghe và chính mình nghe. Tánh hát hay và rất vô tội, bỏ học mà hát, bỏ chơi mà hát nhưng học vẫn giỏi, vẫn xuất sắc. Mỗi năm trèo lên một lớp và đúng hai mươi tám tuổi thì ra bác sĩ. Nhưng thành tài rồi thì Tánh bỏ hát ngang cái rụp, giã từ nghề ca sĩ cái phắt.

Thôi bây giờ đã là bác sĩ rồi không hát không ca không trình diễn trước đám đông trên làn sóng điện nữa. Bây giờ là bác sĩ rồi phải đổi ngay tác phương ngữ. Đời đi hát sẽ làm bớt thể diện, giảm tư cách của người thầy thuốc. Tánh là một ca sĩ lớn, một danh ca vang tiếng, chẳng phải chịu tiếng đời.

Huế không chê chàng vì chàng là một người rất Huế, Saigon chê chàng, Saigon cười chàng rồi. Chàng trọng bằng cấp đến độ tỏ ra một thái độ đình công trơ trẻn với nghệ thuật. Ông bác sĩ là ông lớn nhất trong những ông lớn. Được cái bác sĩ bỏ ngay ca sĩ.

Hằng trả lời theo cái thở phào:

- Anh Tánh bị chê cũng hơi oan. Anh đâu có muốn phụ bạc nghề ca hát, nhưng, ngặt anh bị kẹt… Cái bà vợ ghen quá trời quá đất, ghen đến chết giả, ghen đến làm kinh. Mỗi lần ông đi hát một cái là bà ở nhà xâm xoàng phải chở vô bịnh viện. Ông lại kẹt một cái nữa là ông đẹp trai quá! Vài ba ngày bà làm kinh một lần… Gia đình lục đà lục đục, ba tao quyết định anh phải bỏ hát cho yên chuyện… Bụng anh Tánh, anh không muốn nghĩ hát một tí nào hết.

Lục chép miệng:

- Cho đến bây giờ vẫn chưa có ai hát bài “Em đến thăm anh một chiều mưa” hay bằng anh Tánh.

Hằng cười:

- Anh Tánh hát bài “Tiếng thời gian” nhất…

Hằng chải đầu tóc hơi rối một tí, khoác nhanh chiếc măng tô hối giục bạn trang điểm mau mau.

Lục ngắm bạn:

- Mi ở Huế mà cũng tậu được một cái măng tô bảnh quá ta.

Hằng xốc cổ áo lại:

- Mi đừng có khinh Huế… Cái lạnh ở Huế cũng bảnh lắm. Huế có thua chi Đà Lạt… Lạnh tuyệt.

Hai người đi ra, con đường đất thật đỏ, lớp sỏi nhỏ rắc lên trên cũng đỏ. Thông trồng chật mặt đất, thân thể vươn thẳng lên thật gần thật xa, vỏ như già dặn, nõn hoe vàng, lá xanh biếc. Hai bàn tay Hằng vuốt nhau, lạnh quá.

Trời không có gió mà vẫn lạnh, lạnh từ không khí chứ không phải lạnh từ gió. Nhưng đọt thông nhọn vẫn thẳng tắp. Lục nói ở gần chùa Lai Sơn có những cây thông già cằn cỗi uốn vặn những thế ngoạn mục hệt như trong tranh thủy mạc của Trung Hoa cổ xưa thật đẹp.

Hằng đứng dừng lại:

- Chùa Lai Sơn đi có xa không?

- Khá xa, đi xe lam rồi xuống đi bộ.

Hằng cầm tay bạn:

- Đi chùa Lai Sơn đi.

Lục trợn mắt:

- Nghe một cái đã chụp… Ở Huế bay lên đây mà đi chùa sao Hằng?

- Đi cho biết.

- Ở Huế mi có năng đi chùa không?

- Có.

- Mi đi tu…

- Còn lâu… Tao không muốn ai đi tu hết. Tao phá…

Hằng đưa tay vẫy xe lam. Ăn phở xong đi xi nê. Công trình sửa soạn bắt mệt không lẽ ăn phở xong là về sao? Tụi tao mỗi lần ăn phở xong là đi xi nê.

Hằng không trả lời nghếch mắt nhìn những gốc thông đứng nghênh ngang đón bắt những chùm ánh sáng lóe ngời làm cho từng lưng đồi xa gần trùng điệp đều như viền chỉ bạc. Hằng ngầm trầm trồ những cây thông trông đẹp như những cây sinh nhật vĩnh cửu.

Lục hỏi lại:

- Lát nữa mi đi xi nê hay đi ngắm chợ Đà Lạt đây? Đi chợ Đà Lạt tuyệt lắm.

Hằng lắc đầu hết sức nhẹ. Lên đây để mà đi xi nê với đi chợ! Thôi chết ngất tôi rồi bà Lục ơi.

Sau chầu xi nê, Lục nhất định kéo Hằng vô chợ. Đi lần này cho luôn tiện, để lần khác khỏi. Cả Lục và Hằng đều lấy làm bằng lòng nhau. Hằng không làm phiền Lục phải dẫn đi thăm nơi này nơi khác. Lục bận học thì không còn thì giờ rong chơi. Hằng tự cười thầm mình đang còn đi học lại bỏ không thi, trong lúc mấy chị em giáo sư ở đây ai cũng đeo đuổi những chứng chỉ văn khoa.

Hằng bỏ Lục đi cả ngày. Chùa Lai Sơn, chùa Liên Tỉnh, chùa Chân Phúc, chùa Giác Lâm, chùa Từ Y. Người con gái lủi thủi một mình trên mấy con đường cong gãy xanh mát dưới không gian rộng qua những rừng chuối rừng tre, rừng thông, thảm cỏ đồi trà bãi lau tiếp nối ngút ngàn đến tận chân mây xa, người con gái ngẩn ngơ một mình trước muôn ngàn âm thanh dũng mãnh ầm ầm đập vào sườn đá, dạt dào tuôn chảy trước muôn ngàn âm thanh li ti lững lờ trôi không đợi phải nghe bằng tưởng tượng từ một miền gần gũi sát bên tai từ một miền vẳng xa dưới sâu thung lũng. Người con gái áp tai vào gió lộng trong lúc lang thang khắp nẻo nhìn mấy ngọn lau bạc phất phơ bên những tiếng cựa mình của cây tre ngọn trúc. Người con gái liếm moi lặng nghe ngàn thông vi vu hoặc ngước ngó hoa thông nọ, gió lan phấn vàng vào không gian cảm tưởng như có thể nếm trong nỗi mát của trời, hương thơm và vị ngọt thanh khiết nào đó. Những lưng đồi hiện nhấp nhô điểm chấm nâu đen chấm trắng màu lông của bầy ngựa thả rong đi lung tung tự do tùy hứng của những cặp vó trên mấy miếng đất có cỏ non, nước suối len lỏi chồm qua đá tảng, quanh co uốn khúc ép một bề theo sườn núi sẵn, tìm tới thung lũng tụ lại thành hồ và hẹn hò họp mặt ven bờ vực thẳm rồi oai hùng đổ xuống thành sức mạnh vũ bão hơi bốc bay mù mịt. Không gian rộn ràng một màu xanh.

Anh Tân! Em tìm anh bất lực như thỏ tìm rùa, em tìm anh không ra không thấy. Không bao giờ em tìm anh được. Anh trốn trong bóng tối, em chìm trong ánh sáng, chỉ có một cách cho em gặp anh là anh tự ý xuất hiện. Anh ở trong khoảng đen, anh thấy em hoạt động ngoài khoảng trắng sao anh không xuất hiện. Em co ro thảm bại rồi, bây giờ chỉ còn chờ anh xuất hiện nữa thôi. Em ho vì lạnh phổi cả tháng nay, máu em có khô chút ít, hơi em có hụt chút ít.

Người vợ trong truyện ca Trầu cau phải chết vì người chồng không xuất hiện, nàng chết không toàn thân xác, nàng chết thành cây trầu. Anh Tân! Từ một chỗ tối nào đó anh hãy sừng sững bước ra đi. Tìm anh không thấy chắc em chết. Em sẽ đem cái chết đổi lấy tình. Không lấy được anh nhất định em chết, nhất định chết chứ không còn gì hơn nữa.

Anh Tân! Tội lỗi tiếp nối tội lỗi. Tội lỗi chồng chất tội lỗi. Tội lỗi có một lẽ phải duy nhất là cái chết. Em làm ra tội nhiều quá đến nỗi em thấy em bắt tội, bắt thảm. Chỉ một mình em thấy cái tội cũng như thấy lẽ phải của tội lỗi em làm. Anh hãy hiện ra, hiện ra đi anh.

Hằng trở về nằm sóng soài, Lục mặc một bộ đồ pizama dày dặn đến ngồi bên:

- Mi coi bộ mệt nhiều chứ không phải chơi mô đó Hằng nghe.

Hằng ngáp:

- Chắc tao tôi ở nhà mi mất.

Lục nhướng mắt:

- Mi chụp hình chụp bóng chi mà ngày mô cũng đi rứa?

Hằng lắc đầu xoay mặt:

- Đi săn hình ảnh… Chụp hình con ma trong bóng tối. Ngày nào tao cũng la lết như con nít bò trong mấy bụi cỏ, bờ suối. Phải công nhận ánh sáng mặt trời ở Đà Lạt thật tuyệt mỹ, mặc áo màu gì cũng đẹp, thứ hoa nào cũng rực rỡ khi mặt trời lên.

- Mi có chụp hình người Thượng không?

Hằng ngáp nhắm mắt:

- Tao mà ngả bịnh ở nhà mi thì thật hai đứa cùng mạt rệp… Mệt quá!

- Mi hơi khùng, mi khác thường… Bác trai bác gái làm chi mà không la rầy mi cái chuyện bỏ ngang thi cử. Đang đi học ngon trớn bỗng đùng đùng… Chán thật!

Anh Tân! Mỗi buổi sáng ra đi tìm anh, con Lục kêu em tiều tụy quá, em héo hắt em gầy xẹp. Khí hậu Đà Lạt phải ở một tháng trời mới quen, da em còn xủi, bụng em còn trối nước… Con Lục dọa nếu em bịnh ở nhà nó, nó sẽ đánh điện tín cho ba lên bắt em về. Con Lục nó thấy em bỏ học mà tiếc.

Anh Tân! Cuối cùng anh đã hiện ra. Anh hiện ra cho em bắt chớ sức em thì mấy mà tìm anh được. Anh có vẻ khoẻ hơn, hồng hào hơn, anh thảnh thơi đi tìm hoa lan, anh sung sướng sưu tầm đủ loại lan. Anh lựa cái thái độ không dại tí nào hết. Em đã bắt được anh rồi. Hai bà vợ vua Thuấn đi tìm chồng, cuối cùng phải chết vì những vị thần thánh không phù hộ họ đến nơi đến chốn. Còn em, em chỉ đi tìm anh có ma đưa lối quỷ dắt đường và Sa tăng đã xô anh xuất hiện cho em chụp trúng. Anh Tân! Gặp anh rồi thế là em khỏi chết… Hãy đặt những giỏ lan rừng xuống để vồ vập hỏi em một tí… Anh lăn xăn lên một tí, lăng quăng lên một tí. Đứng ì ra một đống như chiếc tàu mắc cạn. Những cây thông đã đứng thẳng, anh còn thẳng hơn những cây thông nữa. Mừng em đi! Như bà bán hàng rong mừng đứa trẻ. Anh bỏ đi, em khóc no một đêm rồi em quyết định bỏ nhà.

Hãy ngồi xuống dưới cỏ tươi nói chuyện, hãy ngồi lên những cây thông người ta cưa ngang chỉ cao bằng những chiếc ghế đẩu, hãy ngồi lên những tảng đá không bao giờ bể… Hai bàn tay em chờn vờn chới với không dám níu anh, không dám cầm anh giữ anh.

Nước mắt chảy ra ngoài, nước mắt rớt xuống vì nghẹn ngào ngôn ngữ.

- Nhưng đôi nhân tình gặp nhau, người đàn ông kêu “em”, người đàn bà kêu “anh”… Còn chúng ta…

Nhà sư cúi đầu như cây chết héo, hai tay ngâm sâu trong túi áo măng tô:

- Tôi tưởng trò chơi đã chấm dứt.

Người con gái ngước lên:

- Em là một đứa không biết đầu hàng, không chịu ôm tuyệt vọng dù luôn luôn biết tình của mình chỉ một chiều.

Nhà sư im lìm, hai mắt người con gái nhòe nhoẹt:

- Em chết vì anh chứ không chết vì ai hết, anh Tân ơi!

Người tu hành ấp úng:

- Hă#ng đã biến thành nạn nhân của trò chơi dại của Hằng.

Hằng rũ liệt:

- Anh không đau khổ như em phải không, anh Tân?

Thiện Tân gật đầu:

- Tôi có chân trời của tôi, tôi tin tưởng, tôi mê đạo. Trước mắt tôi chỉ có ánh sáng vàng, tôi tri ân tràn đầy những ân nhân của tôi…

- Rốt cuộc chỉ một mình em đau khổ.

- Tôi đã đi tu rồi, tôi hơn người rồi.

Hằng rùng mình:

- Anh sắt thép hơn trước nữa. Sự tu hành rõ ràng có công quả.

- Hằng hãy về với cha với dì và lo học thi.

Rừng buồn như ngủ. Hai người đứng giữa khoảng rộng và có hai người khác cũng đứng giữa khoảng rộng. Nhà sư lầm lì. Hằng táo bạo không thể tưởng và Hằng dại hết chỗ chê. Cực hình ở dưới đất Hằng đem cất trên lưng. Số phận hồng của Hằng, Hằng nên hưởng. Hằng nên đáp máy bay về nhà liền. Thầy tu thì có gì mà mê, đối với thầy tu, Hằng nên cho họ nãi chuối, cây đèn, thẻ hương, nắm xôi để ho lỉnh kỉnh cúng Phật. Họ chỉ là những tên ăn mày không đói.

Hằng sấn lại gần Thiện Tân:

- Trong bao ngày qua em nhớ anh đáo để.

Người tu hành cười:

- Tôi tụng niệm liên miên và tôi chưa thấy một ca sĩ nào dài hơi như tôi.

- Trong bao ngày qua, em thương anh tuyệt vời.

- Tôi hái hoa lan về treo đầy hiên chùa.

Người con gái xông tới ôm chầm bàn tay nhà sư. Em lạnh quá, hãy đụng vào em một tí cho máu chảy đều. Gặp nhau ở Đà Lạt thật sung sướng, hẹn hò nhau ở Đà Lạt thật sung sướng, hẹn hò nhau ở Đà Lạt thật tuyệt vời, anh đừng lên giọng cố vấn khuyên em gì hết. Chúng ta hãy đi dạo từ cây thông này đến cây thông khác, anh hãy cúi xuống mấy dĩa cỏ xin cho em vài cọng cỏ để cầm tay. Ở đây toàn người xa lạ, anh mặc măng tô che áo màu cờ vàng, chúng ta nhẹ nhõm đi bên nhau rất trai gái, rất tình nhân. Anh là một người đàn ông của thịt cá, em là một người đàn bà của cơm canh… Chúng ta xứng với nhau quá trời. Ở đây lạ không ai biết ai, anh có thể há miệng cười thật kiếm hiệp, anh có thể nhìn sang em thật tình tứ. Ở đây vắng quá, chúng ta làm gì cũng được.

Thiện Tân lắc đầu:

- Tôi không có quyền làm gì cả.

Hằng bảo nhà sư lại ngồi ở hai gốc thông đối diện cưa ngang bằng hai chiếc ghế đẩu.

- Anh Tân! Ngày anh chưa bỏ đi, anh là nạn nhân của em, anh có vẽ tội tội, anh có vẻ hiền hiền, em cười dài từng cơn như đười ươi giỡn mỡ mắt em. Liếc anh ngọt như mắt Thị Mầu. Anh có vẽ khớp, anh hơi run run. Bây giờ anh có vẽ lướt lên, em là nạn nhân, em lún xuống làm nạn nhân, em van xin kêu nài anh thương hại, ăn mày ăn mót anh từng chút tình. Anh có thấy em tội không anh Tân? Anh có thấy em hiền không anh Tân? Anh là một nhà sư vẻ vang trên con đường.

Anh không đi trên con đường tình, anh là một chiến sĩ đắc trên mặt trận anh không đánh là mặt trận yêu. Nhưng em tổn thương nhiều chứ em chưa bại, em không rút, em không lui, em phải tiến chiến cho được anh dù hộc huyết dù hụt hơi.

Trời chuyển mặt hai ba lần, tưởng mưa rồi lại không mưa. Người con gái không bôi phấn hồng để da xanh nguội, mái tóc quăn lười uốn đã giãn, khuôn mặt non thơ giờ đã có gò má, hàm răng lỗi cười tươi vẫn không thể tả. Đà Lạt rừng nhiều nhưng chim thật ít. Có lẽ chim sợ lá thông nhọn chích đau.

Hằng hỏi:

- Anh lên đây ở đâu?

- Tôi ở chùa.

- Chùa nào?

- Biết làm chi?

Hằng đứng dậy một bên vai Thiện Tân:

- Em không thích ở cư xá Bùi Thị Xuân nữa rồi, em chỉ muốn ở với anh mà thôi. Em mà được ở với anh là em thắng.

Nhà sư cau mặt:

- Bậy… Hằng vẫn có cái tật ăn nói bậy bạ hết sức.

Hằng cười:

- Tại sao anh không bắt chước các nhà sư Nhật Bản. Các nhà sư Nhật Bản khi tha phương có thể thuê phòng trọ để ở. Trời ơi, nếu anh mà ở nhà trọ thì đời anh xong rồi.

Hằng rùng mình và nhà sư cũng rùng mình. Gió không có trên những đọt cây nhưng thời tiết vẫn lạnh êm.

Người con gái đạp mấy cái lá dưới chân:

- Nếu anh ở khách sạn, hoặc anh thue một căn nhà nào đó, em sẽ đem va-li đến ở chung. Rồi mõm đời lại kể xấu rằng anh với em hẹn nhau trốn lên đây thuê nhà ở chung. Hai những cùng là thủ phạm. Tiếc quá! Anh vô chùa ở làm sao em có thể xách va-li vô chùa được? Tiếc quá! Bỏ chùa thuê khách sạn mà ở đi anh Tân! Ở đây cóng lạnh, anh khoác áo măng tô trông thật bình thường không khác người tí nào, anh mất hết cả vẽ một nhà sư. Chúng ta thuê khách sạn ở với nhau, người ngoài không dòm đâu. Chúng ta có vẻ là đôi tình nhân trốn nhà ra đi, chúng ta có vẻ là đôi vợ chồng trẻ dắt nhau lên đây hưởng tuần trăng mật.

Hằng cười giòn và hai giọt nước mắt long lanh thật tươi. Nhà tu hành cuối xuống cau mặt:

- Cô Hằng! Chúng ta chào nhau mà về đi thôi.

Cô gái cười:

- Em đã bắt được anh ở đây… Không bao giờ chúng ta chào nhau về nhà ai nấy được… Từ giờ phút này em nhất định theo anh.

Nhà sư đứng dậy:

- Lại rắc rối nữa! Cô Hằng! Cô đã làm kinh động tôi ở Huế rồi, tôi trốn lên đây cũng không được yên sao?

Hằng lắc đầu:

- Lấy em là việc phải mà anh không làm. Anh ở yên làm sao được? Gặp anh là em bắt… Anh về chùa em về theo cho biết để ngày hai buổi đến thăm anh.

Nhà sư nhấn giọng:

- Cô hãy hãm lại ngay cái đà bông đùa lại.

Người con gái tiến lên:

- Anh trọ ở chùa nào?

- Cô không biết có được không?

- Hộc huyết hụt hơi lên đây tìm anh mà anh cho là chuyện chơi sao? Bộ anh tưởng chỉ mình anh mới đáng giữ tiếng hay sao? Em là một đứa con gái táo tợn với lòng thành thật trắng phau em đạp đổ đời em rồi… em gạt phăng hết để mò lên đây với anh tưởng anh cũng nên thưởng công một cái gì…

Nhà sư cứng giọng:

- Tôi chịu.

- Em không chịu, anh không nói anh trọ ở chùa nào thì nhất định hai ta phải ở đây cho tới chiều tới tối, ngủ qua đêm, uống sương lạnh vào cho cảm cúm, cho sưng phổi, cho ho gà rồi hai ta cùng chết… Anh nói chỗ ở của anh đi, rồi em theo anh cho biết đường.

Hãy dắt em lại tận ngôi chùa anh ở, mà phải đúng ngôi chùa anh hiện ở, anh mà chỉ láo một cái anh phải bồi thường không biết bao nhiêu mà kể nữa. Em sẽ phá anh như Thị Mầu phá Thị Kính, em sẽ bù loa khóc, kể lể chuyện ngắn chuyện dài, chuyện tình, chuyện duyên nợ ba sinh, ăn cắp xăn cướp lường gạt đảo điên, em sẽ phao vu anh đã làm đủ mọi chuyện xấu đó với em, em sẽ làm náo cả ngôi chùa anh ở, làm rầy các sư khác… Anh Tân!

Thiện Tân bấu cứng hai ngón chân cái xuống mặt đất, mặt dại ngây một lát mới nói được:

- Cô lại bày trò chơi lớn khác. Cô đùa nghịch như thế này thì làm sao ai sống được? Cô đã tạo ra bao nhiêu dư luận đen cùng huyền thoại dơ dáy ở Huế rồi còn chưa đủ sao?

Người con gái nhoẻn miệng cười:

- Hay là thế này, anh sợ em dẫn mạng mỡ đến nơi chùa chiền thanh tịnh thì anh phải hẹn em, hẹn cho em gặp… ngày nào cũng gặp ở chỗ này hay ở chỗ nào cũng được… Em chỉ muốn gặp anh, ngày nào cũng muốn gặp… Nếu không được thấy mặt anh một ngày, chắc em sẽ ngả quay ra chết như gà, em sẽ tôi sẽ tỏi, sẽ xỉu sẽ xế.

Vị thượng tọa rên:

- Cô đã đuổi tôi đi khỏi Huế rồi, cô còn muốn gì nữa?

Hằng chao mắt:

- Đà Lạt thật thích hợp cho những người đang trong cuộc tình… Hôm đầu tiên lên đây, em buồn teo buồn thắt… Làm sao những cô gái độc thân có thể đương đầu với cái buồn rùng rợn ở đây được? Cảnh thì sinh tình, không khí cũng lạnh một cách gợi tình. Những người yêu nhau không thể nào rời hơi nhau được.

- Nhà sư nghiêm mặt.

- Tôi đã quyết liệt không chấp nhận những lời cô nói vừa rồi.

Hằng đứng nép vào Thiện Tân:

- Đà Lạt hiện là của chúng ta, chúng ta hãy thu hưởng Đà Lạt chúng ta làm cho Đà Lạt đẹp.

- Tôi không chịu ý nghĩ đó.

- Chúng ta sẽ ở trên thượng đỉnh tuần trăng mật.

- Hằng là một cô gái xấu và hư tôi không còn giữ bình tĩnh được nữa.

- Hãy chịu xấu chịu hư với em, đừng làm thầy nữa… Làm chồng mới chính là bổn phận.

- Hằng ngu si và u mê quá!

- Hãy giác ngộ trên thân thể em.

Nhà sư quát:

- Không còn ai tệ hơn nữa.

- Anh chỉ có thể là chồng của Hằng mà thôi. Bằng hết cả giá và bằng cái chết. Hằng phải biến anh thành người chồng.

Những hột mưa dày đang rớt. Hai người vẫn đứng. Người con gái xuýt xoa:

- Ở Đà Lạt làm gì mà không hú hí với nhau?

Nhà sư âu sầu:

- Hằng có biết là Hằng đã gây đau khổ cho bao nhiêu người không? Bao nhiêu người đau khổ vì việc làm liều lĩnh dại dột của Hằng. Trước hết ba và dì Hai của Hằng sẽ vô cùng đau khổ và rầu rĩ…

Hằng ngắt lời:

- Em đã tuyên bố um lên rằng em chỉ là một đứa con đáng để cho mẹ mìn bắt đi.

- Và tôi, nạn nhân chính…

- Em cũng là nạn nhân chính…

Người con gái hắt hơi mấy cái, mũi thở ướt. Về đi Hằng, cảm cúm rồi dầm mưa nguy hiểm. Hằng mà đau thì ngán lắm. Hằng gan lì quá vậy? Hằng không sợ gì mà hết cả vậy Hằng?

Hằng lắc đầu:

- Đau đớn bịnh hoạn đối với em bây giờ vô nghĩa. Em chỉ muốn đứng bên cạnh thôi cho đến khi đất lún xuống.

Thiện Tân lùi xa:

- Hằng cứ trêu kẻ tu hành hoài.

- Em chết vì anh giết.

- Hằng hãy về trọ.

- Em đứng với anh.

- Hằng nên về ở với ông bà Phủ.

- Đã đi là không về… Mặt mũi nào anh?

- Liều quá?

- Một lần này với anh.

Nhà sư khổ sở:

- Huế đã đuổi tôi đi, Đà Lạt rồi cũng sẽ trục xuất tôi. Còn gì bỉ ổi ô trọc hơn cảnh một thượng tọa ngày ngày hẹn hò cùng người đẹp gặp nhau trong cánh rừng. Hằng hãy về nhà trọ, rồi Hằng sẽ về Huế. Hằng tha cho tôi cái khổ hình đó. Hằng tìm gặp tôi ngày ngày làm chi? Chúng ta không giúp được gì nhau cả. Đừng theo tôi phá phách nữa. Phiên tu của tôi không bao giờ mãn phần. Hằng chỉ cần bắt một người đàn ông ngay ở giữa đời. Hằng hãy quay về với cái giản dị của cuộc đời Hằng.

Hằng nghe tôi khuyên, xin Hằng hãy nghe tôi khuyên: hãy nghe lời thầy, lời của tôi là lời của một nhà thầy, Hằng trở về nhà trọ để sửa soạn hành lý trở về nhà mình… Thầy đã từng khuyên dạy bao nhiêu đệ tử, bao nhiêu tín đồ, già trẻ lớn bé đều nghe lời thầy răm rắp… Chẳng lẽ Hằng cứ cãi lời thầy dènc sao?

Hằng lừ mắt:

- Thôi đừng dỗ con nít nữa… Cha mẹ tui còn dỗ tui không được. Tui giao hẹn, mỗi ngày ra đây cho tui thăm cho đỡ nhớ… không thì tui lại chùa tui làm náo lên cho biết tay.

Nhà sư đứng rất thẳng và người con gái cũng nhìn rất thẳng. Đôi mắt anh sáng quắc vậy anh? Đôi má đầy của anh cũng thảm như đôi môi, anh mập mạp và khoẻ mạnh quá. Vành tai anh đang ứ máu. Anh mới lên Đà Lạt có mấy tháng mà sức lực đã có phần dồi dào, tạng người anh thật hợp với khí lạnh.

Thiện Tân van nài:

- Hằng hãy cho tôi những giờ phút tĩnh tâm để tu hành.

Hằng bĩu môi:

- Làm chi mà náo động thiên cung lên rứa? Bộ anh không đi tu rồi anh bị tử hình sao? Bộ anh không đi tu rồi đạo Phật mạt pháp hay sao?

Trước anh, đã có những người hoàn tục và sau anh sẽ có những người hoàn tục.

- Nói gãy lưỡi vãn khăng khăng như đười ươi. Em có cảm tưởng anh đã tự cấm cố trong một màn lưới thật dày.

Trời thật lạnh với những lớp gió dày nhưng những đọt thông cao nghệu vẫn thẳng vút. Anh Tân, trời càng lạnh em càng đa tình. Thân thể em hiện giờ không còn chỗ nào ốm cả. Trời ở đây lạnh hơn trời ở Huế mình khiến càng thêm muốn nhõng nhẽo với anh, muốn hờn lẫy anh, muốn vòi vĩnh anh để anh chiều chuộng, để anh khen nịnh, dỗ dành và hứa hẹn vạn điều như ý. Trời ơi! Tôi yêu phải một người đàn ông thế này… Tôi yêu phải một tên mọi ngốc nhất chẳng ngửi ra tôi là một người đàn bà: tôi yêu phải một đứa trẻ… Đừng tê liệt, đừng bại xụi như vậy. Anh là một cái tủ sắt hay tảng đá? Một khối gỗ hay một đống gạch? Trơ trơ ì ì… ngắt véo không biết đau cho nhẹ không biết nhột. Phải chăng anh quên anh là đàn ông rồi? Phải chăng anh không còn nhớ cái giống đực của anh nữa? Phải chăng tất cả nhà sư đều bực mình lắm khi đứng bên đàn bà con gái? Phải chăng có một vài nhà tu lấy làm bực bội ngột ngạt lắm khi mùi vị hơi hướm đàn bà con gái?

Thiện Tân xây lưng lại và nói:

- Phải đó cô Hằng, tôi ghét đàn bà con gái lắm, tôi không chịu nỗi họ, bắt tôi đứng bên họ là tôi tức bể ruột chết tốt. Bao nhiêu vị tu sĩ đều nhắm mắt không thèm nhìn đàn bà… Phiền lắm! Phiền lớn! Tóc họ dài lệt bệt dơ dáy, tay chân họ chới với vặn vẹo khó chịu thật là khó chịu, lưỡi họ dài như lưỡi kè không điều chi họ nói gì cũng được, họ nói đại mình nghe phát phiền, điều gì nói cũng được, điều vô lý nhất nói cũng được. Họ không thể là những người tử tế được, họ chẳng nghe theo lẽ phải họ hành động theo ý mình. Những người không biết lẽ phải đứng gần bên thật buồn.

Hằng cười:

- Em là con người đầy lẽ phải.

- Lẽ phải không cho chúng ta đứng ở đây.

Hằng cười hức hức, nhà sư vẫn quay lưng:

Hằng hít hà:

- Em khéo thương sự ngây thơ của anh quá… không khéo em vâng lời anh mất vì anh dỗ em ngọt quá!

Hằng sán lại gần Thiện Tân:

- Hay là anh đã mất giống đàn ông rồi, anh không còn là đàn ông nữa?

- Đúng, tôi không còn là đàn ông nữa. Tôi không còn là giống đực nữa! Hằng đừng tin tưởng thấy một thằng đàn ông ở tôi.

Người con gái dí tay vào ót nhà tu hành:

- Anh là một người đàn ông mà bao giờ em cũng ao ước.

- Tôi hết là đàn ông rồi.

Hằng cười:

- Chối dài… chối dài hoài… Chối ngắn ngắn một tí có được không?

Nhà sư quay lại:

- Chào Hằng tôi về:

- Người con gái hỏi giật:

- Cái gì? Cái gì?

Nhà sư quay đi bước nhanh, Hằng kêu giật vụt chạy theo. Anh Tân, anh Tân… đâu có dễ dàng vậy? Nói về là vọt ngay sao? Về hay ở không phải là tùy anh mà là lệnh của em. Bây giờ, em không còn biết e dè xấu hổ trơ trẻn gì nữa. Em có thể làm đủ mọi chuyện để đứng mất anh.

- Hằng cho tôi về.

- Em theo anh.

- Sao Hằng cố hại tôi đến cùng vậy?

- Em không thể đi tu cùng anh được, anh hãy hoàn tục với em.

- Tôi lạy Hằng.

- Em lạy anh.

- Lạy Hằng tha tội cho tôi.

- Lạy anh lấy em.

- Hằng nhất định không cho tôi về?

- Anh biến đi thì em chỉ còn cái chết. Anh biến lẹ lắm. Anh có phép tàng hình.

Là trở mình trút những giọt nước đọng xuống. Nhà sư kêu trời trong hốt hoảng trời vừa mưa vừa tối. Hằng hãy để tôi về. Người con gái cười reo réo đi tu làm chi để rước cục cực vào than. Phải giữ mình còn hơn con gái cấm cung nữa, phải ép xác theo kỷ luật.

Thiện Tân gay gắt:

- Vậy bây giờ có muốn gì?

- Hỏi hách chưa? Ngày mai anh hẹn em ở đâu?

- Ngày mai tôi sẽ lại đây với Hằng giải quyết xong mọi chuyện. Có thật là người ác độc nhất, thương thuyết, điều đình, cầu hòa gì cũng không được.

Hằng vỗ tay:

- Anh chịu cho em gặp rồi… Vậ bây giờ em theo anh về chùa anh trọ vì lỡ mai anh không đến em sẽ vào kêu tận chùa.

Người tu hành quay mình rảo bước, cô gái lót tót theo kèm một bên. Đi chậm chậm tí anh Tân, làm chi mà như phi hành vậy? Trông anh như một quân tử kiếm của nước Tàu vậy. Anh mang dép Nhật bằng bằng dễ đi, em đi đôi guốc cao gót. Anh vẫn đi quá nhanh, mặt anh lầm lì quá, đừng giận em. Em không thể chạy đua với anh được. Đã cho em đi bên cạnh thì đừng hất hủi em thế. Hãy đi với em những bước thật đẹp như cặp ngựa hiền rong chơi trên đồi hoang, làm gì mà hấp tấp như ma đuổi vậy? Hãy đi với em bằng cái dáng lênh khênh nhàn nhã như chiếc cờ trắng, làm gì cả anh với em cùng như cóc nhảy thế này? Đừng thu ngắn con đường lại, hãy trải dài con đường ra. Tay anh nóng giận như thế này, nắm cứng như thế này… anh càng tức càng giống một đứa trẻ khó nuôi. Những đứa trẻ khó nuôi khi ngủ hai tay nắm cứng lại thật mệt tim. Những ngón tay bao giờ cũng nên duỗi ra cho máu chạy về thẳng. Anh ăn bao nhiêu ớt mặt cũng không nhăn nhúm, đi bên em một đổi mà anh cau có thế này. Những ngày ở chơi trong nhà em, anh có bộ mặt thật nhẹ, nụ cười thật dễ, bữa cơm nào em và dì cũng chiều anh dọn thật nhiều ớt lát cắt ra dĩa. Đặc biệt anh chỉ ăn thứ ớt chìa vôi cay xé bộng. Càng ăn cay, mặt chúng ta càng tươi, ớt chìa vôi càng giòn… Anh Tân, đợi em đi với, đừng coi em như một thứ công an áp giải tù nhân vậy, đừng coi em như một thứ mẹ mìn.

Thiện Tân bĩu môi:

- Cô làm mẹ mình được đấy.

Người con gái cười:

- Em chỉ thích làm vợ mìn, tình nhân mìn…

- Nếu tôi biết về nước gặp cô như thế này, tôi đã ở quách bên Nhật rồi…

Người con gái đứng lên níu tay nhà sư… Tối nay ở cư xá Bùi Thị Xuân mấy chị hợp nhau ở nhà Lục làm món chả giò chay ăn với nhau sau đó bánh Gâteau. Họ dặn em về sớm, con gái đọc thân gặp nhau là một hội đồng buồn. Tức cười quá, mấy chị hỏi tại sao ngày nào Hằng cũng đi vào rừng luôn vậy? Em nói láo em là một nhà săn ảnh, em phải đi tìm chụp những bức hình nghệ thuật. Họ le lưỡi. Mày bỏ ngang thi cử để làm một nhà chụp hình mỹ thuật sao? Nghề đó đâu nuôi sống được ai, nghề đó có giỏi cũng chỉ lãnh được vài cái huy chương thôi…

Thiện Tân lắc đầu:

- Cô là một loài yêu ma quỷ quái…

Hằng nhí nhảnh:

- Yêu ma nữa quái là những cô gái đẹp hiện ra bên cạnh kẻ tu hành để trêu chọc phải không anh?

- Cô pháp thuật cao cường hơn loài yêu ma nữ quái nữa.

Hằng lắc đầu:

- Em không gian dối, em xấu nhưng em thành thật.



Hằng đi như chạy vào nhà ôm Lục nói:

- Tao còn ở đây báo hại mi một thời gian nữa.

Đồng thời Hằng nghĩ thầm mình bán mấy món nữ trang trả tiền cho hắn.

Lục cười:

- Tao thấy mi bỏ học ngang tao tiếc của trời quá, mi ở đây với tao bao lâu cũng được hết.

Hằng đứng nhìn ra khung cửa kính mờ không thấy gì cả, há miệng ngáp rồi đi thay áo quần. Hai ba phút sau Hằng vẫn hát chưa xong bài “Mùa thu cho em”. Em có nghe mùa thu mưa giăng lá đổ. Em có nghe nai vàng hát khúc yêu thương. Và em có nghe khi mùa thu tới, mang ái ân mang tình yêu tới. Em có nghe…

Bây giờ tất cả bọn diện áo đen măng tô đi nghe nhạc. Hằng lắc đầu, tao tình nguyện giữ nhà.

Từng mảnh mộng nhỏ gắn vào giấc ngủ rời, người con gái nằm mơ thấy tất cả học trò trường Bùi Thị Xuân đồng ca bản Lý quạ kêu trong khi bao nhiêu giáo sư đều ngậm mỗi vị một cây tăm yên lặng. Người con gái cầm tay nhà sư bước xuống dòng nước hiền dưới bầu trời sũng sương rồi đi lên ngọn núi trọc. Cơn mưa bứt rứt rớt xuống mãi không ướt đất. Thiện Tân đã gọi Hằng bằng em vì hai người đang đi trong trăng mật, đang trên đầu ngọn đam mê, đang gạt hết ngoài tai những tạp âm của cuộc đời thực tế… Hằng ngợp sung sướng với cuộc tình dày dặn vợ chồng tình yêu lẫn nhau… Thiện Tân là một người đàn ông mang cái vô cùng thật thà, thật thà như bản cửu chương hai lần hai là bốn, Hằng ăn hiếp chồng. Hằng một tay điều khiển cuộc sống cả nhà, Thiện Tân răm rắp tuân theo lệnh vợ. Rồi cuộc tình duyên nặng nếp thời gian. Hằng đẻ ngay ra một đứa con, tóc tốt như cỏ. Hạnh phúc ở thanh không rớt xuống cho hai người. Hằng lại có mang lần nữa và đẻ ra đứa con gái đẹp hơn mẹ. Thiện Tân càng ngày càng nể trọng và yêu thương vợ hơn. Hằng cai quản gia đình giỏi như bà Hai. Thời gian lướt nhẹ như bơi thuyền, Hằng lại đẻ đứa con thứ ba. Dì Hai mắng Hằng hư lắm, con cứ đẻ năm một, đẻ một dọc mười đứa chết ngất luôn. Hằng than:

- Đẻ mỗi đứa con rụng một mớ tóc, con lớn chừng mô, rụng tóc chừng đó.

Thiện Tân bắt chước vuốt đầu mình:

- Tóc anh cũng rụng quá nhiều đó, mỗi đứa con rụng một mớ tóc, con lớn chừng mô, tóc rụng chừng đó.

Hằng nguýt:

- Thôi đi bác nhà quê! Bác có đẻ đâu mà tóc bác rụng?

Chàng cười:

- Anh đau vì em đẻ, anh đã nghén thay vợ và anh đã đẻ thay vợ…

Hạnh phúc ngự giữa hai người cho đến đứa con thứ sáu, Thiện Tân lâm bịnh và ngã ra chết. Hằng hét lên. Nỗi sợ hãi phủ dần. Mồ hôi ướt rượt, người con gái ngồi lên bật đèn, từ đó thức cho đến sáng. Hằng lấy sách xem. Cuộc đời của Helen Keller mù, câm, điếc. Hằng xếp sách lại.

Tám giờ sáng ăn điểm tâm xong, Hằng nằm xuống ngủ nữa.

Lục hỏi:

- Sáng nay không đi chụp ảnh mỹ thuật sao?

Hằng ngáp:

- Đêm qua bị bóng đè mất ngủ.

Giấc mơ ác, đẻ đến đứa con thứ sáu thì Thiện Tân chết. Lấy nhau ngắn quá, sáu năm không đủ hạnh phúc, giấc mơ độc… Chỉ lấy nhau sáu năm thôi sao? Sáu năm hạnh phúc không suy nghĩ sinh đẻ dồn dập. Sáu năm chỉ để mà sinh đẻ… Không biết cái dạ mình có mắn con không? Đẻ gì mà đẻ ào ào? Đẻ gì mà đẻ ùn ùn? Rồi Thiện Tân chết… Sợ quá!

Lục đi dạy về, Hằng đang nằm ngủ Lục la:

- Nằm cả buổi sáng phải không? Sao không dậy mà đi vô rừng, nhà săn ảnh hôm nay thấm mệt.

Hằng che miệng ngáp:

- Đêm qua tao ngủ ít quá, sáng nay trời đẹp mà không đi được.

Lục nheo mắt:

- Nằm trễm trễm cho sướng, tội chi mà dậy mà chun vào rừng cho mệt.

Ăn cơm xong, Hằng vùi mình vào mền đến ba giờ chiều mới dậy sửa soạn. Hằng mượn hộp đồ trang điểm của Lục, ngồi đâu mặt vào chiếc gương lớn. Lúc Hằng quay lại Lục, xuýt xoa:

- Mặt mày rực rỡ như gấm vậy. Vẽ đặc biệt ở người mi là cái ánh sáng ở trên mặt, ánh sáng lạ. Hai con mắt ngời hào quang rực lên, hai con mắt đó đã ai lọt vào chưa Hằng?

Lục đưa tay chỉ vào trán bạn:

- Từ hôm qua đến giờ hát hai bài rồi đấy nhé! Có thay đổi bên trong phải không?

Hằng ra đến cửa đón được xe lam ngay. Hằng bảo ông tài đợi tí để Hằng mua hai trái bắp nướng.

Cả ngày hôm qua trời không mưa một hột. Người con gái mặc áo nội hóa in chữ thọ hồng, măng tô xám cầm tay. Nắng vỗ ngộp má hồng, trời vừa không lạnh không nóng nhưng lát nữa về sẽ lạnh. Hình ảnh người con gái trong mát ấy như một cây phong tử màu hồng, bắt mắt như một tảng thạch âm ấm, và lành như một giọt sương bình minh trên một búp cây ở vườn nhà. Trời ơi, mình có cảm tưởng như mình có thể chảy ra rượu, chảy cả nước mến. Ánh sáng từ bên trong đang phải chiếu lên mặt mình. Hai mắt mình sáng quắc chói – thầy Chu bảo thế – ngồi trong lớp học, mình càng nói chuyện, mắt mình càng sáng.

Hằng khấp khểnh đi giữa đồi thông. Thiện Tân đứng ủ rủ trong chiếc áo đi mưa nghèo. Hôm nay trời không mưa mà cũng mặc áo tơi. Anh chàng hơi quê một chút, không có óc thẩm mỹ cũng không có óc thẩm mỹ. Anh chàng đúng hẹn hơn mình.

Người bị đặt điều kiện lại sốt sắng hơn kẻ ra điều kiện. Ui! Mà anh chàng có làm tốt, có sửa soạn nhan sắc đâu, mình phải tô điểm nên mình đến chậm.

Hằng chạy tới chới với hai tay:

- Anh giỏi quá!

Thiện Tân hầm hầm:

- Giỏi cái gì?

Hằng chích móng tay nhọn vào người tu hành:

- Anh đến đúng hẹn hơn em.

Thiện Tân vẫn hầm hầm:

- Nói gì thì nói cho mau để tui về.

Người con gái cười:

- Em cảm tưởng như em bắt cóc một đứa con của anh, anh không dám đi thưa cảnh sát vì em bắt buộc anh phải đem tiền đi chuộc, nếu báo với cảnh sát thì em giết con anh… Bởi đó, chiều nay anh đến chỗ hẹn để giao tiền.

Nhà sư cúi mặt:

- Nhảm nhí!

Hằng cười:

- Nhưng em không cần anh giao tiền, anh hãy giao tình cho em mà thôi.

Nhà sư cắn môi nhìn xa, người con gái tiếp:

- Trông mặt anh chán quá! Hẹn hò với người đẹp mà buồn xo.

Thiện Tân nghiến răng:

- Nếu tôi có một triệu bạc, tui đưa cho cô để chuộc tui, cô có chịu không?

Hằng sầm mặt:

- Em đâu phải tướng cướp đàn bà, cho dù anh đưa con của anh ra chuộc cho anh em cũng không chịu… Anh Tân, không có một của cải nào có thể chuộc anh khỏi tay em được…

Không có một của cải nào có thể đánh đổi được anh cũng như không có một bàn tay thần nào có thể giải cứu được anh.

Anh hãy nhìn kỹ mặt em, em có ánh sáng lạ nổi trên mặt, tình yêu đã đánh dạt những buồn phiền cùng bóng tối. Rõ ràng anh và em có duyên thừa từ kiếp trước, cuộc tình này là hạnh phúc dư thừa… Anh sẽ giã từ nghiệp tu để làm đám cưới để sống chung, sống chung thật lâu thật dài, chứ không phải chỉ sinh được sáu đứa con rồi anh chết. Đêm qua em nằm mơ anh chết hơi sớm, mới sáu đứa con.

Thiện Tân gắt:

- Nói cái gì thì nói để về phứt cho rồi, lăng nhăng nhảm nhí hoài. Cô biết tôi sợ mang tai mang tiếng cô làm tới hoài.

Hằng đứng thẳng, mắt nhịn sắc ngọt:

- Bao giờ anh đi hỏi em? Bao giờ anh đi cưới em?

Nhà sư lắc đầu một cái mạnh, dáng đứng thu nhỏ lại co ro cúm rúm. Hằng như đọc thấy một vẻ sợ hãi, một nỗi kinh ngạc bối rối trên lớp da mặt tái xám.

Hằng nhìn Thiện Tân bằng đôi con mắt hừng hực cơn sốt:

- Em bỏ cả cha me, bỏ cả học hành theo anh lên đây, anh phải hiểu rằng mục đích của em lớn lắm. Không phải em vòi vĩnh được được yêu trong năm ba bữa mà em đòi sống một đời dài với anh, cuộc đời ở trước mặt và cuộc đời chưa hiện ra ở trước mặt chúng ta. Anh cởi áo, lấy em, trả lại pháp danh cho chùa. Anh vào đời hẳn hoi anh xin đi làm công chức, xin đi dạy học, làm tư chức.

Thiện Tân rít răng:

- Tôi không thích làm chuyện đó, tôi ghê tởm. Cô đùa độc lắm, cô chỉ cốt làm tới cho được việc của cô thôi, ai hấp hối mặc ai. Cô không biết sống sượng chọc ghẹo người tu hành, chẳng biết nể nang sợ sệt Trời Phật ma quỷ gì hết.

Giờ phút này cả nước không ai làm chuyện xấu xa ô trọc như cô. Cô đem cả cuộc đời, cả sự nghiệp của tôi ra đùa… Sao cô không cầm gương cô đâm tôi đi? … Sao cô không đầu độc cho tôi chết đi.

Hằng rớt nước mắt:

- Mắng em đi, mười trận cũng chưa xứng với tội lỗi em làm. Tại sao anh lại xuất hiện trong gia đình để cho em thấy, để cho em thương?

Thiện Tân quay quắt:

- Không còn thể thống nào nữa, một nhà thu hành lại đứng giữa rừng trò chuyện với một cô gái. Sao tôi lại gặp tai nạn này? Gặp một cô gái độc ác, rắn rít, cỡ ấy miệng hùm gan sứa, lòng dạ như sấm sét, gặp ai cũng ra tay làm hại.

Hằng xông tới:

- Thôi đi thầy… thấy người ta nhịn càng làm già.

- Tội cô nặng lắm cô Hằng ơi!

Hằng nhô vai rồi khoác măng tô lên người:

- Anh Tân! Hẹn hò nhau ra đây để đay nghiến nhau sao? Tội nghiệp em mà anh, đã hẹn hò thì phải tình tứ với em. Anh phải làm phúc lấy em, ra ơn nhận em làm vợ.

Thiện Tân quát:

- Thôi im đi! Nói những chữ nghe rùng mình.

Người con gái cười:

- Anh làm chồng được, anh làm chồng em xứng đáng ra phết. Anh Tân! Trong túp lều có ghế, chúng ta hãy vào ngồi thủ thỉ. Anh bây giờ hết đường chạy trốn em rồi. Tài ví bắt của em lồng lộng. Anh chỉ có cách lấy em thôi chứ không thoát được tay em đâu. Giờ này anh chấm dứt ngạc nhiên tu rồi… Tu gì nữa mà tu, ngồi bên gái đẹp mà còn tu gì nữa? Bóng Phật lẫn lộn với bóng hồng.

Nhà sư nghiến răng:

- Nói vậy mà nói được.

Hằng cười:

- Em y êu anh dữ dằn vô cùng… Tình yêu như một tia chớp, tình yêu sét tới đánh em đau, đốt em đau… Rõ ràng tình yêu đã đến như một cái lóe sáng… như một tai biến úp chụp lên đầu.

- Cô tai quái tinh nghịch.

Hằng ngẩn người ra nhìn mình trong gương khi tiếng hát đục như hơi sương phả vào tai.

Đà Lạt mưa hoài mưa mãi. Mưa rơi ngoài phố, mưa rơi trong hồn. Nắng quái bừng leen sau cơn mưa nhỏ. Tối về nhà sau lối ngỏ không tên.

Lục bước tới lay vai Hằng:

- Bài hát chậm như kiến bò có tới năm phút, mi nhìn mi trong gương tới năm phút rồi đó.

Hằng quay lại hốt hoảng:

- Tao đi liền bây giờ đây.

Hằng bước xẹt ra cửa vừa ngay tức khắc, bước khập khểnh như cô Tấm đánh rơi một chiếc giày, trở về từ dạ hội trong tay ông Hoàng tử với nỗi hồi hộp dày cồm cộm nở ran lồng ngực hẹp.

Bình minh lạnh ngót, lá cây ở thấp mưa xám, gió thông ở trên cao. Những cánh hoa bên đường ánh thật nhiều phấn nhưng cành vẫn mịn màng rạo rực. Mấy con ông đang lượn những vòng vui lạ. Hoa với ông không thể tình tự được tuy nhiên ông lịch sự mời hoa đi dạo và hôn hoa đến rách cánh. Những con ông cưỡng bức hoa để hút chút rượu ngọt. Hoa hết sắc đẹp rồi, hết sức khoẻ rồi.

Hằng cắm cúi đi. Đôi mắt nhìn cảnh đẹp là đôi mắt nghĩ ngợi. Hằng nghĩ mình cũng là một con ông. Hai bàn tay Hằng lạnh và chịu được néu bây giờ cầm bút, nếu bây giờ ấn dây đàn. Hằng hơi rút vai một tí, cúi xuống ngắm nhìn nhịp chân của mình mau mau với hai bàn tay cuộn ủ trong vạt áo trước vừa ấm vừa giữ cho áo khỏi bay. Hình bóng nhỏ xinh, thoăn thoắt trên đường thẳng tắp. Hai bên con lộ hẹp rực màu hồng, hoa đào nở là những hình ảnh thấm đậm nét nhớ.

Xa xa, núi đồi như nằm trong giấc mộng của núi đồi. Hằng vừa đi vừa ngước nhìn cho đến khi mặt trời nhô lên cao, thình lình rọi mạnh xuống, những tia sáng xẹt vào thung lũng, làm cho mây trắng sương bạc thi nhau chạy trốn. Cảnh tượng những màn mỏng vô tri đó thoát bỗng biến đi quằn quại, biến chen lẫn ấp núp vướng víu thật là kỳ diệu.

Hằng lại thu ngắn tầm nhìn. Hằng ngó những màu sắc tươi vui do những luống hoa rực rỡ, những thành tường trắng, những mái ngói đỏ, những tà áo hoa mắt.

Mình và Thiện Tân gần như đã ngắm hết những vẻ đẹp của Đà Lạt. Chân hai người đặt tận đến những bản sóc hẻo lánh, tai nghe tiếng “tắc à tắc” của chiếc xe chở họ đến những địa điểm đẹp Cam Ly, Suối Vàng, Ái Ân, Than Thở.

Nhưng Hằng một mình hiện diện trong những tấm hình có suối nước len lỏi dưới cỏ mềm, chồm lên tảng đá, bò cao với níu, tụt xuống với hồ để cuối cùng hóa thành thác ào ạt hơi bay bột bốc.

Hằng chụp hình giữa rừng. Rừng hoan hỉ một màu xanh nảy lộc, rừng mừng vui với thông. Thông đẹp thật thẳng thắn, thật vui tính, đẹp nhất là lúc thông reo, khi thông cười.

Thông mọc lan tràn, có những lão thông già cằn vặn uốn những thế ngoạn mục y như trong bức tranh Tàu cổ. Có nơi chỉ có một cây thông buồn phiền cô đơn, có nơi thông đông đảo hợp thành rừng đợi hiu hiu một chút gió lá rì rào, lá thì thầm than thở.

Có nơi thông họp thành đội thành toán. Mỗi lần mặt trời soi sáng đầu thông bắt ánh dương lóe ngời lên làm cho từng lưng đồi xa gần đều như viền chỉ bạc lấp lánh.

Hằng đưa tay vuốt má mình. Mình đã bắt đầu thấy Đà Lạt ấm, mình bắt đầu ăn chịu khí lạnh ở đây rồi, nhưng da mình vẫn mét xanh và có lẽ mình yếu phổi, người yếu phổi da xanh và mắt sáng. Hình như mình đã mách với Thiện Tân rằng mình yếu phổi.

Mỗi ngày một lần hẹn hai lần đi về lếch thếch. Thiện Tân vẫn ủ rũ, áo măng tô đen mặc dài tới mắt cá, mũ nĩ rộng vành phủ che cả hai tai, rụt cổ so vai nhìn xuống hai bàn chân mình nhiều hơn là ngắm thác nước, nghe thông reo kêu giòn. Anh buồn quá, người Mỹ chết trên chiến trường Việt Nam gửi xác về nước, da thịt còn thắm tươi hơn anh, dáng mặt say sưa với giấc ngủ chứ không bơ phờ như anh.

Anh buồn như một trái cây héo. Dẫn anh đi chơi chỗ nào cũng không thể dỗ anh vui được, anh xuất hiện chán chường, anh trình bày những sự hiện diện bất đắc dĩ. Em thì vui nỗ lực vui.

Mấy chị giáo sư Bùi Thị Xuân mỗi buổi chiều em đi hẹn với anh về đã đứng ở cửa sổ vẫy gọi em cô tiên vui cô đi chơi về lại càng vui. Rồi mấy chị đóng cửa ngồi vào bàn học thi, có khi xuống bếp nấu một chén chè đậu để cách đêm mà vẫn ăn ngon như thường, có khi đứng chân cao chân thấp bên chiếc máy hát nghe mãi cái dĩa đã mòn.

Có mấy chiếc dĩa mà cũng mượn qua mượn lại om sòm chí chóe, mấy chị đến già cũng lãng mạn và cũng vẫn còn ham thưởng thức những điệu tình ca như chảy nước mắt. Buổi trưa, buổi chiều, buổi tối, cái dĩa nhựa vô bài “Dang dở” chạy hoài chạy hoài.

Chiếc xe lam nặng nhọc khấp khểnh chở người con gái. Từ xa Thiện Tân xụi lơ thõng tay; Hằng chạy tới lếch thếch như cô lọ lem mất một chiếc giày từ cuộc dạ hội to tát huy hoàng.

Người con gái cười tươi quá, đôi mắt chỉ còn tròng đen sáng quắc. Anh, anh đợi em có lâu không, kiếm không ra xe lam chứ không phải em mê ăn bắp nướng mà tới trễ.

Thiện Tân bơ phờ má tái môi thâm:

- Tôi như tên tử tội dưới tay cô.

Hằng cười:

- Mới gặp đã cắn đắng rồi… anh cằn nhằn nghe tưởng rách áo, anh nghiến răng hoài không sợ mòn răng sao?

Chúng ta cứ lấy nhau đi rồi chuyện gì cũng hết, người ta có chọc mõm vào cũng một thời gian thôi, chẳng lẽ người ta hè nhau đến vấn tội anh sao? Chẳng lẽ người ta dọa giết anh sao? Anh là một nhà sư hoàn tục chứ đâu phải là một kẻ phản đảng mà sợ thủ tiêu, sợ bị thanh toán?

Anh Tân! Em đã bắt đầu chán Đà Lạt rồi. Đà Lạt cũng lặng lẽ như Huế, cũng giai cấp, cũng trưởng giả, cũng chật chội, người này quen biết rõ ràng người kia như Huế. Chỉ hơn được cái lạnh. Đà Lạt lạnh êm đềm tình tứ, Huế lạnh gay gắt, nghiêm nghị. Mà em cũng đã chán lắm cái lạnh mãi lạnh hòai cũng chán, đi dạo luôn chán không ngừng cũng chán lắm, ngắm cảnh dạo cảnh một hai lần cũng đủ ngấy rồi, ngày nào cũng đi dạo, ngày nào cũng ngắm cảnh ai mà chịu được. Em chán Đà Lạt cũng như em chán Huế rồi…

Thiện Tân hấp tấp:

- Vậy thì về là êm đẹp nhất.

Hằng vênh mặt:

- Về? Dễ vậy? Đi… đi nữa đi mãi… em đi với anh tới tận âm phủ.

Hằng cười, nói thêm:

- Anh đừng có hy vọng tu đến nơi đến chốn… Anh sẽ về âm phủ với em, anh sẽ về hỏa ngục với em. Em cấm anh lên Niết Bàn… Anh Tân có biết không? Ở nhà mỗi lần dì Hai mắng em, dì chỉ ngón tay vào trán em mà bảo: “Cái mặt con ni, cái mặt nhọn như cái bánh ú, mi mà ưng ai thì người đàn ông ấy đọa…”.

Thiện Tân quay mặt đi chỗ khác:

- Không giải quyết được chuyện gì hết, càng ngày càng không có lỗ mà chui ra.

Thiện Tân dữ tợn nhìn người con gái:

- Cô là một con ma…

Hằng rũ ra cười:

- Cái mặt đã nổi cục lên rồi. Những người hiền thường hay nổi cục… Dì Hai của em nhiều từ ngữ lắm, con ma dì gọi là con ngâu, mỗi lần làm bánh mà ngâm bột bị hư, mỗi lần nấu chè đậu xanh đãi võ mà đánh không nhuyễn, dì đều lắc đầu nói “Tại ngâu vọc, tại ngâu vọc” nghĩa là ma vọc tay vào.

Gương mặt nhà sư vẫm thảm đạm như mếu, Hằng níu tay Thiện Tân:

- Anh có chán Đà Lạt không?

Nhà sư ngẩng mặt ngó trời:

- Ở đâu có mặt là cô là tôi chán. Cô và tôi không thể nào sống chung một thành phố được, chỗ nào cô ở thì tôi đi, tôi với cô là hai chất kỵ nhau, cô sống thì tôi chết… Cô đày ải tôi đến cái nước này chắc tôi chết… Tôi chết bây giờ chắc là tôi tự giải thoát.

Người con gái rơm rớm nước mắt:

- Anh chết có thù em không?

Thiện Tân lắc đầu:

- Không, chỉ có rắn mới báo oán, người báo ân, tôi sẽ phù hộ cô và ông Chu.

Hai người bước trên những mõm đá, gió thổi mạnh như dọa đánh vào những tấm áo dày. Nước từ trên cao đổ xuống chen nhau chảy bốc bọt bay hơi. Hằng vừa chỉ vừa kêu em có cảm tưởng nước như đang ôm nhau vật lộn và cũng ngã xuống với nhau. Những hốc đá càng làm cho nước chảy gay cấn hơn. Anh Tân! Anh nắm tay em đi. Sao anh cứ để em cầm cả bàn tay anh hoài vậy? Thụ động vừa vừa thôi anh, cư# để em khiến mãi anh sao? Hằng nghe bên tai một tiếng thở phào. Hằng quay sang nhìn Thiện Tân hốt hoảng.

Đôi mắt nhà sư ngầu đỏ, cồm cộm những đường chỉ nổi, hai lằn lông mày đậm đen nhíu lại. Cả khuôn mặt bỗng chốc vừa dữ dằn vừa hốt hoảng trong những nét nổi hết sức cứng rắn. Hằng vội bỏ tay nhà sư đứng xa hai bước. Anh Tân, một ý nghĩ từ xưa anh có đang vụt nổi dậy trong óc anh phải không? Ý nghĩ này cả đời chỉ nổi lên trong anh một lần này thôi phải không anh? Như chớp lóa, như một tia sáng lóe. Anh vừa nổi lên tư tưởng giết em lúc này thật đẹp, thật gọn. Em đang cầm tay anh đây, em đang đứng sát vào anh đây, anh xô xuống vực thẳm bây giờ là hay nhất. Hãy xô em xuống bây giờ đi, em kéo theo anh cùng rơi. Không được sống chung thì chết chung vậy, đó là nửa lời nguyện của em. Hai ta cùng chết lúc này cũng được đi.

Hai mắt Hằng sáng rỡ, những nét trên mặt nhà sư giãn ra từ từ. Anh Tân! Ý nghĩ hung ác trong anh đã chuyển sang cho em rồi. Sướng khoái quá! Tê liệt là sướng khoái. Anh khỏi xô em xuống vực thẳm, em sẽ nhảy xuống, em sẽ níu tay anh nhảy xuống. Tình yêu lúc này quá gần với sự chết, gần đến cơ thể chập làm một. Anh Tân, anh không yêu em thì anh phải chết với em, không lấy em được thì cùng chết với nhau để cuộc tình tròn, chết với nhau thì hơi đẹp đẹp một tí… Chết với nhau cũng được rồi, không ham nữa.

Sợi tóc tròn nên sợi tóc thẳng, sợi tóc dẹp dẹp một nửa nên sợi tóc quăn. Tóc thẳng cũng đẹp, dẹp tròn chi cũng đẹp. Cùng chết với em đi anh Tân. Muốn không? Ham không? Em nhảy đây, anh Tân! Chưa bao giờ anh hôn em một lần, chưa bao giờ anh gọi em bằng em một lần… Tình một chiều.

Thiện Tân vung mạnh tay, chụp bàn tay kia của người con gái kéo giựt lui ra.

Mắt Hằng ứa nước khóc và lông mi đẫm mấy giọt mưa nhỏ:

- Anh từ chối sống chung với em, anh cũng từ chối chết với em.

Nhà sư sáng mắt:

- Tôi không chịu Hằng được, Hằng có chịu tôi được không?

Hằng ngơ ngác:

- Chịu anh chuyện gì?

Nhà sư cười:

- Hằng cho tôi về chùa. Hằng cho tôi làm một người tu hành chân chính.

Hằng cười nhạt:

- Anh coi em không to một tí nào hết.

Thiện Tân năn nỉ:

- Hằng hãy ngoan với tôi một lần, tôi tri ân Hằng muôn vạn.

Hằng khóc:

- Anh mê tu đạo như vậy thì còn gì là em nữa.

Thiện Tân bặm miệng. Hằng mếu:

- Anh chỉ biết có đường chân trời mờ mịt trên xa, anh chỉ biết có cầu vồng sáng vàng không bao giờ đạt được.

Nhà sư quả quyết:

- Tôi sẽ đạt được vì tôi thấy cô không hơn không kém một xác cóc khô.

Hằng nhảy lại tát nhà sư một cái vào mồm:

- Ăn nói ngốn ngấu như trăn nuốt, người tu hành phải dịu dàng khoan hậu, đối với ai cũng ôn hòa lễ phép. Tu cái kiểu đó mà cũng đòi thành quả. Anh là một tên mọi cuồng tín chứ đâu phải một nhà chân tu, anh không chút ái ngại nào dành cho tôi cả, anh không có lòng thương người, anh chỉ có nguyên tắc. Tôi thương anh cả trăm cả triệu phần, thì ít nhất anh cũng phải thương tôi lại một phần chứ. Đó không phải là tội lỗi, đó là luật thông cảm.

Thiện Tân lùi ra xa:

- Tôi xin lỗi Hằng.

Người con gái thút thít vài tiếng rồi khóc ào ạt. Cơn khóc nghe giòn như rót và cơn khóc thấy đầm đìa ở mắt những tiếng nấc đều đều trồi lên tức tưởi. Hằng khóc cho nhà sư nghe rất rõ không một lời kể lể, không nâng khăn tay thấm lệ. Đôi mắt không bị đụng chạm nên vẫn tươi vẫn ướt, chiếc miệng mếu một cách nhõng nhẽo, mũi phập phồng thở mạnh thở nhẹ như những tiếng rên khô. Cơn khóc dài khóc dữ không gồm bằng những tiếng bù loa thê thiết, mà bằng một chuỗi âm thanh nghẹn ngào sầu não. Khóc như để trình bày một nỗi oan, một chịu đựng uất ức.

Thiện Tân bạo mặt:

- Tôi hết sức xin lỗi Hằng… Tôi biết rồi,Hằng có lỗi với tôi mười phần, nhưng tôi có lỗi với Hằng một phần. Tôi quyết đi theo con đường của tôi nên tôi đã hà khắc với Hằng. Hằng tha lỗi cho tôi, rốt cuộc Hằng cũng đáng thương như tôi đáng thương vậy. Hằng lầm lẫn, Hằng điên rồi, tôi tỉnh táo, tôi sáng suốt, nhưng tôi vẫn không dẫn độ được Hằng. Tôi suốt đời là một nhà sư, Hằng suốt đời là một mỹ nữ, chúng ta không thể gặp nhau bất cứ không gian nào được, cũng như không bao giờ Hằng lìa tục theo tu được. Giọng khóc người con gái nghe cao hơn hồi đầu, tay bấu cứng tà áo mà khóc, đứng thẳng mà khóc, gục mặt mà khóc. Nhà sư lính quính nhìn tay bóp chân giậm nhẹ Hằng. Hằng nín đi, chướng quá, con nít quá! Tôi sợ nhất là nghe những tiếng này, những tiếng gì mà khủng khiếp không chịu được, không muốn thấy, Hằng đừng buông ra những tiếng này nữa đi! Những tiếng khóc của Hằng rúc rúc trong ngực tôi, nhức nhối trong óc, ngọ nguậy trong tai, tôi chịu trận không được.

Hằng thẩn thờ:

- Em vừa khóc được trước mắt anh.

Thiện Tân gật đầu:

- Hằng vừa làm cái điều rất quấy, Hằng đừng làm lại nữa.

Hằng vẫn thẩn thờ:

- Cơn khóc đã bật ra được… Nếu vừa rồi cơn khóc không bật ra được chắc em uất lên tím mặt tím mày rồi ngã lăn ra chết.

- Bậy lắm, Hằng đừng khóc nữa.

Người con gái lắc đầu:

- Em đâu phải là một đứa mau khóc, mau nước mắt hơn mau miệng… Em là một con lì, lì lợm. Em thường có những cơn tức tím máu ra thay cho cơn khóc. Hồi còn bé, em lì lợm, chai đá, tức giận ai thường tím bầm cả thân thể rồi chết giấc… Em là đứa dữ, em ít khóc lắm.

Thiện Tân nhìn lãng ra xa, cô gái tiếp:

- Đứa con gái nào hiền lành mới dễ khóc.

Nhà sư lên tiếng:

- Hằng nín rồi, chúng ta về.

Hằng chụp tay Thiện Tân:

- Về sao được… chúng ta đã nói chuyện gì đâu?

Nhà sư nhăn nhó:

- Hằng vừa khóc ỏm tỏi lên đó… Tôi đang chết khiếp đây.

Hằng tha thiết:

- Hãy đứng với em, hãy ngồi với em ở đây đi. Anh cứ khăng khăng đòi về, em khóc lại cho mà xem.

Thiện Tân làm thinh, đạp mũi giày lên những viên đá nhọn, người con gái kéo tay nhà sư bước. Anh vừa đấm mạnh nên em khóc, vậy anh phải đền, chúng ta đi chơi với nhau đến khuya, chúng ta vào ngồi quán ăn cơm.

Hai người nhìn nhau trong trời mưa. Mưa dai như thù dai. Buồn bức rức từng giọt thổn thức, từng giọt thảnh thót. Mưa mát quá lạnh và hình như không trọn vẹn. Mưa không phải để cho một người ướt mà để bao nhiêu người cùng ướt. Những giọt mưa không cùng tâm sự. Nhưng mưa là mưa thông cảm. Hằng đứng trong lưới mưa mà nghe thương mình vô cùng và nhớ lại ngày nào đội mưa lên chùa thăm thầy Thiện Tân với cõi lòng nở bung rộng lớn. Mưa làm mát rượi chuyện tình. Trời mưa, nhưng không có giọt nước nào sắc và nhọn cả, mà giọt nước nao cũng thông cảm sâu xa với tâm hồn thấm ướt từng ngõ ngách trái tim.

Mưa chảy theo tình yêu. Mưa chảy trong cơn khóc và ra nhiều cơn cười. Tình yêu có một hướng nhất định là nỗi đau khổ, còn mưa thì không nhất định hướng nào. Quả tim không lớn hơn cái chén mà đựng bao nhiêu đau khổ cũng không đủ.

Hằng mở trừng trừng mắt sáng suốt nhìn lớp mưa mỏng cố định thần khuôn mặt Thiện Tân. Đôi mắt Đại Hàn một mí, chiếc miệng tươi không thể tả và sóng mũi thẳng cao nằm trong khuôn mặt vuông vắn. Nhà sư có màu da ngăm ngăm, đàn ông mà tay mềm chi lạ, tay này là bàn tay có tướng đa tình và dâm, tay dài và mướt. Qua lớp nước vòi vọi gió, khuôn mặt Thiện Tân rung động, chập chờn. Hằng thốt nhoẻn cười với khuôn mặt đó. Khuôn mặt này sao không phải là chủ nhân của đời em để em đòi một cái hôn, để em đòi một cái vuốt. Tất cả em đòi đều được. Một cái hôn của anh, một cái vuốt của anh em đòi không được. Nên một đám cưới cho mình, em đòi không được.

Hằng kêu lên:

- Bây giờ không biết làm gì đây? Đi phố? Anh đi phố với em.

Nhà sư trợn mắt:

- Đi phố? Cô không điên chứ?

- Được chứ sao? Một khoái lạc từ xưa anh không hưởng… Nếu anh không chịu thì đi xi nê vậy.

- Cô không khùng chứ?

- Em không khùng… Đi xi nê có chi là quá khùng… Các nhà sư hippi khác còn đi phòng trà nữa cơ!

Nhà sư cứng ngắc miệng, cô gái tiếp:

- Hay là mình đi ăn với nhau vậy.

- Cô là cái trở ngại quá khủng khiếp.

Hằng nhoẻn cười:

- Dại gì mà không đi xi nê? Tuyệt tuyệt tuyệt. Dại gì mà không hưởng thú tiêu khiển đó. Coi một lần rồi coi hai lần… mê mê đứt đuôi.

Nhà sư ngó mông ra xa. Sự bực bội hình như được thở hắt mạnh hơn.

Hằng tiến lại nắm tay:

- Chán cái tỉnh Đà Lạt này quá! Mình vào Saigon đi anh.

Thiện Tân vùng mạnh, da mặt hơi nhột nhạt, người con gái tiếp:

- Đi Saigon với em đi.

Nhà sư bỏ đi, Hằng chạy theo:

- Nhất định đi Saigon một chuyến. Anh với em đi Saigon một chuyến chứ đừng nói on đơ chi nữa. Đi Saigon vui lắm lắm…

Thiện Tân hất tay cô gái:

- Chướng khí kỳ cục… Con người cũng có cha có mẹ, có anh có em như ai mà sao vô lý đến thế…

Hằng xích tới:

- Tại sao anh cứ thích nói nặng em hoài? Em chỉ thích được mơn trớn, được nựng nịu, được vuốt ve.

- Những người đàn ông khác đang si mê cô.

- Em chỉ si mê anh.

- Tôi si mê ánh hoàng đạo.

Hằng thở mạnh như tiếng nấc:

- Anh giết em.

- Cô chém tôi. Làm sao tôi thoát khỏi cảnh này đây?

- Lạy những vị ác thần, lạy những con quạ độc hãy phù hộ cho em lấy anh…

- Khùng.

Hằng vẫn cười:

- Làm ơn yêu em một tí đi… Nhìn em kỹ mới thấy em đáng yêu.

- Khùng!

- Khùng cũng được. Có đi Saigon với khùng không? Anh tha hồ nộp rủa em những chữ xấu nhất… Em chịu hết, miễn là anh yêu em… Anh, tuần sau đi Saigon với em đi, em ra lấy vé trước, tuần sau anh đi với em.

- Cô tha cho tôi, cô Hằng.

- Anh hãy cố gắng nhận sự bắt bớ tốt đẹp của em. Đừng rứt em ra.

Anh đã không chịu cởi áo về đời thôi thì để vậy, anh về đời vụng trộm vậy, anh vừa khoác áo vàng nghệ tu hành vừa yêu em, yêu em đến giờ phút nào hay giờ phút đó. Cứ kéo dài tình trạng này cũng được, em vẫn ngày ngày gặp anh, và lâu lâu chúng ta kéo nhau đi tỉnh khác giao du một lần… Tình trạng vẫn để lòng vòng, cả anh và em đừng thèm ai giải quyết gì cả…

Người tu hành lắc đầu:

- Tình như vậy không bao giờ có thể được cả.

Hằng ngước mắt:

- Chúng ta đời đời làm tình nhân của nhau.

- Không được!

- Em đã xuống thớ quá rồi, anh còn nằng nặc khăng khăng không chịu… phải nhượng bộ nhau chút ít chứ anh. Em tính rồi, tuần sau chúng ta đi Saigon đổi không khí.

Thiện Tân la:

- Không đi đâu hết!

Hằng giậm chân:

- Trời ơi là anh…

- Không đi đâu hết.

Người con gái cười khan:

- Em sẽ làm cho anh thân bại danh liệt… Em nghĩ ra được một ngàn khổ nhụckế…Em không cấm anh đi tu, em chỉ vòi anh chút tình quá nhỏ…

Hôm qua mấy chị ở cư xá kéo em đi xi nê. Cuốn phim kiếm hiệp giang hồ phóng lớn, lòng can đảm trường nghĩa của các đấng hào hùng kiệt võ lâm. Thạch Tứ sát tẩu, một cốt truyện dữ dội và tàn bạo khốc liệt thực hiện theo một đoạn hay nhất của pho truyện nổi tiếng nhất nước Tàu, Thủy hử. Những trang hiệp khách trừ gian, đem thân bảy thước trả nợ giang hồ, đem đường gươm, thế võ đền nghĩa quân vương. Một anh hùng kêu thét: thà chết dưới gươm đạo tặc còn hơn sống hèn. Một trang anh tuấn khí ngất trời. Thạc Tú không vì tấm thân trong ngọc trắng ngà, lồ lộ một tòa thiên nhiên của Sảo Vân, dâm phụ lăng loàn không chịu đựng nổi cảnh phòng không chiếc bóng. Thạch Tú cũng như Võ Tòng đã giang tay sát tẩu, diệt tan cường đồ, giúp nghĩa huynh lên đường hành hiệp. Sảo Vân nữ ma đầu dâm loạn có tấm thân nảy lửa làm ngất ngây lòng người. Anh Thiện Tân, mà anh có biết Sảo Vân không?

- Tôi không biết ai hết.

Hằng chỉ tay thẳng trán người đối diện:

- Láo! Anh với Điệu Lý hồi nhỏ đọc truyện Tàu ghê gớm lắm, hai người cứ trốn ông đi thuê truyện Tàu, truyện võ hiệp, truyện tình, trinh thám đọc ngốn ngấu.

- Tôi không biết.

Hằng cười:

- Không có pho truyện Tàu nào không vào trong người anh… Anh còn nhớ Sảo Vân ngoại tình với ai không?

- Không biết!

Hằng lườm:

- Cái thằng cha này khó ngửi… Trong óc thằng cha nhớ rõ mười mươi một trăm là Sảo vân đầu tiên mê Thạch Tú.

- Mặc kệ cô.

Hằng nhướng mắt:

- Gắt gỏng cú tráu! Sảo Vân tán tỉnh quyến rũ Thạch Tú không được mới quay sang dâm loạn với ông hòa thượng. Nhà sư nạt:

- Tầm bậy… Lái câu chuyện sang chỗ tầm bậy.

Hằng nổi giận:

- Bộ cái thằng cha này thật sự quên câu chuyện Thủy hử rồi sao? Một trăm lẻ tám vị anh hùng giết như như vật ngóe… Thạch Tú còn ăn cắp một con gà nữa… Sảo Vân quyến rũ ông Hòa thượng trụ trì.

- Tầm bậy.

- Hòa Thượng Bùi Như Hải… Sảo Vân uốn ẹo nói: “Tiện thiếp nghiêng mình cúi đầu chào Hòa thượng Bùi Như Hải”… Sau đó Sảo Vân với ông Hòa thượng hai người thông dâm dài.

Anh biết không? Ông Hòa thượng Bùi Như Hải nghe người đẹp ỏn ẻn vậy mới chắp tay chào lại: “Xin chào cô nương”. Rồi hai người thắp hương sửa soạn đồ trái để cúng lạy, hai người chúm miệng cười với nhau, mắt la mày liếc trước bàn thờ.

Hai người bỏ cúng bỏ lạy. Sảo Vân đứng cọ vai vào ông thầy. Chồng Sảo Vân đêm đêm đi trực, Sảo Vân hẹn ông thầy canh ba đến ăn nằm, canh năm trở về chùa tụng niệm. Cuộc thông dâm dài có chú đầu đa mập múp míp đứng đầu ngõ vừa ngủ gục vừa canh chừng.

Nhà sư quay mặt đi chỗ khác:

- Thôi tôi về.

Hằng níu vai Thiện Tân:

- Đâu có được, bàn chuyện đi Saigon đã.

Nhà sư ngơ ngác:

- Đi Saigon sao?

Hằng gật:

- Anh chuẩn bị cho đủ đi! Lúc nào em hô lên đi là đi liền.

Nhà sư tái mặt:

- Hằng nói thật sao Hằng?

- Đứa mô nói láo thì cha chết mẹ chết.

- Tôi không đi.

- Anh không thể nào không đi được.

- Tôi không đi.

- Anh mà không chiều ý em thì cả nước Việt Nam này không nơi nào anh có thể ở được. Đêm nay anh về suy nghĩ, chiều mai gặp nhau bàn kỹ.

Hằng quay ngoắc ra về sau khi búng lỗ tai Thiện Tân cái chóc. Hằng đi thất thểu lòng dựng dậy một điệp khúc bứt rứt khi mưa từng sợi dòng xuống đầu tóc lười gội. Đà Lạt làm em mất bình tĩnh lắm rồi anh Tân ạ, mất bình yên nữa vì nhớ anh cầm lòng không đậu. Em ăn ngủ không điều độ và yêu anh cũng không điều độ. Cái lạnh ở đây có chiều xoay xoáy, cái mũi em khò khè nhức nhối, cái miệng em ho hen hoài. Có lẽ em húng hắng từ trong phổi, có đêm em phải xài tới bốn viên thuốc ngủ. Em uống thuốc ngủ một cách thật tàn nhẫn đối với em, ngủ được còn hơn không dù có hại về sau, mặt em dạo này quá teo tóp, mũi thì thật cao, mắt thì thật to, nhiều lúc soi gương em cứ tưởng em là con ve sầu.

Hôm qua cái ngân hàng ở đây có cuộc họp nhỏ trong khi mấy chị tay vẫn cầm que đan len. Con Lục lại khuyên em hãy về Huế rồi thì lên đây xin dạy học, mấy chị ai cũng đoán em có kép ở đây, kép độc, kép độc, kép trộc. Ai nấy đoán già thêm là tên kép đó phải điển trai lắm em mới theo lên đây. Con Lục biểu em dẫn tên kép lại đây làm quen, không sợ ra đường đánh bậy. Anh có dám đánh bậy với họ không em? Anh có dám lù lù vào cư xá này không anh? Em cắn răng cười ngồi sửa móng chân.

Trong lòng em đang cháy lớn ý định rủ anh về Saigon. Saigon dễ thương lắm, vào đó mà thở… Nhất định thế nào anh với em cũng đi Saigon một chuyến.

Hằng về tới cư xá, chạy vào nói với Lục:

- Tao sắp đi Saigon rồi.

Lục ngước lên:

- Kép trốn vào Saigon rồi. Ở Đà Lạt kiếm nhau còn dễ, chứ ở Saigon kép đã chạy là mất.

- Ừ, ở Saigon bạn bè thân mật cũng khó gặp nhau lắm.

- Mi đi Saigon thiệt hả?

- Ừ… chán ngắt Đà Lạt rồi.

Lục bĩu môi:

- Đà Lạt mà chán… Không đâu bằng Đà Lạt cả.

Sương tỏa lên mặt hồ lưng nước, dãy đèn xa ven bờ trắng đục như sữa. Tâm sự như một khối sắt cứng ngắc. Giọng hát Thanh Thúy nghe lạnh rất nhiều chỗ trên thân thể. Hằng đã thấy cô ca sĩ đó đứng yếu đuối trên sân khấu, đôi mắt không đẹp bằng chiếc miệng, không đẹp bằng chiếc mũi. Giọng hát đầy như trào khỏi gian phòng cửa kính đóng kín. Hằng quàng khăn dày nhìn ấm cúng gió lạnh mười một độ ngoài trời.

Giọng hát khôn ranh như lời ca thật ngây ngô có anh có em có đêm chia ly có mặt trăng và dứt áo lên đường trong lành lạnh bình minh. Tấm kính chấm phá vài nét phản chiếu ánh sáng ấm gần gụi của đèn gắn trên tường quán cà phê, lẫn lộn với nhiều nét kỹ hà néon lành lạnh xa vời góc chợ. Ngoài trời kia phải nhiều âm thanh, gió tự xa kéo về gần, tiếng reo thương nào đó không ai nghe được của hồ than thở, tiếng thông thổi trên đỉnh những đồi bủa vây Đà Lạt.

Ngoài trời kia phải có ít nhất một hai thứ ánh sáng, vết hằn bất động mờ mờ khuôn mặt góc phòng, mấy mảng trắng toát của những tấm rèm cửa. Ngoài kia phải có những mùi vị, dầu thơm, chuối thơm, những miếng bánh béo lành lạnh tanh tanh. Hằng ngồi như củi gỗ thấu suốt tâm tư của mình. Tâm sự của mình không giống tâm sự của ai cả.

Hằng đưa tay vuốt mái tóc lười đi tiệm của mình. Những chân tóc nghe nhức nhối. Trời ơi Đà Lạt càng về khuya càng lạnh, càng dài bề sâu, càng nở thêm sao… Hằng ngước mắt lên nhìn ngấn nước. Anh Tân! Nửa tháng trời nay em không gặp anh. Anh đã đi trốn. Anh đi trốn nửa tháng trời em tìm không gặp. Nửa tháng trời em bịnh, bịnh ở tim một chút, bịnh ở phổi một chút, bịnh ở gan một chút và bịnh thật nhiều ở óc. Anh đi trốn trong lúc em leo hết tất cả mọi dốc để tìm, đi tìm trên những góc nhọn đá tai mèo lởm chởm, chân chảy máu và trán chảy mồ hôi. Em đi tìm anh trên những con đường tỏa đầy sương, mặn tưởng như ngộp thở. Em đã để anh sổng anh, tin anh quá nên đã để sổng anh. Anh đã đi trốn, người nhà chùa trả lời em là anh bị bịnh nặng phải đi chữa.

Anh mà bị bịnh nặng. Em không tin anh bịnh, em đây mới bịnh, anh trốn đi là em phát bịnh. Mấy ngày nay, em ra đây ngồi quán, không nhìn đồng hồ trên tay.

Có tiếng kéo ghế. Hằng giật mình long lanh mắt. Một người đàn ông đã ngồi xuống trước mặt. Hằng liếc mắt ra chỗ khác, mặt lì lợm hết sức.

Người đàn ông sửa thế ngồi khi nói:

- Cô hình như có tâm sự?

Hằng quay lui:

- Một khối nặng hơn khối sắt… Anh có muốn hỏi kỹ không?

Người đàn ông cười:

- Cô đang cô đơn?

- Người yêu tôi bịnh.

Người đàn ông sửa lại thế ngồi:

- Cô du lịch ở đây?

Hằng cười:

- Hỏi kỹ quá! Tôi đang bịnh như người yêu tôi bịnh.

Hằng ngay thẳng ngó người đàn ông. Cái mặt thằng này máy nước một cách chi lạ đời. Không cao hơn máy nước một tí, cái bản mặt này là bản mặt của các chú uốn tóc. Đẹp bảnh bao, đẹp trơn nhầy. Các bà các cô ngã người lim dim mắt khoan khoái đưa đầu tóc cho uốn, đưa cái đầu cho làm, đưa cái móng tay móng chân cho sửa. Những cái bản mặt này phải com măng từ Hồng Kông sang. Chú Sin, chú Sân, chú Sầy, chú Lin.

Người đàn ông nói nữa:

- Đà Lạt trời đang đẹp, tôi có thể mời cô đi dạo được không?

Hằng ngáp:

- Tối om om, tôi phải về ngủ.

- Tôi xin đưa chân cô về.

Hằng lắc đầu:

- Nhà tôi ở gần đây.

Hằng cầm thìa gõ ken ken vào ly cà phê, cái nhìn xa xôi. Người đàn ông lại đổi kiểu ngồi, rút thuốc lá hút. Hằng uống thêm húp cà phê nữa rồi đứng dậy. Người đàn ông gọi bồi tính tiền.

Tiếng giày người đàn ông hơi hấp tấp, y theo kịp Hằng liền trong khoảnh khắc. Hằng vẫn đi bình thường, không rút mau cũng không chậm lại.

Gã đàn ông đi kèm sát bên sực nức mùi rượu:

- Cô em đẹp quá!

Hằng thở khịt khịt từ từ đi xích ra, gã đàn ông lại xáp vào:

- Cô em làm nghề gì?

Hằng sợ xốp phổi. Hắn kêu mình bằng cô em, hắn hỏi mình làm nghề gì. Sự vô ý lớn không thể tả là cả tuần nay mình cứ lang thang trong đêm tối một mình.

Mình quên sự giữ gìn nhỏ đến sự giữ gìn lớn. Dù sao con gái cũng không được đi đêm một mình. Có một sự giữ gìn đó mà cũng quên. Phiền, đi chọc ghẹo phiền hết sức, không mất chi nhưng phiền thật phiền. Mình chểnh mảng thật đáng trách. Tên say rượu này hắn theo mình về tận nhà thật rắc rối. Làm sao chịu nổi sự áp tải này.

Hằng dồn dập cúi đầu bước. Gặp thằng say rượu thì lì với hắn cũng vô ích, tránh được chừng nào hay chừng ấy.

Về tới cư xá nữ giáo sư, Hằng chạy ù một mạch vào nhà đứng ôm ngực thở một hồi rồi mới gõ cửa bước vào. Hằng thấy Lục nhìn mình sửng sốt và hỏi:

- Có chuyện chi không?

Hằng vẫn còn để tay lên ngực:

- Tao đi giữa đường gặ thằng cha say rượu.

Lục chau mày:

- Tao ở đây bốn năm mà chưa hề đi đêm một lần nào cả. Mi lên đây có mấy tháng mà quá gan… đêm tối còn đi lang thang thơ thẩn. Quá trời, có ngày du đãng bẻ gãy cổ tay cho mà coi. Mi thiệt đại ẩu rồi đa… Tao cũng ngán mi luôn.

Hằng cởi áo:

- Thằng cha say rượu nó đi theo, ban đầu mình làm tỉnh mình lì, về sau sợ quá! Sợ mà không dám chạy, về tới đây mới chạy một mạch.

Hằng uống sáu viên thuốc ngủ một lúc mà vẫn nằm hoài. Lục cũng đi ngủ sớm bẻ ngón tay kêu răng rắc. Lời hát ru từ chiếc ra-dô nhỏ để trên đầu nằm là “Ôi một lần nương náu! Đi trên đời chẳng lâu! Trong bốn mùa xuân héo, tay hái biết bao niềm yêu”.

Hằng lẩm bẩm bài hát buồn quá ngủ sao được. Mình nghe có một sự tàn rửa của lá úa, của sự chết, của lãng quên và mình nghe có một sự trung thành bền bĩ trong yêu thương, sự sống, trong âm thầm lặng lẽ chờ đợi.

Giữa khuya, Hằng xếp đôi tấm nệm bông đắp lên người. Cơn lạnh thân thể đột ngột đến. Đôi vai cô gái nhỏ nhọn, răng cắn răng. Hằng rên hừ hừ, ngực tức như bị dằn đá, trong nỗi rét buốt đó. Hằng thấy có mồ hôi đang ướm rịn ở những chỗ tối tăm trên thân thể. Xương nhức gân buốt, thịt nhão… Cơn lạnh qua đi thân thể nóng vùi, lưỡi nổi những mụt nhỏ, Hằng không biết nhờ ai rót cho ly nước lọc. Gần năm giờ sáng, Hằng mới chợp mắt được chút. Ly sữa Lục pha, Hằng chỉ uống có mấy thìa.

Lục kêu:

- Mặt mày mi vàng chạch ra, hốc hác thảm đạm, con này chắc đang đau bịnh nặng.

Hằng dụi mắt:

- Cả đêm tao hết sốt và rét gần năm giờ sáng mới ngủ được tí. Mấy đêm trước tao cũng sốt rét như vậy. Chắc tao đau bịnh sốt rét.

Lục lắc đầu:

- Mi có đi rừng đi rú chi mà mắc bịnh đó.

- Hay là tao mắc bịnh lao?

- Mi có ho hen chi đâu?

- Hay là tao mắc bịnh tim?

- Người gầy ít mắc bịnh tim lắm.

- Hay là tao mắc bịnh ung thư?

- Mi còn nhỏ mà mắc bịnh ung thư sao được.

- Hay là tao sưng gan?

- Phải đi bác sĩ khám mới được.

Mình nói ra bịnh gì con Lục cũng lắc đầu. Mình nghĩ đúng là mình mắc tâm bịnh, mình kiệt lực vì tâm bịnh… Có lẽ bây giờ mình đang rã rục, đang khụy xuống. Lúc mình mới vào, mình đã nghe con Lục dọa rằng mình sẽ đau bịnh nặng tại nhà nó. Khi không mà bịnh, kẹt quá!

Hằng ho khan rồi bảo bạn:

- Tao lạy mi Lục, dù tao có bịnh nặng ở đây mi cũng đừng đánh dây thép cho gia đình tao.

Hằng nằm xuống đắp thêm mền. Những mụt li ti đẻ nếm đồ ăn ngon trên lưỡi nàng hình như mọc dày và to hơn. Hồi còn ở nhà, mỗi lần Hằng bị như vậy dì Hai nấu một soong đậu xanh, bắt nàng ăn với muối. Thân thể Hằng đột nhiên nóng ngất, khô cháy và từng khớp xương như rời nhau ra.

Hằng lơ mơ nghe Lục đang rướn giọng hát bài “Tìm nhau”. Tìm nhau như chim mộng tìm người mơ. Tìm trong câu thơ cổ. Tìm qua tranh Tố Nữ. Tìm trên môi đương câu thương nhớ. Tìm sâu trong muôn thuở. Tìm sau lưng bốn mùa. Tìm nhau như thiên cổ tìm ngàn thu. Gặp nhau trong hơi thở của cuộc đời người ơi, gặp nhau hãy nép hơi im trong hương mới.

Đôi mắt ướt không phải vì cơn khóc, ngực Hằng nặng như bị bóng đè, nàng vội để cánh tay xuống giường. Hằng nhắm mắt và không gian chợt sáng bạc, sáng quắc nhưng không nhìn thấy ai cả và đồ vật nào cả. Hằng tức ngực, ngộp thở phải kê cao gối.

Hằng buồn nôn cực kỳ, nàng định cố nhổm dậy bật đèn nhưng cơ thể nhấc không nổi. Hay là mình chết đêm nay? Hay là mình chết ở đây? Dám lắm! Có người đang đi giữa đường cũng gục xuống chết được. Có những đang uống cà phê ở tiệm điểm tâm bỗng lăng quay ra đi dứt đời. Có người đang làm việc trong sở thình lình kêu ớn lạnh và chết ngay trên bàn giấy. Dám lắm, dám mình chết đêm nay lắm. Buồn nôn quá trời! Buồn nôn từ mật đến cổ, ngực cũng buồn nôn luôn! Trời ơi, ai dưới bếp bê lên một chậu thau cho tôi mửa. Hằng nghe ngực như bị xé mạnh và Hằng mửa ọc ra được một tí nước lạnh. Hằng ngất đi năm phút, mồ hôi chảy ướt trán, nham nháp quần áo. Hằng nói thôi mình dậy không nổi, cứ ngủ đã. Mệt quá! Mai mình dậy sớm lau chùi chỗ bẩn. Hằng thiếp đi một giờ và thức luôn tới sáng. Cơ thể nát nhừ, nhưng Hằng vẫn tận sức cố gắng ngồi dậy bật đèn đi ra bếp tìm nước lau rữa chỗ nôn mửa hôm qua. Hằng trợn mắt hét lên, Hằng che miệng dáo dác nhìn, Hằng thụt lùi…

Trời ơi! Mình thổ huyết, mình ói ra một cục máu chứ không phải nôn suông thường tình. Trời ơi, mình ho lao hồi nào đây? Mình đau phổi nặng rồi, Hằng khụy chân xuống.

Nửa giờ sau Hằng lấy chiếc áo thay ra lau sạch chỗ máu rồi lên giường nằm lại. Mồ hôi dinh dính ướt nhớt khắp cùng mọi chỗ trên thân thể. Những lỗ chân hình như rộng ra và sưng lên. Từ đầu mùa đông mình đã húng hắng ho khan, mình tưởng chỉ ho suông vậy thôi. Trời, bịnh lao đã đến với mình. Kinh khủng, ghê khiếp.

Hằng hà họng thở, mặt dài yếu ra. Trước khi đi dạy, Lục vào thăm bạn, Lục sửng sốt:

- Qua một đêm mà mi đổi khác quá xá. Tối hôm qua mi còn sinh hoạt.

Hằng nói nhỏ:

- Hôm qua tao tưởng tao toi rồi.

Lục ân cần:

- Ăn cam nghen?

Hằng gật:

- Cho tao một ly nước cam tươi thật đầy cho đường và đá vào. Đêm qua tao thèm quá! Ngày mai chắc trong người tao hết máu.

Lục lắc đầu:

- Mi cúm đó, cúm nặng.

- Ngày mai thịt tao sẽ rữa ra, xương sẽ mục nát… mi cũng đừng đánh dây thép cho gia đình tao lên đây nghe không.

- Mấy tháng trước mi lên đây người mi chắc chắn, đẹp đẽ. Bây giờ thì quá tàn tệ, võ vàng, không còn chút chi hồng hào tươi tốt cả, phải đi bác sĩ, chiều nay tao đem mi đi bác sĩ mới được. Để vậy mi chết.

Hằng giãy nãy:

- Không, không đi khám bịnh đâu, tao sợ lắm.

Lục trợn mắt:

- Để vậy mà chết à? Đau thì phải chữa chứ, chướng rứa ai chịu nổi.

- Tao sợ phải khai những gì tao làm trước thầy thuốc.

- Làm như đàn bà có mang so sợ đi khám thai. Thôi tao đi dạy đã, chiều nghỉ sẽ đi với mi lại phòng mạch bác sĩ.

Hằng nằm xoay mặt vào tường. Mình ói máu rồi, mình hộc huyết rồi, mình ho lao rồi. Đau cái bịnh lao người ta cần phải giấu kín, xì bịnh ra là hết người thân. Tôi sợ phải khai những triệu chứng trước mặt bác sĩ.

Để cho thân thể phải mắc bịnh lao tôi thật có lỗi với thân thể, tôi đã đày đọa, hành hạ dày vò thân thể quá lố. Không ngủ không ăn chỉ ưu tư. Tôi không muốn khai trước mặt bác sĩ tôi mệt lừ hồi nào ngày nào, đêm nào thân thể tôi chịu những triệu chứng lạ, những dấu hiệu đặc biệt. Tôi không muốn khai với bác sĩ căn cứ tôi đã hụt hơi. Kệ tôi, mua thuốc bổ uống lấy, mua thuốc bắc uống một mình vậy.

Hằng nhắm mắt cả buổi sáng mà không ngủ được chút xiu. Buổi trưa đi làm về Lục mua cam vắt ra ly cho Hằng uống, nấu cháo thịt bò bắt Hằng ăn, Hằng chỉ uống được nước cam, còn cháo thì nuốt không vô.

Lục gắt:

- Phải gắng mà ăn đi chứ, nhắm mắt bưng mịt mũi mà nuốt đi chứ! Cứ chiều theo bịnh mà nhịnh đói thì quá khoẻ. Ăn để mà thắng bịnh.

Hằng lắc đầu:

- Ăn vô ói ra ngay.

Lục nhăn mặt:

- Con ni chướng quá! Đau thì phải chữa lành chứ, ăn vạ với bịnh hoạn sao phải. Tao thấy mi bịnh nặng quá.

- Tao thấy tao bịnh nặng quá!

- Rứa mà không chữa! Khùng!

Hằng cười:

- Tại sao tao không mắc bịnh khùng hè!

- Khùng nặng rồi chứ còn chi nữa?

Lục cầm muỗng múc đút Hằng mấy miếng cháo. Dỗ con ni như dỗ con nít. Chướng, quấy, đồng bóng, ngang ngạnh, cứng đầu.

Hằng cười ăn cầm chừng nửa chén cháo thịt bò. Hằng mờ mắt ù tai, ngực thốn đau và dạ dày cương cứng, nằm vật xuống. Lục hốt hoảng nói:

- Mi mệt quá, nhắm mắt lại đi.

Hằng rên:

- Ăn thịt bò vào tất phải mửa ra máu.

Nhưng Hằng vẫn nằm xụi lơ chứ không hộc huyết nữa. Lục nói:

- Ngủ một chút chiều đi bác sĩ.

Bốn giờ chiều Lục đi vô:

- Dậy mà đi khám cô nương.

Hằng nói lớn:

- Ăn được cháo thịt bò rồi còn đi bác sĩ gì nữa! Hôm nay ăn cháo thịt bò, ngày mai ăn cháo cá, mốt ăn cháo thịt heo. Mạnh khoẻ rồi còn gì nữa. Lại đi vô rừng thơ thẩn.

- Điên! Ngồi dậy chải đầu mặc áo đi bác sĩ.

- Tao không đi.

Lục hét:

- Bộ muốn chết trong nhà người ta hay sao? Tao phải đi đánh điện mời bác sĩ lên đây.

Hằng cười:

- Đi khám bịnh hơn! Lục à, tao đang bịnh thì khỏi diện đi, khỏi chải đầu đi, khỏi mặc áo dài đi.

Lục lấy lược cho Hằng chải tóc, lấy áo ấm bắt Hằng mặc.

Lục nói:

- Con ni chắc mắc bịnh sốt rét.

- Da tao vàng lắm hả?

Lục lắc đầu:

- Da mi xanh như lá sen, còn hai con mắt thì sáng như mắt cọp… Hay là mi mắc bệnh thần kinh?

- Ngày xưa hễ đau chi là tao uống thuốc Bắc với uống sữa, lập tức tao mập tròn lên liền, không đi bác sĩ, thuốc tây nóng lắm, uống vô nổi mụn.

Lục rướn giọng:

- Đau thì phải chữa chứ, ai lại liều với bịnh. Mi có nghe tao không Hằng? Tao phải đánh điện cho bác Phủ lên đây nuôi bịnh mi mới được.

- Tao ăn cơm gạo lức với muối mè, tao cóc cần bác sĩ.

Lục bĩu môi:

- Cứ xổ cái giọng liều lĩnh ra… ghét quá!

Hằng nằm xoay mặt vào vách, tóc rối bời, nàng đưa tay lên vuốt ngực. Ngực tức, ngực tức quá! Mình ưng nằm im dưỡng sức mà con quỷ Lục cứ đứng đó bố ráp tinh thần mình hoài, cãi với hắn đứt hơi mất.

Lục lại lên tiếng:

- Hằng… tao dỗ ngọt mi đó, mi có đi bác sĩ không?

Hằng cười:

- Đi thì đi sợ chi nhưng để mai mốt đã.

- Tao không đi ngay bây giờ?

- Tao kẹt, lát nữa tao có hẹn với người quen.

Lục trợn mắt hoa tay:

- Trời ơi, bịnh hoạn như vậy mà còn hẹn hò…

Hằng cười to hơn:

- Tao hẹn với một bà vải già mua chuối mua vôi nấu chè đem lên chùa cúng cho tao khoẻ mạnh.

Lục đứng lên nhiếc Hằng đồ khỉ.

Con Lục đi rồi, hắn tha cho mình rồi. Ui trời ơi, làm bộ ba hoa cười nói với nó mệt đứt hơi. Huyết sắp hộc ra, hơi hụt từng đoạn, mệt điếng hồn.

Anh Tân! Yêu anh, một là được lấy anh, hai là chết vì tình một chiều. Em đang yếu dần yếu dần đây. Lời nguyện của em là sống với anh, lời nguyện với em cũng là chết vì anh, em đang bịnh đây, em sẽ chết hay em được sống. Sống với anh thật quá sung sướng, nhưng chết vì anh cũng chẳng lấy gì làm đau khổ. Người đàn ông tàn khốc, người đàn ông định mệnh, em có chết mòn chết gục vì anh, em vẫn yêu anh tươi thắm như em được sống với anh. Em đang ho lao thổ huyết vì anh đây nhưng tình em vẫn đỏ rói. Em đã nguyện chết vì anh rồi, đau là chuyện quá nhẹ. Đau rồi sẽ lành và đau rồi sẽ chết. Em không sợ đâu, đau tức là sự gia tăng nhảy vọt của tình yêu. Em không phiền vì em đau tí nào cả.

Hằng ngồi lên một phút, đứng dậy đi ra sau pha nước ấm rửa mặt rồi trở vào chải tóc đánh phấn ra đi. Anh Tân, đêm qua em vừa thổ huýêt nhưng bây giờ em vẫn ra đi tìm anh.

Tình yêu có lẽ phải và tình yêu có lẽ trái. Em làm trái hết sức, em sẽ làm trái thêm nữa. Ông đạo sĩ theo tà đạo với em cũng như ông đạo sĩ theo chánh đạo vậy, chẳng ông nào em coi trọng hơn ông nào.

Anh đã xem tình yêu của em như một tà thuyết quái đản. Em là kẻ đuổi anh trên đường sống này, anh chạy trốn em hai lần rồi em vẫn tìm.

Hằng rét lạnh hai ống chân và đầu gối run mạnh khiến cả chiếc hình hài lảo đảo và vùng trán xoay tròn đều. Hằng cảm tưởng mình đang xoay chong chóng.

Đợi gần nửa giờ không có xe lam. Hằng leo lên xe ngựa ngồi chung với mấy người. Ngựa chạy nhồi mạnh quá. Hằng nhắm mắt nắm cứng vào thanh gỗ.

Người đàn bà gắp bánh hỏi:

- Cô đi đâu?

Hằng hổn hển:

- Cháu đi đến ngôi chùa này xa lắm.

Bà gắp bánh hỏi tiếp:

- Cô mệt lắm phải không? Mặt cô xuất mồ hôi ra hết.

Hằng quệt má:

- Cháu đang rét run.

- Cô bịnh mà cô đi đâu?

- Hấp hối cháu cũng đi.

- Không ai đi giúp cô sao?

Hằng ngộp thở tối tăm mặt mày, cơn tức bằng hơi cuồn cuộn kéo cao tới cổ, áp nặng bộ ngực rỗng nàng vội chụp lấy thành xe nhắm mắt. Mồ hôi lạnh ướt rịn. Anh Tân! Ske em chỉ có chừng này thì tìm anh sao được? Em tìm anh cùng với cái chết. Có lẽ cái chết sẽ đến trước khi thấy anh, con người đã cự tuyệt em tàn nhẫn nhất. Bịnh hoạn đang bắt em chịu cực hình nhưng em vẫn đi tìm anh. Em đi tìm anh cho được đã rồi chết hoặc chữa bịnh sau.

Anh không bao giờ đợi em, em như một niềm vui khổ sở, em như một cơn đau tươi đỏ. Mạch sống đã tự tát cạn đến khố cát, tinh thần rướn căng rất thẳng ở mỗi giây đồng hồ chắc sẽ đứt ngang, sẽ bể vụn. Tình cương lên đầy ấp nhưng mộng không tròn, mộng méo lệch. Em đi một mình trên mọi con đường buồn, em lẻ loi nhìn những người khác ôm nhau. Mỗi ngày một thương anh hơn lên, thương sa đọa, thương tiều tụy, thương thảm khốc. Ai cứu em thì em chết, anh cứu em, em mới sống.

Tóc em rụng quá nhiều rồi, chưa sinh chưa đẻ, chỉ mới yêu thôi mà tóc đã rụng bứt rứt, xót xa, nuối tiếc. Anh không chịu làm một cứu tinh hào hiệp của đời em, em đã nhận làm một tai ách nghiệp chướng của đời anh. Tâm hồn cùng hai lá phổi đã không còn trong trẻo. Cho anh tâm hồn đục, cho anh buồng phổi nám, cho thêm anh cả đầu tóc đang rụng, máu đã hộc ra rồi, máu còn lại trong cơ thể cũng cho anh luôn, cho anh xương cho anh da, cho anh bắp thịt nhũn. Trời ơi! Yêu một lần cũng đủ chết. Chết không uât, chết không nghẹn mà chết cười. Em không có nước mắt chảy ào ào như những người con gái khác, em có phổi yếu, em có gan lì, em có tim hung dữ.

Bàn tay lay vai Hằng:

- Cô bị gió phải không? Cô bôi dầu đây này.

Hằng thở dốc:

- Tôi mất máu nhiều quá nên tai xanh, tôi không phải bị những chứng cảm cúm lăng nhăng thường tình đâu. Nếu đau như vậy thì quá dễ chữa.

Người đàn bà hỏi liền:

- Vậy cô đau chi?

Hằng cười héo úa:

- Đau dữ lắm, đau chết luôn.

- Tại sao cô không ở nhà nằm lại, đi cho bịnh thêm?

Hằng mím môi:

- Nếu đi mà tìm được người chữa thì bịnh lành, còn nằm ở nhà không ai chữa thì nhất định chết.

- Cô có chữa thuốc tây không?

- Mấy ông bác sĩ là mấy ông ác.

- Cô đi vô rừng tìm người chữa bịnh theo cách ta phải không?

- Tôi đến ngôi chùa thật xa ở đây.

- Cô tìm thầy cúng phải không?

Cơn mệt vừa trút xuống lại trồi lên. Hằng nhắm mắt, lạnh vì mồ hôi toát ra và ôm ngực ho liên hồi. Cơn ho hục hặc, cơn ho lồng lộn như một luồng phong bão. Hằng muốn nằm ngửa ra há hốc nồm ho một trận. Mình phải vừa ho, vừa hét kêu lên mới đỡ ngứa cổ. Hằng thở bằng miệng, mũi ngột, đôi mắt ngập nước. Anh Tân, anh Tân, em chết, chết tại chỗ, chết ngay tức khắc, chết không gặp lại anh. Anh Tân, anh Tân, anh cứu em với, anh Tân, anh Tân…

Người đàn bà giữ vai Hằng, lấy dầu bôi vào trán vào miệng:

- Cô nằm lên đùi tôi đi cô.

Hằng ôm ngực ngước mắt lắc đầu:

- Nằm xuống chắc tắt thở, tôi ngộp hơi quá!

Người đàn bà vuốt ngực Hằng:

- Khổ không? Cô đau chi cô có biết không?

- Tôi ho.

- Sao cô đi một mình vậy? Ho mà gặp lạnh thì có mủ trong phổi ngay.

- Tôi đi tìm thầy chữa bịnh.

- Không ai đi tìm giúp cô sao?

- Chẳng ai giúp tôi được.

- Thôi cô nghỉ đi, đừng nói mà mệt thêm.

Đôi ngựa kéo xe ngừng, mọi người nhảy xuống, người đàn bà đỡ Hằng đến ngồi bên một tảng đá nhẵn.

Người đàn bà nói:

- Cô về đâu tôi đưa cô về.

Hằng mở mắt ra lắc đầu:

- Cám ơn bà, cháu ngồi đây chờ ông chú của cháu tới đón. Bịnh của cháu kỳ lắm, ba hồi nghe trong mình thiệt khoẻ, ba hồi nghe thiệt mệt.

Mọi người đi hết, cơn mệt tan, Hằng đứng dậy, bước thênh thang giữa một vùng lá xanh cùng cỏ non. Thông mọc trên một chu vi rộng bao lấy khu vườn nhà chùa, con đường dẫn ra cổng trồng đều đặn hai hàng anh đào cành có khi sà xuống thấp tận vai. Hằng tưởng như mình đứng trong một bọc không khí khổng lồ êm êm lặng lờ vắng khuất.

Hằng ngáp ngầm một cái dài, người ta vào đây tâm hồn nhẹ tênh như tấm thảm bông gòn phiêu phiêu bay bay vút lên chín từng mây, như một chùm bong bóng khinh khí bồng bềnh vụt thẳng tới bảy lớp gió vàng. Còn mình, hồn nặng cả tấn cả tạ chìm nghỉm xuống bùn đen dơ dáy. Nỗi buồn có bao nhiêu bọt, nỗi buồn có bao nhiêu khí lành, mình là một khối tội lỗi. Tội lỗi lút đầu, tội lỗi ngập núi. Người ta sẽ xử mình thiệt nặng, mẹ mình cũng xử mình thật nặng.

Mẹ mình quan niệm ăn cơm làm đổ một hạt cũng đã tội lút đầu, làm rơi một dúm muối cũng đã tội lòi mắt. Mẹ mình xử mình nghiệt ngã hơn ai hết. Còn ba, ba vậy mà xuề xoài dễ dãi, khó quá thì ba chịu thua liền, ba biết cư xử rộng.

Hằng thất thểu bước vào nhà ngang của ngôi chùa. Một nhà tu mặc áo bà ba bằng vải tám bước ra, Hằng hỏi:

- Dạ thưa thầy, thầy Thiện Tân bỏ đi hồi nào ạ?

Nhà sư nhỏ lễ phép:

- Dạ, thầy ấy nhuốm bịnh phải đi chữa cả tháng nay rồi.

Hằng lại hỏi:

- Dạ thưa thầy, thầy Thiện Tân mắc bịnh gì ạ?

- Dạ, thầy bị tâm bịnh, thầy phải đi xa để chữa.

- Thầy có biết thầy Thiện Tân đi chữa bịnh tận đâu không ạ?

Nhà sư lắc đầu:

- Tự nhiên cả tháng nay thầy ăn ngủ không được, đêm nào cũng tụng niệm thật khuya, có khi suốt sáng. Sức khoẻ thầy ấy hao mòn, rồi thầy ấy kiệt quệ, đang tụng niệm trước Phật đài, bỗng dưng thầy ấy té xỉu, ngất đi mấy giờ đồng hồ sau mới tỉnh.

Thầy ấy nằm lã một tuần rồi trở dậy từ giã mọi người lấy vé máy bay đi chữa bịnh ở một nhà thương tư một ông bác sĩ bạn.

Hằng hấp tấp:

- Thầy ấy đi chữa bịnh ở đâu?

Nhà sư im lặng một lúc:

- Dạ cái đó tôi không rõ lắm.

Hằng cười:

- Tôi là người nhà của thầy ấy, tôi đem tiền bán ruộng của thầy ấy lên đây giao cho thầy chữa bịnh. Thầy hãy chỉ chỗ thầy Thiện Tân dưỡng bệnh giúp tôi.

- Hình như thầy ấy đi Saigon.

- Không phải thầy ấy đi về Huế?

- Cái đó tui không rõ lắm.

Hằng thở nhẹ. Điều lo sợ nhất là anh về Huế, tòa án lớn xử tội một lần là xử tội cả đời. Anh đã không về Huế, may cho em quá. Nếu anh về đó, em thật khó liều mạng, khó xoay trở, khó bày mưu lập kế.

Nếu anh về Huế thật khó xử cho nhau quá! Anh đã không về đó, em sẽ đi khắp chốn tìm anh, anh ở đâu em cũng cố tìm. Ma độc quỷ ác sẽ dắt lối đưa đường cho chúng ta gặp nhau. Em đang bịnh trầm trọng nhưng mặc kệ, gặp nhau rồi ta hãy chữa bịnh. Anh cũng đau yếu, anh mà đau yếu? Làm sao mà anh đau yếu được. Anh có tuyệt vọng vì ai đâu?

Anh từ chối, anh đã thương em trí mạng, anh làm cho người ta đau chứ anh mà đau gì. Anh trốn mặt em chứ anh đau gì. Hằng từ giã nhà sư nhỏ, đi bộ một đoạn mới đón được xe lam. Lục đứng ở cửa hét lớn:

- Đến cái nước này thì ai còn chịu nỗi nữa… Bịnh hoạn sắp tới đến nơi mà ngày nào cũng mò vào rừng. Tao không hiểu mi theo đuổi cái chân lý ma quái dã man gì mà ép xác nghiền xương, khổ hình nhục nhằn như vậy? Mình tự dành cực hình cho mình… Lạ thật!

Hằng cúi đầu:

- Tao thật có lỗi.

Lục hầm hầm:

- Mi trốn nhà lên đây tao chứa chấp, mi làm bậy làm bạ theo cái khùng, không nghe ai khuyên hết. Tao không muốn đồng lõa với tội trạng của mi tí nào hết.

Hằng lạnh lùng:

- Mi đừng nói nữa. Mai mốt tao sẽ đi Saigon.

Lục cười sẵng:

- Tao đánh điện mời ba mi lên đây rồi.

Hằng nhướng mắt:

- Bắt tao sao được, sáng mốt tao sẽ tốc vào Saigon rồi.

Buổi tối hôm đó, Hằng vẫn khạc ra huyết và suốt một ngày hôm sau Hằng nằm duỗi dài. Và trong vòng một giờ từ Đà Lạt vào Saigon, Hằng ngồi che mặt khóc thầm.

Hằng đến nhà Tuyên vào buổi trưa, đấm cửa inh ỏi. Á xẫm mập múp míp phục phịch bước ra nhìn khó chịu.

Hằng nói:

- Chị vô nói với ông có cô Hằng…

Á xẫm lặp lại:

- Cô Hằng.

- Vâng, cô Hằng em vợ.

Tuyên khoác Peingoir bước xuống xoắn xít mời Hằng ngồi rồi quay bảo á xẫm lên lầu coi em có thức bồng xuống chào dì. Chị Hường mình chết đã sáu năm mà anh Tuyên vẫn không tục huyền. Mỗi tháng kiếm bao nhiêu tiền ăn chơi vung vãi với vũ nữ. Ngày xông xáo làm việc, tám giờ tối lấy xe vọt đi mua vui, giao con cho hai á xẫm.

Tuyên hỏi:

- Hằng sắp sửa thi mà đi đâu vậy?

Hằng ngáp:

- Em bỏ thi kỳ đầu, em học bài không kịp.

- Ẩu… đến kỳ thi thì phải thi, bỏ uổng.

Hằng ngó lên tấm hình bán thân phóng lớn của Hường. Chị ấy không giống mình vì chị ấy không cùng mẹ với mình, chị ấy có vẻ đầm.

Tuyên lại hỏi:

- Hằng vô đây chơi hay có chuyện chi?

Hằng cúi mặt:

- Em kẹt một chuyện nên phải vào đây.

Tuyên nhìn kỹ Hằng:

- Ăn uống ngủ nghê sao mà ốm nhóm ốm nhách vậy?

- Dạo này em hơi bịnh.

- Đau chi, để anh mời thằng bạn đến chữa?

- Tự nhiên mất sức, em định uống thuốc bổ.

- Có mấy con sâm thằng bạn đi Đại Hàn về cho đó. Hằng có uống biểu chị bếp nấu cho uống.

- Em sợ lắm.

- Uống sâm có chi mà sợ?

- Đã già đâu mà uống sâm?

- Cứ thấy người yếu yếu là tẩm bổ. Có đào cải lương Phi Nga mỗi ngày uống bao nhiêu.

Hằng lắc đầu:

- Em chưa nghĩ tới việc uống sâm.

Tuyên nói to:

- Thì uống cao cọp vậy.

- Dưới bốn mươi tuổi không được uống cao hổ cốt, sợ có dòi trong xương.

Tuyên bảo Hằng đi tắm rửa rồi vào phòng nghỉ. Chị Hường mới mất sáu năm mà anh Tuyên đã giàu sụ. Cái số chị mình mạt, lúc anh Tuyên bắt đầu giàu thì chị ấy chết, không ở mà hưởng.

Sau giấc ngủ, Hằng trở dậy chơi với cháu. Hai đứa con gái giống cha như in, nói được hai câu lại hôn dì Hằng một cái. Hằng thốt nghĩ đến cái đức cam con của anh rể. Một tháng Tuyên đã đuổi hai người làm. Chúng nó rửa đít cho em bằng chân chứ không phải bằng tay, chúng nó hôn vào miệng em, thổi chén bột cho nguội trước khi đút cho em ăn. Hai đứa con của tôi không biết ăn nước mắm, bậy quá chúng chỉ ăn xì dầu. Bậy quá, cơ thể trẻ con không nên để thiếu nước mắm, mỗi tuần tôi phải đè chúng ra bắt mỗi đứa uống nửa chén nước mắm nguyên chất. Tôi mới mua cho cháu một cổ đàn dương cầm… Ui! Đẻ con gái phải săn sóc thiệt mệt, đêm chúng ngủ tui phải kịp mũi chúng bẹp dí, tôi phải gắn hàm thiếc vào răng chúng sợ lưỡi chúng đẩy hàm răng thành cái mái hiên.

Hằng nghĩ thầm anh Tuyên không biết mình khạc ra máu, nếu không anh chẳng cho hai đứa nhỏ này gần mình đâu.

Hằng nựng con Ri. Vuốt tai mai lớn. Vuốt trốt mốt lớn. Vuốt cằm rằm lớn. Vuốt mũi túi lớn.

Tuyên đi vào nôi:

- Tối nay Hằng có muốn đi Chợ Lớn ăn cơm Tàu không để cho hai cháu đi với.

Hằng ngước lên:

- Cho em ở nhà thôi anh!

- Cũng được, tối nay anh ăn cơm nhà vậy.

- Mọi hôm, anh không ăn cơm nhà sao?

Tuyên cười:

- Anh chỉ dính với gia đình buổi cơm trưa, buổi tối anh ăn cơm ở nhà hàng rồi đi lung tung. Đến giờ giới nghiêm anh mới về ngủ.

Hằng long lanh mắt:

- Gà trống nuôi con sướng quá ta!

Tuyên nháy mắt:

- Gà trống chứ không phải gà trống thiến.

Á xẫm xuống bép rối rít làm cơm. Tuyên đánh xe ra phố mua mấy món ăn lạ. Sau bữa cơm, hai đứa cháu kéo tay Hằng ra phòng khách xem ti vi. Tuyên kêu đêm nào cũng đi chơi quen nết, bây giờ ở nhà buồn quá.

Hằng nhìn anh rể:

- Anh có nghĩ đến chuyện lấy vợ lại không?

Tuyên cười:

- Địa vị của anh bây giờ bất cứ thằng đàn ông nào cũng ham cả, lấy vợ rồi, lấy vợ một lần thôi chứ, con cũng có rồi, còn mơ chi nữa, còn chơi được thì chơi cho sướng cái đã.

Anh biết tổ chức cuộc sống, anh biết sắp xếp nhà cửa, anh biết làm bếp lau nhà. Hằng coi vợ anh chết, nhà cửa nhìn vào có ai bảo thiếu đàn bà đâu. Anh đi chơi ngoài quá đủ.

Hằng mím môi:

- Anh ích kỷ lắm.

Tuyên nói:

- Phải thiên vị mình một chút chứ! Đàn bà không nên với vào, chỉ nên đẩy ra thôi…

- Cuộc đời tình cảm của anh chắc sòng phẳng lắm.

Tuyên gật:

- Chơi đến đâu chi tiền đến đó.

- Anh lúc nào cũng ào ào ầm ầm… Vậy anh nhất định không chịu lấy vợ?

- Khổ lắm em ơi!

- Anh chung tình với chị Hường phải không?

- Lấy vợ cực chịu sao nổi.

Hằng cười:

- Vậy mà em cứ để dành một con bạn cho anh.

Tuyên cười giòn:

- Món nào vậy?

- Con Lục bạn em đó, ngày xưa anh vẫn đựt điều kiện vợ anh chỉ cần là giáo sư thôi cũng đủ đứng đắn, tuổi chừng hăm lăm.

Tuyên cười lớn:

- Người ngắn một mẩu, tròn xoe như tai nấm rơm.

Hằng xì:

- Bao nhiêu nét đẹp của người ta anh không nhắc, anh chỉ…

Hằng vừa ngồi vào bàn ăn đã buồn nôn ngay, nàng chống cùi tay, chống đũa mãi vào chén cơm. Đôi mắt thiếu ngủ máy giật từng hồi lia lịa, lưỡi đóng bợn trắng đắng ngắt. Hằng hắt hơi liên tiếp. Tuyên kêu em bịnh rồi, hay là em uống sữa vậy. Từ Đà Lạt về Saigon khí hậu chợt lạnh chợt nóng khó chịu lắm. Hằng nhìn mấy dĩa đồ ăn toàn thịt co cổ lại, nàng gắp từng hạt cơm rời nhai se sẽ. Hằng cảm thấy xót bụng, những khớp xương nhức mỏi, đầu gối rã rời. Từ hôm ho ra huyết mình không hề tẩm bổ, không hề nghỉ ngơi. Sinh lực tiết ra quá nhiều, sinh lực tiết ra từ chân tóc, sinh lự tiết từ các khớp xương mục. Hằng thấy lạnh ở gáy, ở hai vai, muốn chạy lên lầu lấy áo ấm khoác vào. Tuyên đề nghị ngày mai đãi Hằng đi ăn đầu cá, ăn thịt rừng, ăn mấy niêu cơm Tây. Hằng lắc đầu:

- Em sẽ uống thuốc bổ.

Tuyên mau miệng:

- Em uống thuốc bổ rồi anh đem em với các cháu đi chơi. À, ngày mai Hằng đi sở thú với các cháu không?

- Em mệt quá anh à! Em cần phải nằm năm sáu ngày rồi còn dậy đi lo công chuyện, anh cứ để em tự nhiên… Nhà rộng quá anh cứ tự nhiên đi lo công chuyện của anh, đừng quan trọng sự có mặt của em.

Hă#ng uống bảy tám viên thuốc ngủ mà mắt vẫn còn mở trao tráo. Chắc mình phải uống thuốc phiện mới ngủ được, hút cần sa ma túy mới át nổi cơn bịnh. Bịnh của mình có vẻ cổ quái nhưng mình chẳng sợ một tí nào, bịnh có nặng thêm mình cũng không sợ. Có chết mình cũng không sợ… Thiện Tân trốn đi lần này thật khó tím. Một người tìm một người ở Saigon, chuyện khó khăn hết sức. Mỗi một cá nhân sống ở Saigon như muối tan trong biển. Đường hẽm chi chít, đầu người lúc nhúc. Mình tuyệt vọng quá sức rồi, chắc mình không tìm ra được Thiện Tân. Anh không còn tông tích, anh mất tăm hơi. Anh biến, anh lặn, anh chìm, anh bay, anh tàng hình…

Hằng thao thức suốt đêm, bảy giờ sáng Hằng mới ngủ được một giấc. Buổi trưa Hằng ăn cháo. Tuyên nói:

- Em vào đây bỏ cả thi cử. Chắc em có chuyện chi trọng đại lắm? Anh có ô tô, anh sẽ đi giúp em. Em cần chuyện chi cứ nói.

Hằng bặm môi:

- Em có việc nhưng việc em để em lo.

- Saigon chật chội xô bồ khó đi, khó len lách, em có chuyện chi cứ để anh lo.

- Em tự sức làm được, khỏi phiền anh.

Tuyên im lặng một lúc lâu mới nói:

- Nếu em có cần tiêu chi, cứ nói với anh.

Hằng bối rối:

- Em có mang theo tiền mà anh.

Tuyên cười:

- Saigon có bao nhiêu thứ cần phải tiêu, em muốn tiền cứ hỏi anh, em đừng ngại gì cả. Ở Saigon không có tiền tiêu là bỏ về Huế quách cho rồi, không có tiền tiêu giận lắm. Bởi đó, phải hì hục xông xáo làm việc. Làm việc trối chết mới kiếm được tiền và tiêu tiền thật nhiều để thấy lại đời sống.

Hằng ngáp:

- Em cần nằm nhà vài ngày để tĩnh dưỡng rồi em sẽ đứng lên đi ra ngoài. Anh đừng dòm ngó chi công việc của em hết.

Tuyên cười:

- Cả ngày anh bận lu bù li bì.

Hằng nhìn hai đứa cháu gái giống cha quá độ, nếu chúng để râu chắc chúng giống cha như in. Hằng cười nụ nhỏ.

Hằng đem về nhà một toa thuốc dài như lá đơn với cái phiếu chi chụp hình phổi. Mình đích thị mắc bệnh lao rồi, phổi tái ngắt, phổi xám ngoét rồi, chữa bây giờ mới kịp, để lâu chắc chết… Ông bác sĩ dọa mình sẽ chết. Mình vẫn không dám đi chụp hình phổi, hãy chữa tạm tạm vậy, uống thuốc vậy để sống cầm chừng mà đi tìm chồng.

Tuyên kêu công việc chàng bề bộn quá nhưng cố gắng rứt ra một tuần lễ tiếp tân thân mật. Anh phải đưa em đi phòng trà, đi xi nê, đi vũ trường, đi sở thú, về Lái Thiêu, Thủ Đức, Biên Hòa, vào Chợ Lớn ăn cơm Tàu, cơm Tây… Hằng chắp vái thôi anh, cơ thể em bây giờ rã rục, nghe nói đến chuyện ăn là sợ đổ mồ hôi lạnh. Chiều nay em đi bác sĩ khám bệnh.

Tuyên ân cần để anh bảo thằng bạn làm ở bịnh viện Bình Dân về đây bắt mạch cho em. Hằng lắc đầu xua tay thôi thôi, khám bịnh ở nhà mất tự nhiên, em đi tận phòng mạch của họ cho tiện.

Hằng co rút thân thể. Kể từ giờ phút này Thiện Tân là chồng mình vậy. Chồng chứ còn gì nữa. Chồng định mệnh, người chồng mà mình yêu tươi yêu sống và mình cũng yêu chết. Đích thị Thiện Tân là chồng mình chứ không còn gì nữa. Bịnh lao của mình do Thiện Tân gây ra chứ còn ai nữa.

Hằng uống thuốc ba ngày. Ăn được chút ít. Những cơn mất ngủ vẫn kéo dài dọa nạt thách đố. Anh Tân, em lại tự động tăng lượng thuốc an thần mỗi đêm, em kêu tên anh không ngừng, oán trách anh không ngừng. Bạc ác, vô tình, hèn nhát.

Cơn sốt nửa đêm về sáng kéo dài, mồ hôi xuất làm cơ thể lạnh. Hằng nghe từ khối tưởng tượng nhốn nháo của mình những tiếng thét réo đục, những màng tai bùng bùng. Những tiếng thét rú nhọn lao vút lên, kéo dài rồi tắt hẳn. Những tiếng thét vụt chuyển mình rền rền, kéo mỏng ra những tiếng còi rồi đứt từng khúc ngắn rớt loảng xoảng trên thành ngực chứa hai lá phổi đã hư. Tiếp theo những tiếng thét giãn ra, loãng dần rồi im bặt. Một lúc lâu lâu có tiếng hú dài bò ngoằn ngoèo. Hằng tưởng như có xen vô mấy chuỗi cười rộ reo réo như tiếng đồng hồ báo thức xoáy vào lá chỉ rồi tan rã thành những âm thanh chói tai ê óc. Hai lá phổi của Hằng biến thành đôi cánh chim và cái cuống phổi hóa thành chiếc miệng cất tiếng gào khóc thê thiết, thảm sầu, kể lể.

Hằng ra khỏi cơn mê bắt nạt. Giấc ngủ bấn nát không thấy, đêm nào cũng mộng ác bố ráp tinh thần òi ọp. Anh Tân, em không tìm ra anh rồi, anh mất không tìm thấy. Làm sao kiếm được anh ở đây? Anh nhất định trốn em mãn hạn cuộc đời phải không?

Tự tin em không còn nữa, cố gắng em không còn nữa. Em hết gặp được anh rồi phải không? Em xót ruột và em xót xa trong triệu chứng bịnh mỗi ngày mỗi gia tăng.

Trước mặt em chỉ có màn đen đặc quánh làm ghê rợn khoảng chân không, cái màu đen cứng ngắc ác độc và có linh hồn và hình như có lảng vảng bóng ma.

Em sục sạo đi kiếm anh đây, kiếm anh giữa biển động Saigon, kiếm anh mắt lòa tai long, chân trợt té, kiếm anh để cướp lại sự sống. Anh trốn trong bóng tối, em tìm trong ánh sáng. Chỉ việc làm chồng em thôi mà anh cũng trốn em. Em sợ em chết quá. Em chịu đựng không nổi trạng thái căng thẳng này… Đêm nào cũng ác mộng.

Hằng đứng lên rửa mặt bằng nước ấm rồi xuống nhà ăn chén cháo với uống hai trái cam sành. Tuyên nói ăn cam sành bổ phổi.

Hằng trang điểm những đường nét nhạt. Hai con mắt sáng rực rỡ và bộ mặt gầy trổi cao gò má. Hằng phải ngồi lại mấy phút ở sa lông nói chuyện với Tuyên.

- Đêm qua anh đi chơi về ngủ ngon quá!

Hằng cười:

- Đêm nào không đi chơi chắc anh ngủ không được?

Tuyên nhìn Hằng:

- Chị Xẫm nói đêm qua Hằng đập chân đập tay giẫy giụa lắm, chắc cô mình mơ thấy cao bồi du đãng nào đến ve vãn tán tỉnh chớ gì?

Hằng cười:

- Em bị bóng đè vì em nằm ngủ vô ý để tay lên tim.

Hằng vui vẻ tiếp:

- Hễ cứ nằm ngủ mà đặt tay lên tim là bị bón đè. Người ngoài mình gọi là mộc đè. Bị cái đó khổ ghê, ngực nặng như cả tạ gạo đè lên trên, cổ như bị ai bóp, tay chân như bị ghì cứng. Tiếng động gì xảy ra chung quanh mình cũng nghe hết, ai đi qua mình cũng biết hết, rõ ràng mình có kêu cứu mà không ai nghe… Lúc đó có ai đụng vào người mình một cái là biết ngay, mình kêu cứu bắt hết hơi mà không ai nghe.

Tuyên cười xòa đứng lên:

- Chiều thứ bảy đầu tháng, anh sẽ tổ chức bữa ăn lớn mời toàn những thằng đực, em sẽ là người đàn bà độc nhất của bữa tiệc.

Hằng cười gượng, Tuyên đang trên lưng cuộc đời dậy màu rực rỡ trên đỉnh nhọn của những hạnh phúc khoảnh khắc, trên vòng cong những cuộc vui ồ ạt rải rác quanh năm suốt tháng chấm dứt rồi lại tiếp nối. Có một dạo Tuyên mê chụp hình ca sĩ, có một dạo mê làm báo, mê làm phim. Rồi sau hết Tuyên buôn đồ Mỹ một vốn bốn lời. Tuyên bỏ ra một triệu mua nguyên cả chiếc xe chở đồ Mỹ: Cả một đoàn xe đang chạy, tự nhiên có một chiếc xe lẻ đi riêng. Tuyên phải làm sao cho chiếc xe đó ra khỏi căn cứ khám xét Biên Hòa chạy về một căn cứ bí mật trút đồ trên xe xuống.

Tuyên giàu to nên chiếc xe đó chở toàn đồng hồ, lưỡi lam cạo râu đàn ông, quạt máy, rượu… Nhưng có khi gặp phải chiếc xe đựng xác chết hoặc cả một chiếc xe chứa toàn súng M16… Lúc ấy thật kêu trời không kịp…

Tuyên sống một cuộc đời tuyệt mộng! Buổi tối không bao giờ ăn cơm nhà, thỉnh thoảng thuê một vũ nữ khỏa thân về nhà mời bạn bè lại coi.

- Anh Tuyên còn buôn đồ Mỹ nữa không?

Tuyên bành miệng:

- Bị bắt mấy vố mất tiêu cả năm triệu bạc. Bây giờ chán buôn cái kiểu đó rồi, anh bỏ tiền ra với mấy người nữa mua tàu làm nghề đánh cá.

Hằng nhô vai:

- Giàu quá ta!

Hằng và Tuyên cùng ra xe một lượt. Tuyên đưa Hằng lại một lưu xá đường Bà Huyện Thanh Quan. Hằng ra đi suốt sáng mệt sùi bọt mép, về nhà nằm dài. Tuyên mua cả lô thuốc bổ về ép nàng uống no nê đến bỏ ăn.

Hằng cười khanh khách:

- Tạ ơn đời nếu em lên một kí lô.

Hằng chưa khoẻ tí nào nhưng làm bộ mạnh giỏi trước mặt Tuyên. Anh Tuyên mà biết mình ho lao lập tức anh tống cổ vô nhà thương liền, không chứa trong nhà một phút.

Hằng cười hừ một cái và hát vừa phải.

Chùa Hương với đồi núi cao, biết bao êm đềm. Con thuyền đưa tôi tới nơi thần tiên.

Hằng nghĩ ngay tới ông Chu Mạnh Trinh. Hằng hát hết bài Chùa Hương của Hoàng Quý mà không mệt chút tí nào. Ho lao cũng có thể làm ca sĩ được. Ở Saigon này biết bao nhiêu ca sĩ ho lao. Hát đâu có động đến phổi, hát chỉ làm long lanh mắt. Hát xong uống sâm ực ực.

Hằng hát tiếp “Chùa Hương với đồi núi cao biết bao êm đềm con thuyền đưa tôi tới nơi thần tiên”.

Hằng bảo Tuyên:

- Anh Tuyên nì, phiền ghê! Em ở đây làm phiền anh ghê! Thôi thứ bảy tới anh đừng tổ chức ăn uống gì hết.

Tuyên nói xí lô xí la như Tây:

- Đàn bà ở đâu, chỗ đó phải mở ra những cuộc vui… nhà có đàn bà thì phải cho người ta ăn cho người ta vui chứ.

- Phiền anh không biết mấy mà kể nữa… Buổi tiếp tân đó chắc em phải bôi dầu Nhị Thiên Đường đầy cho có một mùi thật nặng, ai ngửi cũng phải tránh.

Tuyên tiêu tiền như giỡn. Tất cả các món ăn đều đặt trước ở nhà hàng Trường Cam: bíp tết nhím, heo quay, heo rừng nướng chả, nai xào lăn. Tuyên cho khui cả nguyên một thùng nho mười ký, mở hai hộp lớn Jruit Cocktail, táo đỏ cam vàng đơm đầy mấy dĩa lớn.

Hằng cằn nhằn:

- Ui trời ơi, làm chi mà rình rang sang trọng dữ quá! Anh đãi em hậu quá chắc em mập không nổi, em xỉu…

Tuyên cười hề hề:

- Anh biết hy sinh cho đàn bà lắm, em đừng thắc mắc… Con gái của anh sẽ được anh hy sinh vô cùng vô kể.

Khuôn mặt Tuyên ngắn như trái bom, cằm chẻ đôi và miệng trái tim. Miệng móm chằn. Đog miệng móm không bao giờ có thể nghèo được. Tuyên ăn mặc trẻ, nhuộm đen cả đầu tóc chớm bạc lắc rắc…

Hằng là người đàn bà độc nhất của bữa ăn lớn, áo hồng, quần satin trắng, cổ đeo kiềng chạm, chút ít son phấn trên mặt, mình Hằng cầm ly nước cam. Gian phòng rộng đầy ắp những xao động nói cười và làm những cử chỉ. Ả gái Huế… Công chúa hay là Quận chúa đấy? Gái Huế gầy, gái Huế hay cúi mặt, ai nói cũng dạ, ai kêu cũng giật mình… Tuyên nói lớn Hằng đánh mạc chược khá lắm. Những giọng đực ùn ùn hỏi cô Hằng biết chơi cờ tướng không? Cô Hằng biết đánh tam cúc không? Xì phé không? Ngồi đánh bạc trước mặt người đẹp là một cơn tuyệt mộng, người đẹp ngồi đó mình ngồi đây, đánh nhau bằng tiền sướng ơi là sướng. Ồ bậy nào, cô Hằng đâu có biết đến các thứ bài bạc máu đen máu đỏ, cô Hằng chơi piano tuyết lắm. Gái Huế điệu lắm chớ đâu có màu mè.

Hằng nghe trong thân thể long lanh một cơn sốt làm nàng tê bại cả tâm hồn. Cơn sốt làm cho mắt sáng miệng nóng và có mồ hôi ướt rịn. Những người đàn ông ngồi đứng giữ khư khư ly rượu của mình như chòng chành, như đảo ngược, như chênh vênh sắp té. Trong đôi mắt người con gái có những vòng tròn nhỏ xoay hoài. Hằng chóng mặt và ợ tanh như máu cá. Hằng ơi Hằng, mi hãy giữ mình ngồi vững, ngồi ngay như cây khô, đừng xỉu, đừng ngất, đừng té xuống. Hãy giữ sức khoẻ để duy trì tình yêu. Cuối cùng thế nào mi cũng tìm thấy Thiện Tân. Mi không chết thì chắc thế nào mi cũng gặp lại chàng. Một hai năm không gặp thì bảy tám mười năm sau găp lại. Hai mươi mốt năm sau gặp lại cũng được kia mà, bạc mái tóc gặp lại cũng được mà.

Cuộc đời đâu phải ngắn hai ba tấc mà gấp rút. Bây giờ mi hãy cố gắng thoát chết. Chịu chữa bịnh, chịu chụp hình phổi, chịu nằm tĩnh dưỡng, chịu uống thuốc bổ. Hãy để dành sức khoẻ cho chồng, hãy có sẵn một sức khoẻ cho mình. Đừng tàn tạ, đừng héo úa, đừng ủ rũ, đừng tan tácc. Khoẻ mạnh mới đẹp được. Mình bắt buộc phải đẹp. Anh Tân, anh Tân, anh Tân… hôn lên cái tên một tỉ cái hôn tròn. Anh Tân, anh Tân, chúng sanh không cần anh bằng em, tín đồ đạo hữu không cần anh bằng em. Anh không bất diệt được trong lòng ai hết, anh chỉ bất diệt duy nhất trái tim này. Anh Tân, cái đầu em chỉ muốn gục xuống… Chắc em lại sắp thấy máu của em đổ ra.

Hằng nói với Tuyên:

- Anh có cho hai cháu xuống chơi với các ông đây không?

Tuyên ngẩn ra một lát:

- Có bất tiện không?

- Em ngồi một mình ở đây khó xoay trở quá. Chúng sẽ giúp em đỡ lúng túng.

Tuyên lắc đầu:

- Thôi, để chúng ở trên, mang chúng xuống làm gì thêm cực.

Tuyên chạy đến chỗ chiếc canapé đẩy người ngồi lôi một ông tới trước mặt em vợ. Đây đây anh thạc nha sĩ đây, bẻ răng không chảy máu, anh từng khắc vào chiếc răng cấm của con gái một nhà tỉ phú câu “Tôi yêu em”. Hằng nghe khuôn mặt nhọn, mái tóc cắt ngắn làm tăng vẻ nghịch ngợm tinh quái của đôi mắt sáng và mở lớn. Tất cả đều trẻ, tóc trẻ đang được vuốt, áo trẻ vì áo màu đỏ, tay trẻ vì đeo nhẫn kim cương… Tuyên ấn Thạch ngồi xuống rồi bỏ đi. A! Gái Huế ngon lắm, chịu khó đội nón lắm, tại sao cô gái Huế nào cũng thích dùng quai nón bằng nhung đen nhỉ? Huế! Chắc tôi phải ra đó một chuyến. Chính người Huế cũng thích vẻ im lìm trầm mặc của lăng tẩm, của thành quách đầy đặn, một chê bắn không thủng, của con sông Hương nước đầy rút không lường được huống hồ là mình. Tôi nhớ lại bài chính tả lúc nhỏ viết về phong cảnh quê hương có: núi Ngự hình hơi trân khi mờ khi tỏ. Câu hò mái đẩy từ tinh sương Gia Hội chở tiếng đời vào sẫm tối Đông Ba. Nón bài thơ hồi hộp tóc thề bay múa. Cầu Trường Tiền lấp lánh sáng bạc chạy dọc một đường xe đạp nữ sinh. Đường nội thành cây im người vắng men gạch Bát Tràng dẫn đến hồ Tĩnh Tâm nước còn xanh biếc. Huế của mè xửng đậm đà dính dẻo vào răng như một gắp bỏ không rời, của Phú Vân Lâu còn như nhắc lại tiếng quân reo ngựa hí thuở nào. Huế của quít Hương Cầu, bánh canh Nam Phổ, gạo de An Cựu, tôm cá làng Chuồng, bánh bèo Tây phương, thanh tra Nguyệt Biểu, văng vẳng canh gà Thọ Xương, ngân nga hồi chuông Linh Mụ.

Hằng bật cười:

- Ông chưa ra Huế mà ông tả Huế y như Huế vậy.

Thạch đặt ly rượu lên thành cửa sổ:

- Tôi đọc lại những câu văn của một nhà văn.

- Ông đọc thuộc quá. Trí nhớ của ông nh ư vậ chắc ông thuộc rất nhiều kinh Phật?

Thạch kêu:

- May quá! Tôi theo đạo Thiên Chúa.

Hằng nhìn xuống chân:

- Ông thuộc nhiều kinh đạo cũng vậy.

Thạch hỏi:

- Cô biết nhảy không?

- Không!

- Mời cô đi phòng trà được không?

- Không!

Thạch cười phá:

- Cô đúng là gái ngoan vâng lời mẹ dạy rồi. Hôn nhân của cô chắc cũng có gì ly kỳ, cha mẹ chỉ cho số ghế nào thì tới ngồi yên số ghế đó?

Hằng ngước lên cười. Ông biết tôi yêu ai, tôi đang toan tính gì, tôi đã làm những điều chi chắc ông phát hoảng đến xì lỗ rốn. Tôi mà ngoan mà hiền, tôi hầm hầm, tôi hừng hực đây ông ơi.

Hằng nói:

- Buổi sáng tôi ăn một ổ bánh mì ở nhà.

Thạch cúi xuống:

- Cô không có kép mời đi ăn tiệm sao? Tại sao cô lại không ở Huế nhỉ?

- Người đàn ông thường hay mời người đàn bà ăn thịt thỏ.

- Cô có thích lấy người đàn ông mời cô ăn thịt bò không?

Hằng trố mắt:

- Người ấy tròn hay vuông, xấu hay đẹp, dài hay cụt?

Hằng phát tiếng cười ngắn, người đàn ông chụp ly rượu uống rồi nói:

- Hồi nãy trong cô hiền hiền, bây giờ tôi thấy cô không hiền nữa.

Mũi giày nhọn trắng tinh của người con gái đập nhẹ trên nền đất. Thằng cha này tưởng mình dễ chịu, hiền hậu, béo bùi, thằng cha xổ giọng lớn ra lòe mình. Hắn tưởng mình sợ hắn. Chấp! Tôi mà sợ ai? Nếu tôi biết sợ tôi đã không làm.

Hằng hất mái tóc ra sau:

- Tôi hay hại người lắm, ai tôi cũng không từ, người tu hành mấy kiếp tôi cũng hại cho cùn cho cụt, tôi hại cho phát bịnh, cho tắt hơi, chạy đi đâu tôi cũng đuổi.

Tôi là một đứa đại ích kỷ, tôi chỉ biết làm gì được việc cho tôi là tôi lo bất biết bất nghe bất cần đến ai. Con sò con hến suốt đời ngậm cứng miệng nhưng cũng không ích kỷ bằng tôi. Con lươn con lạch suốt đời mở mắt trong bùn nhưng cũng không bẩn bằng tôi. Mỗi tội lỗi là một bản án, mỗi mặc cảm nếu có cũng là một bản án.

Hằng nhếch mép cười rồi ư ử hát mấy câu đầu của bài Tiếng xưa. Hơi rung chưa dài đã hắt hơi một cái. Thạch kêu ui dạo này thời tiết độc ghê. Trời Saigon mà độc không thua gì trời Huế, mùa thu trời đẹp nhưng không khỏi độc, lúc nào trời Saigon đẹp là trời Saigon độc. Những giấc mộng đẹp là những giấc mộng độc. Hằng thấy trong Hằng có một khoảng tâm hồn vẩn đục, một khoảng không đầy gió và đầy tiếng đàn. Hằng mở lòng bàn tay ra nhìn xuống. Bàn tay Hằng như thiếu một cái gì và tâm hồn Hằng cũng như thiếu một cái gì.

Hằng muốn nghe gió và lá cùng xào xạc, Hằng muốn nghe da thịt se se, Hằng thèm một chút lạnh. Hằng chợt ngâm khẽ bốn câu thơ bắt đầu câu chuyện chàng họ Bạch:

“Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách

Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu

Người xuống ngựa khách dừng chèo

Chén quỳnh mong cạn chiều trúc ti.”

Hằng lặp lại câu thơ ngâm. Chén quỳnh mong cạn nhớ chiều trúc ti. Câu thơ ngân dài như đôi mắt kỳ nữ.

Hằng nhìn ra mảnh trời đen lác đác sao. Vạc cỏ hằng đêm vẫn được uống sương. Tâm hồn Hằng giẫm tiếng đàn tròn như một tâm sự. Tâm sự một cô gái giang hồ nhớ về dĩ vãng, một ot tư mã uống sầu nơi xứ lạ. Hằng nắm bàn tay lại và Hằng nhắm mắt lại. Có những người đàn ông muốn đi qua đời mình nhưng mình cấm và hai ba màn, hài kịch tiếp diễn vội vàng. Và có những người đàn ông đứng lại nghe tiếng đàn của Hằng rồi bước. Bây giờ lòng Hằng trống không, Hằng chơi đàn và không thèm ai nghe chơi, kẻ chơi đàn không trớt mắt và khách nghe chơi không ướt vai áo. Không bao giờ người ta lãng mạn một tí với nhau.

Hai môi Hằng rời nhau ra để cười lên những tiếng khô gọn. Hằng nhấp nháy hát bài Thu vàng mà Cung Tiến viết. Chiều hôm qua lang thang trên đường. Buồn hiu hắt và nhớ bâng khuâng. Chiều hôm qua trời nhiều mây vương. Có mùa thu vàng bao nhiêu là thương.

Hằng ngước cao mặt trong một cử chỉ kiểu cách bắt chước cô đào Ava-Gardner. Người đàn ông nhìn vào ly rượu vơi vơi của mình nói:

- Cô Hằng còn ở Saigon bao lâu nữa?

Hằng mím môi:

- Lâu dài lắm.

Người đàn ông nhướng mắt:

- Ở đây, trong cái nhà này?

- Ở đây lâu không được.

- Tôi muốn mời cô Hằng đi chơi có được không ạ?

Hằng cười:

- Tôi đang làm một công tác quái gở tàn khốc làm sao đi được? Tôi bận rộn cả ngày.

- Bận rộn gì nào?

- Bận rộn như Trần Tế Xương sáng vác ô đi chiều vác về, cả ngày cứ chuồn ra khỏi nhà mà chẳng có gì để làm cả.

- Bận rộn gì nhiều quá vậy? Đi chơi tí không được sao?

Hằng khẽ gõ hai mũi giày xuống đất:

- Vấn đề hơi nặng.

- Đi chơi mà nặng, hai tay có mang đồ đạc gì đâu?

Hằng cười:

- Tôi đang vô cùng bận rộn, trong người lại cứ nay đau mai ốm, tật bịnh dây dưa hoài.

Hằng đứng dậy đi ra cửa sổ đứng ngước ngó trời. Những tạp âm hỗn loạn sau lưng nàng hình như có hơi nóng. Hình như vài người khách đang bàn tán đến cái giọng Huế đặc sệt của nàng. Người Saigon bây giờ tỏ ra cảm thông tiếng Huế lắm. Bây giờ mìn nói chi họ hiểu nấy, chứ trước kia mỗi lần mình nói ra câu chi là họ nhái lại đi mô rứa? Răng rứa? Cái chi rứa?… Bao nhiêu cái dấu sắc của mình họ đều đổi ra dấu nặng hết.

Bây giờ chỉ còn mấy đào kép cải lương bay bướm rồng rắn là thỉnh thoảng tếu thôi, bình thường thì họ lên gân để hát vọng cổ, lúc giễu cợt thì họ hạ gân xuống đệm tiếng Bắc, tiếng Huế ca ngâm, ca hò ru em…

Có nhiều người yêu cầu Hằng hát nghe. Hằng có rất nhiều tí âm nhạc trong người: khóa sol fan, hạt đậu trắng, hạt đậu đen. Hằng hơi cười bước lại chỗ ngồi cũ bảo Tuyên em mệt lắm, hơi sắp đứt, anh cho chạy cuộn băng có thâu tiếng của em đi.

Hằng nghe mình hát “Đêm qua mơ dáng em ôm đàn dìu muôn tiếng tơ”

Mọi người vỗ tay rất ít, không không, phải n nghe tiếng hát đẹp từ miệng người đẹp cơ, nhất định cô Hằng phải chìu khách…

Hằng bỗng thấy choáng váng mạnh, cái đĩa hình như xoay tít trên cổ, hai con mắt cơ hồ chết dại. Hằng muốn ngóc cần cổ và há miệng để thở vội, đưa tay ôm ngực và ngoéo đầu ra sau. Một là mình sắp ngất, hai là mình sắp phun máu.

Bỗng một lời nói từ đám đông xoi vào tai nàng từng chữ nhọn:

- Ồ… Thượng tọa Thiện Tân… thằng cha cùng học với tôi bên Nhật, thằng cha đạo đức khắc khổ lắm.

Hằng choàng mở đôi mắt sáng quắc ra tìm người vừa mới phát âm.

Tuyên cười:

- Thằng Cân quen nhiều ghê!

Tiếng đàn ông tên Cân vội nói to:

- Moa học với thằng cha bên Nhật, moa biết tính thằng cha thế nào hết.

Tuyên lại cười:

- Có phải thằng cha đi tu để trốn quân dịch?

- Bậy nào, nhà chùa nuôi thằng cha từ thuở bốn tuổi. Thằng cha học giỏi vô số kể, ghiền tra cứu. Về nước lại được trụ trì một ngôi chùa.

Hằng bước lên tại chỗ Tuyên. Cơn ngất đã tan, cơn ói máu cũng đã tan khi Hằng gắp cục đá lạnh cho vào ly rượu của Tuyên:

Cân nói tiếp:

- Thằng cha lên Đà Lạt dưỡng sức nhưng không hạp khí hậu đã phải vội vã vào đây với moa… Thằng cha bị bịnh cũ tái phát…

Hằng đứng thẳng tấp cầm cứng ly nước cam, đầu gối tê lịm.

Tuyên cười tiếp:

- Nghe nói hình như thằng cha đổ đầu?

- Không đổ đầu sao được, thằng cha bỏ cả thì giờ tu hành học kinh để mà học chữ, một ngay có bn giờ, thằng cha học bấy nhiêu.

Tuyên hỏi:

- Hiện thằng cha ở đâu?

- Thằng cha ### [1]

- Thầy Thiện Tân đau bịnh gì mà phải nằm nhà thương?

- Thổ huyết … ọc ọc chảy ra. Nửa đêm tôi phải đưa vào nhà thương của thằng cha Hoàng. Hoàng nó chơi sát với tôi lắm, nó chữa không lấy tiền.

Hằng lắp bắp:

- Bịnh viện ấy ở đâu?

- Đường Trương Minh Ký.

Hằng bước lùi lại chỗ ngồi cũ, mồ hôi xuất trộm đầm đìa ướt hết lưng áo như trường hợp những đứa trẻ yếu chưa có bộ thần kinh trưởng thành. Anh Tân! Anh cũng hộc huyết, cũng ói máu như em… Phải chăng vì nhau mà chúng ta đồng bệnh?

Tuyên chạy tới đưa Hằng ly nước cam khác. Trông em hơi mệt mệt đó Hằng, em ngồi đây một lát đây đây… ngồi thưởng thức giọng hát của chính mình. Tuyên ngồi xuống bên Hằng ê a theo những lời chạy theo băng nhựa “Chiều hôm qua lang thang trên đường, hoàng hôn xuống chiều thắm muốn hương.

Hằng ###[2]

Anh Tân! Phổi em nát bấy bây cả rồi, phổi em đọng từng cục máu đen như than, tim em đập bình bình, người em nóng như hun khói, nhiệt độ em chạy loạn cả rồi, trung tâm thần kinh cùng trung ương điều khiển nhiệt độ rối loạn hư sự hết rồi. Bây giờ chỉ còn quả tim em đập se sẽ… Em sắp ngất, em sắp ngất, tim em dù có đập hay không em cũng ngất. Anh Tân, anh Tân, chính em gây bệnh thổ huyết cho anh.

Tuyên hoảng hốt nhìn sang. Mắt Hằng nhìn ngược lên, cả một mặt mất hồn, hai môi thâm đen.

Tuyên bối rối:

- Tại sao em mệt thế này Hằng?

Hằng ngã người ra đằng sau:

- Em muốn vào nhà thương Nhi Đồng coi trẻ con chết. Ở nhà thương nhi đồng trẻ con chết như ngoé. Y tá bác sĩ gì cũng có quyền làm cho trẻ con chết.

Tuyên cầm tay em vợ:

- Em nói bậy rồi.

- Trẻ con ngáp ngáp một cái rồi chết… nhìn vào thấy cả một cảnh tượng sung sướng.

- Hay là em vào nằm cho khoẻ?

Hằng ngáp:

- Có nhiều bậc cha mẹ đi ngang nhà thương Nhi Đồng bỗng ngã lăn ra làm kinh sùi bọt mép, tay chân giãy giựt.

- Thôi vào nằm.

- Người yêu của em cũng nằm nhà thương Nhi Đồng.

Hằng rướn người lên chới với rồi ngã sấp xuống đất hộc ra một đống máu.





CHƯƠNG CUỐI



Hằng rú lên một tiếng nhọn hoắc. Cơn mê hình như không ra khỏi người, mồ hôi vã ra ướt đẫm.

Gian phòng đựng những đồ vật trắng và hình ảnh dì phước trắng muốt đi đi lại lại giữa hai giường bịnh. Dì phước lấy khăn ướt lau mình mẫy Hằng nhét ống cặp thủy vào nách. Chai nước biển chảy vào tĩnh mạch rỉ từng giọt từng giọt. Đầu Hằng chằng túi nước đá, ngực và bụng đắp nước ấm.

Hằng vừa mở mắt ra, bà Soeur đã đút ngay hai ba thứ thuốc vào mồm và chích vào bên mông sáu bảy thứ thuốc, Hằng kêu khát nước. Ma soeur bảo con không thể ăn không thể uống gì bây giờ được, con sẽ thổ huyết nữa, bác sĩ tiếp nước biển vào cho con rồi, khỏi cần ăn.

Hằng hỏi:

- Tại sao con lại nằm đây?

Dì phước nhăn mặt:

- Bệnh này phải kiêng nói, càng nói huyết càng ra, để Soeur cho con cuốn tập với cây bút, con cần gì cứ viết vào.

Dì phước đi ra rồi trở vào cho Hằng giấy bút và đặt cả đống thuốc trên bàn.

Hằng hỏi lại:

- Tại sao con lại nằm ở đây ma soeur?

- Ông Tuyên đưa con vào đây, con thổ huyết và ngất xỉu, bác sĩ cấp cứu con hồi hôm chích thuốc ngủ cho con.

Hằng viết vào giấy:

- Có phải con ho lao không, ma soeur?

- Bịnh của con bác sẽ chữa được, chữa lành.

- Con ho lao đến thời kỳ thứ mấy rồi?

Bà Soeur đưa tay lên miệng:

- Suỵt, nằm yên, đừng nói nhiều.

Dì phước bỏ đi ra ngoài. Hằng nhắm mắt. Anh Tuyên vứt mình vào đây là rảnh nợ, anh vốn sợ nhất người mắc bịnh lao. Ui, thế nào anh cũng đánh điện tín ra ngoài nhà báo tin. Hết! Tuyệt vọng rồi, mình hết mong gặp Thiện Tân. Cái chết chắn đường.

Ngang đây chắc là cái chết chắn đường. Mình nằm ngay đơ ra đây tuyệt vọng đóng thành khối rồi. Mình nằm đây mới thấy rằng tình tuyệt vọng là một cái gì rất có thể. Hết đi tìm Thiện Tân. Hằng thiếp đi một lát tỉnh dậy thấy Tuyên đang đứng nói chuyện với dì phước. Cô ấy là em nhà tôi, đang ăn uống nhậu nhẹt bỗng ngã lăn ra, cô ấy là một con bịnh bướng bỉnh, xin gởi ma soeur tận tâm săn sóc cho.

Hằng uống xong mấy thứ thuốc, đưa tay vẫy Tuyên lại gần. Tuyên ngồi lên giường bịnh.

Hằng viết:

- Anh đã đánh dây thép ra cho ngoài nhà biết chưa?

- Chiều nay.

- Đừng anh.

- Sao được?

Hằng giận dữ nói:

- Anh mà đánh dây thép ra ngoài nhà là em trốn ra khỏi bịnh viện.



*



Tuyên bối rối:

- Sao em lại có thái độ đó?

- Vì em trốn nhà. Anh mà tin cho ba với dì Hai biết là anh giết em. Em sẽ trốn tức tốc, em sẽ gở bình sérum, tháo kim ra, tháo ống dưỡng khí ra đào tẩu khỏi bịnh viện. Anh hứa đi, anh hứa không tin cho ở nhà biết đi.

Tuyên đang ngần ngừ thì dì phước Francoise vào la:

- Ông đừng để cho cô ấy nói, muốn ra máu nữa hả? Cô ấy ba ngày đầu không được ăn uống gì cả và cấm nói trong một tuần.

Tuyên chỉ tay sang người bịnh đang nằm mê man bên cạnh:

- Ma soeur có thể cho đổi phòng được không? Nằm chung thật bất tiện.

- Ông này cũng mắc bệnh truyền nhiễm như cô này… Ông Tuyên muốn đổi phòng cũng được nhưng phải đợi vài bữa. Đáng lẽ bịnh của cô này không nằm phòng lạnh được nhưng bị hết phòng. Ông bên cạnh đây cũng đau như vậy, cũng thổ huyết lai láng ở nhà mới đưa vào bịnh viện.

Tuyên nói:

- Thế mà ma soeur cũng gắng cho đổi phòng, cho nằm riêng đàng hoàng tiện nghi.

Hằng đói bụng đến thèm cả món xôi đậu chấm muối vừng. Chao ôi, không biết phải nằm cắm dùi tại đây bao lâu?

Cái bình nước biển rỉ rả từng giọt từng giọt. Tại sao bà soeur lại không cầm chai sérum đó mà trút đại vào người mình, không ôm cái bình dưỡng khí mà xịt vào mũi mình. Anh Tân, em muốn vùng dậy, giựt đứt tất cả dây nhợ cầm chân em trên giường bịnh, em muốn trốn đi tìm anh. Thần trí em tỉnh một cách kỳ lạ, thể xác em đau như dần, em đau từng sợi tóc đến sợi gân, đau từ từng sợi mao quản nhỏ đến tĩnh mạch, động mạch. Đau lưng, rêm mình, nhức mỏi, cứng khớp xương nhất là bộ ngực, ê chề, tê tái, nóng ran như bắp. Đau đến thế này là hết.

Tuyên cầm tay Hằng:

- Gắng hết sức mà lành bịnh. Ban đêm anh không thể vào với em được, anh đã tết tiền cho y tá trưởng, y tá trực, em có trở chứng hoặc em có cần gì cứ bấm chuông. Ở đây, vấn đề săn sóc bịnh nhân là nhất.

Hằng nhắm mắt:

- Anh về đi, em có ông bạn bên cạnh an ủi nhiều rồi, chắc ông ta cũng cô đơn như em.

Tuyên liếc sang bĩu môi, Hằng cười viết tiếp vào giấy:

- Anh coi, rồi ông ta và em sẽ biến thành đôi bạn tâm giao, nếu đêm nay em chết, em nhờ ông chuyển những lời trăn trối lại anh.

Tuyên bắt tay Hằng chào về. Hằng liếc sang giường bên cạnh rồi nhắm mắt. Thằng cha nằm bên cũng trang điểm y hệt như mìn, cũng bình nước biển, bình dưỡng khí, chườm nước đá, ủ nước nóng. Thằng cha nằm yên như một con cá lóc chết.

Hằng thiếp đi sau một liều chích valium khá mạnh.

Ba ngày sau, Tuyên yêu cầu mấy lượt, bà soeur cũng chưa đổi phòng. Tuyên mang vào cho Hằng không thiếu một thức bổ dưỡng nào trong khi người đàn ông nằm bên cạnh chỉ một gói cam xanh đặt lên bàn mãi hoài không ai bóc cho ăn.

Bịnh tình Hằng không thuyên giảm một tối thiểu, buổi chiều, cơn sốt đỏ rực càng cao vọi và sau đó cả thân thể rét run làm lạnh, răng đánh nhau cộp cộp. Hằng ngộp thở đen xì hai môi, trung tâm thần kinh rối loạn quá rồi, nhiệt độ không ai điều khiển cứ nhảy lên nhảy xuống hăm chín, bốn chục độ rồi tụt dài dưới ba mươi sáu, ba mươi lăm. Hằng nóng bốc bừng bừng cũng như lạnh lập cập răng. Ác mộng liên miên khi thì Hằng thấy mình ngồi vắt vẻo trên cây mía, khi thì tưởng mình đang úp mặt trên bếp lửa than Tàu, khi thì Hằng thấy mình chui vào thăm che miệng bịt mũi và sợ truyền nhiễm.

Người đàn ông bên cạnh xây lưng lại, Hằng không thấy mặt. Từ khi Hằng vào nằm bịnh viện đến giờ, Hằng chưa hề thấy anh ta nằm xây vô phía nàng.

Hằng bảo Tuyên:

- Thằng cha mắc cỡ. Em gần chết rồi mà thằng cha cũng mức cở. Thằng cha chắc cũng vừa ho, vừa đau bịnh thất tình, vừa đi đái ngọt.

Người đàn ông bịnh quay mặt lại và Hằng quá sửng sốt nhận ra khuôn mặt quá quen với tóc mọc ngắn, râu tua tủa như Việt Cộng nấp dưới hầm ba tháng. Hằng ho mấy tiếng và người đàn ông cũng ho mấy tiếng. Ngày mai mình hãy rủ thằng cha thổ huyết chơi, hụt hơi chết ngộp chơi. Hắn cũng đang vướng víu bình sérum, bình đựng oxy, bình eau saleé như mình, mấy cái dây nhợ nhăng nhít lằng nhằng làm mình cảm tưởng như mình là một đào hát bội, đóng vai nữ soái cột sau lưng không biết bao nhiêu là cờ và hai chiếc lông trỉ cao vút cong veo… Ma soeur nói hôm nay nhiệt độ mình hạ nhiều. Ui! Dù có một trăm độ như cát sa mạc cũng không ngán, dù có làm kinh như con nít cũng không ngán. Hai lá phổi mình phải banh ra như mối tình tuyệt vọng của mình rồi.

Dì phước đi vào, Hằng nói:

- Con thèm ăn súp.

Bà soeur cười:

- Thôi, khỏi cần… Ông này vào trước con ba hôm mà cũng chỉ tiếp sérum.

Ba ngày sau, lúc Hằng vừa ra khỏi cơn tháo trút mồ hôi buổi chiều thì một nhà sư lật đật đi vào.

Người đàn ông bịnh kêu:

- Thầy Tuệ Ký!

Nhà sư áo vàng chắc lưỡi:

- Thầy Thiện Tân! Không ngờ thầy ra nông nổi này, nghiệp chướng tai ách thầy cực kỳ nặng.

Cơn run bắn mạnh, chiếc lưng người con gái rướn con, răng lập cập đánh cắn vào lưỡi lạnh ngắt trong khi tim mạch nhảy đứng và huyết áp mất thăng bằng lập tức.

Cơn lạnh làm quất tay chân người con gái run túi bụi, răng cắn răng kêu thành tiếng đau. Hai lớp mền dày cũng không ngăn được nổi hàn. Hằng run đến trợn mắt, run co giật và miệng thì thèm ngậm cục nước đá trong khi thần trí tỉnh táo vô cùng. Những tiếng rên tiếp liền nhau trong vô ý thức. Hằng nghiến răng, hai tay cố giữ đầu gối lại cho khỏi đánh đụi vào nhau, bao nhiêu chú ý dồn hết vào những lời nói nhỏ to bên cạnh.

Nhà sư áo vàng cúi đầu, mấy đường gân hằn lên trên vầng trán bóng, giọng nói chùng hẳn xuống rặt một mùi Quảng Trị:

- Thật là đại nạn… Nhưng qua khỏi cái đốt này, công quả của thầy càng rực rỡ.

Người bịnh mệt mỏi:

- Thầy có ngờ oan tôi điều gì không?

Người khách lắc đầu, Thiện Tân tiếp:

- Tôi vẫn giữ lòng tinh tấn và thanh sạch, cùng lòng tri ân đồng bào vô kể, những điều ông dạy lúc xưa tôi vẫn để nằm lòng.

- Đường tu dài vô tận, tâm não thầy sáng như gương. Đạo Phật ta đang đến thời hưng pháp, thầy hãy cố gắng tĩnh dưỡng cho qua khỏi cái đốt, cái lóng…

Người bịnh lắc đầu.

Một cơn uất… máu ói trầm trọng… Anh Tân! Không thể ngờ được là chúng ta gặp nhau ở con đường cùng này. Vẫn có sự sắp đặt của bàn tay ma nào đó, em chưa xin âm dương nhưng đồng tiền đã mặt ngửa mặt sấp rồi. Em sẽ lành bệnh để lấy anh, em chói chang hy vọng lấy anh. Không ngờ hai cố nhân đau khổ này lại gặp nhau trên giường bệnh… Đây! Màn cuối, trận cuối. Bây giờ em yêu đời đến vỡ vụn buồng ngực, hy vọng như cô bé con ngày xưa đi chùa Hương với mẹ, hy vọng như nàng oanh oanh ngồi lịm mê dưới mái Tây chùa Phổ Cựu… Sự sắp đặt khéo tay như thế này là cùng. Bây giờ em vừa chữa bịnh vừa hạnh phúc. Hết tu rồi sư ơi!

Hằng thiếp đi một lúc rồi trở dậy rú:

- Thầy Thiện Tân!

Người đồng bịnh quay cổ sang, đôi mắt dại khờ cùng chiếc miệng há hốc. Thiện Tân chăm chú nhìn đến đứt mắt. Tất cả yêu thương, mừng tủi biến ra một màu xanh tái trên má, Hằng nhoẻn miệng nụ cười rất cũ, rất quen:

- Nếu chúng ta là hai người điên, chúng ta cũng không ngờ có thể gặp nhau ở đây được. Hằng đây, oan khiên nghiệp chướng của anh đây, Hằng của kiếp cuối cùng của anh đây, Hằng nợ nần, Hằng oan nghiệt…

Thiện Tân chu miệng lại, cứng quai hàm, Hằng muốn nụ cười mình tròn và đôi mắt đừng khóc giot nào hết. Gặp anh nơi đây, em phải ca tụng trời mới được, trời đã khuân anh lại đây cho em. Trời đã cho, em chối không được… Em bịnh thế này có tội nghiệp không anh?





KÊ#T



Hằng kể lu bù. Em bỏ Đà Lạt đi tìm anh. Đà Lạt lạnh quá, em ngủ cũng thổ huyết, bước ra đường cũng thổ huyết, leo lên xe lam cũng thổ huyết, em khóc ròng ròng cũng như miệng em ứa máu ròng ròng, em mua vé máy bay vào đây tìm anh, vừa đi vừa gục, vừa thổ huyết. Một bữa em đang trên đường Trương Minh Giảng thì trước mặt em, em thấy quả đất quay, núi lửa phung, em tối tăm cả mặt mày té sấp xuống… Anh Tân, tỉnh dậy em thấy em nằm đây, anh rể của em vào thăm em… Anh Tân, em đang chiu trừng trị của bịnh hoạn, em đau nặng, em không kể… nhưng anh, tại sao anh cũng để cho bịnh hoạn vật té như thế này. Anh! Em xót anh quá. Em ngó anh mà rã từng đoạn ruột, sao em không một mình mắc hai bịnh để đỡ cho anh. Anh Tân! Tha lỗi xá tội cho em. Gặp nhau trên giường bịnh, hai kẻ thù cũng biến thành hai kẻ thương, hai kẻ dữ cũng biến thành hai kẻ lành. Anh Tân! Đất nước Việt Nam rộng và đẹp nhưng sao hai ta lại gặp nhau trên giường bịnh?

Em tin rằng định mệnh đã bắt chúng ta đặt vào trong phòng bệnh này, chúng ta là hai kẻ đồng bệnh thương nhau nhứt, đồng bệnh nan y, đồng bệnh truyền nhiễm. Miệng chúng ta đầy nhớt bẩn, cổ họng chúng ta đầy máu mủ. Tại sao cả hai cùng mắc một bịnh độc địa như thế này nhỉ. Em húng hắng, hục hặc ho hen luôn đêm ngày anh ạ, nhưng em cố gắng nín, em xoa dầu tràm ở ngực, ở cổ và bụng, dầu tràm nguyên chất xoa vào cản gió… Thôi em cũng không nên trách trời nữa, chính trời đã sắp xếp cho chúng ta gặp nhau nơi đây. Cuộc gặp gỡ rất kịch, rất tiểu thuyết, rất cải lương, rất xi nê. Trường hợp của chúng ta là một trường hợp lãng mạn nhất trong phong trào tiểu thuyết mới: vì không đồng lý tưởng với nhau nên chúng ta đồng bịnh với nhau. Lúc còn làm học trò Đồng Khánh, em hay mơ nhiều thứ lắm, mơ rối rắm, mơ phức tạp. Có lúc em mơ sẽ là cô y tá trắng phau đi từ phòng bệnh này sang phòng bệnh khác tận tụy săn sóc những người bất hạnh mắc những chứng nan y phong lao cổ lãi. Có lúc em mơ làm một ni cô dịu hiền hay một dì phước bác ái cao cả tập trung những trẻ mồ côi nuôi dạy chúng khôn lớn thành người, có lúc em mơ sẽ là một nhạc sĩ tài hoa lang thang với chiếc phong cầm trên tay một chiều mưa ghé vào quán trọ ôm ngực ho liên hồi và hộc ra từng đống máu đen bầm và chết nửa đêm hở hang thân xác, quạnh hiu không cha không mẹ không một giọt máu loãng nào lai vãng.

Em dại dột nghĩ rằng bịnh lao là một bịnh đẹp chứ không phải là một bịnh xấu. Bịnh lao có nhan sắc và hương vị của nó, thâm trầm và sâu sắc, bền bĩ và uy quyền, bắt ai chết là người ấy chết, cho ai sống kẻ đó mới được sống.

Anh Tân, chúng ta mắc bịnh lao rồi, chúng ta hãy yêu nhau. Yêu nhau được ngày nào hay ngày ấy, yêu nhau là một cách tự chữa bịnh, yêu nhau là mệnh lệnh cuối cùng của loài người, yêu nhau để cùng sống hay cùng chết. Anh Tân, cổ em nghẹt quá, phổi em muốn ho quá… ho như gà, ho như khỉ… Hãy yêu em đi anh ơi, tình yêu hỗ tương sẽ giúp chúng ta chữa mau lành bịnh, chúng ta làm nhân tình làm lễ hỏi rồi làm lễ cưới. Anh Tân, bệnh của chúng ta thật gần với cái chết, hãy yêu nhau đi. Sau bịnh là chết. Sau nhà thương là nhà xác. Anh Tân…

Hằng nhìn qua lắp bắp:

- Anh Tân!

Thiện Tân lắc đầu:

- Tình thế cực kỳ nghiêm trọng rồi, Hằng đừng giỡn… Tôi sắp chết…

Hằng nấc lên:

- Em yêu anh.

Thiện Tân vẫn lắc đầu:

- Điều đó không bao giờ được.

- Chúng ta mắc bịnh lao rồi. Bịnh ai nấy chết.

Thiện Tân hổn hển:

- Không ai lành bịnh được cả.

Hằng thều thào:

- Yêu nhau có lành bịnh được không? Gần cái chết quá rồi, hãy nghĩ đến tình yêu. Bịnh anh cũng nặng như bịnh em. Hãy vâng lời em mà yêu em.

Thiện Tân rướn mình, khạc ra một bụm đàm đỏ, hai mắt mờ đi, co quắp, người ngất luôn. Hằng ôm ngực, sùi bọt mép.

Hai người cùng mê đi một lúc. Giữa đêm khuya Hằng nói:

- Em yêu anh. Cùng chết với em.

Người tu hành ngoẹo cổ:

- Giờ phút này lớn quá. Hằng đừng nói tới những cái gì nhỏ nhoi nhất cuộc đời.

Hai thân hình xẹp ve cùng kéo mền đắp tới ngang cổ. Họ ho liên hồi, ho co quắp, ho sủi bọt, ho ói máu.

Người con gái há miệng thở dốc:

- Anh là một người máy rô bô không tim, chỉ có óc điện tử, không có máu, không có thịt.

- Lúc này, Hằng hãy sáng suốt như tôi… chờ cái chết mà không thấy xót ruột.

Bà y tá trực bẻ một khay thuốc đi vào chích cho mỗi người một liều Valium 5. Căn phòng trắng không tình cảm. Anh Tân! Trong căn phòng này có mình có ta, có đây có đó, em nằm như một thây sắt, anh nằm như một xác động. Chúng ta ho lao nhừ tử, không có tình yêu, chỉ có thuốc trụ sinh thì làm sao sống nổi. Tình yêu thiên thu rực rỡ mà anh!

Hai người cùng vịn thành giường, ho hồng hộc. Hằng nhìn sang giường bên kia:

- Giờ phút này hãy trộm lén nghĩ rằng anh có vợ… Hãy coi em là vợ rồi chúng ta cùng chết.

Nhà sư nấc khô:

- Tôi vẫn có một linh hồn tinh tấn để nghĩ đến chân trời tôi sắp về.

Bịnh viện hoàn toàn im lặng. Ngoài kia, những chiếc xe lớn xác chạy ồn. Họ phập phồng ngực, cố nấc hơi thở nặng oằn người rồi há miệng ho.

Hằng nói sau cái ợ hơi:

- Chúng ta yếu quá, từ hai giường bịnh chúng ta không qua nhau được… Làm sao em hôn anh một cái? Làm sao em được hôn một cái. Trời ơi!... Tại sao anh không hề phản bội Phật?

- Tôi muốn giác ngộ giữa bầu trời vàng óng ả.

- Phật nhắm mắt.

- Ngàn đời Phật vẫn nhắm mắt.

- Anh Tân! Anh đi ngang cây thị ở chợ có khi nào nhìn vào ngôi chùa nhỏ mới khánh thành bức tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát không?

- Có!

- Ngôi chùa thờ ba đức Phật gần với chúng ta nhất.

Thiện Tân ho dài, Hằng ngừng lại một lát:

- Đức Phật Thích Ca, Đức Phật Quan Thế Âm Bồ Tát và Đức Phật Địa Tạng Vương Bồ Tát… Cả ba…

Hằng ngộp hơi, nghĩ lại thở dốc:

- Cả ba đều nhắm mắt để khỏi thấy tội lỗi của người đời.

Thiện Tân rắn rỏi lắc đầu:

- Phật không bao giờ mở mắt. Phật khép cánh mắt lại để tham thiền nhập định.

- Không. Phật nhắm mắt lại để tha thứ.

- Phật tham thiền.

Hằng ngộp hơi đến xám ngắt miệng, hai mắt vẫn mở đại nhìn sang nhà sư.

Lặng im dài, một lát lâu:

- Anh Tân! Chào anh, em chết! Yêu em đi.

- Không …

- Anh Tân! Hơi em hụt rồi, giọng em trụt rồi, em muốn hát cho anh nghe quá vì ý nghĩ của em lúc này thật huy hoàng. Khoan mê đã anh! Khoan ngủ đã anh! Thuốc ngủ đã thấm rồi hả anh! Khi dứt hơi thở sao em muốn hát thế này. Anh Tân! Chúng ta là hai người không thù hận, hãy thương nhau đi trước khi hơi thở giã từ những lá phổi. Bao nhiêu khoảnh khắc của cuộc đời anh không hề hát một tiếng, không hề hát một câu, không hề hát một bài, bởi vì anh bắt chước Phật, tham thiền nhập định chắp tay, nhắm mắt, khép tai, bởi anh cố xa lánh hết đàn bà, rút về cuộc sống tĩnh với tô canh bát cơm chan nước tương chua lè. Anh Tân! Giờ phút này không thù không hận, không có kẻ ghét nhau, không có người oán nhau, không có ai bỏ ai, không người nào nên giết người nào, không có chiếm đoạt, không có xâm lấn, lòng chúng ta nên nổ bụng để cảm thông nhau, giao tình xoắn xít và phiêu lưu rùng rợn bên nhau. Vâng lời em đi, không ai kết tội anh chết. Cuộc đời có thể làm lại nhiều lần. Em đang nghĩ đến những bình minh mới, những hoàng hôn chưa hiện, chúng ta rong chơi trên những thước đường dài xa lộ ngút gió đẩy xô những chú chuồn chuồn chín đỏ bay mãi không tìm ra chỗ đậu, những ban trưa mờ ảo, chúng ta bước bộ đi nhổ những cọng cỏ gà đan kết kéo giật và anh kéo em ngã vào anh… Rồi chúng ta trở lại Đà Lạt tìm cái lạnh dù để cho con người cần sưởi ấm bằng hơi nóng của nhau… Chúng ta sống cho đến già, đến chết ở Đà Lạt, chúng ta lập nghiệp ở đó, không phải bằng mộng nữa mà tại giữa cuộc đời.

Anh Tân, anh Tân! Anh hãy đừng mê, em đang lạnh dồn dập vì mồ hôi đổ ướt, nhiệt độ trong người hạ một cách thần tốc. Em lạnh teo, em lập cập run. Anh quay mặt sang đây nhìn em, hãy quay mặt sang đây nhìn em, cơn bệnh đang nổi dữ hành hạ em, cơn suy yếu tim mạch…

Thiện Tân kéo mền cao hơn, rên hừ hừ từ mỗi cơn thở, ho rút vai, ho liên hồi, mắt ứa nước…

Hai người cùng ho rốc một cơn và cùng lịm đi…

Tỉnh dậy, Hằng nói:

- Chúng ta sắp chết, câu cuối cùng trong đời hãy nói là “Anh yêu em”.

- Không.



Tuý Hồng

Hơi thở rướn cong

Chuyện Dài

Đồng Nai xuất bản năm 1972

Giấy phép 1383/BTT/PNTH ngày 29-4-1972

In xong ngày 25-7-1972 tại nhà in Ngọc Thạch