có những điều không nói ra, chỉ ghi lại...
pn

Thứ Tư, tháng 8 16, 2017

Thị trấn bạch dương

Nguyên tác: “Amundsen” (*)
trong tuyển tập Dear Life: Stories (Cuộc đời yêu dấu) 
(Alfred A. Knopf: 2012)





LTS: Tuy nhà văn Alice Munro đã đánh lạc hướng người dịch bằng cách cho nhân vật nữ – Vivien Hyde – đề cập đến khung cảnh trong truyện như được mượn từ một tiểu thuyết Nga, “Thị trấn Bạch Dương” thật ra làm người đọc liên tưởng đến Jane Eyre của Charlotte Bronte. Tại sao Jane Eyre, như truyện Lọ Lem, lại thu hút nhiều nhà văn từ nhiều truyền thống văn chương khác nhau? Trong một khía cạnh nào đó, truyện "Amundsen" của Alice Munro là một cách "dịch lại" Jane Eyre, tuy nhân vật bác sĩ Alister Fox (tên họ Fox có nghĩa là “cáo già”) trong truyện này thô bạo và khó hiểu hơn Rochester, cũng như Vivien Hyde chỉ mới là Jane Eyre ở "ngoài vỏ" (Hyde (hide) có nghĩa là làn da bọc bên ngoài xương cốt. Ở thời điểm trong truyện, cô giáo Vivien tuy thông minh nhưng chưa dám/chưa biết thực sự sống từ bên trong, mà chỉ biết sống qua sách vở, và để cho mình bị kéo theo hoàn cảnh và thế lực của một người đàn ông già dặn hơn. Thế giới lạnh lẽo mà cô bước vào là thế giới của đàn ông, mang tên một nhà thám hiểm Bắc và Nam Bán Cầu người Na uy tên là Roald Amundsen. Nhà văn Nguyễn Đức Tùng đã dịch tựa truyện rất hay là Thị trấn Bạch Dương — thế giới bạch hóa của nam giới, sự bạch hoá tàn ác như truyện Bạch hoá của Cung Tích Biền, hay màu trắng cá voi trong tiểu thuyết Moby Dick của văn hào Mỹ Herman Melville.



Tôi ngồi chờ trên băng ghế phía ngoài nhà ga. Cửa nhà ga mở mỗi khi tàu điện đến, nhưng nay đang đóng lại. Một người đàn bà ngồi đầu kia ghế, giữa hai đầu gối giữ một cái túi có dây cột, đầy những gói nhỏ bằng giấy dầu. Thịt – thịt sống. Bạn có thể ngửi được mùi ấy.

Bên kia đường tàu là chiếc tàu điện, không khách, đứng chờ.

Không một hành khách nào tới cả, sau một lúc người trưởng ga thò đầu ra ngoài gọi to “San.” (1) Mới đầu tôi tưởng ông ta gọi người nào đó tên Sam. Một người đàn ông mặc đồng phục đi tới, vòng quanh góc tòa nhà. Anh ta băng qua đường xe lửa, lên toa tàu điện. Người đàn bà với gói giấy đi theo anh ta, tôi cũng làm thế. Có tiếng la gọi từ hai bên đường và cánh cửa lem luốc của tòa nhà mái bằng bật mở, một vài người đàn ông chạy ra, đầu đội mũ, xách những cái lon bới thức ăn trưa va đập vào đùi. Nghe tiếng lao xao cứ tưởng tàu sắp chạy ngay trong vài phút. Nhưng khi họ đã ngồi an vị, chẳng có gì xảy ra cả. Chiếc tàu điện vẫn đứng yên khi họ đếm số người, xem thử có ai đó không kịp lên xe, và bảo người tài xế đừng chạy vội. Thế là có người nhớ lại đó là ngày nghỉ của một người kia, nay không có mặt. Chiếc xe điện bắt đầu chạy, mặc dù tôi không biết tài xế có nghe họ nói gì không, hay có thèm để ý không.

Tất cả bọn đàn ông đều xuống tàu ở chỗ nhà máy cưa gỗ, gần bên bụi rậm – không quá mười phút đi bộ – ngay sau khi cái hồ hiện ra trước mặt, đầy tuyết phủ. Một dãy nhà bằng gỗ trắng dài phía trước. Người đàn bà cặm cụi sửa lại túi đựng thịt sống, đứng lên, và tôi đi theo bà. Người tài xế gọi lần nữa, “San,” những cánh cửa mở ra. Vài người đàn bà đang đứng phía dưới, chờ lên tàu. Họ chào người đàn bà có gói thịt trên tay, cô ta bảo họ đó là một ngày ăn thịt sống.

Mọi người tránh nhìn vào mặt tôi, khi tôi bước xuống sau lưng người đàn bà.

Không ai chờ nữa ở trạm xe này. Những cánh cửa đóng sập, chiếc tàu điện quay lại đường cũ.

Kế đó là im lặng, bầu không khí lạnh như nước đá. Những cây bạch dương mỏng mảnh với những vết đen trên vỏ cây màu trắng, những bụi cây thường xuân mọc rời rạc như bầy gấu đang ngủ đông. Mặt hồ băng giá không bằng phẳng mà ụ lên cao vòng theo bờ, như thể những làn sóng chưa kịp rút xuống thì đã đóng thành băng. Và toà nhà phía sau với những cánh cửa sổ và những cầu làm bằng kính ở cuối đường. Mọi thứ đều xinh đẹp và có dáng vẻ miền Bắc, đen và trắng ở dưới những vòm mây trời cao vòi vọi. Và toà nhà phía sau những dãy cửa sổ quy củ và hai vòm hiên lắp kiếng phía trước và sau nhà. Mọi thứ trông hà khắc với dáng vẻ miền Bắc, đen và trắng ở dưới những vòm mây trời cao vòi vọi.

Nhưng vỏ cây bạch dương không trắng như bạn tưởng, khi tới gần. Vàng hơi xanh, xanh hơi xám, xám.

Mọi vật yên tĩnh, đứng yên lớn rộng như khúc nhạc du dương.

“Cô bạn đi đâu?” người đàn bà xách túi thịt gọi với về phía tôi. “Giờ đến thăm bệnh đã qua lúc ba giờ.”

“Tôi không phải là khách đến thăm,” tôi nói. “Tôi là cô giáo.”

“Họ không cho cô vào cửa chính, dù thế nào đi nữa,” người đàn bà nói với vẻ hài lòng. “Cô nên đi theo tôi. Không mang cả vali à?”

“Người trưởng ga nói rằng anh ta sẽ mang tới sau.”

“Cô đứng đó nhìn có vẻ như lạc đường.”

Tôi nói rằng tôi đứng đó vì thấy cảnh quá đẹp.

“Một vài người cũng nghĩ thế. Nhưng họ sẽ đổi ý nếu mắc bệnh hoặc quá sức bận rộn.”

Không ai nói gì nữa cho đến khi chúng tôi bước vào căn bếp ở cuối toà nhà. Tôi không có dịp nào để nhìn quanh cả vì đôi ủng của tôi bắt đầu sinh chuyện.

“Cô nên cởi mấy đôi ủng này ra trước khi chúng tạo ra vết bẩn trên sàn nhà.”

Tôi loay hoay tháo chúng ra – không có ghế để ngồi – đặt chúng lên tấm thảm nhỏ nơi người đàn bà cũng để những đôi ủng của mình.

“Cô nên xách ủng theo vì tôi không biết người ta sẽ sắp xếp cô ở đâu, cô nên mang theo áo choàng vì không có lò sưởi ấm ở phòng giữ mũ áo.”

Không có lò sưởi, không có ánh sáng, trừ ánh sáng chiếu ra từ một cửa sổ nhỏ cao quá tầm tay với. Giống như bị trừng phạt ở nhà trường. Gởi – đến – phòng – giữ – mũ – áo. Đúng vậy. Giống hệt mùi của áo quần mùa đông không bao giờ được phơi khô, của những đôi ủng ướt đẫm thấm vào tận những đôi vớ bẩn, những bàn chân không rửa.

Tôi trèo lên một cái băng ghế nhưng vẫn không thấy rõ bên ngoài. Trên những kệ gỗ nơi người ta ném khăn quàng và mũ tôi tìm thấy một cái túi có trái vả và trái chà là. Một kẻ nào đó đã ăn cắp mấy thứ này và giấu chúng ở đây để mang về nhà. Bỗng tôi thấy đói. Chưa ăn gì cả từ sáng, trừ một cái bánh kẹp pho mát. Tôi ngần ngại, suy nghĩ về việc ăn trộm một vật của một kẻ trộm. Nhưng rồi những trái vả kia sẽ dính vào răng và tố cáo tội lỗi của tôi.

Tôi leo xuống vừa đúng lúc, một người nào đó đang bước vào phòng. Không phải người giúp việc nhà bếp mà là một cô bé học sinh với một cái áo khoác mùa đông dày cộp, khăn quàng trùm kín đầu. Cô bé bước vào rất vội, ném sách vở lên băng ghế khiến chúng rơi tung tóe lên sàn, giằng khăn quàng ra khiến mái tóc xổ tung, và cùng lúc đôi ủng đá vào nhau bật ra lăn lông lốc trên sàn nhà. Rõ ràng là không có ai coi chừng con bé, bảo nó phải đặt giày ủng ở ngay cửa.

“Này tôi không cố ý tông vào cô đâu nhé,” con bé nói. “Ở đây tối quá, không biết đằng nào mà lần. Cô có lạnh không? Đứng đây chờ ai vậy?”

“Tôi chờ bác sĩ Fox.”

“Thế thì không phải chờ lâu đâu, tôi mới đi phố về với ông ấy. Cô không bị bệnh chứ? Nếu bị bệnh thì cô không đến đây được, phải chờ ông ta ở trong phố.”

“Tôi là cô giáo.”

“Thế à? Có phải cô đến từ Toronto?”

“Vâng.”

Dừng lại một lát, có lẽ là sự kính trọng.

Nhưng không, đang ngắm nghía cái áo choàng của tôi.

“Đẹp quá. Trên cổ áo là lông con gì thế?”

“Cừu Ba Tư. Thật ra đây là thứ giả lông thú.”

“Lầm chết. Em không biết tại sao người ta để cô đứng đây, lạnh đến tê mông mất. Xin lỗi cô nhé. Cô muốn gặp bác sĩ em có thể chỉ cho. Em biết mọi nơi mọi góc, em sống ở đây từ hồi mới sinh. Mẹ em là người cai quản nhà bếp. Tên em là Mary. Tên cô là gì?”

“Vivi. Vivien.”

“Nếu cô là cô giáo thì em phải xưng hô như thế nào?”

“Gọi tôi là Cô Hyde.”

“Thưa Cô Hai,” nó nói (2). “Xin lỗi, em chợt nghĩ ra thế. Em thích cô là cô giáo của mình nhưng em phải đi học trong thành phố. Đó là một quy định xuẩn ngốc. Bởi vì em không bị bệnh lao phổi.”

Trong khi trò chuyện con bé kéo tôi đi xuyên qua cánh cửa ở cuối phòng mũ áo, rồi đi dọc hành lang của bệnh viện. Vải bạt phủ bóng. Sơn xanh buồn tẻ, mùi thuốc sát trùng.

“Bây giờ cô ở đây rồi thì Reddy sẽ cho phép em chuyển đổi.”

“Reddy là ai vậy?”

“Reddy Fox. Từ một cuốn sách. Em và Anabel bắt đầu gọi ông bác sĩ như thế.”

“Thế Anabel là ai?”

“Không là ai nữa. Con bé chết rồi.”

“Ồ, cô xin lỗi.”

“Không phải lỗi của cô. Chuyện đó thì quá thường ở đây. Năm nay em lên trung học. Anabel chưa bao giờ đến trường cả. Khi em còn ở trường công lập thì Reddy dặn cô giáo cho phép em ở nhà rất nhiều để em bầu bạn với nó.”

Cô bé dừng lại trước một cánh cửa mở hé và huýt sáo.

“Hey. Em dẫn cô giáo đến đây này.”

Giọng một người đàn ông vang lên, “Được rồi Mary. Một ngày vậy là đủ rồi.”

Nó rời phòng với điệu bộ tung tăng và để tôi đứng đối diện với một người đàn ông tầm thước trung bình, mái tóc đỏ cắt rất ngắn và chiếu lấp lánh trong ánh sáng giả tạo từ hành lang.

“Thế là cô đã gặp Mary,” ông ta bảo. “Con bé có nhiều chuyện để nói về nó đấy. Nó không học lớp cô nên chuyện ấy sẽ không xảy ra mỗi ngày. Mọi người hoặc là thích nó hoặc là không.”

Ông ta xuất hiện như một người lớn hơn mười đến mười lăm tuổi và thoạt đầu cũng nói chuyện với tôi theo kiểu của một người lớn. Một ông chủ tương lai bận rộn. Ông ta hỏi tôi về chuyến đi, chỗ để vali của tôi. Ông ta muốn biết làm sao tôi có thể sống trong rừng sau khi đã sống ở Toronto. Liệu ở đây một thời gian có chán không.

Không phải là nơi đáng chán nhất, tôi nói thế, và thêm quang cảnh ở đây cũng đẹp.

“Nó giống như – nó giống như là trong một tiểu thuyết Nga.”

Ông ta nhìn tôi chăm chú lần đầu tiên.

“Vậy hả? Cô nói cuốn tiểu thuyết Nga nào?”

Đôi mắt ông ta xanh trong, sáng. Lông mày nhướn lên một bên, như một cái mũ nhọn be bé.

Không phải là tôi chưa từng đọc tiểu thuyết Nga. Tôi đã đọc một vài, đọc hết hoặc đọc giữa chừng. Nhưng bởi vì hàng lông mày của ông ta, cách biểu lộ tuy lý thú nhưng có phần thử thách, làm tôi chẳng còn nhớ cái nhan đề truyện nào cả ngoài Chiến Tranh và Hòa Bình. Tôi không muốn nói cái tên ấy vì có vẻ như ai cũng nhớ được thế.

“Chiến Tranh và Hòa Bình.”

“Ồ, vậy thì chỉ có hòa bình ở đây thôi. Tôi có thể nói thế. Nhưng nếu cô đã muốn chiến tranh thì tôi đoán hẳn cô đã tham gia vào một hội đoàn phụ nữ để có dịp đi đây đó ra nước ngoài.”

Tôi tức giận và cảm thấy bị tổn thương vì tôi không hề có ý khoe khoang. Hoặc không chỉ khoe khoang mà thôi. Tôi muốn nói là khung cảnh xinh đẹp đã ảnh hưởng đến tôi ra sao.

Ông ta rõ ràng là một loại người thích đặt những câu hỏi để người khác xụp bẫy.

“Tôi cứ chắc mẩm là sẽ đón một cô giáo già,” ông ta nói, hơi có vẻ xin lỗi. “Như thể bất cứ người nào tương đối đứng tuổi và có đủ trình độ có thể đi làm việc trở lại trong thời buổi này. Cô không phải đi học để làm cô giáo, đúng thế không? Ý tôi hỏi là cô tính làm gì sau khi học xong cử nhân?”

“Tôi muốn học lên cao học.” Tôi trả lời ngắn.

“Vậy thì cái gì đã làm cô đổi ý?”

“Tôi nghĩ tôi cần một ít tiền.”

“Rất đúng. Mặc dù tôi e rằng cô cũng chẳng kiếm được nhiều tiền ở đây đâu. Xin lỗi vì tôi hơi tọc mạch. Tôi chỉ muốn biết chắc là cô sẽ không bất ngờ bỏ đi khiến chúng tôi lại phải lao đao. Chưa tính lập gia đình chứ?”

“Không.”

“Thôi được rồi. Cô không bị tra vấn nữa đâu. Tôi không làm cô nản chứ, có đến nỗi thế không?”

Tôi quay đầu đi.

“Không.”

“Đi dọc xuống hành lang tới chỗ văn phòng của Matron và cô ta sẽ nói thêm với cô nhiều việc cần biết. Cô sẽ dùng bữa với các cô y tá. Cô ấy sẽ chỉ chỗ ngủ cho cô. Đừng để bị cảm lạnh. Tôi không nghĩ là cô có kinh nghiệm gì về bệnh lao phổi?”

“Ồ tôi có đọc qua – ”

“Tôi biết. Tôi biết. Chắc là cô đã đọc Ngọn Núi Thiêng.”

Một cái bẫy lại giăng ra nữa nhưng giờ ông ta có vẻ hài lòng. “Mọi việc đã khá hơn trước, tôi hy vọng thế. Đây, tôi có soạn một số nhận định về trẻ con ở nơi đây và về những điều tôi nghĩ là cô có thể muốn thực hiện với chúng. Đôi khi tôi cảm thấy tốt nhất là thể hiện ý tưởng của mình bằng cách viết xuống. Matron sẽ cho cô biết đầy đủ chi tiết.”

Tôi ở chưa đến một tuần thì tất cả những sự kiện của ngày đầu tiên đã trở nên kỳ lạ và khó tin. Căn bếp, phòng để mũ áo trong đó nơi những công nhân treo áo quần và giấu những đồ ăn cắp, là cái phòng mà tôi đã và chắc sẽ không quay lại nữa. Văn phòng của bác sĩ cũng vậy, không có ai tới, phòng của Matron là nơi thích hợp cho mọi người tới đó thắc mắc, than phiền và sắp xếp công việc thường ngày. Matron là một người đàn bà lùn, mập, mặt đỏ bừng, mang kính không có gọng, thở nặng nhọc, bất cứ chuyện gì mà bạn hỏi cũng làm cô ta ngạc nhiên và gây ra những việc khó khăn, nhưng rồi cuối cùng cũng được thu xếp hay được mang lại. Đôi khi cô ta dùng bữa ở phòng ăn của y tá, được thết đãi đặc biệt, nhưng tạo cho mọi người bầu không khí tẻ lạnh. Nhưng thông thường thì cô ta chỉ ngồi ở khu vực của mình.

Ngoài Matron ra còn có ba người nữ y tá, nhưng không ai ở lứa tuổi ba mươi như tôi cả. Họ đã về hưu nhưng vẫn tới đây làm việc, thực hiện bổn phận trong thời chiến. Rồi có những người hộ lý, vào cỡ tuổi của tôi hay trẻ hơn, hầu hết đều đã có gia đình hay hứa hôn hay sắp hứa hôn, đa số có chồng hoặc hôn phu đi lính. Lúc nào họ cũng trò chuyện, nếu Matron và các y tá không có mặt ở đó. Họ không hề để ý đến tôi. Họ chẳng cần biết Toronto là thành phố thế nào, mặc dù có một số người biết người quen của họ tới đó để hưởng tuần trăng mật, và họ cũng không quan tâm đến việc dạy học của tôi hay tôi đã làm gì trước khi đến nhận nhiệm sở ở khu điều dưỡng này. Không phải vì họ là những người khiếm nhã- họ chuyển cho tôi dĩa bơ (được gọi là bơ nhưng thực ra là một loại dầu thực vật màu vàng, được nhuộm màu ở trong nhà bếp như là phương thức hợp pháp thời đó) và họ cũng khuyên tôi đừng ăn rằng món bánh nhân thịt băm với khoai tây hầm vì có thể có thịt chuột chũi bên trong. Chẳng qua là họ không màng tới những việc xảy ra ở những nơi chốn mà họ không biết, cho những người mà họ không quen, hay trong những thời đại mà họ mù mờ. Những điều đó làm họ bối rối, bực mình. Họ tắt máy thu thanh mỗi khi gặp chương trình tin tức và chỉ nghe ca nhạc mà thôi.

“Nhảy múa với một ả mang vớ có lỗ thủng…”

Cả y tá lẫn những người hộ lý đều không thích đài phát thanh CBC là chương trình phát thanh mà từ nhỏ đến lớn tôi vẫn tin tưởng là mang lại nền văn hóa cho những vùng đất sâu hẻo lánh. Họ có vẻ rất ngưỡng mộ bác sĩ Fox một phần vì ông ta đọc nhiều sách vở.

Họ cũng nói rằng chẳng có người nào như ông ta có thể lột trần tất cả nếu ông ta muốn.

Tôi không thể hình dung được làm sao họ lại có được mối liên hệ giữa việc đọc sách vở và việc lột trần một người.


Những khái niệm về giáo dục căn bản không áp dụng được ở đây. Một số trẻ em sẽ tái nhập thế giới hoặc xã hội nhưng một số sẽ không bao giờ. Tốt nhất là đừng lo lắng nhiều quá. Có nghĩa là chuyện trắc nghiệm và ôn bài chỉ hoài công. Hãy quên đi chuyện xếp lớp. Những đứa cần lên lớp sẽ theo kịp sau này hoặc chúng cũng chẳng cần lên lớp làmchi. Thật ra chỉ cần những kỹ năng vô cùng đơn giản, các yếu tố thực tế này nọ, vân vân, sao cho đủ để vào đời. Thế những đứa trẻ thiên tài thì sao? Đây là cách phân loại dị hợm. Nếu chúng là những đứa thông minh dựa theo phương pháp giáo dục còn nhiều nghi vấn thì chúng tất sẽ bắt kịp.

Hãy quên đi những con sông ở Nam Mỹ, hãy quên Magna Carta.

Hội họa âm nhạc và những truyện kể nên được ưu tiên.

Các trò chơi cũng thích hợp nhưng hãy để ý cẩn thận đừng để bọn trẻ quá sức hào hứng hay tranh đua quyết liệt quá.

Hãy cố gắng tạo sự cân bằng giữa lo âu và chán chường. Sự chán chường đưa đến bệnh tật.

Nếu đôi khi Matron không thể giúp bạn thì người quét dọn vệ sinh có thể sẽ giúp bạn được.

Chúc may mắn.

Số học sinh hiện diện thay đổi mỗi ngày. Mười lăm đứa, có khi rơi rụng còn sáu bảy đứa. Chỉ học buổi sáng từ chín giờ đến trưa, kể cả giờ nghỉ ra chơi. Trẻ con không được tới trường nếu chúng bị sốt hoặc đang trong quá trình xét nghiệm. Nếu có mặt chúng sẽ im lặng và dễ bảo, nhưng không tỏ ra hào hứng về chuyện gì. Chúng biết ngay rằng đây là một hình thức nhà trường giả tạo nơi chúng chẳng phải học hành vất vả theo những tiêu chuẩn nghiêm khắc vì không phải bám theo chương trình học và không phải học thuộc bài. Niềm tự do này không làm chúng sỗ sàng hay chán nản gì, chỉ là khiến chúng trở nên dễ bảo và lơ tơ mơ. Bọn học sinh hát theo vòng ngân nga. Chúng chơi những trò chơi của học sinh. Có một cái bóng của sự thua cuộc, chịu trận, lơ lửng trong những lớp học ngẫu hứng.

Tôi quyết định nghe theo lời khuyên của ông bác sĩ, hoặc chỉ một vài lời khuyên. Chẳng hạn lúc ông ta nói về sự chán chường như một kẻ thù của bạn.

Trong căn phòng nhỏ của người dọn vệ sinh tôi thấy quả địa cầu. Tôi đề nghị đem nó tới. Tôi bắt đầu giảng bài về địa lý căn bản. Năm châu, bốn biển, khí hậu. Sao không nói luôn về gió và các dòng hải lưu? Các quốc gia và các thành phố? Các đường hạ chí tuyến và đông chí tuyến của đường xích đạo? Thế rồi các con sông của Nam Mỹ nữa?

Một số trẻ con đã từng học qua, nhưng chúng gần như quên cả. Thế giới phía sau mặt hồ và khu rừng đã bị quên đi mất. Tôi nghĩ là chúng vui vẻ trở lại, như thể bắt tay làm bạn với những gì chúng đã từngbiết. Tôi không nhồitất cả kiến thức vào chúng cùng một lúc, tất nhiên và tôi phải đi từng bước, nhất là với những đứa chưa từng học những thứ này trước khi chúngngã bệnh quá sớm.

Nhưng không sao hết. Có thể coi sự dạy học như một trò chơi. Tôi chia học sinh ra từng đội, bắt chúng trả lời lớn tiếng khi tôi chỉ chỗ này chỗ kia với một cái thước kẻ. Tôi cẩn thận không để sự hào hứng của bọn trẻ kéo dàiquá lâu. Nhưng một ngày kia ông bác sĩxuất hiện, vừa mới từ một cuộc mổ ra, và tôi bị bắt gặp. Tôi không thể nào dừng lại trò chơi hào hứng, nhưng tôi kiềm chế cuộc ganh đua. Ông ta ngồi xuống vẻ hơi mệt mỏi, trầm lặng. Ông bác sĩ không hề phản đối. Một lúc sau ông ta bắt đầu tham gia vào trò chơi, xướng lên những câu trả lời kỳ quặc, những cái tên không những sai mà còn hoàn toàn là tưởng tượng. Rồi ông để cho giọng nói của mình trầm xuống. Nhỏ, nhỏ lại, nhỏ dần, mới đầu như một tiếng lầm bầm, rồi như một tiếng nói thầm, cho đến một lúc không còn ai nghe được gì nữa. Không nghe gì cả. Bằng cách này với vẻ quái gở, ông ta điều khiển cả căn phòng. Cả lớp học bỗng nhiên bắt chước ông ta nói thì thào, lầm bầm, mắt chúng nhìn chằm chặp lên môi của ông bác sĩ.

Bỗng nhiên ông ta gào một tiếng làm cho bọn trẻ cười ngả nghiêng.

“Tạo sao mọi người cứ nhìn tôi thế? Cô giáo có dạy các cháu làm thế không? Nhìn chằm chặp vào một người không hề làm phiền ai cả?”

Hầu hết bọn trẻ đều cười phá lên, nhưng một số vẫn nhìn ông ta chằm chặp. Bọn chúng mong được kéo dài những giây phút tinh quái …

“Tiếp tục đi. Chạy tít và làm trò phá phách chỗ nào đi.”

Ông ta xin lỗi tôi vì đã chen ngang vào lớp học. Tôi bắt đầu giải thích cho ông những lý do vì sao tôi phải làm cho nó giống như một trường học thật.

“Mặc dù tôi đồng ý với bác sĩ về chuyện các em dễ bị xúc động -” Tôi bắt đầu nói một cách thành khẩn. “Tôi đồng ý với bác sĩ về những điều ông viết trong bản hướng dẫn. Tôi chỉ nghĩ rằng … ”

“Bản hướng dẫn nào? Ồ, đó toàn là những thứ lặt vặt đã hiện lên trong đầu tôi. Tôi không hề có ý tạc nó vào đá đâu.”

“Tôi muốn nói rằng miễn là các em không quá yếu vì bệnh tình …”

“Tôi tin là cô giáo nói đúng, tôi không nghĩ chuyện đó có vấn đề gì.”

“Nếu không chúng sẽ dễ bị lơ đãng.”

“Cô không cần phải nói dài dông về chuyện này nữa,” ông bác sĩ bảo và bỏ đi.

Rồi bỗng quay lại xin lỗi gần như nửa giả dối nửa chân thành.

“Chúng ta sẽ bàn thêm về chuyện này một hôm khác.”

Một hôm khác, tôi nghĩ, tức là không bao giờ. Ông ta rõ ràng là nghĩ tôi như một kẻ quấy nhiễu ngớ ngẩn.

Vào buổi ăn trưa hôm đó từ những người phụ tá, tôi được biết rằng có một người bệnh đã chết trong phòng mổ. Và nỗi tức giận của tôi có vẻ không hợp lý lắm và vì vậy tôi thấy mình đúng là ngớ ngẩn.

Tất cả những buổi chiều tôi đều tự do rảnh rỗi. Mắt tôi nhíu lại buồn ngủ và tôi cũng muốn thế. Phòng ở lạnh – tất cả những phòng của tòa nhà đều lạnh, lạnh hơn nhiều so với căn chung cư ở đại lộ, nơi ông bà của tôi giữ hệ thống sưởi ấm ở mức thấp nhất, để tiết kiệm trong thời kỳ đất nước chiến tranh. Và chăn mền thì mỏng – chắc chắn những người bị bệnh lao phổi cần thứ gì ấm áp hơn chăng.

Tất nhiên tôi không bị bệnh lao. Có thể là người ta keo kiệt hay hà tiện đối với những người như tôi.

Tôi thấy chóng mặt nhưng không ngủ được. Trên đầu tôi ghe tiếng ồn của những chiếc giường có bánh xe được đưa ra hiên để hóng gió chiều buốt lạnh.

Tòa nhà, cây cối, mặt hồ, sẽ không bao giờ phát hiện như ngày đầu tôi mới đến đây, khi tôi ngẩn người vì sự thần bí và quyền uy của nó. Vào ngày hôm đó tôi đã tin rằng mình là một kẻ vô hình. Hiện giờ điều này coi như chẳng bao giờ như vậy.

Kia là một cô giáo. Cô ta làm gì ở đó?

Cô ta đứng nhìn mặt hồ.

Để làm gì kia chứ?

Đâu có chuyện gì khác mà làm.

Chà, có người rảnh rỗi quá nhỉ.

Đôi khi tôi bỏ bữa ăn trưa, mặc dù đó là một phần tiền lương của tôi. Tôi tới Amundsen nơi tôi có thể ăn trưa trong một quán cà phê. Cà phê hiệu Postum, một bánh mì kẹp cá hồi hộp, nếu họ có. Một dĩa xà lách trộn thịt gà phải được xem kỹ để tránh những mảnh da và sụn. Dù sao tôi cũng thấy dễ chịu hơn nhiều ở đó. Vì chẳng ai biết tôi là ai.

Nhưng hình như tôi đã nhầm.

Quán cà phê không có phòng vệ sinh phụ nữ, vì vậy bạn phải tới khách sạn kế bên, đi qua một lần cửa mở của tiệm bia, lúc nào cũng tối và ồn ào và bốc mùi bia và rượu whisky, nồng nặc khói thuốc lá và khói xì gà làm bạn muốn xỉu. Mặc dù vậy tôi vẫn cảm thấy thỏa mái ở đó. Những người thợ cưa, từ nhà máy xẻ gỗ, không bao giờ cười rú lên khi thấy phụ nữ, như cái cách mà những người lính bộ binh và không quân ở Toronto đã làm với tôi. Họ ngụp lặn trong thế giới đàn ông với những câu chuyện ồn ào của mình, không phải tới đây để tìm phụ nữ. Có thể họ thích được một mình ra khỏi những mối quan hệ nào đó.

Văn phòng của ông bác sĩ ở trên đường lộ chính chỉ là một tòa nhà nhỏ. Vậy chắc ông ta sống ở một nơi khác. Những người hộ lý bảo tôi là ông không có vợ. Ở bên đường tôi thấy một căn nhà có vẻ như của ông ta – một nhà xi măng với cửa sổ ở phía trước, có nhiều sách dựng lên ở trên khung cửa. Khu nhà có vẻ ảm đạm nhưng ngăn nắp, chỗ ở tối thiểu nhưng tiện nghi gọn ghẽ, mà một người đàn ông độc thân – một người cô độc, chỉn chu – có thểtạo cho mình.

Trường học ở cuối khu phố dân cư duy nhất có hai tầng lầu. Tầng dưới dành cho học sinh từ nhỏ đến lớp tám, tầng trên cho đến lớp mười hai. Một buổi chiều tôi thấy Mary ở đó tham dự trò chơi ném hòn tuyết. Dường như một bên là bọn nữ sinh một bên nam sinh. Khi nhìn thấy tôi, Mary la lớn, “Ơ kìa, cô giáo,” và dùng hai tay ném bừa những hòn tuyết rồi băng thong thả qua đường. “Hẹn gặp chúng mày ngày mai.” Nó nói ngoái lại, để biết chắc là không có ai đi theo sau nó.

“Cô đang đi về nhà phải không?” nó hỏi. “Em cũng vậy. Em thường đi xe với Reddy, nhưng hôm nay lại về muộn. Cô làm gì, đi xe điện hả?”

Tôi trả lời vâng và Mary nói, “Ồ, em có thể chỉ cho cô cách khác mà cô tiết kiệm được tiền. Đường qua những bụi rậm.”

Rồi nó dẫn tôi tới một con đường chật hẹp nhưng đi được, nhìn xuống khu phố, chạy xuyên qua rừng và qua nhà máy cưa.

“Đây là con đường mà Reddy hay đi,” nó nói. “Con đường này ở trên cao nhưng ngắn hơn khi cô tới nhà thương.”

Chúng tôi đi vượt qua nhà máy cưa, và bên dưới, hiện ra một vài chỗ cắt xén loang lổ của khu rừng. Một vài nơi có vẻ là có người ở vì có nhiều đống gỗ, dây phơi quần áo, khói lam chiều bay lên. Từ khu nhà ấy một con chó thật lớn chạy ra giơ nanh sủa ồn ào.

“Câm mõm đi,” Mary kêu lên. Không biết từ lúc nào nó có sẵn một quả bóng tuyết vo tròn trong tay ném phụt một cái trúng ngay giữa hai mắt của con vật. Nó chạy vòng và con bé lại có thêm một cục tuyết nữa trong tay sẵn sàng ném nó. Một người đàn bà mang tạp dề trước bụng đi ra và la lên, “Mày giết nó mất.”

“Càng tốt cho những thứ rác rưởi …”

“Tao sẽ mách chồng tao cho mày biết.”

“Ai cấm. Chồng bà chẳng làm nên trò trống gì.”

Con chó đi theo chúng tôi một quãng xa, vẻ đe dọa nửa chừng.

“Em có thể trừng trị tất cả các con chó, cô đừng lo.” Mary bảo. “Em nghĩ là em có thể đối phó được một con gấu nếu chúng ta lỡ gặp phải nó.”

“Không phải là những con gấu đang ngủ đông hay sao.”

Tôi đã khá sợ con chó nhưng giả vờ phớt tỉnh.

“Đúng vậy nhưng mình chẳng bao giờ biết. Đã có một con gấu từng thức dậy rất sớm và tới đống rác gần nhà thương rồi. Mẹ em lúc quay người lại đã thấy một con như thế. Reddy chạy đi lấy khẩu súng và bắn chết nó.”

“Reddy thường hay mang em và Annabel tới chỗ xe trượt tuyết, và đôi khi những đứa trẻ khác nữa và ông ta có một loại sáo đặc biệt khiến cho những con gấu sợ hãi lánh xa. Nốt của loại sáo này cao lắm tai của người ta không nghe được.”

“Thật à, em có thấy vậy chưa?”

“Không phải là ống sáo thật. Em muốn nói là thứ ông ta có thể làm với miệng của mình.”

Tôi nghĩ tới buổi trình diễn vừa qua trong phòng học.

“Em không biết, có thể là để làm cho Annabel đừng quá sợ như ông ta bảo thế. Con bé không thể ngồi trên xe vì vậy ông ta phải kéo nó trên một cái xe trượt tuyết loại nhẹ. Em chạy theo sau nó và đôi khi lén nhảy lên xe và ông ta sẽ nói quái quỷ gì vậy, nó bỗng nhiên nặng cả tấn. Thế rồi ông quay thật nhanh để chụp lấy em nhưng chẳng bao giờ làm được. Ông sẽ hỏi Annabel cái gì làm cho xe trượt tuyết trở nên nặng nề, có phải mày đã ăn sáng nhiều quá không nhưng con bé không nói gì cả. Nếu có những đứa trẻ khác em cũng sẽ không làm vậy. Thú vị nhất là chỉ có mình em và Annabel. Nó là đứa bạn thân nhất của em.”

“Còn những đứa con gái khác ở trường thì sao? Bọn nó không phải là bạn của em à?”

“Em chỉ chơi với chúng khi không có ai cả. Bọn chúng toàn là một lũ ngốc.”

“Annabel và em có chung ngày sinh nhật trong một tháng. Tháng sáu. Vào ngày sinh thứ mười một của chúng em, Reddy mang chúng em xuống một cái hồ nước trên một chiếc thuyền. Ông dạy chúng em bơi lội. Thật ra chỉ có mình em. Lúc nào ông ta cũng phải giữ chặt lấy Annabel. Con bé không biết cách bơi. Có lần ông bơi một mình ra xa và hai chúng em liền lấy cát đổ vào giầy của ông ấy. Vào ngày sinh nhật thứ mười hai chúng em không đi xa đâu được liền tới nhà ông để ăn bánh. Con bé không ăn được một miếng nào nên ông ấy dẫn chúng em đến xe hơi và chúng em ném những miếng bánh qua cửa sổ cho bọn chim hải âu. Chúng giành nhau kêu ầm ĩ. Chúng em cười phá lên khiến ông ta phải kêu dừng lại và ôm chặt lấy Annabel để cho nó khỏi bị ho ra máu.”

“Và sau đó,” nó nói tiếp, “sau đó thì em không được phép gặp Annabel lần nào nữa. Mẹ em không bao giờ muốn em đi chơi với những đứa trẻ bị bệnh lao phổi. Nhưng Reddy nói chuyện với mẹ em, ông bảo sẽ ngừng rủ em đi theo khi cần. Rồi ông ngừng thật và em lấy làm tức giận. Nhưng Annabel không còn vui vẻ như trước nữa bởi vì nó bệnh quá. Em sẽ chỉ cho cô ngôi mộ của nó nhưng ở đó chẳng có một tấm bia nào cả. Reddy và em sẽ làm một cái bia cho nó khi ông ta có thì giờ. Nếu chúng ta đi thẳng chứ không đi xuống như vừa nãy thì chúng ta đã gặp nghĩa địa của nó rồi. Đó là nơi dành cho những người không có thân nhân, chẳng ai mang họ về nhà.”

Vào lúc này chúng tôi đã đi xuống khu vực gần nhà thương.

Nó nói, “Ồ tí nữa em quên mất,” và lôi ra một nắm những tấm vé.

“Cho ngày lễ Valentine. Chúng em có một vở ca nhạc kịch ở nhà trường gọi là Pinafore. Đây là những tấm vé em mang đi bán và cô sẽ mua cái đầu tiên. Em đóng trò trong vở ca nhạc kịch ấy.”

Tôi đoán đúng về ngôi nhà ở thị trấn Amundsen là nơi cư ngụ của ông bác sĩ. Ông ta đã dẫn tôi về nhà ăn tối. Lời mời đưa ra tự nhiên trong một lúc khi chúng tôi tình cờ gặp nhau ở hành lang. Có lẽ ông ta hơi ái ngại về lời hẹn sẽ nói chuyện với tôi về phương pháp giảng dạy.

Bữa ăn tối mà ông bác sĩ định mời trùng với ngày diễn kịch của Mary. Tôi kể cho ông nghe và ông bảo, “Thì tôi cũng mua như cô. Nhưng không nhất thiết chúng ta phải tới đó đâu.”

“Tôi có cảm giác như thể tôi đã hứa với nó rồi.”

“Ồ thế à, thế thì cô có thể hủy lời hứa đó đi. Đó là một điều phiền não, hãy tin tôi đi.”

Tôi nghe lời ông bác sĩ mặc dù tôi không gặp lại Mary. Tôi đứng chờ ở nơi mà ông đã chỉcho tôi, ở một khoảng hiên rộng trước cửa ra vào. Tôi mặc một cái đầm đẹp màu xanh dương đậm với những cúc áo kết bằng ngọc trai, cổ đăng ten, chân mang giày cao gót bên trong đôi ủng đi tuyết. Tôi đứng chờ hồi hộp, lo lắng, thoạt tiên bởi vì sợ rằng Matron sẽ bước ra khỏi văn phòng và nhìn thấy tôi, và kế đó là sợ ông bác sĩ chẳng nhớ gì chuyện hẹn hòcả.

Nhưng rồi ông đến, cúc áo choàng cài tận cổ, và xin lỗi.

“Lúc nào cũng có vài chuyện gì đó phải làm cho xong.” Ông nói, và dẫn tôi đi dưới bầu trời đầy sao sáng vòng quanh tòa nhà tới chỗ xe hơi. “Cô đi được chứ?” Ông ta bảo và tôi nói vâng – mặc dù hơi lo lắng về đôi giày của mình – ông ta không hề đưa tay ra đỡ tay tôi.

Chiếc xe hơi cũ và hơi tồi tàn như hầu hết xe thời đó. Không có máy sưởi trong xe. Khi ông bảo sẽ đưa tôi về nhà ông, tôi cảm thấy bớt lo lắng. Tôi không tưởng tượng được chuyện chúng tôi phải bon chen với đám đông ở khách sạn và cũng kỳ vọng là không phải ngồi ăn bánh sandwich ở tiệm cà phê.

Khi đã vào nhà, ông bảo tôi đừng cởi áo choàng vội để cho ấm một chút đã. Ông bận rộn châm lửa lò sưởi đốt bằng củi.

“Tôi sẽ là người dọn dẹp kiêm đầu bếp kiêm người chạy bàn cho cô giáo,” ông ta bảo.

“Một lát nữa cô sẽ thấy thoải mái, bữa ăn tối không lâu đâu. Cô không phải giúp đỡ gì, tôi muốn làm một mình. Cô giáo muốn ngồi đâu để chờ? Nếu muốn cô có thể ngồi coi sách ở phòng trước. Ở đó không lạnh lắm nếu cô mặc áo choàng ấm. Nhà này có lò sưởi nhưng tôi không sưởi những phòng không dùng tới. Nút bật đèn ở phía sau cửa. Xin phép cô tôi muốn nghe tin tức trên đài phát thanh, đó là thói quen.”

Tôi bước tới phòng trước, cảm thấy phần lớn như mình đã bị sai khiến, để cửa bếp mở rộng. Ông ta bước tới khép cửa bếp lại và nói “để thế cho đến khi nào ấm lên một chút đã,” và quay lại với giọng của phát ngôn viên trên đài CBC, một giọng nói thánh thót, điêu luyện, đầy tính kịch, đọc bản tin chiến tranh, vào năm cuối cùng. Tôi không nghe được giọng nói ấy từ khi tôi rời căn hộ của ông bà tôi và tôi ước gì mình cứ đứng trong bếp. Nhưng rồi có nhiều sách vở để coi. Không phải chỉ trên kệ sách mà cả trên bàn, trên ghế, trên cửa sổ, chất đầy sàn nhà. Sau khi lướt qua vài cuốn sách tôi có thể kết luận rằng ông ấy thích mua sách thành từng đợt và chắc là thành viên của một nhóm đọc sách nào đó. Những cuốn sách cổ điển của Harvard. Cuốn lịch sử của Will và Ariel Durant – rất giống với những cuốn trên kệ sách của ông nội tôi. Tiểu thuyết và thơ có vẻ ít hơn, mặc dù cũng có vài cuốn, đáng ngạc nhiên là lcó cả những sách nhi đồng.

Những cuốn về nội chiến Mỹ, chiến tranh Nam Phi, các trận đánh của Napoleon, cuộc chiến tranh Hy Lạp cổ đại, sự nghiệp của Caesar. Thám hiểm Amazon và Bắc băng dương. Những cuốn sách cho tôi thấy người đọc là một người muốn nắm kiến thức bao quát nhưng đồng thời dễ bị chia trí. Có lẽ không phải là một người có sở thích chắc chắn và chính xác.

Vì vậy mà ông ta từng hỏi tôi, “Cuốn tiểu thuyết Nga nào,” lúc hỏi thế có lẽ ông không có một kiến thức cụ thể nào như tôi đã tưởng.

Khi ông bác sĩ gọi, “sẵn sàng rồi,” và tôi mở cửa ra, tôi đã có chút tự tin về sự nghi ngờ này.

Tôi nói, “Ông đồng ý với Naphta hay Settembrini?”

“Xin lỗi?”

“Đó là các nhân vật trong cuốn Ngọn Núi Thiêng. Ông thích Naphta hay Settembrini hơn?”

“Nói thật, tôi luôn nghĩ rằng cả hai đều là những tên ba hoa lắm mồm. Còn cô?”

“Settembrini thì có vẻ nhân tính hơn nhưng Napht thì lý thú hơn.”

“Thế người ta dạy cô ở trường à?”

“Tôi chẳng bao giờ đọc mấy thứ đó ở trường.” Tôi trả lời lạnh lùng.

Ông ngước nhìn tôi, lông mày nhíu lại.

“Ồ xin lỗi. Nếu có cuốn sách nào làm cô thích cứ tự nhiên tới đây đọc khi nào cô rảnh. Có một máy sưởi ấm bằng điện tôi có thể đặtra đây, vì tôi nghĩ là cô không có kinh nghiệm dùng lò sưởi đốt củi. Chúng ta bàn thêm về chuyện này nhé? Tôi có thể làm cho cô một chìa khoá riêng.”

“Cám ơn ông.”

Thịt heo cốt lết để ăn tối, khoai tây nghiền, đậu hạt hộp. Tráng miệng bằng bánh ngọt nhân táo mua từ tiệm bánh, còn ngon hơn nữa nếu ông ta nghĩ đến chuyện hâm nóng lên.

Ông hỏi tôi về đời sống ở Toronto, chương trình đại học, ông bà tôi. Ông bảo rằng ông tưởng là tôi được nuôi nấng dạy dỗ theo phương thức giản dị và giới hạn.

“Ông nội tôi là một mục sư có đầu óc tự do theo khuynh hướng của Paul Tillich.”

“Còn cô? Có phải là một đứa cháu gái theo đạo Thiên chúa giáo phóng khoáng không?”

“Không phải.”

“Touché. Cô có nghĩ là tôi hơi thô lỗ không?”

“Cái đó tùy. Nếu ông đang phỏng vấn tôi như một ông chủ, thì không.”

“Thế thì tôi sẽ tiếp tục. Cô có bạn trai không?”

“Thưa có.”

“Tôi đoán là ở trong quân đội.”

Tôi nói, ở trong hải quân. Đó là một chọn lựa khôn ngoan, cho phép tôi được nói là tôi chẳng biết anh ra ở đâu và chẳng nhận được thư từ gì ráo. Tôi có thể nói là bạn trai của tôi không được lên bờ.

Ông bác sĩ đứng dậy và mang lại bình trà.

“Anh ta phục vụ trên chiến thuyền loại gì?”

“Hộ tống hạm.” Lại một sự chọn lựa khôn ngoan nữa. Sau một lúc tôi nghĩ là có thể cho chiếc thuyền ấy bị thủy lôi như thường xảy ra với các chiến thuyền loại này.

“Một chiến sĩ dũng cảm. Cô muốn dùng sữa hay đường?”

“Cám ơn, tôi không dùng thứ nào cả.”

“Cách nào cũng tốt vì tôi chẳng có thứ nào. Cô biết không, khi cô nói dối mặt cô đỏ lên.”

Nếu tôi chưa bị đỏ mặt trước đó thì lúc này. Đầu tiên có một luồng nóng chạy từ chân lên, mồ hôi ứa ra trong nách. Mong sao cho cái áo đầm không bị hỏng mất.

“Tôi lúc nào cũng đỏ mặt lên khi uống trà.”

“Ồ vậy à.”

Mọi chuyện không thể nào tệ hại hơn nữa. Vì vậy tôi bình tĩnh lại và tìm cách trả đũa. Tôi đổi đề tài, hỏi ông ta mổ bệnh nhân như thế nào. Có phải ông ta lấy phổi ra ngoài như tôi nghe?

Ông ta có thể sẽ trả lời với một chút chế nhạo, một chút tự kiêu – có lẽ là cách để quyến rũ phụ nữ – và tôi tin rằng nếu ông ta đã làm thế thì tôi sẽ mặc áo choàng lên và bước ra ngoài trong trời lạnh. Và có lẽ ông ta cũng biết thế. Ông bắt đầu nói về cách thức làm xẹp lá phổi nhiễm bệnh lao và tái tạo lồng ngực, giải thích việc ấy như thế nào, mặc dù thật chẳng dễ dàng gì cho những bệnh nhân có phổi bị xẹp. Ngạc nhiên thay, kiến thức này là điều mà Hippocrates cũng đã biết tới. Tất nhiên là việc cắt bỏ thùy phổi cũng đã trở nên phổ biến gần đây.

“Bác sĩ có để mất nhiều bệnh nhân không?” Tôi nói.

Ông ta nghĩ có lẽ đây là lúc có thể đùa một chút.

“Tất nhiên là có. Họ bỏ chạy và trốn tịt trong bụi rậm, không biết chạy tới đâu – có lẽ cũng có người lao thẳng xuống hồ nước – hay cô có ý nói là có ai chết không? Có những ca mổ không thành công. Đúng thế.”

Nhưng những tiến bộ y học cũng đang xảy ra, ông bảo. Loại phẫu thuật mà ông ta đang thực hành sắp trở thành lỗi thời, cũng tương tự như cách thải máu độc để chữa bệnh. Một loại kháng sinh mới sắp được sử dụng có tên là Streptomycin đã được dùng trong một số thử nghiệm. Có một vài vấn đề, thật ra thuốc nào chẳng có. Sự ngộ độc đối với hệ thần kinh chẳng hạn. Nhưng cũng có cách để đối phó với các tác dụng phụ này.

“Khiến cho những bác sĩ thế hệ già như tôi đây bị mất việc.”

Ông rửa bát, tôi lau khô. Ông quàng một cái khăn lau bát quanh thắt lưng tôi để khỏi ướt áo đầm. Khi mọi chuyện xong xuôi, ông đặt một bàn tay lên lưng tôi. Một sức ép mạnh mẽ, những ngón tay xòe ra – như thể đang tiếp thụ từng phần cơ thể tôi một cách chuyên nghiệp. Khi tôi lên giường nằm ngủ vào tối hôm đó tôi vẫn còn cảm nhận được sức ép đó. Tôi cảm được sức mạnh lan từ ngón út đến ngón cái của ông. Tôi thích thú. Điều ấy còn quan trọng hơn là nụ hôn được đặt lên trán tôi sau đó vào lúc tôi bước ra khỏi xe hơi của ông bác sĩ. Một nụ hôn với đôi môi khô lạnh, ngắn, nghiêm trang, được đặt lên tôi với quyền lực chóng vánh.


Chìa khoá nhà ông ta được đặt lên sàn nhà của phòng tôi, luồn qua khe cửa hẹp khi tôi không ở đó. Nhưng cuối cùng tôi cũng không cần dùng tới nó. Nếu có một người nào khác cho tôi một cơ hội như thế tôi sẽ mừng rỡ bắt lấy. Nhất là khi lại có cả một lò sưởi ấm. Nhưng trong trường hợp này sự có mặt trong quá khứ và tương lai của vị bác sĩ sẽ làm cho mọi tình huống trở nên không dễ chịu chút nào và làm cho sự thoải mái bình thường biến mất, thay vào đó là một niềm vui khác, căng thẳng, mệt mỏi hơn là lâng lâng. Ngay cả khi trời không lạnh tôi vẫn không ngừng run lên, và tôi không nghĩ rằng tôi sẽ có đủ tâm trí để ngồi đó mà đọc cho dù một con chữ.

Tôi sợ Mary một ngày nào sẽ tới trách móc tôi đã không đi xem vở kịch của nó. Tôi thầm nghĩ sẽ nói là mình không khỏe. Tôi bị cảm cúm. Nhưng tôi nhớ lại ở nơi đây bệnh cảm là một bệnh khá nguy hiểm, phải mang khẩu trang và bôi thuốc sát trùng, bị xua đuổi. Và rồi chỉ một thời gian ngắn tôi hiểu ra rằng không hy vọng gì giấu được chuyện thăm viếng nhà ông bác sĩ kia. Đó không phải là chuyện bí mật có thể qua mắt người khác ở đây, ngay cả với những người y tá thường không nói gì, hoặc là vì họ quá kiêu kỳ và tế nhị hoặc là những chuyện như thế từ lâu đã không làm họ chú ý. Nhưng mấy cô hộ lý thì trêu ghẹo.

“Cô giáo ăn tối bữa kia có vui không?”

Giọng nói của họ thân mật, ra vẻ tán đồng. Hình như vẻ kỳ quặc của tôi cũng phần nào thích hợp với vẻ kỳ quặc đã trở nên quen thuộc và được trọng nể của ông bác sĩ, vàhọ cho đây là chuyện tốt. Người khác nhìn tôi với cặp mắt kính nể. Bây giờ thì bất kể tôi là cái thứ gì, rõ ràng tôi có thể trở thành một người phụ nữ có bạn trai.

Mary biến mất không thấy mặt đâu cả tuần lễ.

“Thứ bảy tuần tới,” là những chữ ông ta nói khi đặt nụ hôn lên trán tôi. Như thế, trước cửa, tôi lại đứng chờ lần nữa, và lần này ông ta tới đúng giờ. Chúng tôi tới nhà và tôi đi thẳng tới phòng phía trước trong khi ông đốt lò sưởi. Ngồi ở đó tôi nhận ra cái máy sưởi bằng điện.

“Cô đã không nhận lời mời của tôi tới đây đọc sách,” ông ta nói. “Có phải cô đã từng nghĩ rằng tôi chỉ nói cho vui vậy thôi? Tôi bao giờ cũng định tâm thực hiện điều mình nói.”

Tôi bảo ông tôi đã không muốn vào khu phố vì sợ gặp phải con bé Mary.

“Bởi vì tôi không tới dự buổi ca kịch của nó.”

“Sẽ là thế nếu cô cứ phải thu xếp đời mình sao cho phù hợp với con bé Mary,” ông ta nói.

Thực đơn cũng khá giống lần trước. Thịt heocốt lết, khoai tây nghiền, bắp thay vì đậu. Lần này ông ta để tôi giúp việc trong bếp, thậm chí nhờ tôi dọn bàn.

“Cô có thể làm quen với những đồ đạc đâu đó trong nhà. Thế thì dễ hơn cho chúng ta, tôi nghĩ vậy.”

Nói thế tức là tôi có thể ngắm ông ta làm việc quanh cái bếp lò. Sự tỉ mỉ khoan thai của ông, những cử động tiết kiệm, trông đẹp mắtđã làm tâm hồn tôi vừa run lạnh vừa tí tách reo vui.

Chúng tôi vừa bắt đầu ăn tối thì có tiếng gõ cửa. Ông đứng lên xoay nắm cửa và con bé Mary lao ào vào.

Con bé mang một hộp các tông để lên bàn. Nó ném cái áo khoác của mình và hiện ra trong một bộ đồ hóa trang màu đỏ và vàng.

“Chúc mừng ngày Valentine hơi trễ,” nó nói. “Các vị không đến xem tôi trong buổi ca nhạc vì vậy tôi mang buổi ca nhạc lại cho mấy người. Và mang theo một gói quà trong hộp.”

Sự cân bằng tuyệt vời của nó đã giúp nó đứng trên một chântrong lúc đá văng chiếc ủng ra khỏi chân kia, rồi rồi lại chuyển chân và tiếp tục như thế. Nó hất đôi ủng qua một bên rồi bắt đầu đi vòng quanh bàn, hát bằng một giọng thê lương nhưng mạnh mẽ trẻ trung.

Người ta gọi tôi là Tiểu Mao Lương,
Tội nghiệp cho Tiểu Mao Lương,
Dù tôi chẳng bao giờ biết tại sao.
Nhưng tôi vẫn có tên là Mao Lương
Tội nghiệp cho Tiểu Mao Lương

Tiểu Mao Lương yêu dấu ơi là tôi.


Ông bác sĩ đứng dậy khi con bé bắt đầu hát. Ông đứng gần bếp, bận rộn cạo món sườn lợn dính chặt trên chảo rang.

Tôi vỗ tay. Tôi nói, “Trang phục của em tuyệt đẹp.”

Mà quả thực thế. Váy đỏ, váy lót vàng sáng, tạp dề trắng rung rinh, vạt áo thêu.

“Mẹ em may nó đấy.”

“Ngay cả mấy đồ thêu?”

“Đúng vậy. Mẹ thức suốt đêm đến bốn giờ sáng để may.”

Nó đi vòng quanh xoay người qua lại để khoe. Những cái dĩa kêu leng keng trên kệ. Tôi vỗ tay vài lần nữa. Cả hai chúng tôi chỉ muốn một điều. Chúng tôi muốn ông bác sĩ quay người lại và đừng tiếp tục tảng lờ chúng tôi. Ông ta phải nói một điều gì, dù là miễn cưỡng, một chữ lịch sự.

“Và nhìn xem có cái khác nữa,” Mary nói. “Cho ngày lễ Valentine.” Nó mở hộp các tông, những chiếc bánh bích quy Valentine, tất cả được cắt hình trái tim và được trang trí bằngkem đường nhuộm đỏ chót.

“Lộng lẫy thế,” tôi nói, và Mary lại tiếp tục nhảy nhót.

“Tôi là thuyền trưởng thuyền Pinafore
Một thuyền trưởng rất tài 
Tôi giỏi lắm và mọi người hãy biết
Tôi chỉ huy đoàn thủy thủ tuyệt vời.”

Cuối cùng bác sĩ cũng quay lại và con bé đưa tay chào.

“Được rồi,” ông nói. “Thế là đủ.”

Con bé lờ đi.

Thế thì xin vỗ tay ba lần, và thêm một lần nữa,
Cho thuyền trưởng tài ba của thuyền Pinafore …

“Tôi đã nói thế là đủ.”

“Cho thuyền trưởng dũng cảm của Pinafore.”

“Mary. Chúng ta đang ăn bữa tối. Và em không được mời. Em có biết điều đó không? Không được mời.”

Con bé cuối cùng cũng im lặng. Nhưng chỉ một lát.

“Quỷ tha ma bắt ông đi. Ông không tử tế chút nào.”

“Và em cũng không cần mấy cái bánh ngọt đó nữa. Em có thể ngưng ăn bánh ngọt ngay lúc này. Em đang bắt đầu mập ú ra như một con lợn nhỏ.”

Mặt Mary đỏ ửng như sắp khóc nhưng rồi nó nói: “Coi ai đang nói kìa. Ông là đồ mắt lé.”

“Thôi đủ rồi.”

“Nhưng ông đúng như vậy mà.”

Ông bác sĩ lấy những chiếc ủng của nó và đặt ngay ngắn trước mặt nó.

“Mang ủng vào.”

Con bé làm theo, chảy nước mắt và nước mũi. Nó khịt mũi liên tục. Ông đưa cho nó chiếc áo khoác mà cũng chẳng giúp gì khi nó run rẩy rụt tay vào và lúng túng tìm mấy cái khuy áo.

“Được rồi. Bây giờ, em tới đây bằng cách nào?”

Nó không trả lời.

“Đi bộ, phải không? Mẹ của em đâu?”

“Euchre.”

“Tôi có thể lái xe đưa em về nhà. Như vậy, em sẽ không còn cơ hội để trượt xuống bờ sông tuyết và mặc cho mình chết cóng vì nỗi tự thương thân.”

Tôi không nói một lời nào. Mary không hề nhìn tôi. Giây phút ấy quá sốc để thốt lời tạm biệt.

Khi nghe tiếng xe nổ máy tôi khởi sự dọn dẹp bàn ăn. Chúng tôi không kịp ăn món tráng miệng, cũng là món bánh táo nữa. Có lẽ ông không biết bất kỳ loại bánh nào khác, hoặc có lẽ đó là tất cả những gì mà tiệm bánh làm được.

Tôi chọn một cái bánh bích quy có hình trái tim và ăn. Kemmàu trét trên bánh quá đỗi ngọt. Không có mùi dâu tây hay mùi hạnh đào, chỉ có đường và chất nhuộm đỏ. Tôi ăn hết cái này đến cái khác. Tôi biết lẽ ra nên nói lời tạm biệt với Mary. Tôi nên nói cảm ơn. Nhưng thứ ấy chẳng quan trọng gì nữa. Tôi tự nhủ chẳng quan trọng. Màn trình diễn của Mary không phải là cho tôi. Hoặc có lẽ chỉ một phần rất nhỏ là dành cho tôi.

Ông ta thật thô bạo. Điều làm tôi kinh hoàng là ông ta lại thô bạo thế. Với một đứa bé đang cần tình thương. Nhưng ông đã hành xử thô bạo với con bé Mary chỉ vì tôi,có thể hiểu như vậy. Để cho thời gian của chúng tôi không bị lãng phí đi. Ý tưởng này làm tôi vui tôi, tôi thấy thật xấu hổ là nó đã làm tôi vui. Tôi không biết phải nói gì khi ông ta trở lại.

Ông không muốn tôi nói gì nữa. Ông mang tôi vào giường. Tất cả những điều này có phải được tính toán trước hay chỉ là bất ngờ, đối với tôi, đối với ông ta? Sự trinh tiết của tôi ít nhất cũng không bất ngờ – ông ta đưa cho tôi một cái khăn tắm và đã dự trước một cái bao cao su – và ông ta kiên nhẫn tiếp tục việc ấy dễ dàng. Sự cuồng nhiệt của tôi làm cho cả hai ngạc nhiên. Trí tưởng tượng, như ta thấy, cũng là một chuẩn bị tốt đẹp chẳng kém gì kinh nghiệm.

“Anh muốn lấy em làm vợ,” ông ta nói.

Trước khi đưa tôi về nhà, ông ném tất cả những cái bánh, tất cả những trái tim màu đỏ ra ngoài trời tuyết cho bầy chim mùa đông.

Mọi chuyện ổn thoả. Lễ hứa hôn đột ngột của chúng tôi – ông có phần thận trọng khi dùng chữ ấy– là một chuyện riêng tư. Tôi không viết một chữ nào cho ông bà tôi cả. Lễ cưới sẽ được tổ chức khi nào anh ấy có hai ngày nghỉ liên tục. Một đám cưới đạm bạc, anh bảo. Tôi hiểu ý tưởng ấy về buổi lễ, trước sự hiện diện của những người khác, mà suy nghĩ của họ về ông không mấy tôn trọng, những người có thể cười nhạo và bàn tán này nọ, là những điều mà ông không muốn phải chịu đựng.

Ông cũng không mê chuyện nhẫn kim cương. Tôi cũng nói với ông rằng tôi chẳng muốn nhẫn kim cương, đó là sự thật, vì tôi chưa hề nghĩ tới. Ông nói điều đó càng tốt, vì ông biết rằng tôi không phải thuộc loại con gái ngốc ngếch thông thường.

Chúng tôi ngừng ăn bữa tối với nhau, không phải vì cuộc nói chuyện nhưng vì không đủ thịt cá cho hai người với một thẻ khẩu phần thức ăn. Thẻ thức ăn của tôi đã được giao cho nhà bếp – mẹ của Mary – từ khi tôi bắt đầu ăn ở nhà thương.

Tốt hơn cả là không làm cho người ta lưu ý đến mình.

Tất nhiên mọi người nghi ngờ. Những người y tá già trở nên thân thiện và ngay cả Matron cũng mỉm cười với tôi một cách đau khổ. Tôi tự chăm sóc mình một cách khiêm tốn, gần như chẳng chú ý. Cũng không hẳn, đối với tôi những người phụ nữ lớn tuổi kia đang nhìn mình dò xét, xem thử sự thân mật sẽ trở thành điều gì và họ sẽ hành xử thích hợp ra sao nếu lỡ ra ông bác sĩ quyết định bỏ rơi tôi. Chỉ có những người hộ lý là đứng về phía tôi tận tình, trêu ghẹo tôi rằng họ nhìn thấy những lá trà trong cốc của tôi giống hình những cái chuông đám cưới.

Tháng ba nghiệt ngã và bận rộn phía sau cánh cửa bệnh viện. Đó là tháng tệ hại nhất với nhiều rắc rối, các hộ lý nói. Vì một lý do nào đó, người tacứ chọn tháng đó mà chết, sau khi đã trải qua hết những gian nan của mùa đông. Nếu một đứa trẻ không tới lớp học một ngày nọ tôi không thể đoán có phải bệnh tình nó đã tới lúc nguy kịch hay chỉ là cảm lạnh thường. Tôi dùng một bảng đen di chuyển được và viết tên trẻ em quanh các cạnh của nó. Thậm chí bây giờ tôi cũng không cần phải lau đi tên của những đứa trẻ vắng mặt lâu. Những đứa khác làm việc ấy cho tôi, lặng lẽ chẳng nói lời nào. Chúng hiểu những nghi thức mà tôi còn phải học hỏi.

Tuy thế thời gian rảnh rồi cũng đến, để ông bác sĩ dàn xếp đám cưới. Ôngnhét một miếng giấy nhỏ dưới cánh cửa phòng tôi, nói là sẵn sàng trong tuần lễ đầu của tháng tư. Trừ khi có một biến cố lớn, thế nào ông tacũng có đôi ngày nghỉ phép.

Chúng tôi tới thành phố Huntsville.

Chúng tôi phải tới nơi ấy để kết hôn.

Chúng tôi bắt đầu một ngày mà tôi chắc rằng mình sẽ nhớ mãi suốt đời.

Tôi mang một chiếc áo nhiễu đã giặt ủi cuộn lại cẩn thận trong chiếc túi. Bà nội tôi đã từng dạy tôi cách cuộn chúng lại thay vì xếp nếp để tránh những vết nhăn. Tôi nghĩ là tôi phải thay đồ trong phòng vệ sinh phụ nữ khi có dịp. Tôi tìm nơi có những bụi hoa dại dọc đường để có thể làm một bó hoa mang theo. Liệu anh ấy có đồng ý để tôi ôm một bó hoa? Nhưng thời tiết quá sớm ngay cả với cúc vạn thọ đầm lầy. Dọc theo những con đường hoang vắng ngoằn ngoèo, những cây vân sam gầy guộc, những đầm lầy và những hòn đảo nhỏ rải rác. Và đột ngột ngang đường lô nhô những tảng đá đã trở nên quen thuộc với tôi – màu của sắt nhuộm đỏ ửng và đá vân nhạt.

Máy thu thanh trên xe chơi những điệu nhạc khải hoàn, vì quân đội đồng minh đang tiến gần, ngày càng gần thành phố Bá Linh. Ông bác si – Alister – bảo rằng họ đang di chuyển chậm lại để cho người Nga vào thành phố trước. Ông bảo, rồi họ sẽ hối hận vì điều này.

Bây giờ khi chúng tôi đã ở xa thị trấn Amundsen tôi nghĩ là tôi có thể gọi ông bằng tên riêng, anh Alister. Đó là một cuộc lái xe dài mà chúng tôi ngồi bên nhau và tôi cảm thấy hứng chí, thậm chí kích thích bởi tính cách thản nhiên có vẻ không đoái hoài gì đến tôi ở anh – điều tôi biết rằng có thể đột ngột biến thành ngược lại – và bởi tài lái xe điệu nghệ của anh. Tôi cảm thấy phấn khởi vì anh là một bác sĩ phẫu thuật dù rằng tôi chưa bao giờ thú nhận thế. Lúc này tôi tin rằng tôi có thể nằm xuống vì anh ở bất cứ một đầm lầy hay lỗ hổng nào, hay cảm thấy xương sống của tôi muốn gãy trên những mặt đường đầy sỏi đá, nếu anh yêu cầu tôi làm thế. Tôi cũng biết tôi nên giữ cảm giác này cho riêng mình thôi.

Tôi hướng tâm trí mình về tương lai. Khi chúng tôi đến thành phố Huntsville chúng tôi sẽ tìm được một mục sư, sẽ đứng bên nhau trong phòng khách, một nơi có vẻ khiêm tốn dịu dàng như căn hộ của ông bà tôi, hay như những phòng khách mà tôi đã từng biết trong đời mình. Tôi nhớ lại thời gian khi ông nội tôi vẫn được người ta mời làm phép cưới cho dù ông đã về hưu. Bà nội tôi tô một chút phấn hồng lên má, mang ra một chiếc áo choàng xanh sẫm thêu đăng ten, mà bà vẫn giữ kỹ để tham dự những dịp trang trọng như thế này.

Nhưng tôi phát hiện ra là có nhiều cách để lấy chồng, và nmột hiềm khích khác của chàng rể mà tôiđã chưa rõ. Anh chẳng muốn dính líu tới mục sư. Ở tòa thị sảnh chúng tôi điền những mẫu đơn, lập lời thề về tình trạng độc thân của mình, và làm hẹn để được kết hôn bởi một vị thẩm phán dân sự vào cuối ngày.

Thời gian ăn trưa. Alister dừng lại trước cửa một quán ăn có vẻ có bà con thân thiết với tiệm cà phê ở Amundsen.

“Tiệm ăn này được không em?” Nhưng nhìn vào mặt tôi, anh đổi ý.

“Không?” Anh nói. “Được rồi.”

Cuối cùng chúng tôi ăn trưa trong một căn phòng lạnh lẽo, là căn trước của một tiệm ăn có quảng cáo bữa ăn tối với thịt gà. Dĩa thức ăn thì quá lạnh, không có thực khách nào khác, không có âm nhạc trên máy thu thanh, chỉ có tiếng lách cách của dao nĩa của chúng tôi khi hai người bận rộn vất vả cắt miếng thịt gà dai. Tôi chắc rằng anh đang nghĩ là chúng tôi có thể có một bữa ăn tốt hơn ở nơi mà anh đề nghị trước đó.

Dù sao tôi cũng có can đảm để hỏi phòng vệ sinh đàn bà, và ở đó trong không khí lạnh buốt thậm chí còn hơn cả phòng ăn phía trước, tôi mở chiếc áo đầm xanh ra và mặc vào, tô son môi và sửa lại mái tóc.

Khi tôi bước ra Alister đứng đó mỉm cười chào, bóp chặt bàn tay tôi và bảo, em thật đẹp.

Chúng tôi bước ra xe, người cứng lại, tay trong tay. Anh mở cửa xe cho tôi, đi vòng quanh và ngồi vào ghế, xoay chìa khóa xe một vòng cho nổ máy. Rồi tắt.

Xe hơi đậu trước cửa một tiệm bán đồ khí cụ gia đình. Những cái xẻng xúc tuyết bán giảm giá còn một nửa. Vẫn còn treo một cái bảng trên cửa sổ quảng cáo dịch vụ mài sắc bánh xe trượt băng.

Ở bên kia đường, một căn nhà gỗ sơn vàng. Cầu thang phía trước trở nên ọp ẹp và hai tấm ván gỗ đóng lên cửa tạo thành hình chữ X. Chiếc xe tải đậu phía trước xe của Alister thuộc loại xe trước thế chiến, với một cái chắn ở phía sau đã rỉ sét. Một người đàn ông bước ra từ tiệm đồ gia dụng và bước vào xe tải. Sau vài tiếng rú gầm gừ, tiếng lắc cắc, chiếc xe rung lên từng chặp, rồi cũng chạy đi. Kế đến một chiếc xe tải chở hàng với tên của cửa tiệm chạy lại cố gắng đậu vào chỗ vừa trống. Nhưng chỗ đậu không đủ. Người tài xế bước ra, tới gần và gõ lên cửa của Alister. Alister ngạc nhiên – nếu anh ấy không mải mê trò chuyện thì đã nhận ra sự việc. Anh kéo cửa sổ xuống và người đàn ông kia hỏi rằng liệu chúng tôi có đậu hẳn ở đây không nếu muốn mua một món đồ trong tiệm. Nếu không phải thế, làm ơn dời xe có được không?

“Chúng tôi sắp rời đi.” Alister nói, người đàn ông ngồi bên cạnh tôi nói, người lẽ ra sắp cưới tôi làm vợ bây giờ sẽ không cưới tôi nữa, nói. “Chúng tôi sắp đi.”

Chúng tôi. Anh ta nói chữ chúng tôi. Trong một lúc tôi bị ám ảnh về chữ ấy và rồi tôi nghĩ rằng đó là lần cuối cùng. Lần cuối cùng tôi được đưa vào hai chữ chúng tôi.

Không phải là chữ chúng tôi có vấn đề gì, chữ ấy không phải là sự thật. Mà chính là giọng nói giữa cánh đàn ông với nhau mà anh ta nói với người tài xế kia, lời xin lỗi trầm tĩnh và biết điều. Tôi ước gì có thể quay lại vào phút đầu tiên khi anh ta bắt đầu nói, khi anh ta không nhận ra chiếc xe tải đang tìm cách đậu vào. Điều anh ta nói thật khủng khiếp nhưng hai bàn tay nắm chặt trên vô lăng, cái nắm chặt và ý thức trừu tượng của anh ta và giọng nói của anh đều biểu lộ đau đớn. Không cần biết anh nói gì, có ý gì, anh nói từ một nơi chốn thâm sâu, đúng là nơi mà anh đã nói khi chúng tôi nằm bên nhau, làm tình. Nhưng bây giờ thì không phải thế nữa, sau khi anh đã trò chuyện với người tài xế kia. Anh ta kéo cửa sổ lên và tập trung vào chiếc xe hơi, tìm cách đưa nó ra khỏi chỗ đậu khá chật hẹp để tránh khỏi va quẹt vào chếc xe tải kia.

Và chỉ một lát sau tôi cũng có thể đã vui sướng nếu có dịp trởlại giây phút lúc anh rướn cổ lên và quay đầu nhìn đằng sau. Cònhơn là lái xe – anh đang lái xe bây giờ – chạy xuống dọc đường phố chính của thành phố, vì chẳng còn gì để nói nữa hay để tần ngần xoay xở.

Anh không làm được chuyện ấy, anh ta nói thế.

Anh nói thế, bảo anh không thể cáng đáng nổi chuyện này.

Anh cũng không thể giải thích.

Chẳng qua là nhầm lẫn.

Tôi nghĩ tôi chẳng bao giờ có thể nhìn lên dòng chữ vòng vèo trên tấm bảng hiệu quảng cáo nơi mài sắc lưỡi trượt băng, mà không nghe giọng nói của anh ta vang lên trong đầu. Hay những tấm bảng gỗ xù xì đóng đinh bằng chữ X trước cửa nhà màu vàng đối diện với tiệm kia.

“Anh sẽ chở em tới trạm xe buýt bây giờ. Anh sẽ mua vé cho em về Toronto. Anh chắc rằng sẽ có xe lửa chạy về Toronto vào chiều tối nay. Anh sẽ nghĩ ra một câu chuyện rất hợp lý và sẽ nhờ một người nào đó gói ghém đồ đạc cho em. Em cho anh địa chỉ ở Toronto vì anh không giữ. Ồ, anh sẽ viết cho em một cái thư giới thiệu. Em đã làm việc rất tốt. Nhưng dù sao em khó có thể làm việc đến mãn khóa– anh chưa nói cho em nghe nhưng những đứa trẻ sẽ được rời đi. Rất nhiều thay đổi lớn sắp xảy ra.”

Giọng nói của anh trở nên mới mẻ, gần như hoạt bát vui vẻ. Làm như một gánh nặng đã được trút đi. Anh ta cố gắng giữ lại điều ấy không muốn vội vàng để lộ cái thở phào nhẹ nhõm cho đến khi tôi biến mất tăm.

Tôi nhìn xuống đường phố. Một điều gì đó như thể có ai chở tôi đến đoạn đầu đài. Chưa. Chỉ gần đến thôi. Cũng chưa hẳn là lần cuối cùng tôi nghe giọng nói của anh. Chưa.

Anh không cần hỏi đường. Tôi hỏi anh lớn tiếng, liệu có cô gái nào trước đây đã bị anh chở đến xe lửa như thế này chăng.

“Đừng nói thế.” Anh bảo.

Mỗi lần rẽ ngoặt đường là một lần xé rách tươm những mảnh đời còn lại của tôi.

Có xe lửa về Toronto lúc năm giờ chiều. Anh bảo tôi chờ trong xe hơi trong khi tự mình đi vào nhà ga. Anh đi ra với tấm vé trên tay và một vật nhỏ mà tôi nghĩ là nắp hộp quẹt. Anh ta nhận ra điều này vì khi tới gần xe hơi bỗng trở nên lặng lẽ.

“Trời ấm và rất tuyệt ở trong nhà ga. Có một phòng đợi dành cho phụ nữ rất tốt.”

Anh mở cửa xe cho tôi.

“Hay là anh nghĩ anh sẽ chờ cho đến khi em lên xe lửa? Có thể có nơi chúng ta ngồi kiếm một cái bánh ngọt ngon lành. Bữa ăn lúc nãy thật quá tệ”

Câu nói của anh làm tôi tức lên. Tôi bước ra khỏi xe đi thẳng tới nhà ga. Anh đưa tay chỉ phòng đợi của phụ nữ, nhướn mày lên nhìn tôi và cố gắng nói đùa một câu cuối cùng. “Có thể ngày nào đó em sẽ nhận ra rằng đây là một trong những ngày may mắn nhất của cuộc đời mình.”

Tôi chọn một băng ghế dài trong phòng đợi nhìn ra trước sân ga. Nhờ thế tôi có thể nhìn thấy anh nếu anh trở lại. Anh sẽ nói đây là một chuyện đùa, hay là một phép thử, như trong các vở kịch thời cổ đại.

Hay có thể anh đổi ý. Lái xe dọc theo đường cao tốc nhìn thấy ánh sáng mặt trời mùa xuân xanh xám lướt qua những tảng đá mà chúng tôi đã cùng ngồi bên nhau nhìn chúng. Sực tỉnh vì nhận ra sự điên rồ của mình anh vòng xe lại ngay trên đường và lao vun vút trở lại nhà ga.

Một giờ trôi qua trước khi xe lửa Toronto tới trạm, nhưng hình như thời gian thật ngắn. Và ngay cả lúc ấy những giấc mộng hoang đường vẫn cứ lướt qua tâm trí tôi. Tôi bước lên xe mà như gông xiềng kêu lẻng xẻng trên cổ chân. Tôi áp mặt vào cửa sổ nhìn xuống mặt đường khi còi tàu vang lên từng chặp chuẩn bị rời đi. Ngay cả bây giờ cũng không quá trễ nếu tôi muốn nhảy khỏi đoàn xe. Nhảy đại và chạy xuyên qua nhà ga tới đường nơi anh có thể đang đậu xe lại và chạy ngược lên các bậc tam cấp, thầm nghĩ không quá trễ, trời ơi, cầu xin không quá trễ.

Tôi cũng chạy về phía anh ta, cũng không quá trễ.

Và rồi sự chấn động, la hét ầm ĩ, không phải một người mà cả một đám người chạy lăng xăng giữa những hàng ghế. Những nữ sinh trung học, mặc áo quần thể thao, cười rú lên trước sự hoảng loạn. Người tài xế xe lửa tỏ vẻ bực mình và hối chúng ngồi vào chỗ.

Một trong những đứa ấy, có lẽ to tiếng nhất, chính là Mary.

Tôi quay đầu đi và không nhìn chúng.

Nhưng nó chẳng tha, kêu tên tôi rõ to và hỏi cô giáo đi đâu mất biệt thời gian qua.

Đi thăm một người bạn, tôi bảo nó.

Mary nhào tới bên tôi kể chúng vừa đấu bóng rổ với đội bóng của Hunstville. Hỗn loạn ghê lắm. Chúng bị thua.

“Tụi mình thua, phải không?” nó la lớn, rõ ràng là vui vẻ, trong khi những đứa khác rên rỉ hoặc cười khúc khích. Nó bảo tỉ số quá sức đáng xấu hổ.

“Cô giáo mặc đồ diện quá,” nó nhận xét nhưng thực ra không chú ý lắm, lắng nghe lời giải thích của tôi với vẻ hững hờ.

Nó cũng không để tâm khi tôi nói mình đi về Toronto để thăm ông bà. Ngoại trừ nhận xét rằng chắc họ phải già lắm rồi. Không một chữ nào về Alister. Ngay cả một lời tồi tệ. Chắc nó không quên. Chỉ là dọn dẹp, thu cất hoạt cảnh vào ngăn tủ với những hiện thân quá khứ khác của nó . Hoặc con bé không mấy để tâm những tổn thương kiểu này.

Tôi biết ơn nó bây giờ, cho dù lúc đó tôikhông cảm thấy như vậy. Nếu hôm đó chỉ có mình tôi, thì tôi đã làm chuyện gì khi tới Amundsen? Nhảy khỏi đoàn tàu, xông tới nhà anh ta và hỏi cho ra lẽ, tại sao, tại sao. Thật là nỗi xấu hổ suốt đời. Khi đến ga, thời gian tàu dừng chỉ vừa đủ để cả đội bóng tập hợp, đập tay ầm ĩ lên cửa sổ ra dấu cho người nhà đến đón, trong khi người soát vé không ngừng nhắc nếu chúng không mau mau ra khỏi tàu thì sẽ bị chở thẳng tới Toronto.

Nhiều năm tôi vẫn nghĩ có ngày tôi bỗng dưng chạm mặt anh ta. Tôi đã về sống và đến nay vẫn sống ở Toronto. Đối với tôi hình như người nào cũng có lúc về ở Toronto một thời gian. Tất nhiên điều đó cũng không có nghĩa là bạn sẽ gặp lại người ấy, ngay cả khi bạn muốn thế.

Rồi cuối cùng dịp ấy cũng đến. Băng qua một con đường đông đúc nơi bạn không thể nào bước chậm lại. Đi ngược chiều nhau. Nhìn sững, đầy kinh ngạc, gương mặt đã sạm nắng gió, đã lấm tấm màu thời gian của nhau.

Anh ta la lớn, em có khỏe không? Và tôi trả lời tốt lắm. Và thêm, với vẻ tự hào, “Rất hạnh phúc”

Vào lúc ấy điều đó chỉ đúng chung chung mà thôi, chứ thực ra tôi đang có chuyện bực mình với chồng tôi, vì chuyện phải trả nợ nần cho một trong những đứa con của anh ấy. Tôi đã đến một chương trình biểu diễn ở bảo tàng mỹ thuật chiều hôm ấy, để lấy lại thanh thản.

Anh ta gọi lại một lần nữa:

“Mừng cho em.”

Dường như chúng tôi vẫn có thể bằng cách nào đó dứt ra khỏi đám đông, và trong một thoáng sẽ trở lại bên nhau như những tình nhân cũ. Nhưng cũng không kém chắc chắn là chúng tôi mỗi người sẽ đi một đường. Và chúng tôi làm thế thật. Không một than khóc nghẹn ngào, không một bàn tay đặt trên vai níu tôi lại khi tôi đặt chân lên vỉa hè. Chỉ là một chớp sáng mà tôi thấy trong giây phút ngắn ngủi, khi một mắt của anh mở lớn. Đó là con mắt trái, lúc nào cũng mắt trái, như tôi hằng nhớ lại. Và lúc nào cũng lạ lùng, cảnh giác, tự hỏi, như thể một điều gì không thể nào xảy ra đang xảy ra với anh, một điều gì khiến anh gần như phá lên cười.

Đối với tôi dường như chuyện ấy cũng xảy ra lúc tôi rời bỏ Amundsen ngày nọ, chuyến xe lửa kéo tôi ra khỏi nơi ấy, bàng hoàng, ngơ ngác, không tin được câu chuyện của đời mình.

Thực ra chẳng có gì thay đổi về tình yêu.


Nguyễn đức Tùng dịch


--------------------------
Chú thích:

(*) tên một nhà thám hiểm nổi tiếng người Na Uy, Roald Amundsen. Ở Canada, là tên của một địa danh. Phía bắc Toronto có một thị trấn nhỏ có tên như vậy.

(1) San, cách gọi tắt của sanatorium, trại điều dưỡng, ngày trước thường là trại cách ly những bệnh nhân lao.

(2) Trong nguyên tác, tác giả chơi chữ, “tan your hide”. Có sự đồng âm giữa họ cô giáo Hyde và chữ hide trong câu này. Khi dịch, chúng tôi chọn “cô Hai” để đồng âm với Hyde.