có những điều không nói ra, chỉ ghi lại...
pn

Thứ Hai, tháng 2 02, 2009

Tản mạn về các danh tướng Ngô Quang Trưởng và Nguyễn Khoa Nam



Trong bài «Một ngày khó quên» Sau khi bị ông Trưởng giao cho cái phi vụ teo bougie là bay vào Kâm Pông Trạch, lúc đứng ở bên phi đạo ở phi trường Tô Châu thuộc tỉnh Hà Tiên, ngoài những lời dặn dò như đã kể trong truyện, ông còn nói thêm một điều mà lúc viết tôi không dám nói ra vì sợ đụng chạm. Bây giờ ông đã là một ánh sao băng rồi nên có nói ra chắc cũng không ai phiền hà gì...

Ông Trưởng vừa châm thuốc hút vừa từ từ đi ra xa khỏi mấy vị sĩ quan cấp đại tá đứng xung quanh ông tại sân bay và ra dấu cho tôi đi theo. Ông hỏi tôi có hút thuốc không? tôi nói cũng hút lai rai. Ông chìa ra một điếu mời rồi bật lửa cho tôi. Rít một hơi thuốc, ông nói với tôi:

- «Trong chổ BĐQ và Thiết kỵ bị vây có nhiều sĩ quan cấp tá. Qua cho quyền em không chở bất cứ mai bạc nào ra hết, chỉ đón phi hành đoàn trực thăng bị bắn rơi hôm qua mà thôi». Rồi ông chúc tôi may mắn...

Tôi biết ông không còn gì để dặn nữa nên chào ông để về tàu mình chuẩn bị cho phi vụ sắp tới... Tôi nghĩ ông Trưởng vì tế nhị nên không muốn nói cái quyết định cần phải làm của ông trưóc mặt mấy vị đại tá khác cho nên ông chỉ nói riêng với tôi mà thôi. Trong căn cứ bị VC vây tứ phiá đó có ít nhất là một đại tá thiết giáp chiến đoàn trưởng, một đại tá BĐQ liên đoàn trưởng liên đoàn 7, một trung tá thiết đoàn trưởng thiết đoàn 12… và nhiều trung tá, thiếu tá khác.Nếu tôi chở mấy vị này ra thì căn cứ tan hàng cố gắng là …cái chắc! Để mấy ông ở trỏng thì dù VC đêm đêm đứng ngoài bắt loa kêu gào «hàng sống chống chết» khan cả cổ họng, binh sĩ ta vẫn còn tinh thần mà cầm súng. Mà thật vậy, sau này căn cứ được giải tỏa và tổn thất được coi là tương đối nhẹ so với địch…

Hồi còn bay ngoài Vùng 1, Đáp xuống ở căn cứ của một trung đoàn BB, dưới trời mưa nhẹ, chúng tôi ai ngồi tàu nấy hút thuốc tán dóc chờ phi vụ. Một người lính bận áo mưa poncho trùm từ đầu đến chân lầm lũi đi ngang qua. Từ trên tàu kia, anh trung sĩ cơ phi nhảy vội xuống phóng theo kêu giật giọng:

- «Ê già, có hộp quẹt cho mồi tí đi già». Người lính đứng lại bật cái zippo cho anh trung sĩ KQ mồi thuốc. Dưới áo mưa, hắn nhận ra ông lính có lửa là tướng hai sao Ngô QuangTrưởng, hắn đứng cứng người chào miệng lí nhí xin lỗi… rồi anh trung sĩ cũng được ông tướng mồi cho, xong ông đi thẳng đến chiếc trực thăng Mỹ đang chờ. Phi hành đoàn Mỹ thấy ông tướng tới vội nhảy xuống đứng nghiêm chào. Một phút sau ông đại tá cố vấn MỸ lúp xúp chạy theo lên tàu…

Đại tướng Norman schwarzkopf tư lệnh chiến trường Gulf War đánh Irag thời Bush cha có viết sách về cuộc đời binh nghiệp của ông và thường tỏ ra rất kính trọng tướng Trưởng từ hồi ông làm là cố vấn Mỹ của tiểu đoàn Nhảy dù VN.

Lúc làm tư lệnh sư đoàn 1, ông Trưởng xử dụng máy bay trực thăng Mỹ làm phương tiện di chuyền. Thường thì ông bay đến trời gần tối mới về. Có nhiều buổi chiều, tôi thấy ông đáp ở các đồn bót hay căn cứ để thị sát và kiểm tra khiến các ông BB teo lắm còn phi hành đoàn Mỹ thì complain vì bay phờ râu…

Một hôm tôi đáp gần chiếc chở tướng Trưởng, tắt máy rồi tà tà qua tán dóc với phi hành đoàn Mẽo. Master sergeant cơ phi người Mỹ gốc Da Đỏ cằn nhằn là ông Trưỏng về trể quá làm hắn đói bụng! Đại úy TPC xì nẹt liền -«You có đói thì lấy C-ration (đồ hộp) để dưới ghế ra mà ăn, General mà còn ăn C-ration, you chê hả?»

Một lần đổ đại đội trinh sát ở Ba lòng (Quảng Trị) vào năm 1970. Hôm đó trời mưa lất phất, mây giăng đầy trên đỉnh núi bao phủ toàn vùng được chọn để đổ trinh sát. Sáu chiếc UH1 của Mỹ do một thiếu tá chỉ huy chở đầy trinh sát ngồi thò chân ra ngoài cất cánh trước, sáu chiếc UH1 của VNAF do một đại uý hướng dẫn cũng chở đấy trinh sát sẽ cất cánh sau khi Mỹ đổ xong trở về vì sợ trời xấu có thể đụng nhau. Chừng 30 phút sau đoàn trực thăng Mỹ trở về với lính trinh sát còn ngồi trên tàu vì họ không đổ được. Tướng Trưởng hỏi đại úy leader VNAF liệu có thể đổ được không? Đại úy trưởng toán nói sẽ cố gắng, thế là đến lượt chúng tôi quay máy, cất cánh dưới trời mưa trước sự ngạc nhiên và nghi ngờ của phi công Mỹ. Chúng tôi bay đội hình hàng dọc và chiếc sau theo chiếc trước tìm lỗ mây chui xuống, đổ xong lên trên mây chờ... sau đó cả sáu chiếc dẫn nhau về đáp tàu trống. Việc này đã làm tướng Trưởng khoái chí khen ngợi VNAF làm đại tá cố vấn Mỹ hơi quê. Chắc ông sẽ cằn nhằn viên thiếu tá trưởng toán trực thăng Mỹ sau đó.

Sau 1975… Được ông chú ở Washington DC mời dự đám cưới. Trong buổi tiêp tân, tôi thấy đủ các tai to mặt lớn, các cựu bộ trưởng và các tướng lãnh cũ. Có cả bà Thiệu, bà Khiêm mặc áo dài màu vàng (hai ông T, K không dự). Mấy ông tướng và bộ trưởng túm tụm nói chuyện với nhau (bà Ngô Đình Nhu lúc đó đã luống tuổi, qua thăm cha mẹ là Đại sứ Chương nhà ở ngay sau lưng nhà chú tôi thì lại không dự, có lẽ vì sự có mặt của mấy tướng đảo chánh, hay chú tôi vì tế nhi không mời) và mấy bà thì nói chuyện với bà Thiệu Bà Khiêm. Tôi đang ngồi chung bàn bạn trẻ dưới xóm nhà lá thì thấy ông Trưởng ngồi một mình đàng xa, đăm chiêu hút thuốc không nói chuyện với ai. Thấy ổng cô đơn, nên tôi lân la đến hỏi thăm ổng. Ban đầu ông không nhớ tôi là ai nhưng khi nhắc đến trận đánh KâmPong Trach mà ông đã ra lệnh cho tôi kamikaze nhào dô thì ông mới nhớ ra tôi là thằng nào…

Mặt ông lúc nào cũng có vẻ khắc khổ… Tôi có nhắc đến tai nạn của tướng Ánh và hỏi ông có biết không, hỏi xong tôi mới biết là mình ngớ ngẩn vì hai ông là chổ quen biết… Ông gõ gõ cái hộp quẹt trên bàn rồi chắc lưỡi nói một mình

- «Tự nhiên đi câu tàu làm chi cho rớt vậy không biết nữa!»

Nói xong rồi im lặng, tiếp tục gõ gõ cái hộp quẹt xuống bàn. Sau khi trao đổi vài câu lấy lệ và vì có người khác xề tới hỏi han nên tôi chào ông rồi chẩu về lại xóm nhà lá của tui nó vui hơn…



Bây giờ xin tản mạn qua tướng Nguyễn Khoa Nam. Có một buổi sáng, tôi bay chở tướng ba sao Nguyễn Vĩnh Nghi đi Mộc Hóa, ghé xuống Sađéc đón tướng Nguyễn Khoa Nam. Không biết ông làm gì ở đây mà sáng sớm đã thấy tướng Nam đội nón sắt áo giáp, nai nịt gọn gàng đang đứng chờ ông Nghi ở bãi đáp trực thăng. Tôi đáp xuống, bụi bay mù mịt, khi bụi tan vẫn thấy ông tướng hai sao đứng yên, nghiêm chỉnh chào ông tướng ba sao… Kỷ luật và tư cách đã làm tôi bắt đầu kính mến vị danh tướng này từ đó...


Buổi trưa ở Mộc Hóa, tôi được cho ăn cơm trưa với mấy ông tướng ở câu lạc bộ BB (hoa tiêu phụ và mấy cơ phi xạ thủ cũng được mời dùng buổi trưa ở câu lạc bộ nhưng ngồi bàn khác).

Trong lúc ăn, tôi ngồi kế tướng Nam, đại tá tỉnh trưởng Mộc Hoá và tướng Nghi ngồi đối diện chúng tôi. Trong bàn, vì chỉ mình tôi là đồ tép riu nên tôi an phận ngồi nhẩn nha vừa ăn vừa nghe ông đại tá tỉnh trưởng và tướng tư lệnh vùng 4 nói chuyện với nhau. Ông đại tá khoe về kinh tế của tỉnh Mộc Hóa

- «Trung tướng à, kỳ này tụi Xì Thẩu ở đây trúng mùa lúa cả trăm triệu đó trung tướng». Câu chuyện xoay quanh chính tri, kinh tế và quân sự của tỉnh… Một lúc sau, tôi nghe ông Nghi nói với ông đại tá

– «Cũng may mà mình không dính líu đến vụ còi hụ Long An (vụ hàng lậu nổi tiếng của mấy ông chóp bu có xe quân cảnh hụ còi hộ tống ở Long An) của mấy ổng (ý nói ông T, ông K) chứ không thì cũng mệt lắm đó».

Tôi ngạc nhiên thấy tướng Nam lúc ăn mà vẫn đội nón sắt bận áo giáp, còn tôi thì nón calô, súng cao bồi để vắt vẻo ghế bên. Tôi thấy mặt ông đỏ gay nhưng vẫn yên lặng ăn không nói gì khi nghe những người đối diện ba hoa… về hối lộ!

Suốt buổi ăn chỉ có hai người nói chuyện là đại tá tỉnh trưởng và tướng Nghi còn hai người câm là tôi và tướng Nam… Sau khi ăn cơm xong, trong lúc chờ ông tỉnh trưởng và tướng Nghi trở lại. Nhân dịp ngồi riêng uống trà đá với tướng Nam. Tôi không nhớ là đã nói bâng quơ với ông những chuyện gì. Nhưng sau khi biết tôi cũng là người Huế, mẹ tôi dòng Tôn Nữ và bà nội tôi là dòng Nguyễn Khoa như ông, thì ông nói ông cũng có bà con và biết bà nội tôi. Cho nên sau đó chúng tôi nói chuyện cởi mở hơn chút đỉnh...

Có một câu ông đã nói mà tôi vẫn còn nhớ tới ngày nay: «Mình có rau muống luộc, canh cà chua ăn là may rồi hỉ, còn lính tráng túi ngày ăn cơm gạo sấy, vợ con hắn thì nheo nhóc, lương không đủ sống, quá khổ mà mình không biết mần răng cho hắn khá hơn, thiệt ngủ không yên!» Câu nói chí tình, lòng thương lính, nghĩ đến lính và gia đình họ của ông thật sự làm tôi rất xúc động… Nghĩ mà tủi cho mình và cho người lính thật sự của QLVNCH ngày ngày hy sinh tánh mạng, cuộc sống thì nghèo nàn, cơ cực trong lúc người khác làm giàu trên xương máu lính…

Nhớ đến hai ông, tôi xin dâng một nén hương lòng cho tướng Nam, người đã Vị Quốc Vong Thân! và ngậm ngùi cho tướng Trưởng lúc nào cũng mang trong lòng niềm uất hận vì mất nước và nỗi nhục nhã làm thân bại tướng lưu vong cho đến ngày nhắm mắt!!!


Cali