Thi sĩ Trần Hồng Châu, tức giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, khoa trưởng đại học Văn Khoa, người đã xây đắp một nền tảng vững chắc cho ngôi trường đại học còn sơ khai. Cũng như, là chủ nhiệm tạp chí văn chương “ Thế Kỷ Hai Mươi”, góp phần vào sự phát triển của văn học miền Nam thời kỳ ấy.
Nhưng, trước sau ông vẫn là người đa mang với thi ca. Ông yêu thi ca và hiểu được tính vĩnh cửu của vần điệu ngôn ngữ. Bàn luận về thơ, ông có niềm say mê của một người đi tìm chân lý. Thơ, là một phần đời sống của ông. Trước khi ông qua đời , chúng tôi có vào bệnh viện thăm viếng và nghe được ông nhắc đến “Suối Tím” như một gửi gấm cuối đời của một người làm thơ. Với đám môn sinh hiện diện lúc đó, ông nói với tất cả tâm huyết của mình lúc cuối đời…
Tôi đọc tập thơ này nhiều lần trong những thời điểm khác nhau. Tôi cầm trên tay tập thơ mà tưởng nhớ đến tác giả. Sách vẫn đây mà tác giả của nó đã đi vào chốn hạc nội mây ngàn rồi. Giở những trang, để thấy bầu trời thi ca lồng lộng. Có những nỗi niềm giàn trải qua ngôn ngữ hình tượng. Có tấm lòng kẻ sĩ , mang mang theo thời thế mịt mù…
Sống ở trong một thời đại đầy biến động như bây giờ, giữ cái tâm vằng vặc quá khứ. Huống chi, vẫn tính lãng mạn văn nghệ bẩm sinh, thêm chất nghiêm túc phải có của một nhà giáo, thành một khuôn mẫu văn chương như ông cũng là một hiếm hoi trong cuộc sống này. Trong thơ Trần Hồng Châu, từ ‘ Nửa khuya giấy trắng”, “ Nhớ đất thương trời”, “ Hạnh phúc đến từng phút giây” , thơ bay bổng thăng hoa vượt qua những nhiễu nhương của thời thế. Thơ, là kết tinh của trầm lắng suy tư có từ những hệ lụy của cuộc đời…
Một điều cảm nhận thật rõ ràng với tôi, từ “ Suối tím “ nói riêng và toàn khối thơ ông nói chung, có nét trầm mặc xương kính của phong thái Đông phương trong nề nếp suy tư luận lý Tây Phương. Thơ , như giao diểm hội tụ của hai đường tàu, tưởng song song nhưng thật ra vẫn gặp nhau tronh từng cảm giác.
Lạ lùng, đọc thơ mà tôi tưởng mình đi tìm công án. Mỗi mỗi trang, tưởng tượng những khuôn cửa mở ra vào những lãnh địa riêng. Có cảm thấy những đè nặng của tư duy triết học, nhưng chất luận lý thoảng qua để còn lại những gợi ý bức xúc từ những tượng ảnh mơ hồ chỉ có trong những không gian, thời gian của thi ca. Thơ ông, có vóc dáng của một chân dung vĩnh hằng, của những kiếm tìm nỗ lực cái thẩm mỹ quan có sẵn từ cổ đại. Ngôn ngữ, có khi là những viên gạch lót đường để bước nghĩ thong dong tới, nhưng cũng có lúc là tảng lân tinh rực rỡ lóe lên như tinh đẩu dẫn lối soi đường. Thơ, chính là thông điệp gửi trao, của những đêm thức trắng ngậm ngùi, của những ngày lũi lầm trong cảnh bụi trần cát lấm của cuộc nhân sinh.
“Suối tím “ có dòng thi ca đồng nhất. Kể cả ba bài tùy bút, là những bài thơ văn xuôi mà không gian chính là biển trời thi ca rộng khắp muôn trùng. Con chữ lấp lánh, phản chiếu một cuộc sống nội tâm phong phú. Thực tế đời thường, nếu có những cơn huyễn mộng, thì cũng là lộ trình thoảng qua để đến chốn vô cùng. Ngôn ngữ- hình ảnh – vần điệu , là xuôi dòng về nguồn, nơi chốn mà sáng tạo đã thành yếu tố để tầm mắt người thơ cao hơn, xa hơn, thăm thẳm hơn…
Nhiều lúc tôi tự hỏi. Ở tuổi già, liệu tâm tư sẽ ra sao? Chán nản. Hy vọng. Bình thản. Chờ đợi. Hay là tất cả trộn lẫn lại. Tôi chưa biết. Mỗi người một tâm sự một cách sống riêng. Nhưng, có lẽ từ những thi sĩ, nhất là thi sĩ Việt nam, với chất lãng mạn trầm mặc Đông phương, thì lúc cuối đời, có lẽ là lúc tự tìm kiếm bản lai diện mục mình. Thơ, sẽ thành một phác họa chân dung nhân bản nhất, để, đôi khi, những dông bão hiện thành từ nỗi quặn đau thiên cổ…
Viết và làm thơ, với đất nước và thời thế, chỉ là những phác họa gián tiếp. Nỗi đau dường như là những xúc cảm được che dấu lại. Mượn những điển tích xưa, dùng những tên tuổi cũ, để gợi ý thành, để nhắc nhở tới một đẽo gọt của thơ, từ đá tảng nguyên sinh thành những phù điêu dáng tượng hiển hiện cho đời. Bức tượng ấy, từ những nhát dao sáng tác, có chất chứa những nỗi niềm đa mang của cả một thế hệ. Kiêm lời nhưng giàu ý, tôi có cảm giác thơ thành những vòng tay ôm choàng khắp đến vô cùng. Nét riêng của một người, như chuyên chở nỗi đau của muôn người trong dẫy đầy biến cố của Việt Nam bất hạnh…
Đại cương toàn khối thì như thế, bây giờ đọc lại những trang thơ để tìm những đoạn tiêu biểu thì tôi lại ngại ngần. Làm sao để có những chọn lựa chính xác? Làm sao để nổi bật cái toàn thể trong cái hạn hẹp trích dẫn? Câu hỏi khó, với tôi. Thơ, mênh mông như mây trời, sao có thể nhét dồn trong khuôn khổ hẹp…
Thì thôi, đành lấy cái tương đối để mong biểu hiện được cái thơ không cùng rộng vậy…
Bài “ Kỷ niệm về khuya, trừ tịch “, với chữ Em viết hoa, là hiện thực của cảm giác bềnh bồng, của tiến trình tìm bắt hoài hủy trong chuỗi suy tư. Em, có phải là hình bóng đời thường, của son phấn lụa là, của vóc dáng kiều nữ xa hoa? Hay, là tượng hình sáng tạo chỉ có trong tâm tưởng những người mong mỏøi tìm đến chốn lãng mạn vô cùng. Những câu thơ, của một vấn nạn mờ ảo trong tâm thức. Vô vọng, nhưng mê đắm nhường bao…
“… Ta vùng dậy đuổi bắt các Em.
Trong hương sắc cầu vồng hồi tưởng
Hiện thực đắm say
Ảo giác vơi đầy
Các Em, gấm hoa tình cảm của muôn đời
Hay chỉ là bụi phù vân của giấc mơ dài
Đến với ta lúc năm tận tháng cùng…”
Những câu thơ. Ao xuân ngàn nếp còn vương vấn. Buồn thu vạn cổ vẫn chờ mong. Em hư vô hay hiện hữu tuyệt vời . Em độc nhất hay hóa thân muôn vạn… Có phải từ mơ phai kỷ niệm? Hay từ dồn dập nhịp đập trái tim của dĩ vãng thuở nào? Cũ xưa, nào ai định nghĩa? Trăm năm? Ngàn năm? Vạn triệu năm? Có phải không tuổi tác là những cảm giác mới nguyên của lúc ban đầu? Đời thường, còn có những mốc cắm xác định thời gian. Chứ trong cái hư ảo của cõi hư vô, làm sao phân biệt được giữa sát na giây phút với miên viễn tận cùng. Trong hành trình mù mịt thiên lý cõi xa, vó ngựa cuồng như ngôn ngữ lẩn khuất vào vần điệu. Có ai đánh thức. Một giấc mơ…
‘ …Khi tỉnh giấc
Chỉ thấy trăng khuya chìm đáy ly cạn
Chỉ thấy mây trời treo cửa song thưa
Đào lý hồng hạnh
Lan hương vương giả
Mưa, mưa hoa
Bao phủ khắp châu thân
Hồn say đây bỏ ngỏ
Hơi thở những thiên ha
Đến với ta lúc năm tận tháng cùng
Ta vùng dậy
Ôm tơ trăng mây gió và sắc hoa gầy
Ta thành Em
Em kỷ niệm
Chúng ta thành trang Tình Sử
Mở rộng cho muôn đời…”
Tôi yêu những trang tùy bút. Những thành phố trong hồi tưởng. Những thời điểm đã qua mất hút. Nhưng mầm kỷ niệm vẫn còn , ngút xanh. Hà nội. Paris. Trường An Tây Vọng. Những nơi chốn của một người và của một thời. Những bài thơ văn xuôi diễn tả bằng một trời tâm tưởng. Tùy bút Nguyễn Tuân sang cả. Tùy bút Mai Thảo kiêu sa. Còn tùy bút Trần Hồng Châu lãng mạn khơi mở những dòng nguồn trác tuyệt của thi sĩ.
Viết về chợ hoa của đất ngàn năm văn vật xưa, thi sĩ như muốn sống lại một thời nào xa lắm, từ hơn nửa thế kỷ xa xôi:
“… Ở đây, màu sắc quả là siêu đẳng nghệ thuật. Chợ Đồng Xuân ngày trước Tết là một trời hoa. Hoa giấy, hoa cây và hoa người. Hoa ngoài chợ, hoa trong chợ… khách si giữa hoa, thở hương hoa, chiêm ngưỡng sắc hoa… AI đã dồn về đây tất cả người đẹp của băm sáu phố phường? Ai đã xê dịch những vườn hoa còn đẫm sương mai của Yên Phụ, Nghi tàm về đây, về trung tâm Hà Nội?
Cúc vàng , cúc trắng, hồng nhung, thược dược, lan nhất điểm,… một bản nhạc hoa mà nhạc công là những cô hàng, áo tứ thân, điểm thêm một giải thắt lưng màu hoa lý hay cá vàng, vì Tết sắp đến.. Hoa sống và hoa cây tự tô điểm rồi cảm thông với nhau. Và tại sao hôm nay trong vườn hoàng cúc giữa chợ Đồng Xuân tôi lại gặp một bạn gái mặc áo vàng, trùng tên với hoa mùa thu? Có những tình cờ, những chuyện thực, nghe hoang đường như một bịa đặt, tuy vẫn là chuyện thực…”
Viết về bước chân của người học trò cũ trở về trường xưa, nhớ lại đã hơn gần nửa thế kỷ.
“.. Tôi bước vào sân trong. Trời xanh lồng lộng. Những phiến đá vuông nhỏ vẫn dội vang tiếng ngàn xưa dưới chân du khách. Những bậc hè cẩm thạch vẫn trắng tronh như lòng tuổi trẻ. Những hàng hiên cửa võng vẫn vươn mình lên, mình cánh cung, như xưa. Tôi hơi rùng mình. Thời gian như ngưng đọng. Cái nhìn của Sorbonne. Của người me. Của người tình.
Mẹ Sorbonne da mồi tóc bạc
Nhưng không tuổi và trẻ hơn hiện tại
Những giây phút huyền nhiệm. Có lúc người và vật dường như cảm thông quấn quýt lấy nhau. Trói buộc lẫn nhau bằng ngàn sợi dây vô hình, bằng màng lưới thần giao. Tôi đứng sững giữa sân trường. Chết đứng. Nước mắt thấm ướt gò má. Sao lại có thể như vậy? Uûy mị, yếu đuối quá đi thôi! Bèn lấy kính mát ra đeo, dằn lại dòng điện cảm xúc đã làm rung chuyển toàn thân. Bốn mươi năm rồi còn gì! Tứ thập niên gian hựu phùng quân. Lý, Đỗ và họ Tô ở Hàng Châu! Hãy cho tôi vay muôn ngôn và từ để nói lên một xúc động chưa từng kinh qua. Cho tôi giải tỏa niềm ngậm ngùi reo vui này. Như một mảng khí áp, một khối tích tụ chăn nganh lồng ngực vừa trải qua cơn địa chấn…”
Suối Tím có những câu thơ như:
“ Nước trôi suối ngọc tê hồn đắm
Aâm sắc tím chim gọi ngàn năm
Buồn cây chìm bóng cỏ đu võng
Vết thương sỏi trắng đau bộ lạc
Nằm nghiêng nôi lạnh có buồn không? “
Màu tím mênh mang buồn. Nhưng mênh mang sâu thẳm mà biền biệt. Cầm tập thơ nâng niu trên tay, nghĩ đến nỗi niềm trao gửi. Đọc thơ mà tưởng đến người nay đã khuất bóng. Thấy lại nụ cười hiền hòa. Thấy lại những tình cảm đôn hậu bao dung khi nói đến những lớp cầm bút đi sau. Và đôi mắt sáng đã từng mơ mộng đã từng ngâm ngùi đã từng vui buồn theo thời thế đẩy đưa.
Tôi đọc trang thơ, không trầm hương mà sao quyện lẫn trong không khí những mùi thơm cổ kính từ thiên cổ tạt về…
Nguyễn Mạnh Trinh