Hai người lặng lẽ vượt qua dòng suối cạn, người cao qua trước đứng lại ngó người bạn còn ở dưới dòng nước trong vắt vẻ tần ngần, dòng nước trong nhìn rõ những viên sỏi nằm đan dưới đáy, khoảng trời nhỏ chạy theo với con suối, hai bờ rừng già cao những thân cây cao ngất khiến cho bầu trời trước mắt nhìn ngước lên như một cái vòm hút sâu, mặt trời đã xế nhưng trời xanh trong không một gợn mây, những ngọn cây đứng im trên cao đó, phía đầu nguồn sương rừng đã xuống một màu lam mơ hồ quyện lấy những lùm cây xa, lắng trong không gian chừng như tiếng chim rừng về chiều từ xa đang vọng lại. Người cao nói với xuống:
Người dưới dòng vẫn tần ngần ngắm những viên cuội dưới đáy suối, ánh nước trong khiến cho những viên sỏi có những màu sắc kỳ lạ, người đó bỏ tay xuống mặt nước khua động, vẻ thảnh thơi như không quan tâm tới người chờ đợi. Lúc sau khi người trên bờ đã ngồi nghỉ nơi phiến đá, người dưới nước mới lên, nước còn đọng trên mặt, trên tóc, trên chân, người đó nói:
- Tôi sợ nước độc, trời chiều hơi lạnh nếu không tắm một cái thì mới thú…ai muốn tắm mát thì lên ngọn sông Đào, muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh… Rừng xanh thấy rồi mà sim chín thì không…
- Lúc nào cũng như du sơn du thủy không bằng, định ở đây chờ cọp nó đến ăn thịt hay sao đây.
- Yên chí đi, mệnh bọn mình to lắm, người còn chưa ăn được nữa cọp.
Người thấp vừa nói vừa cười vẻ sảng khoái, tiếng cười vang động cả khu rừng yên tĩnh trong buổi chiều sương lam đang xuống. Người cao đứng lên khỏi phiến đá, mùi hoa rừng hoang dại thoang thoảng trong không khí, men theo những khe đá nhỏ, người cao lần bước không nói một tiếng, người thấp theo sau nhưng chốc chốc ngừng lại hái những bông hoa mọc bên khe đá với vẻ trìu mến. Lúc sau người thấp mới bắt kịp người cao :
- Chừng bao lâu nữa mới tới được chỗ ngừng chân ? Tôi nghe đói nữa , không có gì ăn thì nguy hiểm lắm.
- Cứ thơ thẩn chút nữa đi,khỏi cần ăn để mình làm mồi cho cọp có hơn không ?
- Sao anh biết trong khu này có cọp, khu rừng dữ gì mà dễ thương thế, cây cao bóng cả, suối trong mát, chim kêu vượn hót, hoa cỏ kỳ diệu, ước cho mình được sống mãi trong khung cảnh như thế này… Tiếc là xưa kia tôi không được biết rằng trên nước non mình có những nơi kỳ thú như thế… Mình sẽ tới đâu ?
- Tới nhà một người, tôi tin rằng tới đó anh sẽ không còn muốn đi đâu hết, xưa kia tôi đã sống ở đây…
Hai người lặng lẽ bước, đã qua hết khoảng trời trống ven suối, thoát khỏi những tảng đá chồng chất lên nhau, nhưng bây giờ hai người đã phải bước vào bóng tối nhòa nhập trong khu rừng cao. Những thân cây lớn thẳng tắp nhìn lên mỏi cổ, tất cả như có một bàn tay sắp xếp thứ tự một cách mỹ thuật, màu mộc cũ của những thân cây chen vào nhau, không có một cành nào ngang trên lối đi. Hai người đều cảm thấy mình nhò bé trong rừng cây. Tiếng những bước chân lạo xạo trên lá khô tạo thành môt âm thanh vui tai. Người thấp nói:
- Tôi cảm thấy lạnh… có lẽ trong khu rừng này không hề có bước chân người đặt đến ?
- Sao lại không, anh quên rồi sao, xưa kia đã có lúc tôi sống ở đây, anh có muốn tôi chỉ từng cây cho anh thấy không, tôi có thể đảm bảo trong khu rừng này, từ giữa ngọn suối nơi mình đã qua cho tới đây bao nhiêu cây cổ thụ. Hơn thế nữa, có người còn biết rõ từng thân cây lớn bao nhiêu, cây nào đáng được dùng vào việc gì…
- Thôi chứ...anh mà còn đùa tôi nữa ?
- Anh không tin tôi sao ? Tôi không biết mà sao dám dẫn anh đi, anh nhớ lại xem, từ trên đó ngay từ khi mình bắt đầu tôi đã nói với anh biết rồi, đi trong bao lâu thì hết khu đồi chè, hết bao lâu ngừng qua quốc lộ, bao lâu tới dòng suối, từ dòng suối phải đi…
- Thôi anh khỏi nói, tôi nhớ ra rồi, nhưng tôi vẫn thắc mắc không biết anh đang tới đâu, mình có dẫn nhau vào trong một ngôi nhà đá nào không đó ?
- Không có ngôi nhà đá nào hết, có một ngôi nhà tranh… Thôi đừng hỏi nữa, phải tin tôi chứ, mình sẽ tới…
Khu rừng cao ấy không có dày, chỉ trong một khoảng ngắn hai người đã ra khỏi khu rừng, nhìn lại, những thân cao dựng đứng như một tường thành được xây bằng đá trắng đã có rêu phong của thời gian. Trên cùng những ngọn cây màu lá xanh dặm mỏng. Chưa bao giờ mình được thấy một khu rừng như thế, người thấp vừa nghĩ ngợi vừa bước đi, đôi mắt vẫn không ngừng quan sát cảnh vật biến đổi không ngừng trên đường, mũi cũng như cố gắng tận dụng mọi khả năng thở hít cái không khí kỳ bí ngây ngất cuả thiên nhiên...Nếu được tới, được sống trong khung cảnh như thế này, không biết tới bất cứ điều gì, không gặp, không nói với ai… Chợt người thấp ngừng lại ngạc nhiên, cả hai người đã tới một bên sườn đồi dốc, phía dưới một thung lũng đầy sương, những vạt sương trắng đục như mây di dộng với những cơn gió một vẻ hư ảo, dưới đó là một thung lũng hay một vực thẳm. Cảnh vật nhờ nhờ trong ánh chiều yếu ớt càng khiến cho khung cảnh có một vẻ vừa thơ mộng vừa rê gợn. Người cao nói :
- Anh nghĩ dưới làn sương đục kia là gì, suối, vực hay thung lũng…
- Tôi chịu, ở đây làm gì có người, anh có nhầm lẫn không đó, tối rồi mà mình còn ở một nơi như thế này, tôi bắt đầu thấy lo…
- Cùng lắm thì ngủ ngoài trời này, người còn không sợ lại sợ thú dữ sao ?
- Nhưng nếu trời mưa, đêm chắc lạnh lắm ?
- Mưa với lạnh thì ăn thua gì,anh không nhớ những ngày ở trên đó sao, cái hồi bọn mình trong cái hang đá đó, thế mà cũng chẳng chết, chẳng lẽ bây giờ lại chết ở đây, cứ yên đi, tối nay mình sẽ có rượu ngon uống, có thể có thịt rừng nữa…
- Thế còn cái món mỹ nhân… bao lâu rồi không còn được thấy bóng một giai nhân… bàn tay mềm mại, hương tóc hăng nồng…
- Nghĩ tới những điều đó chắc anh hối hận theo tôi.
- Cũng có lúc tiếc, nhưng điều đó không bao nhiêu, tôi hỏi anh, trong những lúc như lúc này mà anh không nghĩ tới một điều nào khác sao, không mơ mộng sao, tôi cũng có lúc nhớ nhà, tiếc cảnh cũ nhưng đâu phải vì thế mà tôi không làm những chuyện khác, con người ta đâu chỉ có một đời sống, những lúc hăng say trong công việc tôi chỉ thấy công việc, nhưng những lúc mình phải trốn chui trốn nhủi, những lúc thất thế, hay những lúc như lúc này thì tôi nghĩ đến những điều khác, chắc anh nghĩ tôi xuống tinh thần phải khộng. Chừng như anh lúc nào cũng nghĩ tới thành công, tới lúc phất cao ngọn cờ trở về, nhưng anh cũng biết đó, trong mưu sự đâu phải ai cũng thành công, bao nhiêu người bỏ mình trong tù ngục, gục ngã trên biên giới, và những trở về lầm lũi…
Giọng người thấp bùi ngùi, người cao không nói đi men xuống sườn đồi :
- Thôi anh đừng nói nữa, chúng ta phải qua bên kia thung lũng.
Hai người đi lần xuống, mây tạt ngang qua mặt, gió lạnh buốt, họ tưởng như lạc vào cõi u minh nào. Nhưng chỉ xuống thấp một khoảng thì họ đã ở dưới những lớp mây trắng, thung lũng quá sâu, dưới đó những ngọn đồi thấp nằm bên nhau trông rất ngoạn mục. Người thấp ngạc nhiên không nghĩ được rằng mình đã từ trên rất cao đi xuống. Ánh sáng trong thung lũng có một vẻ đặc biệt, màu trắng nhợt nhạt, như thứ ánh sáng của đêm trăng suông, mùi hoa dại đầy ắp trong không khí lạnh, trên cỏ long lanh những hạt sương. Những ngọn đồi cỏ cao, hoa cỏ màu gụ rung rinh theo chiều gió như mặt nước sóng sánh dưới ánh trăng. Chợt người thấp kêu lên:
- Có người ở đây…
Người cao không nói, bước đi, họ vượt qua một khe nước nhỏ, qua một ngọn đồi cỏ chỉ cao lưng ống chân, những hoa cỏ may vượt cao , bây giờ nhìn lên cao bầu trời như bị úp bởi một màng lưới trắng muốt, hai người qua ngọn đồi, vượt thêm một khe nước nhỏ thì tới ngọn đồi có một căn nhà nằm trên đỉnh giữa mấy ngọn thông già, trông từ xa như một bức tranh Tàu cổ, nhưng lại gần thì càng ngạc nhiên hơn, cả ngọn đồi nhỏ không có một cây cỏ nào, toàn thể là một vườn hoa hồng bao la, một vườn hồng chỉ còn để lại một lối đi lớn vào giữa cửa nhà và những đường nhỏ chung quanh, trên những lối đi ấy , những khoảng trống có những chiếc bàn và ghế bằng những phiến đá lớn. Hương hồng tỏa ngát trong không khí, thật sự người ta không thể tưởng tượng được rằng cỏ khung cảnh như vậy ở giữa chốn rừng sâu.Hai người bước lên lối đi, một lớp cỏ rêu xanh mướt bằng phẳng, bao nhiêu công phu để làm được một lối đi như thế, hai bên những cây hồng đầy hoa đỏ thắm, những bông hoa lớn nhỏ tươi mướt như nhung, trông những bông hồng đó ai cũng muốn hái nhưng tiếc rẻ nghĩ tới khi bông hoa tàn rụng… Đi hết con đường hai người ngừng lại trước sân nhà hình vuông, sân được dát những miếng đa xanh có gân trắng, trên những khe cỏ rêu xanh mọc, dưới gốc hai cây thông già uốn khúc có bể nước xây bằng đá, bên đó có những phiến đá mặt phẳng để không đều nhưng đủ là một chỗ ngồi trò chuyện cho một ít người, trước khung cảnh người ta nghĩ tới một nơi thờ tự trang nghiêm hơn la nơi có người ở. Ngôi nhà nhỏ được làm trên một nền cao có hiên , vách nhà bằng gỗ trông thô sơ đơn giản, những chiếc cột được làm nguyên bằng thân cây không hề bào chỉ bóc bỏ lần vỏ ngoài, hiên chạy chung quanh nhà, mái nhà lợp bằng lá gồi đan cẩn thận. Phía đầu nhà bên trái có một cái hiên làm dài ra ngoài cùng với nền nhà, nơi giữa hiên có một bàn cờ tướng, số quân cờ không đủ gây cho người nhìn thấy rõ như ván cờ đang đánh dở. Cả hai người không nói một tiếng cùng nhau quan sát, chỉ người thấp là nhiều lúc kêu lên ngạc nhiên. Người cao bước lên hiên nhà đẩy cửa bước vào. Bóng tối dầy đặc ở bên trong, chừng như không còn ai ở lại trong nhà, người cao ngừng lại nơi bậc cửa :
- Cố nhân, cố nhân, có đàn em đến tá túc…
Tiếng gọi vang lên rất lâu không nghe thấy tiếng người trả lời. Hai người bước vào trong nhà chỉ có một mùi ẩm mục, trong bóng tối có lúc những mạng nhện quấn vào mặt như một bàn tay vô hình nào. Người cao nói :
- Anh ấy đã không còn ở đây nữa.
- Ai vậy, sao anh biết ở đây có người ?
- Người anh cả của tôi, tôi đã có dịp ghé đây hồi trước, cũng năm năm trời rồi…
Hai người đứng lại, người thấp thấy rợn người vì sự im lặng và ẩm mốc bao quanh, căn nhà như một ngôi nhà mồ không có một chút sinh khí.
- Mình phải bật lửa lên.
Vừa nói người thấp vừa bật hộp diêm giơ lên cao. Căn nhà vẫn còn nguyên như ngày nào. Một cơn gió lạnh thổi thốc từ nhà sau lên làm ngọn lửa phụt tắt.
- Thôi đừng bật lửa, tôi đã nhìn thấy ngọn bạch lạp nơi trường kỷ rồi.
Người cao nhắm vào hướng ngọn bạch lạp đi tới, rồi trở lại, que diêm được bật và châm vào, ánh sáng vàng soi căn nhà. Những vách ván màu gụ, chiếc bàn nhỏ bên tay trái với hai chiếc tràng kỷ đơn giản nhưng bằng một thứ gỗ quý đen bóng, một cửa thông vào phía trong, trên vách bên phải treo một cây cung có ở bên một cụm lan lớn cành lá và hoa đã khô. Người cao đứng lặng, ngó ngàng chung quanh, vẫn còn đó những bàn ghế, đồ đạc… nhưng đã không còn người xưa. Anh ấy đã đi đâu ? Con đường đưa lên biên giới với những mưu đồ cháy đỏ thời trẻ ? Giấc mộng chập chờn say đắm của cuộc tình ngày trưởng thành thơ mộng ? Con đường mòn nhỏ trong rừng thẳm với những bông la rừng diễm lệ, hay con hổ bạch lùng kiếm ngày nào trở lại với tiếng hú rung chuyển rừng xanh đã kết cục một cuộc sống những say đắm chết ngất như đỉnh trời cao rực rỡ một tuyệt đối…Khuôn mặt vuông vức, chiếc cằm những chân râu cứng, đôi mắt lớn màu hạt dẻ tinh quái, mái tóc hoa râm dấu tích những ngày tháng lận đận, tiếng nói sang sảng…Tất cả đã vắng, đã khuất… còn Đồi Hồng đỏ thắm, suối Hoàng Mai trong vắt, hiên Ngạo Thiên đầy ắp gió trăng… Trông bạn sững người khiến người thấp cũng không dám cất tiếng, ngọn bạch lạp cháy bập bùng theo cơn gió lộng… Hai người bước vào nhà trong, ngọn bạch lạp trên tay đưa về phía trước, gian phòng lạnh trống, chiếc giường làm bằng gỗ quý rộng mênh mông nằm ép vào một bên ván, án thư không còn một cuốn sách chỉ có vô số những hòn đá đủ màu, đủ kiểu và những khóm lan khô, cây trầm dựng nơi góc vẫn còn nguyên vẹn. Người cao bước tới bên giá súng săn đã gỉ sét, người thấp cầm lên tay ngắm nghía rồi bỏ lại chỗ cũ. Người cao bước tới tủ áo, mở cánh cửa, tiếng kêu nghe khô khan. Một bộ quần áo ngủ còn treo trên giá nguyên vẹn. Mùi ẩm mốc đầy trong gian nhà, người cao động vào bộ quần áo, với ý định gỡ ra thì vải mục rớt xuống tan ra như một đống giẻ vụn, người thấp kêu lên, người cao sững sờ, hai người tưởng như mình đang sống trong một giấc mơ kinh dị, hay đang ở trong một ngôi nhà ma quái… Người cao bước tới mở hai cái chum lớn thi thấy lương khô vẫn còn đầy…
- Anh ấy đi đâu rồi, đằng nào thì mình cũng phải ở lại đây đêm nay, mình phải kiếm cái ăn đã, tối đến trời lạnh lắm, phải nhóm lửa lên…
Người thấp nghe theo, người cao bước tới góc nhà chất củi vào nơi hỏa lò rồi mồi lửa, gỗ thông bắt cháy nhanh chóng, trong chốc lát căn phòng sáng rực , hơi ấm tỏa ra đánh tan khí lạnh.Người cao kéo hai chiếc ghế dựa thấp lại gần bên hỏa lò, trên khúc gỗ lớn vẫn còn lại chiếc bình hoa bằng sành màu gụ, không có một bông hoa, người cao đứng lên trở ra vườn hái một bông hồng vào cắm lên đó. Bông hồng dành cho công chúa. Người cao nhớ tới câu người xưa vẫn nói vào mỗi buổi sớm mai khi chiếc bình được thay nước và cắm vào một bông hoa mới, ngày nào cũng chỉ có một bông hồng độc nhất trong gian nhà. Bông hồng dành cho công chúa. Nhớ lại điều đó khiến người cao mỉm cười. Những miếng khoai ngô được sóc vào những chiếc que hơ lên than hồng, mùi thơm dễ chịu. Người thấp nói :
- Phải chi bây giờ có một bình rượu thì hay biết mấy, cái chum thịt rừng khô này thật là hấp dẫn.
- Ý kiến thật hay, hy vọng rằng còn lại đâu đó một bình rượu cúc của chủ nhân.
Vừa nói người cao vừa đứng lên tiến tới vách ván ngăn nhà ngoài với nhà trong, nơi đó có những thân cây vừa phải ghép liền với nhau, mỗi thân cây đều có khoét những khoảng trống, trong đó để những bình rượu bằng sành, mở hết bình này đến bình khác đều thấy nhẵn không còn mùi rượu nữa. Người cao nghĩ thầm chắc những bình đã được uống cạn trước khi lên đường. Sau rồi người cao không mở bình nữa, chỉ cầm lên lắc nhẹ rồi bỏ xuống. Khi nhấc tới bình ở trên cao nơi khoảng giữa thì người đó kêu lên vẻ hoan hỉ :
- Có vậy chứ, trong gian nhà này có bao giờ hết rượu đâu. Cón một bình hoàng cúc đây.
Mang lại bên đống lửa, người cao mở bình rượu, mùi thơm choáng ngợp cả gian nhà.
- Đúng là hoàng cúc, đây là thứ mà chủ nhân thường dùng.
Cầm bát sành phủi qua, người cao rót đưa cho người thấp :
- Chưa uống mà đã muốn say, anh có thấy vậy không ?
Người thấp đưa bát rượu lên môi, xuýt xoa rồi đưa lại cho người bạn, đầu gật gật vẻ hài lòng :
- Quả là mỹ tửu… tôi có cảm tưởng rằng chính anh là chủ nhân ngôi nhà này. Kiếm ở đâu ra mà có thứ rượu lạ vậy…
- Chưa phải là một đâu, ở đây còn nhiều thứ nữa, nhưng chừng đều đã cạn, chủ nhân lúc trước nói với tôi có trên một trăm thứ rượu khác nhau, nhưng đâu phải rượu nào ai uống cũng được, phải tùy tuổi tác, tùy người nữa, bọn mình thì chỉ nên uống tới hoàng cúc , hồng ngọc, lệ lan là cùng, còn những thứ bạch thảo, quỳnh vân thì bọn mình chưa đáng để uống…chủ nhân nói với tôi muốn chuyện uống rượu phải được nâng lên như một thứ tửu đạo, ngày trước tôi được uống một ly nhỏ bạch thảo mà cơn say kéo dài trong bảy ngày, một cơn say thần tiên siêu thoát, rượu được cất bằng một thứ cỏ trắng lấy trên một ngọn núi cao phía trong rừng sâu, chủ nhân cũng cho tôi một nắm cỏ này, mùi thơm, cọng lớn hơn que tăm có những đốt, thân và lá trắng như ngó, bỏ vào miệng nhai có chút chất ngọt mát, những cỏ ấy mọc dưới những khe đá, phải mất nhiều công phu mới ủ và cất được thành rượu, điều này tôi không biết gì hết…Trong những thứ rượu dễ cất nhất là hoàng cúc, nhưng chủ nhân cũng khó khăn trong việc chọn lựa hoa trong khi ủ men, bỏ ngọn đồi này, qua một khe nước, qua một ngọn đồi nữa chúng ta sẽ tới một khu đất khô cằn, khí hậu nóng hẳn, ở đó là một cánh đồng cúc vàng rộng mênh mông, khi muốn cất rượu hoàng cúc chủ nhân chuẩn bị khi mùa nắng bắt đầu, vào giữa mùa khi đất đã khô, vào buổi sáng tinh mơ chủ nhân tới đó chọn những bông hoa cúc mới hé nhụy trong đêm mà hái, công việc hái cúc phải hoàn tất trước khi có ánh nắng mặt trời, như thế hương cúc còn nguyên, ong và bướm chưa hề hút nhụy… Anh thấy đó, cái gì mà không là công phu,thực sự tôi chưa đến tuổi, không đáng mặt để nói về rượu, cái gì cũng có cái nghệ thuật, cái đạo của nó… Tiếc thay, anh ấy nếu còn ở đây thì vui biết bao, cũng đáng tiếc cho riêng anh nữa.
Người thấp đưa một miếng cá khô nướng cho bạn, anh ta lắc đầu :
- Hoàng cúc là phải uống suông, không thì nhấm chút trái cây, hay mấy cành hoa hồng là phải phép nhất, rượu này không phải để uống với cá thịt, có vậy mới giữ được cái hương thơm tinh khiết của nó…
- Tôi còn trần tục lắm, không thể theo anh, tôi vẫn nóng lòng muốn biết về chủ nhân Đồi Hồng và căn nhà này ?
- Tôi biết anh thắc mắc. Thực ra thì cũng không có gì. Tôi xin gọi người đó là anh cả. Anh ấy hơn tôi trên ba chục tuổi, như vậy tức là mình có thể coi như một người già, nhưng thật ra thì anh ấy còn trẻ, còn hăng hái say mê hơn chúng mình nhiều, sau những mưu toan ngày đó anh ấy trốn vào trong này cùng với một số đồng chí, nhưng chỉ được một thời gian mọi người đều bỏ đi vì không đồng chính kiến, anh ấy thì nói phải chờ đợi, phải tu luyện đã, mọi người thì nóng ruột, anh ấy cho thời cơ chưa đến nên nhất định không chịu bỏ khu rừng, trong số những người bỏ đi đó có ông thân sinh ra tôi, khi ấy ai cũng cho anh ấy là một tên gàn dở… Nhưng cuối cùng lại những người bỏ anh ấy mà đi đều chết chẳng còn một ai trở về, tất cả đều thất bại, mỗi lần được tin một người bạn chết anh ấy lại nấu một vò rượu rồi hạ thổ ở ven Đồi Hồng, ông thân tôi là người còn lại cuối cùng sau những thất bại, cha tôi quyết định trở vào trong này và mang theo tôi, chính vì đó mà tôi được biết nơi này, nhưng sau đó cha tôi thấy sức mình đã yếu, nghĩ tới người vợ hiền ở nhà, chết trong núi không đáng nên đã trở về quê, một năm sau , ông thân tôi qua đời. Thu xếp công việc tôi trở lại trong này với người bạn của cha tôi theo như lời giối giăng… Vào tới nơi ông không cho tôi gọi là bác hay cha, ông muốn tôi là em, ông nói ông còn muốn trẻ và muốn tôi coi ông như một người anh cả : bởi vì chúng ta phải làm việc với nhau. Không được bao lâu anh ấy dường như quên đi những mộng tưởng ngày trẻ, anh ấy mải vui với Đồi Hồng, với những hoa cỏ kỳ lạ, mải vui với thiên nhiên, thú rừng khiến ông không còn nghĩ tới chuyện dời khỏi rừng sâu…Tôi chờ đợi quá lâu, không chịu đựng được nữa nên xin pháp ra đi. Tôi còn nhớ như hôm qua đây vào đêm cuối cùng tôi cũng ngồi với anh ấy như thế này và những vò rượu cạn. Anh ấy đã khóc nhưng không nói gì với tôi hết… Có điều tôi hiểu phần nào những u uẩn trong lòng anh… Những khẩu súng được lau mỗi ngày, bông hồng đó cắm trong chiếc bình mỗi sớm mai, đôi mắt sáng lên khi nghe rừng xanh chuyển động…Tôi cũng còn nhớ buổi chiều mưa nghe tiếng nước đổ từ trên núi xuống, chúng tôi cùng chạy ra nhìn khối nước bứt khỏi núi tràn xuống, xối chảy trên dòng suối soi băng đi một bên Đồi Hồng mang theo những vò rượu đã hạ thổ đánh dấu cái chết của những người bạn… Hôm đó chúng tôi tưởng cũng bị nước cuốn trôi… Một mảng núi lở khiến nước tràn xuống tạo thành dòng suối mới… Trong cảnh ấy anh ấy cũng đã khóc, mọi điều đều tan, tan không để lại chút gì khi trời muốn như vậy… Chừng như đến một lúc nào người ta cảm thông được với tuyệt đối… Tôi nghĩ có lẽ vì vậy anh ấy đã từ chối mọi điều sau chót… mỗi lúc anh ấy một yêu hoa hồng hơn, ngọn đồi vì thế được chăm sóc một cách đặc biệt. Khi tôi theo cha tôi vào đây thì đồi vẫn chỉ có một ít khóm, nhưng đến khi trở lại thì đã nhiều, sau đó trong vòng mấy năm liền anh ấy dành hết cả thì giờ cho việc đốn những cây rừng, chiết trồng những cây hồng mới, và trước khi tôi đi một năm thì cả ngọn đồi chỉ còn lại hoa hồng và anh ấy đặt tên là Đồi Hồng… Sau đó anh ấy ham mê theo đuổi thú rừng, trong những cuộc săn đuổi ấy tạo thêm thú tìm lan và những loài hoa lạ, nhưng chỉ thêm vào mà không lấy đó làm chính, hoa hồng vẫn là giống hoa anh ấy yêu quý nhất, vì hoa hồng đối với anh ấy là một kỷ niệm không thể quên, một nàng công chúa…
Người cao nói thao thao không ngừng, giọng kể đầy say mê quyến rũ, nhưng mỗi lúc chừng như một làm cho người bạn bị lôi cuốn vào câu chuyện nhiều hơn, người thấp hỏi :
- Chắc chủ nhân yêu một giai nhân tên Hồng… Tôi nghĩ…
Chợt tiếng cọp hú vang lên, hai người chợt ngừng lại,người thấp tái mặt đi, người cao nhổm người lên, tiếng hú nghe rợn như tiếng ma quỷ và mỗi lúc một như gần lại. Hai người lặng im ngó nhau, mùi hôi thối theo gió đưa vào trong căn nhà, người cao nói nhỏ :
- Có lẽ con hổ bạch đã trở lại thung lũng…
Giọng nói người cao hơi run, một lúc lâu người cao mới rón rén đứng lên đi ra phía nhà ngoài, người thấp cũng theo ra, hai người đứng ép vào khung cửa nhìn ra Đồi Hồng, ngoài đó không khí trắng như sữa, chừng như trên lớp mây đục trắng có ánh trăng chiếu xuống, Đồi Hồng mang vẻ kỳ bí thơ mộng, khung cảnh của một chốn non tiên cũng chỉ đến thế, cả hai người cùng như nhịn thở khi nhận ra một bóng trắng đang nhảy giữa những luống hồng, bóng trắng có lúc vọt cao, có lúc chúi xuống quần nát những khóm hồng cùng với tiếng hú ghê rợn… Sau cùng tiếng hú dội vang và bóng trắng nhảy biến mất về phía con suối trả lại sự yên tĩnh cho đêm vắng, mùi hôi thối cũng tan đi… Người cao vừa trở vào vừa nói :
- Đúng là con hổ bạch, tiếc là anh ấy không còn lại ở đây, trong hai năm liền khi tôi còn ở đây anh ấy đã lùng kiếm và chờ đợi nó.
Ngồi xuống bên hỏa lò, cho thêm củi, bỏ bình rượu cúc vào bên bếp than cho nóng, người cao chỉ tay chung quanh vách :
- Hồi tôi mới trở lại chung quanh ván này đầy những đầu thú, không thiếu một thứ gì, từ hổ, hươu, nai, rắn…anh ấy bắn được mang về lấy thịt phơi khô, đầu và da con nào đẹp thì ướp thuốc phơi khô hoặc sấy rồi trưng làm cảnh, ai cũng tưởng lạc giữa những thú rừng, nhưng một lần đi săn anh ấy bắt gặp một con hổ trắng,anh ấy bắn trật, nó chạy thoát sau khi xuýt vồ được anh ấy, từ đó anh ấy không thèm săn thú nhỏ nữa, anh ấy trở về đốt hết những đầu và da thú trong nhà, mỗi ngày vác súng ra đi đều nói : phải hạ cho bằng được con hổ bạch đó… Mình phải săn thú lớn, không thể phí công sức săn thú nhỏ…Nhưng sau đó có những lần dò theo bước chân cả tuần, lùng kiếm chờ đợi anh ấy đều không gặp lại nó. Tôi còn nhớ một đêm ngửi thấy mùi hôi thối, anh ấy bật dậy, vác súng ra ngoài, tôi ở trong chờ đợi, anh ấy lần mò hết một đêm một ngày, nhưng sau thì trở về thất vọng, không phải nó, anh ấy nói vậy với tất cả sự tiếc rẻ, ta gặp một con cũng khá, hạ được nhưng thấy thật uổng công…có lần đi với anh ấy, gặp những thú rừng khác thật ngon anh ấy cũng không thèm bắn, anh ấy nói chờ đợi cho bọn nó lớn đã, chỉ cần hạ được con hổ trắng là ta bỏ rừng mà về, nhưng cho tới lúc tôi đi khỏi anh ấy vẫn không gặp nó, có lẽ đây là lúc nó trở về, tiếc thay tôi không phải là một tay súng giỏi, và có được một lòng kiêu hãnh tự tin như anh ấy…
Uống cạn bát rượu nóng, người cao ngả người ra lưng ghế, người thấp cởi bỏ chiếc áo ngoài, hơi ấm làm cho không khí lạnh trở thành thân mật , khi vắt cái áo lưng ghế một tiếng động vang lên, người cao nhỏm người lên, nhíu mày nhìn khẩu súng lục rơi trên sàn gỗ :
- Anh có khẩu súng ấy hồi nào ?
Người thấp hơi cuống, ngập ngừng nhặt khẩu súng lên tay, giọng nói xúc động :
- Chắc anh nghĩ tại sao tôi đã hành động nhự vậy? Trước đó tôi đã thề với trời đất rồi, nhưng thực ra cũng là tại nó đến số vậy thôi…
- Vậy anh giết nó lúc nào ?
Người thấp ngập ngừng một lúc mới nói tiếp :
- Khuya trước đêm mình lên đường, vả lại anh cũng hiểu cho tôi, nếu không thanh toán nó thì tôi không thể đi bình yên được, thêm nữa tôi cần vật hộ thân và một mối thù tôi phải trả, cái chết của mẹ tôi…
Người bạn thở dài không nói nữa. Ngoài vườn cây tiếng gió rít từng hồi, trong đó nghe như cả tiếng rừng cây lay động.
- Anh có lẽ cũng không biết chuyện đó, lúc trước nó đi với giặc hại gia đình tôi, khi cha tôi chết ông nói chính nó đã báo cho giặc biết về những hoạt động của ông, không có bằng cớ khiến bọn nó tra tấn cho mẹ tôi đến chết. Cách mạng nổi lên nó tự đứng vào hàng ngũ như kẻ ở hàng đầu, nó biết tôi hoạt động chống lại nên vẫn tìm cách theo dõi, tôi nghĩ không nên chờ nếu như muốn những người còn ở lại được yên. Tôi phải ra tay, không ngờ hắn có súng…Anh biết?
- Sao không, nó tưởng tôi ở trong đoàn thật sự nên nói với tôi phải coi chừng anh như một tên phản động… Chuyện ấy cũng qua, có điều tôi vẫn không muốn tay mình phải nhúng vào máu. Có lẽ đó là điều tôi chịu ảnh hưởng của anh cả.
Vò rượu đã cạn, người cao lận mò tìm vò khác, nhưng lắc hoài vẫn gặp những vò không, khi nhắc đến chiếc bình vuông thì người cao nghe như có vật gì để ở trong, thực ra đây không phải là một cái bình mà như một cái phạn vuông vức, trên được đậy lại bằng một viên gạch, mở ra người cao ngạc nhiên thấy cuốn vở bìa cứng ở trong, cầm lên tay với tất cả vui mừng, người cao nói với bạn :
- Cuốn sách anh cả tôi viết trong nhiều năm, hồi đó anh dành nhiều thì giờ cho những suy ngẫm của anh, anh viết thật khó khăn, mong cuốn sách đã được hoàn tất trong thời gian tôi đi khỏi.
Nói xong người cao mở cuốn sách ra dưới ánh lửa, nhưng mở mãi cũng chỉ thấy những trang giấy trắng, ở một đôi trang có ép những chiếc lá màu lạ mắt, một ít hoa và mấy cánh bướm màu sặc sỡ, cuốn vở đã bị xé đi nhiều trang, chỉ còn lại một ít tờ. Người cao mở cuốn vở với tất cả vẻ thận trọng nhưng không khỏi ngạc nhiên, không tìm thấy một chữ nào trên những trang giấy ấy, bỏ tập vở xuống với vẻ thất vọng : vậy những trang đã viết bỏ đi đâu, như vậy là công việc ấy cũng không hoàn tất được. Những cánh hoa, cánh lá, cánh bướm khô là thế nào…
Người cao lại lục lọi, trước nhất là nơi những chiếc sạp, với hy vọng tìm thấy một điều gì để lại, nhưng tuyệt nhiên không thấy gì ngoài một chiếc trong đó có để một hòn đá đen nhánh. Sau cùng tìm thấy một bình hồng ngọc, mùi rượu siêu thoát, men gần như đã không còn gì, uống vào mới bắt đầu nhạt môi, chỉ thấy thoảng mùi thơm nhưng men rượu sau đó ngấm dần, chừng như đó là bình rượu đã được để quá lâu đã khiến mất đi vẻ rượu bình thường trần tục… Thất vọng người cao ngồi ngả lưng ra sau ghế nhìn ánh lửa bập bùng trong hỏa lò. Men rượu như đưa người vào một cuộc viễn du thoát tục… Người thấp nói :
- Tôi không biết gì về người anh cả của anh, nhưng qua thứ rượu hoàng cúc và hồng lệ mà tôi được uống đây thì ông ta phải là một tay say mê men nồng, sắc đẹp…chính những cái đó đã khiến ông bỏ cuộc…Tiếc thay một người như thế mà không thể đổi cho mình một thứ rượu khác…
- Đổi cho mình một thứ rượu khác… Tôi không nghĩ như anh, cần gì phải đổi một thứ rượu khác, anh cả tôi đã có lần nói với tôi. Cần gì phải rượu mới say, có khi uống một hớp nước suối cũng nghe thấy như mình có thể say đến muôn ngàn năm… Với cái nhìn của tôi thì ông đã uống nhiều thứ quá, với đầy những đam mê và kiêu hãnh ông đã uống tới cùng tận, nhưng ông đã không chết được trong những cơn say não nùng đó, trong say ông vẫn nhận biết, và chính vì thế ông đã thất bại… Đó có khi cũng chỉ là một cái nhìn nhiều hơn là một sự thật, vì chính lúc này đây tôi cũng như anh không biết ông còn sống hay đã chết, trong vòng hơn năm năm qua và những giây phút này ông ra sao. Có điều ông khuyên tôi hãy uống cho hết, cho tới tận cùng, hãy say mê cho tới chung cuộc có thể chết đi êm đềm, nhưng phải tin ngay đó mình có thể phục sinh, sống lại trong một say mê mới hoàn toàn tinh khôi như mình chưa bao giờ được sống…phải tin và sống như vậy, một lúc phục sinh…Một phục sinh mới cho tôi, đó là ước mơ của tôi, và tôi tin mình sẽ có được…
- Chừng như còn nhiều điều về cố nhân mà anh không muốn nói với tôi, tại sao vậy ?
- Không phải thế, chính ra thì tôi cũng chẳng được biết gì. Như tôi đã nói với anh đó, anh cả bằng tuổi với cha tôi, ông là một người hoạt động với những mưu đồ nào đó, sau ông vào trong này, tôi sống với ông sáu năm, tôi bỏ ông đi cho đến nay đã năm năm hơn…Ngày trở lại thì không còn người xưa nữa. Như tôi đã kể : ông yêu hoa hồng, thích săn thú lớn, cái ám ảnh về con hổ bạch trong những ngày sau đó cuốn hút ông. Ngoài thú cất rượu để uống, trồng hoa, tìm lan, săn thú cũng có lúc ông ngồi đánh cờ ngoài hiên Ngạo Thiên, thua được gì ông cũng cười, mỗi lần thế ông nói với tôi : đáng ngạo ông trời lắm, cũng muốn lập ngôn, nhưng có lẽ công việc đó ông không hoàn thành dược, tất cả với ông chừng như đều thất bại. Nhưng ông nói với tôi, ông hài lòng một điều…
- Điều gì ?
Người cao nói trong giọng ngà ngà ; giọng nói của người còn ở trong cơn mơ :
- Bông hồng dành cho công chúa…
- Bông hồng cho công chúa, tôi không hiểu gì hết.
- Chính tôi cũng không được rõ. Nhưng theo như cha tôi thì đó là một câu chuyện tình.
- Ông ấy cũng có chuyện tình nữa, thật tôi không hiểu được. Hình dung về ông tôi nghĩ đó là một tay giang hồ, dũng mãnh, giàu nghị lực…
- Điều đó thì đúng nhưng anh nghĩ những người đó không yêu sao, nếu anh nghĩ vậy thì anh nhầm, những kẻ như anh nói đó đã không say mê gì thì thôi, nhưng đã say mê thì không phải chuyện chơi, xẻ núi, lấp sông, vượt biển họ cũng không thay lòng đổi dạ được, những người đó bao giờ cũng có những ham mê để chết…
- Tôi không hiểu chút gì.
- Tôi nhớ lại những năm sống với ông, mỗi buổi sớm mai thì thấy ông bưng bình hoa ra ngoài, bỏ bông hồng cũ đi, tôi trông ông có vẻ gì buồn, có lần ông nói : tiếc thay, hoa rồi phải tàn, ta thì không muốn thấy hoa tàn… Ông thay nước trong bình, dạo quanh những cây hồng tìm một bông hàm tiếu trịnh trọng ngắt lấy cắm vào trong bình rồi mang vào trong phòng, sau đó là buổi uống trà của ông, vừa uống trà, vừa ngắm hoa, trông ông những lúc đó như một đạo sĩ. Theo như cha tôi nói thì trước khi bước chân vào cuộc phiêu lưu ông đã có một mối tình, những tưởng một mai khi trở lại cuộc sống sum họp sẽ có, nhưng sau bao nhiêu gắn bó, chờ đợi người con gái kia chẳng được sum họp với người tình…Nàng qua đời trong mòn mỏi, ông được tin lặng người đi cho những dòng lệ chảy trên má, lúc đó cha tôi còn ở bên ông, sau này nhớ lại, nghĩ tới người vợ chưa chung chăn gối ấy, như một thủy chung, ông dành bông hồng cho người khuất, ông không dùng hoa khác vì nàng vốn yêu hoa hồng… ông chưa bao giờ thổ lộ những điều đó, nhưng theo tôi có lẽ cũng chỉ có vậy, tôi còn nhớ một điều ông nói : trời phụ ta, ta cười ngạo trời, bạn bè phụ ta, ta buồn ta, con đường ta đi không hết, ta giận ta…Chỉ có một người chung thủy với ta thì ta không đền đáp được… Đó là mối hận lớn duy nhất không biết bao giờ cho nguôi…Bông hồng dành cho công chúa. Tôi nghĩ đó là điều ông dành cho mối hận trong lòng…và đó cũng là cái dĩ vãng duy nhất cháy sáng trong lòng ông…Nhưng sau chót ông đã kết thúc đời ông ra sao, thật tình ông vẫn là niềm bí ẩn…
Ngọn lửa hồng và men rượu đã ru hai người vào một giấc ngủ ngắn ngủi lúc nữa đêm về sáng. Khi hai người thức dậy thì trời đã sáng tỏ, mây trong thung lũng đã tan để lại một bầu trời trong xanh, hai người bước ra ngoài thay nước rồi tìm một bông hồng hàm tiếu cắm vào chiếc bình. Hai người ngạc nhiên nhìn những luống hồng bị quần nát bởi con hổ bạch trong đêm, những cánh hoa đỏ giập nát đầy trên mặt đất như những giọt máu đào…
Tiếng hổ hú trong rừng trước mặt bỗng vang lên, một đàn chim cánh lớn từ trong những ngọn cây bay lên rợp cả một vùng trời. Người cao chỉ tay về hướng đó :
- Con hổ bạch vẫn còn quanh quẩn trong đó, sao nó không trở lại vào những năm trước.
Nắng lên cao, hơi lạnh của rừng đã giảm, hai người đi vòng quanh căn nhà, khu Đồi Hồng rồi theo hướng mặt trời mà đi. Khi qua những khóm hồng đỏ thắm người cao ngắt theo một bông, lên đỉnh đồi người cao ngừng lại, vứt bông hoa theo chiều gió xuống thung lũng… Rồi ở đó buổi chiều sẽ đưa mây về bao phủ, và còn lại căn nhà. Đồi Hồng, suối Hoàng Mai, những bình rượu , hiên Ngạo Thiên và một con hổ bạch...
(1969)
Dương Nghiễm Mậu
(Trong tập truyện "Trời cao đất dầy")