có những điều không nói ra, chỉ ghi lại...
pn

Thứ Năm, tháng 2 18, 2010

Yêu (*)



1. 
Cô đến Mỹ như một kẻ bị lưu đày. Trong lúc mọi người vui mừng tíu tít vì được đặt chân đến vùng đất lạ với biết bao điều mới mẻ, cô lại dửng dưng, lạnh lùng, gần như vô cảm. Cô đi, đứng, nằm, ngồi, sờ, mó, ngắm nghía mọi thứ, nhưng tâm hồn cô rỗng không.

Tất cả dường như đều chẳng dính dáng gì đến cô. Ban ngày, cô theo mọi người đi đó đi đây, ăn uống, mua sắm ... như một cái máy. Ban đêm, khi mọi người đã đi ngủ, cô một mình mở cửa bước ra sân sau, nhìn lên khoảng không gian vô tận. Trời đất mênh mông quá. Ngày tháng cũ vời xa thăm thẳm, mất hút đâu dưới khoảng chân trời mờ mịt. 

Hình ảnh Ngà chập chờn vây quanh. Ðôi mắt to, lưỡng quyền cao, những nốt mụn đỏ quanh mũi, mấy chiếc răng cửa lộn xộn, không đều, miệng rộng, chiếc cổ cao có nốt ruồi nằm gần vai, tiếng cười giọng nói rổn rản, hơi thuốc lá và thỉnh thoảng mùi rượu đế. À, cái áo chim cò, hai túi có bách gài, cái hộp quẹt màu xanh lục, những ngón tay dài, nhám, sục sạo như con rắn bò. Còn nữa, chiếc nhẫn Mỹ to, có chữ N nổi ở phía trên. Bữa đó, sau nhiều lần năn nỉ, cô cho Ngà hôn. Thử cho biết. Ngà thở phì phò, nóng hổi bên tai. Cái miệng áp vào má, rồi lên môi. Cô luống cuống, người nóng như lửa đốt. Nhưng thích.

Lần cuối cùng trước khi chia tay, không đợi Ngà đòi, cô kéo đầu Ngà xuống hôn lấy hôn để. Trái với nhiều lần trước, Ngà thụ động, buồn bã, ngẩn ngơ. Ðến lúc giã từ, Ngà không nói gì. Tuyệt không nói gì. Ngà đứng như cái cột trụ xi măng, mắt nhìn cô không chớp. Giờ nhớ lại, cô không hiểu tại sao lúc đó cô đủ can đảm bước đi, để Ngà đứng đó một mình. Vào Sài Gòn, càng gần ngày lên máy bay, cô càng buồn, càng nhớ, càng sốt ruột và âm thầm khóc. Nhưng cô không đủ can đảm quay trở ra như Ngà đề nghị. Cô cắn răng ra đi với gia đình trong một trái tim tan nát và một hy vọng gặp lại hão huyền. Cô một mình, một mình, nỗi sầu trĩu nặng.


2.
Mẹ cô nói: 

"Mẹ biết con buồn. Nhưng rồi con sẽ quên. Mẹ đã từng yêu, nên mẹ biết. Tình yêu đầu lúc nào cũng da diết, sôi nổi tưởng như mất đi, mình không sống nổi. Nhưng tình yêu đầu bao giờ cũng nông nổi. Ngà không xứng với con đâu. Mà rồi hắn cũng quên con thôi."

Cô im lặng. Mẹ bao giờ cũng có lý. 


3.
Cô dấu mẹ gửi thư đều cho Ngà. Cô nói đến nỗi buồn mênh mông của cô trên xứ lạ quê người. Cô nhớ Ngà da diết. Cô vẫn mơ ước được mãi mãi sống bên Ngà. Thiếu Ngà, đời cô vô nghĩa. Lần viết thư nào cũng kèm theo nước mắt. Ngà hồi âm với những lời lẽ yêu đương nồng thắm, những nhớ nhung chất ngất. Ngà nhắc nhở lại từng kỷ niệm. Góc phố, hàng chè tàu, đồi núi, đền đài, quán nước, chợ, tấm hình, chiếc xe đạp, bà mẹ, tấm phản ... Cô như được sống lại hết thảy cả một quãng đời thơ mộng. Cô bồn chồn, rạo rực với những ngày vui không còn nữa.

Cứ nhắc lại mãi niềm thương nỗi nhớ rồi cũng chán, cô đổi đề tài. Cô bắt đầu kể cho Ngà về đời sống ở Mỹ. Lái xe, đi chợ, đi học, bạn bè, tiệc tùng lớn nhỏ. Kèm theo, cô gửi về cho Ngà tấm hình cô chụp trước nhà với hai chiếc xe hơi. Cô mặc váy, mặt mày không lấy gì làm vui lắm. Lại nôn nóng trông thư. Lần này, thư Ngà đến chậm. Đã thế, thư lại ngắn, chưa đầy một trang giấy. Khác với những lần trước, thư toàn là những lời trách móc, than thân trách phận. Cô ngạc nhiên. Cô viết thư về thanh minh cho hoàn cảnh của cô, đồng thời với những lời hứa hẹn. Không hồi âm. Cô viết nữa. Lại không hồi âm. Cô giận, cô hờn, nhưng chẳng biết làm sao được. Xa quá là xa. Ngà mà có ở đây, cô sẽ cắn vào tay anh chàng cho chảy máu mới hả.


4. 
Giận chán, cô tìm cách quên. Một hôm, cô thức giấc nửa đêm, bước ra ngoài, nhìn bầu trời sao và ánh sáng rực rỡ muôn màu của thành phố, lòng cô bỗng hân hoan, phơi phới. Như một phép lạ, cô đã được đến đây, ở đây. Cô đã được hóa kiếp. Nhìn về chân trời, tưởng tượng đó là nơi cô đã từng ở, sao bây giờ xa xăm quá, nghèo nàn quá, buồn quá. Ngà bỗng xuất hiện trong cô bằng một hình ảnh tầm thường, ngớ ngẩn. Áo quần quê mùa, xấu xí. Ăn nói vô duyên. Ðã thế, học hành chẳng ra gì. Tiếng Anh không biết. Nhà cửa nhớp nhúa. Bà mẹ Ngà lại cứ bỏm bẻm nhai trầu, bập bẹ điếu thuốc vấn, trông đến khiếp. Chưa kể muỗi cắn và mùi gì cứ bốc lên hôi hám trong nhà Ngà.

Hôm sau, cô lục thư Ngà ra, xem lại. Những chiếc phong bì nhỏ, xấu xí, những hàng chữ nguệch ngoạc, viết cái địa chỉ Mỹ trật lên trật xuống, chỗ thiếu chữ t chỗ thừa chữ s. Ðã thế, viết qua Mỹ mà trên bì thư lại đề họ trước tên sau, lại còn đủ thứ dấu sắc, huyền, nặng... linh tinh. Tên người ta bây giờ là Phuong Thao Ngo, anh chàng lại cứ đề Ngô Thị Phương Thảo, nghe quê một cục. Nhất là đoạn Ngà nhắc đến cái quán may đầu đường của cô. Qua đây, người ta đâu có còn là con bé thợ may tầm thường, trình độ lớp tám nữa. Bây giờ ta đi học high school cà! Ta nói được tiếng Mỹ cà! Ta còn biết dance nữa cà! Ta văn minh hơn bên đó nhiều. Mai mốt có tiền, ta sẽ về thăm. Ta sẽ ăn mặc kiểu Việt kiều. Ta sẽ tiêu tiền như nước cho bà con xóm giềng lé mắt chơi. Ðâu có như xưa.

Cầm lui cầm tới, ngần ngừ một hồi, cô ném thư của Ngà vào giỏ rác, gần bàn học. Từng cái. Từng cái. Như ném những mảnh quá khứ vô nghĩa. Đến cái ảnh Ngà, cô cũng định ném luôn, nhưng tự dưng, thấy Ngà tội nghiệp. Dù sao, anh ta cũng yêu nàng. Suốt đời, anh ta sẽ bị nhốt trong cái mảnh đất nghèo nàn, buồn bã đó. Thôi, giữ chiếc ảnh để trong album như một kỷ niệm thuở thiếu thời, cũng vui.


5. 
Mẹ cười, nói với cô: 

"Con thấy không, mẹ mấy khi nói sai. Bây giờ con đã thấy rõ chưa. Thằng Ngà tội nghiệp thật, nhưng chỉ là một thằng nhà quê, sao mà cân xứng với con cho được. Ở đây, con xem, khối người, cho con mặc tình lựa chọn. Bạn bè của ba đông, con cái họ cả bầy, đứa kỹ sư, đứa dược sĩ, đứa thầy giáo, đứa chuyên viên ... Con thích loại nào? Theo mẹ thấy, cứ từ từ. Con giao du rộng rãi vào, tìm hiểu đứa này đứa nọ, thế nào chẳng dính được một đứa tài đức vẹn toàn cho ấm tấm thân."

Ừ, thì mẹ đã nói là đúng. Mẹ là mẹ mà.


6. 
Ngà biến mất khỏi cô nhẹ nhàng không ngờ. Như một phép lạ. Như thể cô chưa từng quen. Thỉnh thoảng, có nhớ, thì cũng như cô nhớ mấy đứa bạn vớ vẩn đâu đó ở đầu xóm. Hết nhớ thương, hết ray rứt, mặt mày cô càng ngày càng trắng ra, hồng hào, đẹp đẽ. Cô mặt váy ngắn, váy dài. Cô đi dự "pa-đì", nhảy nhót tưng bừng. Sinh nhật cô, cô xin ba mẹ tổ chức thật lớn, mời cả vài chục người, có giàn nhạc sống, có quay phim, có hát karaoke. Chẳng mấy chốc, cô cảm thấy mình biến thành tiểu thư. Nhớ lại mấy con bạn nhà giàu ở Việt Nam - cái mặt cứ dương dương dễ ghét! - đâu có thấm gì với cô bây giờ. Bọn chúng làm gì có xe hơi, có computer, có TV cái lớn cái nhỏ, cái để trong phòng khách, cái để trong phòng ngủ. Cô tự nhủ, mình cứ ăn cứ chơi, không tội gì mà yêu vội.


7.
Tên là Ấn. Anh ta chẳng có gì đặc biệt, mặt mày thường thường, thậm chí hơi xấu trai. Anh ta có nghề nghiệp, chịu khó làm ăn, nhưng không có gì gọi là giàu có. Khi gia đình cô vừa sang, anh là một trong những người đầu tiên tình nguyện giúp đỡ. Anh bưng ghế, khiêng bàn, chở mẹ cô và cô đi chợ, đưa ba cô đi làm giấy tờ, đi xin trợ cấp. Nhờ đâu làm đó, việc gì cũng chu đáo. Hầu như một hai bữa, anh ghé nhà một lần, ngồi con cà con kê, kể đủ thứ chuyện về nước Mỹ. Mẹ, chị và các em cô ngồi quanh, say sưa lắng nghe. Nhiều lúc, anh ta mang đến một thùng bia, ở lại uống với ba cô đến nửa đêm mới về. Anh biếu nhà cô một cái VCR mới toanh. Rồi thì, khi đồ ăn, khi tiền bill, khi đi shopping..., anh tìm cách trả giùm và không bao giờ lấy lại. Ðặc biệt, anh chiều cô hết sức. Cô muốn gì được đó, kể cả những lúc cô nói đùa.

Mẹ cô bảo:

"Người ta có tình, người ta giúp mình, thì mình cứ nhận cho người ta vui, đâu có sao. Mình mới sang, ai cũng có bổn phận phải giúp đỡ mình. Sau này, có điều kiện, mình trả ơn lại chứ vội gì. Còn nếu người ta có ý định lợi dụng thì cho 'de' luôn, cho đỡ phiền hà." 

Cô cũng nghĩ như mẹ. Vì thế, cô tiếp tục giao du với Ấn một cách vui vẻ, bình thản, không băn khoăn, thắc mắc, đề phòng.


8.
Cho đến một hôm. Lần đó, Ấn mời cô đi ăn và mua tặng cô một chiếc áo ấm đắt tiền. Trên đường về nhà, Ấn dừng xe ở một đoạn đường vắng, xin cầm tay cô. Dễ mà! Cầm một chút đâu có sao. Cô để yên bàn tay cô trong bàn tay Ấn, chợt nhớ Ngà. Ấn bảo Ấn yêu cô, cô nói lửng lơ. Về nhà nghĩ bụng, đâu có dễ yêu thế, anh chàng cho một món quà, rồi tưởng bở! Lần sau, rồi lần sau và lần sau nữa, Ấn tiếp tục mua quà tặng cô, tặng mẹ cô và tiếp tục tỏ tình. Cô tiếp tục lửng lơ. 

Nhưng rồi, đùng một cái, cô để cho Ấn hôn. Anh chàng này học ở đâu mà hôn thiệt lạ, thiệt hay. Hay hơn Ngà. Lại nghe thơm hơn. Cô cuống cuồng hôn trả. Về nhà, cô bửng lửng bơ lơ, đi vào đi ra ngơ ngẩn. Cái anh chàng xấu xí này mà sao đáng yêu thế! Và cô đâm ra yêu Ấn.


9. 
Mẹ nói: 

"Thằng Ấn này không xứng chút nào với con cả. Hắn ở đây lâu thật, có tiền thật, có ơn với gia đình mình thật, nhưng dù gì đi nữa hắn cũng chỉ là một công nhân. Sang tới Mỹ mà lấy một công nhân làm chồng à!"

Nghe mẹ nói thế, cô lại thao thức, băn khoăn. Cuối cùng, như đã từng bỏ Ngà để ra đi, cô quyết định không yêu Ấn nữa. So với lần trước, lần này cô quyết định mau chóng hơn, nhẹ nhàng hơn và ít vướng mắc hơn.

Mẹ cô dặn:

"Con đừng cắt đứt vội, vừa tội nghiệp, lại vừa mất nhờ. Dù sao, hắn cũng có tình hơn mấy đứa khác. Con cứ từ từ mà xa hắn."


10.
Cô nghe lời mẹ dặn.

Từ đó, cô không còn biết yêu nữa! 


Trần Doãn Nho

(*) Tựa đề nguyên thủy là “Quán tính”, lần đầu đang trên Thế Kỷ 21 (1996). Trong bản in này, tác giả nhuận sắc lại và đổi thành “Yêu”