có những điều không nói ra, chỉ ghi lại...
pn

Thứ Sáu, tháng 1 29, 2010

Những Tết năm xưa ở Phan Thiết



Trước giao thừa mỗi năm suốt phần đời lưu lạc, tôi hay quẩn quanh dọc theo con phố nhỏ nơi xóm biển đìu hiu, mỏi ngóng về bên kia bờ Thái Bình Dương, mà hồn rưng rưng thương nhớ Phan Thiết, một miền quê hương ngọt ngào sữa mẹ, thế nhưng với mãi vẫn muôn trùng. Ôi giấc mơ dẫn ta về thôn xóm cũ, những ngày xuân tết vẹn vầy, những niềm vui thơ dại trên từng trang lưu bút của một thời tuổi trẻ đã phai tàn, nay có ai còn nhớ? Bao nhiêu năm qua rồi, mỗi lần tết đến lại buồn, nhất là lúc đứng nhìn mưa phùn nở những giọt trắng, trên từng cánh cúc vàng nơi thềm gió. Ở Phan Thiết năm nao, thường mùa đông không có mưa, nhưng nếu trời trở chứng, trút nhẹ một vài cơn mưa rào, thì đã thấy như xuân đang bắt đầu chum chím trên giậu hoa, ngọn cỏ. Đường phố bỗng dưng được nước mưa lau chùi sạch sẽ nhưng hữu tình nhất vẫn là nụ cười của người Phan Thiết không còn thấy héo hắt, muộn hiền. Những hàng vông, gốc phượng, những chiếc lá me non cũng phe phẩy, mừng rỡ. Tất cả đang cùng xuân mở hội.


* Cái ăn trong ba ngày Tết

Tưởng như cái thị xã nhỏ nhoi này sẽ không bao giờ ngủ được trong khoảng thời gian từ hai mươi tháng chạp cho tới chiều ba mươi tết, vì ai cũng thức để đi chợ. Điều dễ hiểu vì người Phan Thiết quanh năm suốt tháng làm lụng vất vả, từ dân bờ cho tới bạn biển, nhưng khổ nỗi đây lại là xứ ăn chơi, cái nồi cũng bán, cái tơi cũng cầm. Cầm bán để rồi có tiền thì mua hay chuộc lại, lo gì vì Bình Thuận là chốn rừng tiền, biển bạc. Bởi thế cũng đừng ngạc nhiên khi ở đây cái gì cung khác thiên hạ, nhất là những cuộc lễ hội, cúng tế và ăn tết. Chính những nét đặc trưng này đã làm cho người Bình Thuận hãnh diện khi giang hồ khắp chốn, tóm lại đây là cách sống của quê mình, khó cóthể đổi thay.Đi chợ trong ba ngày tết để lo cho gạo nước đầy lu, làm các món ngon vật lạ để ăn cho nhiều và ngon, nên ai cũng thích đi chợ để mua sắm. Trong thời gian này, các lò bánh tráng ở các xã quanh Phan Thiết như Lại An, Phú Long, Tân An... làm suốt ngày đêm, vì khách hàng đặt bánh từ tháng 11 âm lịch. Bánh tráng là món ăn của ngày tết, dùng để cuốn thịt kho măng hay bánh tét, nên ai cũng cần tới. Tại nhà quê, mọi người không mua bánh, mà chí tới lò đặt tráng một hay hai thùng gạo, rồi trả tiền công mà thôi.Từ trung tuần tháng chạp, trong khi tại các phố Gia Long, Đồng Khánh, Đinh Tiên Hoàng, Lê Văn Duyệt... quanh Chợ Lớn bắt đầu có vẻ tết, thì hầu như khắp xóm làng, nhà nhà đều bận rộn đóng cốm hộp, vì đối với phong tục cổ truyền của người Phan Thiết, đây là món ăn đặc biệt để thờ cúng ông bà, trong ba ngày tết. Theo sử liệu thì cốm đã theo gout chân lữ hành của người dân Thuận Quảng, trong bước đường nam tiến. Người dừng lại định cư ở Bình Thuận từ ba trăm nămtrước, thì cốm cũng nương theo và trở thành sản phẩm quen thuộc của người dân miền biển mặn. Tại Bình Thuận, cốm được làm bằng loại nếp ba tháng, một đặc sản của địa phương có hương thơm ngào ngạt, chỉ riêng để đóng cốm hộp. Nếp từ đồng mang về ngay trong tháng 10, để kịp rang thành nổ, như vậy cốm mới kịp tết. Theo các nhà chuyên môn, cũng như các bà nội trợ giỏi, thì muốn cho cốm ngon, ngoài nếp còn phải kể tới bí quyết thắng đường, cùng với một lượng gia vị hỗn hợp gồm có gừng, nho khô, me hay thơm chín. Riêng cái khuôn dùng để đóng cốm được làm bằng gỗ theo hình chữ nhật, nắp và đáy có thể tháo rời ra được. Cốm được bọc bằng giấy màu đủ loại, các mặt có dán hoa hòe rất đẹp Ngày Tết, nhà nào dù lương hay giáo, cốm cũng đều có mặt ở trên bàn thờ. Ăn Tết xưa nay, người Bình Thuận dù túng thiếu thế nào chăng nữa, cũng không dám để thiếu món bánh tét, trước cúng tiên linh, ông bà, cũng là món quà đặc biệt để tặng thân bàng quyến thuộc và ăn chơi trong các ngày đầu năm.Theo sử liệu thì bánh chưng, có hình vuông và dẹp, gói bằng lá dong, rất thông dụng ở miền Bắc.Còn bánh tày hay bánh tét là những đòn tròn, gói bằng lá chuối, rất thông dụng tại miền Nam. Cả hai làm bằng một thứ nguyên liệu giống nhau gồm nếp và nhân thịt, đậu. Cả hai loại bánh trên đều xuất xứ từ thời vua Hùng dựng nước. Ngoài ra còn mang ý nghĩa rất thiêng liêng của tập tính dân tộc, trong đó bánh giày có hình trọn tượng trưng cho trời, còn bánh chưng hình vuông là biểu hiện của đất, nếp cùng nhân đậu thịt mỡ là nhân sinh vạn vật nhưng ý nghĩa hơn hết là các lớp lá bọc bên ngoài với mỹ ý, tất cả cùng đùm bọc lẫn nhau trong mọi hoàn cảnh, dù buồn vui, hạnh phúc hay hoạn nạn. Lại có truyền thuyết cho rằng bánh tét xuất phát từ thời bắc thuộc, dân chúng luôn sống lầm than, nhiều khi phải bỏ làng quê đi lánh giặc. Do không thể nấu nướng lúc lánh nạn, nên đem nấu thành bánh để làm lương thực mang theo hoặc đem dấu dưới mương ao, để khi trở lại làng có thức ăn tránh được nạn đói. Năm Kỷ Dậu 1789, Quang Trung Nguyễn Huệ, trong cuộc hành quân tốc thắng từ Trung ra Bắc, tiêu diệt 20 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu, đã dùng bánh tét làm lương thực trên đường tiến quân. Nhắc đến bánh tét, làm sao quên được những tối cuối năm, cùng gia đình quay quần trước nồi bánh tét sôi sùng sục, vừa châm nước, vừa đảo lộn các đòn bánh trong nồi cho chín đều, thỉnh thoảng lại nhìn về phía cành mai vàng cắm trong bình cổ tại phòng khách, xem đã hàm tiếu hay chưa, cho kịp với nàng xuân nõn nường, kiều diễm đang lồ lộ nơi ngưỡng cửa hạnh phúc, sum vầy.Phan Thiết năm nao tuy không là một nơi chốn phồn hoa đô hội, nhưng vẫn là thị tứ quy tụ người khắp mọi miền, nên chuyện ăn uống trong ba ngày tết rất đa dạng và cầu kỳ, không những trong giới người Việt mà còn có nhiều khác biệt giữa năm bang hội người Hoa sống tại địa phương. Tuy nhiên dù là ai chăng nữa, đối với người Việt, nồi thịt kho với măng khô là quan trọng hơn cả. Với người Phan Thiết gốc Nam phần, thì có nồi thịt kho nước dừa ăn với dưa giá có trộn thêm cà rốt, lá hệ, ớt xắt sợi và cuống củ cải. Thịt được dùng để kho là thứ thịt heo ba rọi, vừa nạc, vừa mỡ. Kho nồi thịt ngon, đòi hỏi phải có kỹ thuật làm bếp giỏi, để sao cho lúc chín phần nạc thì đỏ au đẹp đẽ còn lớp mỡ da nở ra mềm mại. Có như vậy ăn liên tiếp món này trong suốt mấy ngày tết, vẫn không ngán, trái lại nhìn tới đã thấy thèm. Còn phải làm thêm vài hũ kiệu muối với tôm khô, loại lạt muối, để các bợm đưa cay. Còn củ cải thì dùng chung với bánh tét được gói bằng loại bánh tráng mỏng, sản xuất từ các lò Phước Thiện Xuân, Xóm Lụa, Cây Chôm. . . Đối với các gia đình trung lưu, thì các bữa ăn Tết không bao giờ thiếu món khổ qua dồn thịt bầm trộn với tôm quết nhuyễn, tuy vậy nhiều người tin dị đoan, không dám ăn khổ qua ngày tết vì sợ sẽ khổ quá cả năm.Cũng do người Bình Thuận có gốc gác từ nhiều vùng đất nước, nên cái ăn cũng thật phong phú. Với các món ngọt thì không thể nào đếm cho hết, nào xôi vị có pha lá dứa hay lá cẩm. Còn mứt thì đủ loại từ gừng cay, dừa, bí, cà chua cho tới hạt sen... món nào cũng tuyệt diệu. Từ thập niên 70 về sau, người Phan Thiết ít nhà gói bánh ít mà chỉ mua ngoài chợ về để cúng, cùng với các loại bánh in Hải Dương, bánh bò bông, bánh bông lan... Nhưng ăn uống cầu kỳ vẫn là các gia đình gốc Huế hay Bắc, nhà nào hầu như tết cũng có giò lụa, chả quế, giò thủ, thịt đông chân giò hay thịt gà nấu đông. Tuy nhiên hấp dẫn hơn hết là món giả cày. Đây là đặc sản của Bắc Hà, giò heo cạo sạch lông, đem thui, chặt khúc đem nấu với riềng, mẻ... lạ miệng ăn hoài không thấy ngán.Riêng với những người Phan Thiết gốc Hoa cũng có nhiều khác biệt. Bởi vậy đừng tưởng các ông bà Nhiêu Bá, Cẩm Xin, Phúc Châu, Liền Hến, Thiên Sánh Đường, Thọ Như Khuông, Đại An Hòa, Lâm Phùng Xuân... cùng là người Tàu, nên ngày Tết, nhà nào cũng ăn Tết giống nhau. Không đâu, họ ăn uống theo phong tục cổ truyền của cha ông, chẳng hạn người Quảng Đông, ngày Tết thế nào cũng có lạp xưởng thịt heo ướp ngũ vị hương hay loại hảo hạng ướp rượu mai quế lộ, lạp xưởng gan heo, vịt khô loại lạp áp hay bắc thảo và lạp dục, tức là món thịt heo ba chỉ cắt sọc từng dải phơi khô. Vịt khô heo khô sẽ được hấp với gừng lát, là món ăn chính trong ba ngày đầu năm mới. Nét đặc trưng của người Quảng Đông là cúng con gà mái vào lúc giao thừa, còn ngày mùng hai mở cửa hàng thì phải làm gà trắng thiến. Với các nhà giàu, ngày Tết có thêm món bát với bong bóng cá, tóc tiên, hạt sen, nấm đông cô, táo đỏ, củ năng, bún tàu... Để lai rai đưa cay, dĩ nhiên chẳng bao giờ thiếu các món nhắm như tôm khô, hột vịt bắc thảo, củ cải muối và thịt đùi heo un khói. Còn trên mọi bàn thờ thì thế nào cũng có ổ bánh tổ, ngoài bọc giấy điều có in bằng mực tàu mạ hoàng nhũ, các chữ phước hay đại cát. Đặc biệt trong ba ngày Tết, người Quảng Đông không giết vịt vì sợ tiếng cạp cạp, khiến cho việc làm ăn xui xẻo. Đối với người Tiều, nhóm người Hoa đông thứ hai tại Phan Thiết, tuy cùng ở trong tỉnh Quảng Đông nhưng ngôn ngữ của họ lại thuộc ngữ hệ Hạ Môn, Phúc Kiến. Do đó giữa hai nhóm có nhiều khác biệt, nhất là việc cúng kiếng, ăn uống trong ba ngày Tết. Trong khi người Quảng kiêng thịt vịt thì ngày Tết là dịp để người Tiều ăn vịt cho được hên đầu năm. Vịt nuôi tại Tường Phong, Đại Năm, Phú Hội, Phú Lâm, trong những cánh đồng đã gặt xong nhưng chưa cày bừa kịp trong mùa đông xuân. Suốt hai tháng khổ cực, bôn ba khắp các cánh đồng dưới nắng mưa để chăn và vỗ béo đàn vịt hơn ngàn con, kịp đến trung tuần tháng chạp có vịt .thịt để bán. Trong thời gian này, xe thồ, xe lam, đêm ngày từ Phan Thiết tới các lò vịt để mua vịt và trứng. TRONG Cái không khí tĩnh mịch của làng quê, tiếng vịt kêu cạp cạp như tiếng chim cu báo Tết. 

Với người Việt, từ 20 tháng chạp trở đi, nhà nào cũng có sẵn cặp vịt trong nhà với vài chục trứng vịt, để cúng đàn ông táo về trời. Riêng người Tiều, nhà nào trong ba ngày Tết cũng phải có món vịt thịt ram. Vịt làm xong, đem luộc vừa chín, vớt ra, chặt thành miếng lớn rồi bỏ vào trong chảo mỡ đang sùng sục sôi. Riêng nước luộc vịt được dùng để nấu xôi đậu phộng, ăn chung với thịt ram trên. Một số người Tiều lớn tuổi, ngày Tết vẫn còn giữ phong tục dùng các món thịt ngỗng, vịt, đầu heo muối hun khói xác mía. Tóm lại món ăn của người Phan Thiết trong ba ngày Tết thật đậm đà, ngoài những thổ nhưỡng đặc trưng như cốm, bánh rế, bánh tráng mè dày hay bánh căng ăn với cá kho, ta làm sao quên được những ngày tết năm xưa trước 1975, khi nhớ lại bánh tổ chiên, bánh tét giòn, cá thu kho ăn với dưa món. Và còn chả tôm, trẻ nem, giò lụa, bao nhiêu món ngon vật lạ của một thời quê hương hạnh phúc. Tết Phan Thiết vui từ trước những ngày vào Tết, mà chủ đích là rủ nhau đi chợ để mua sắm và ngắm người. Từ 25 tháng chạp, chợ trái cây và hoa đã hình thành trên hai con đường Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt cạnh vườn hoa nhỏ bên hữu ngạn sông Cà Ty. Giáp Tết, hoa từ các nơi trút về vô số kể, như là người Phan Thiết chỉ biết ăn Tết bằng hoa, mặc sức mà lựa chọn. Thôi thì đủ thứ từ loài hoa bình dân như mồng gà, vạn thọ, trường sánh, cúc, thược dược. . . cho tới loài hoa vương giả khét tiếng của Bình Thuận là mai với một màu vàng phớt năm cánh mỏng như lụa, lúc nào cũng rung rung nhè nhẹ như chực cười trước gió xuân.Theo lời ông bà, thì mai là người bạn lâu đời của Phan Thiết, vì vậy mỗi độ Tết về hầu như nhà nào cũng có một cành mai dù mua ở chợ hay lặn lội tới các vùng rừng xa, núi cao, để chặt. Hoa bán thật nhiều nhưng có năm thiếu người thưởng thức, nên vào phiên chợ cuối chiều 30, nhiều loại hoa ế, đã bị chủ vất bỏ lạnh lùng bên vệ đường, mặc cho hoa tàn, cánh rũ. Thật thảm thê thay cho kiếp hoa!


* Hái lộc đầu xuân

Ba trăm năm thành lập, ngoài việc duy trì và bảo quản nguyên vẹn các di tích cổ truyền của vương quốc Chiêm Thành, người Bình Thuận cũng phát huy nền văn hóa Đại Việt mà tổ tiên đã mang đến từ miền Thuận Quảng, qua các công trình kiến trúc dân gian như chùa, đình, làng vạn... dù trải qua bao cuộc bể dâu tang thương của thời cuộc, may mắn vẫn còn tồn tại nguyên vẹn. Chung trong nền văn hóa đặc thù của dân tộc việt, có tục hái lộc đầu xuân rất được mọi người ái mộ. Tại Phan Thiết, tùy theo quan niệm và ý thích, mọi người có thể xuất hành ngay sau giao thừa hoặc sáng mồng một tết nhưng dù chọn giờ nào chăng nữa, thì tất cả cũng không ngoài nỗi ước mơ là sang năm mới được bình an và phát đạt. 

Phan Thiết quê tôi, mảnh đất cuối cùng của miền Trung, chói chang cát trắng và năm tháng chào đón gió biển lồng lộng. Thành phố của cá, mực, nước mắm, dinh vạn, chùa chiền; của hát bả trao, đua ghe, múa rồng, thỉnh ông đi chơi và ăn chơi thoả thuê trong ba ngày Tết. Tất cả bây giờ chỉ còn là một kỷ niệm. Năm nay cũng như bao năm qua, tôi lại ăn Tết xa nhà. TroNG cái rét căm căm nơixứ người, chợt nhớ quay quắt những Tết năm xưa cùng ai lên chùa hái lộc, trong cảnh đêm vắng mù sương, chỉ còn có tiếng sóng biển từ xa vọng về. Tuy khắp thành phố có rất nhiều chùa lớn và đẹp như Chùa Ong, Chùa Bà, Phật Học, Bình Quang, Chùa Cát Vạn Thiện, Vạn Thủy Tú, Nam Nghĩa, Hiệp Hưng, Hưng Long, nhưng vì số người đi lễ chùa và hái lộc quá đông, nên nơi nào cũng tấp nập nam thanh, nữ tú. Quanh năm suốt tháng làm lụng vất vả, việc Tết nhất cũng đã lo xong, nay có dịp đi vãn cảnh chùa, trước để lễ cúng trời Phật, sau tìm một chút an bình cho tâm hồn, bởi vậy ai cũng thích chọn thời điểm giao thừa hay gần sáng cho tinh khiết Tết, nên cái gì cũng thay đổi, trên các nẻo đường xe cộ xuôi ngược đông đảo. Trên vỉa hè cũng đầy người đi bộ, các cô các bà áo dài đủ màu tha thướt, đàn ông con trai thì vận âu phục tươm tất, thình thoảng có vài cụ chít khăn đóng, áo dài the. Nhưng lăng xăng nhất vẫn là lũ trẻ con trong những bộ quần áo mới xúng xính, la hét vui cười, khiến kẻ bàng quan cũng cảm thấy hạnh phúc lây. Trong chùa sáng rực ánh đèn, trong khi người lớn kính cẩn lễ Phật, thì bên ngoài bọn trẻ nôn nao chờ hái lộc. Cây không cao lắm, vừa vặn với tầm tay của một người lớn, khắp nơi tô điểm bằng những bao lì xì đỏ thắm, treo trên các nhánh cây vừa trổ lộc xanh mơn. Nhiều người Hoa ở Phan Thiết năm xưa, khi đi hái lộc đầu xuân tại chùa ông, thay vì hái lá, họ lại mang về nhà hương lộc, tức là những cây nhang dài và lớn vừa cúng ở chùa xong, lúc còn đang cháy dở, mang về cắm ở bình nhang trên bàn thờ.Có còn hay không những đêm giao thừa mộng mơ trên quê hương yêu dấu? Năm mới mặc quần áo mới, đi bên nhau để được em khen là diện ghê, còn em áo dài lụa mỏng ngoài khoác áo lạnh màu thiên thanh, đã đẹp lại càng thêm đẹp, làm sao ai có thể hững hờ? Rồi nay nơi chốn xa, trong khoảnh khắc giao thừa, khi mọi nhà đã cài chặt then cửa, thì ta lại bơ vơ trên thềm năm mới, thương tiếc năm cũ, đưa bàn tay lên cao để tưởng tượng như vừa hái lộc ở một ngôi chùa nào đó tại Phan Thiết. Nhưng hỡi ôi chỉ có mưa bụi bay bay bạc trắng mái đầu.


* Đua ghe ngày Tết 

Con sông Mường Mán bắt nguồn từ núi ông cao ngất trong phần cuối của rặng Trường Sơn, êm đềm xuôi chảy qua các thôn xóm trù mật Mương Máng, Phú Hội, Phú Lâm, trước khi trở về biển rộng tại ghềnh Thương Chánh. Khúc sông chảy qua thị xã Phan Thiết, mang một cái tên rất thân thương, thơ mộng là Cà Ty. Đây cũng là nơi diễn ra các cuộc đua thuyền giữa các vạn chài, trong các lễ hội lớn như vía ông Nam Hái, ngày khai trương mùa cá và tết Nguyên Đán. Từ lâu Phan Thiết đã là một địa danh quen thuộc và nổi tiếng trong nước về ngư nghiệp và sản xuất nước mắm cá biển. Cái tên công ty Liên Thành chẳng những lừng danh trên thương nghiệp mà còn rạng rỡ trong dòng Việt sử cận đại, qua sự liên hệ với phong trào Duy Tân vào những, năm đầu của thế kỷ 20 và trên hết là cái bi sử của một ngôi trường tên gọi Dục Thanh, đầu mối làm cho nhiều người trên đường Trưng Nhị, tán gia bại sản vì bị đuổi nhà. Ba trăm năm qua, ngư nghiệp vẫn là ngành kinh tế quan trọng hàng đầu của Bình Thuận. Nhưng dù dùng thuyền buồm lá buông từ nửa thế kỷ trước hay được trang bị động cơ ngày nay, thì ngư dân vẫn phân chia bang hội rõ ràng như mành đèn Nam Nghĩa, mành chà Thủy Tú, câu khơi Nam Hải, rớ Phú Trinh, câu thúng Đức Long... Các hội trên đều có chùa riêng để thờ ông Năm Hải, gọi là "vạn chài" và mỗi vạn đều có một đội thuyền đua, mạnh nhất là đội Thủy Tú và Nam Nghĩa. Một huyền thoại đẹp có liên quan tới việc đua thuyền là câu chuyện về bà Chút, một nữ mạnh thường quân nổi tiếng tại Đức Nghĩa khoảng 100 năm về trước, đã cưu mang và bảo trợ đội thuyền đua của vạn Nam Nghĩa, vì vậy sau này, mỗi lần ra quân, đội này thường bơi quanh một vòng trên sông Cà Ty, nơi ngôi nhà cũ của bà, để tưởng niệm một tấm lòng vàng đã giúp cho họ đoạt được nhiều giải thưởng. Đua thuyền là một sinh hoạt văn hóa độc đáo tại nhiều nơi trong nước ta, vừa mang tính cách lịch sử như đua thuyền tại Bạch Hạc, Vĩnh Yên hay trong các địa phương tại Nam Phần có người Việt gốc Miên sinh sống. Tuy nhiên phần lớn việc đua thuyền hướng về sinh hoạt tôn giáo, nơi các thị tứ, làng mạc sống bằng nghề đi biển, thờ Nam Hải Đại Tướng Quân, chạy suốt miền duyên hải, từ Hà Tĩnh vào tới Hà Tiên. Theo quan niệm của người Bình Thuận, đua thuyền là với mục đích làm lễ dâng cúng vị thủ thần, cầu cho được mùa, biển yên sóng lặng, cá tôm luôn đầy khoang thuyền, đồng thời cũng để siêu linh tịnh độ những hồn oan đã chết yểu nơi sóng nước vì thiên tai, bão tố và thủy quái. Bởi vậy trước khi khởi cuộc đua, Dinh Vạn nào cũng mở rộng cửa để làm lễ dâng hương cúng thần, tiếp theo là rước thuyền từ trên bộ tới bờ sông Cà Ty, do các bạn bơi mặc đồng phục khiêng. Đám rước có chiêng trống, cả đoàn hò bả trao rất uy nghi và sôi động. Đua thuyền là một nghệ thuật, nhưng yếu tố thành bại lại do kỹ thuật quyết định, tức là thuyền đua và người chỉ huy thuyền. Không giống như thuyền đua từ Đồng Hớt, Quảng Bình ra tới Bắc Hà, thuyền đua đóng theo thuyền rồng của vua chúa ngày xưa; thuyền đua của người Bình Thuận được đóng bằng gỗ bằng lăng nhẹ, thân thuyền dài, mũi nhọn, lái thon; nhìn toàn thân chiếc chuyền tựa như một cánh thoi đang nhẹ lướt trên khung cửi, để có thể bất chấp nước chảy xiết và gió ngược. Các dụng dụ để bơi như dầm phách, dầm ngang, dầm xéo cũng được đẽo bằng gỗ bằng lăng, nhưng quan trọng nhất là cây chèo dài của người chèo dọc phải làm bằng loại gỗ đặc biệt, có sức uốn mạnh và chịu đựng dẻo dai khi tới các khúc cua ngặt nghèo.Thuyền được sơn phết rất đẹp, riêng cặp mắt được kẻ theo mắt chim phượng, đuôi đài con ngươi tròn viền trắng, tạo cho chiếc thuyền đua cái khí phách hiên ngang của một con kình ngư vẫy vùng nơi biển cá. Thuyền tốt nhưng các trao thuyền không thiện nghệ thì kết quả vẫn bị thua cuộc. Đây chính là lý do tại sao các lần đua thuyền trước năm 1975, giải nhất luôn luôn về Vạn Thủy Tú hay Nam Nghĩa, còn hai vạn Hiệp Hưng và Hưng Long thì luôn luôn cầm đèn lái, vì các đạo của hai vạn trên đều thiện nghệ, có luyện tập thường xuyên, người chèo dọc cầm lái thì dạn dày sóng nước, đầy kinh nghiệm điều khiển con thuyền ngoài trùng khơi cũng như tại cuộc đua. Về sau, hội đua thuyền được mở rộng khắp tinh BÌNH THUẬN chứ không còn thu hẹp trong phạm vi Phan Thiết, dù địa điểm thì vẫn trên sông Cà Ty, nhưng các đội dự thi, ngoài bốn vạn chính, còn có các hội tại Hàm Tân, Phú Quý, Tuy Phong, Mũi Né về tham dự, nên cuộc đua rất hào hứng, làm cho ngày Tết thêm khởi sắc. Đây cũng là dịp để mọi người quên hết muộn phiền đeo đẳng cả năm vì chén cơm manh áo. Lại một tối ba mươi buồn sắp đi qua, một đêm giao thừa của năm đầu thế kỷ 21, đầy nhiễu nhương và máu lửa. Trong giây phút thầm lặng trước ngưỡng cửa đời, bỗng dưng buồn rầu tự hôi, biết đến bao giờ ta mới chấm dứt được cái thân phận không nhà, không cửa, phải khóc thầm nơi chốn quê người, yên lặng nép mình dưới các hàng hiên bên hè phố, trong bóng tối của đêm ba mươi Tết, để tưởng tượng ở chốn xa, miền quê hương Phan Thiết, trong cái khoảnh khắc năm cũ sắp qua, gia đình mình cũng đang cài chặt then cửa, sửa soạn đón năm mới. Không biết trong cái hạnh phúc gia đình, có ai còn nghĩ tới người ngoài quan tái?


Mường Giang
(Trích tạp chí Làng Văn)