có những điều không nói ra, chỉ ghi lại...
pn

Thứ Hai, tháng 7 19, 2010

Vóc dáng nhạc sĩ: Thạch Chương - Cung Tiến




Có người hỏi thơ và nhạc có gì liên quan với nhau không? Hình như trong sự gợi ý, thơ và nhạc có tác dụng hỗ tương với nhau, nhạc tháp cánh cho hồn thơ và thơ làm nồng nàn hơn cho ý nhạc. Một người đã học âm nhạc từ nhỏ, đã làm thơ, đã dịch thơ và yêu thơ, đã có những lời nhạc đầy chất thơ lại có lúc liên tục phổ nhạc những bài thơ của các thi sĩ nổi tiếng và đã tạo thành những sáng tác độc đáo đầy chất sáng tạo. Ông lấy cảm hứng từ các thi sĩ khác dù những ca từ của những bản nhạc đầu tay đẫm chất thơ. Người ấy là nhạc sĩ Cung Tiến tác giả của những Hương Xưa, Thu Vàng, Hoài Cảm, những bản nhạc sáng tác từ thuở còn học trò nhưng lại có đời sống âm nhạc trường cửu.

Mặc dù Cung Tiến là một tên tuổi lớn của âm nhạc Việt Nam, nhưng ông cũng là một tác giả có nhiều đóng góp vào hai mươi năm văn học miền Nam và văn học ở hải ngoại với bút danh Thạch Chương.

Quả thực, ông là một vóc dáng nghệ sĩ đa diện. Là dịch giả, người viết truyện ngắn, người phê bình văn học giới thiệu các trào lưu văn học thế giới, với tên tuổi là Thạch Chương. Là người viết ca khúc, soạn hòa âm, viết nhạc giao hưởng với tên tuổi Cung Tiến. Ông cũng là một nhà phân tích và nghiên cứu kinh tế, đã du học ở Úc, rồi sau du học và tốt nghiệp tại trường đại học danh tiếng Cambridge ở Anh. Ông cũng còn là một người hoạt động rất tích cực của phong trào tranh đấu cho nhân quyền International Federation of Human Rights. Trong thập niên 1980. Ông đã gửi tên tuổi những văn nghê sĩ Việt Nam bị cầm tù bởi chính quyền Hà Nội đến các tổ chức, các phong trào quốc tế để thúc đẩy nhà cầm quyền Việt Nam phải thực hiện đúng những cam kết trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc trả tự do cho những người làm văn học nghệ thuật của chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

Bắt đầu với tên tuổi Thạch Chương, ông là một dịch giả và là người đã chuyển dịch sang Việt ngữ hai danh phẩm văn chương quốc tế là “Một ngày trong đời Ivan Denisovitch” của Alexander Solzhenitsyn và “Hồi Ký viết dưới hầm" của Fyodor Dostoyevsky.

Dostoyevsky là một trong những đại gia của tiểu thuyết Nga trong thế kỷ 19, đã mang những triết lý từ cảm xúc trong những tác phẩm mổ xẻ và phân tích làm nổ bùng ra những luận đề sâu sắc về tâm lý, chính trị, tôn giáo và xã hội. ”Hồi ký viết dưới hầm” là một tác phẩm viết về chủ đề của con người phải chịu đựng những thống khổ nội tâm, của những nỗi u uẩn của kiếp nhân sinh. Tác phẩm này là một bắt đầu của sự nghiệp văn học lừng lẫy của Dostoyevsky và cũng là cao điểm của văn chương Nga và coi như một tác phẩm “classical" của nhân loại.

Còn Alexander Solzhenitsyn, giải Nobel văn chương năm 1970, người đã bị tống xuất khỏi Nga đi lưu vong vì chống đối lại chính sách của Stalin. Với “Một ngày trong đời Ivan Denissovitch” tác phẩm lột trần chế độ toàn trị ở Nga xô Viết dưới thời độc tài Stalin với tất cả những kỹ thuật và chính sách nhằm hạ thấp giá trị con người xuống hàng súc vật…

Tác giả Thạch Chương hay nhạc sĩ Cung Tiến đã có chủ đích chính trị khi chuyển ngữ tác phẩm của Solzhenisyn. Một người đã bị trục xuất khỏi đất nước của mình vì ý hướng tự do dân chủ trong văn chương đã được giới thiệu trong thời điểm ấy như một trào lưu nhân loại. Tác phẩm của Solzhenitsyn là một tác phẩm làm kinh hoàng người đọc nhất được in ở Liên Xô. Nó còn làm ảnh hưởng đến tình hình chính trị của Liên Xô nữa. Ông vạch trần một xã hội mới của một thế giới mới mà trong một phần tư thế kỷ, Stalin đã tạo ra một hệ thống trại tập trung khổng lồ. Mà tất cả người dân Nga đã phải chịu ảnh hưởng dù trực tiếp hay gián tiếp.

Với thi ca, ông là người đọc và đã giới thiệu nhiều thi sĩ nổi tiếng của thế giới. Ông cũng thường dịch thơ và đăng rải rác trên các tạp chí văn học. Thí dụ tôi đã đọc bài dịch thơ từ Federico Garcia Lorca, bài ”Bài ca khóc Ignacio Sanchez Mejias“ có những câu thơ gợi nhiều liên tưởng và cảm xúc. Federico Garcia Lorca được tôn xưng là một nghệ sĩ vĩ đại của Tây Ban Nha trong thế kỷ 20 sống trong thời kỳ của tướng Franco. Còn Ignacio Sanchex Mejias là một bạn thân của ông ; là một người đấu bò nổi danh của xứ Andalusian. Bài thơ gồm bốn đoạn và trong đó có những câu được dịch bởi Thạch Chương, đoạn III Thể xác còn đây:

“Phiến Đá là một vầng trăng nơi những giấc mơ hiền than thở
Không một dòng nước uốn quanh và những cây tùng bách giá băng.
Phiến đá là một cánh vai trần để chở đi thời gian.
Với những cây nước mắt, những dải băng và những tinh cầu.
Tôi đã thấy những trận mưa xám chạy dài theo những đợt sóng
Giơ cao lên những cánh tay ngọt ngào lỗ chỗ
Để không cho phiến đá duỗi dài với được.
Phiến đá chặt tay chân ra thành từng mãnh mà không thèm hút máu.
Bởi phiến đá đi lượm những hạt giống của sợi mây…
… Tôi muốn họ chỉ cho tôi những con đường nào ra thoát
cho vị tướng soái mà tay chân thần chết đã trói buộc
Tôi muốn họ chỉ cho tôi những giọt lệ nào như một dòng sông
Có những sợi mây hiền lành và những bến bờ sâu thẳm
Để ẵm đi thể xác của Ignacio và để chàng chìm xuống
Không còn nghe bên tai những hơi thở trùng điệp của con bò rừng
Để xác chàng chìm sâu vào đấu trường tròn của vầng trăng...”

Ở một mặt khác, Thạch Chương, người viết truyện ngắn có những khám phá mới về bút pháp, về những ý tưởng là kết quả của những suy tư của một người luôn đi tìm kiếm. Truyện ngắn của ông có vóc dáng về những nhân vật được phác họa khá lạ lùng, của một không gian thời gian nào lửng lơ giữa cảm giác và đời sống thực. Cảnh vật, dường như có chất biểu tượng và con người như có gắn liền để tạo thành một tổng hợp văn chương rất riêng. Thí dụ như truyện ngắn “Tinh cầu” trong Tuyển Truyện Sáng Tạo. Một truyện ngắn mà theo tôi có chiều sâu của một suy tư khác lạ với đời thường…

Với bút hiệu Thạch Chương trên các tạp chí văn học như Sáng Tạo, Nghệ Thuật, Văn, Vấn Đề, trước năm 1975 và Đặng Hoàng trên các tạp chí văn học hải ngoại sau 1975 có những bài khảo luận công phu. Ông đã viết về nhà nhân chủng học nổi danh người Pháp Claude Levi - Strauss cha đẻ ra Cơ cấu Luận (Structuralisme), về nữ tiểu thuyết gia người Anh Virginia Woft tác giả của những tiểu thuyết như “The Waves” hay “Between the Acts” và đã tự tử trên dòng sông và không tìm được thi thể…

Ông cũng đã viết để giới thiệu Albert Camus trong Sáng Tạo bộ mới xuất bản vào tháng 9 năm 1960. Đến nay, khi đọc lại vẫn còn thấy nhiều điểm thích thú. Một nhà văn hiện sinh vừa qua đời và đúng thời điểm ấy, Thạch Chương giới thiệu:

”Giữa hoàn cảnh xã hội lạc loài của nước Pháp hậu chiến, giữa khí hậu trí thức bi quan mà phái hiện sinh ngự trị, giữa những tiếng để dọa phá hủy của trường siêu thực, và trong viễn ảnh một mùa đông tăm tối của Đệ Tam Quốc tế: Albert Camus, một hình bóng trơ trọi hiện lên như một tia nắng ấm hy vọng của Âu Châu. Tôi vừa nói: một hình bóng trơ trọi - bởi Camus không đại diện cho một hàng ngũ nào, không Cộng sản, và cũng không hẳn là người Pháp: một kẻ lưu vong với một triều đình đã mất. 

Sau cái chết đầy “phi lý” cách đây mấy tháng, Camus đã để lại đằng sau mình hai tập triết luận, mấy tập truyện, một tập đoản văn, dăm vở kịch, một ít tạp luận và một số dịch bản, phóng tác, thời sự: tất cả dựng lên như lời Pierre Simon, một mốc đường cho một chủ nghĩa nhân đạo thực chứng (humanisme positif)...”


Nhà văn Cung Tiến có viết về kinh tế học, ngành học mà ông đã đi du học từ Úc và Anh. Ông là người giới thiệu Club De Rome gồm một số đông các khoa học gia thuộc đủ mọi ngành trên thế giới họp ở thành phố La Mã nêu ra những vấn đề cấp thiết của con người trên hành tinh trái đất mỗi ngày một chật hẹp. Ông đã dịch cuốn sách : “The limits of Growth” thành "Giới hạn phát triển”, là tiếng kêu cảnh báo loài người trước những hiểm họa sắp tới. Trong cuốn sách này, những mục tiêu cũng như cơ cấu của một nền kinh tế toàn cầu của cuối thập niên 60 được phác họa. Vào những năm của thập niên 70, Cung Tiến còn dịch một tác phẩm khác tiếp theo của Club De Rome, cuốn “The turning Point of Mankind” – Chỗ rẽ của nhân loại. Đây là những ý kiến có ảnh hưởng nhiều đến cộng đồng thế giới. Bản dịch của Cung Tiến được đăng trên tập san Quốc Phòng, coi như một tài liệu cần thiết để nghiên cứu về chiến lược áp dụng cho quốc gia Việt Nam.

Nhà văn nhạc sĩ Cung Tiến trong vai trò của một chuyên viên kinh tế có tham chính và là một thành viên của nội các đệ nhị Việt Nam Cộng hòa trước năm 1975. Ông là thứ trưởng kiêm Tổng Giám đốc Kế Hoạch cho ông Tổng trưởng Kế Hoạch Nguyễn Tiến Hưng.

Sau năm 1975 ông là chuyên viên kinh tế của nghiên cứu và phân tích của Department of Economic Security của tiểu bang Minnesota. Hiện ông đã về hưu.

Cung Tiến là người yêu thơ và sống với thơ. Trong vai trò của một người nhận định văn học ông có viết nhiều về thơ và những nhận định của ông thường là những khám phá mới bắt nguồn từ những cảm nghĩ chân thành nhưng sâu sắc.

Tôi chỉ đọc được một vài bài. Thí dụ như bài viết ”Sự chán chường trong phê bình văn nghệ” đăng trên Sáng Tạo bộ mới số 1. Từ những nhận định của nhiều người kẻ chê người khen về thơ Thanh Tâm Tuyền, ông muốn đi tìm một khuôn mẫu phê bình và nhận định vượt qua được những thiên kiến chủ quan.

Cung Tiến viết ”Và cuối cùng, câu hỏi quan trọng hơn cả là đâu là tiêu chuẩn của những tiêu chuẩn đó (và ta sẽ hỏi đến mãi vô cực)! Đó là những câu hỏi cực kỳ quan trọng... Chỉ khi nào trả lời được, ta mới có quyền đặt bút phê phán giá trị. Cho nên tất cả những công trình đặt định giá trị của mọi nhà phê bình xưa nay Đông Tây, đều theo ý tôi, là những công việc vô lợi, đẫm màu chủ quan, hay là có một thứ khách quan hư ngụy, vô nghĩa. Chúng không cho lòng tin về sự đẹp của ta một lý do vững chắc nào, Chúng giống như những loại mệnh đề tuyên truyền của tôn giáo, những thứ mệnh đề ngầm ấn những quan niệm tiên thiên, siêu việt toàn phi lý (irrationnel). Đau khổ hơn là nếu những từ ngữ đánh giá (termé evaluateurs) đó có thể chỉ là những tiếng hiệu triệu đẫm xúc cảm thì có thực chúng ta đã muôn đời tự lừa dối chúng ta mỗi khi dùng chúng (Mà giây phút nào không đúng).Thế nào là gía trị? Thế nào là chân, là thiện, là mỹ? Đâu là một vài lý do cho lòng tin, một lòng tin nho nhỏ của ta? Câu hỏi ném lên không trung, chỉ sóng gió thầm thì trả lời. Đó là nỗi chán chướng trong việc phê bình văn nghệ hôm nay.”

Nhà văn nhạc sĩ Cung Tiến ở ngoài đời thường có nhiều giai thoại lý thú về ông. Tôi chỉ nghe người này kể người khác nói. Nhưng có một người bạn thân của ông, nhà văn Phan Lạc Phúc đã kể lại trong Tuyển Tập Tạp Ghi đã viết lại một giai thoại khá vui vui về nhà văn nhạc sĩ Cung Tiến. Ông Phan Lạc Phúc kể:

“Ngày thường gặp Cung Tiến, anh trang nhã thận trọng pha một chút lạnh lùng kiều Ang Lê Cambridge. Nhưng trong những lúc phùng trường tác hí, nhất là khi đã nhậu dăm ba consommation rồi là Cung Tiến phừng phừng bất cần đời. Chúng tôi có thói quen ăn nhậu rồi vào khoảng 10 giớ, 11 giờ đêm là kéo đến Đêm Mầu Hồng. Chủ quán Phạm Đình Chương đã dành sẵn một chỗ ngồi riêng giá biểu riêng cho bạn hữu như đã thành lệ khi Cái Bang đến là Phạm Đình Chương hay Thái Thanh chuyển hướng đề tài. Bữa ấy “cổ kim hòa điệu“ diễn ra hơi dài. Cung Tiến khật khưỡng bước ra sân khấu-gạt người đánh piano ra một bên rồi ngồi xuống dạo Senerade. Cổ kim hòa điệu với nhạc Schubert thì không thể nào “đi” với nhau được nó ngang phè phè. Một khán giả mặc quân phục dù, mũ đỏ chợt bước lên. Anh tiến lại chỗ Cung Tiến đánh đàn và nắm lấy tay. Cung Tiến không nhìn lên, hất tay ra, vẫn tiếp tục dạo đàn và nói ”đi chỗ khác chơi”. Chủ quán Phạm Đình Chương biết là có chuyện vội đứng ra xin lỗi.nhưng không kịp nữa rồi. Một vài tiếng nổ xé tai của chai la de vỡ nổi lên. Một vài người bạn dù cùng đi đã nắm cổ chai la de vỡ kéo lên sân khấu, tất cả khán phòng im bặt - một sự im bặt bất thần và rùng rợn - chỉ còn một mình Cung Tiến vẫn mê mải đánh đàn. Vũ Khắc khoan vội bước ra. Dù đã nhậu sương sương nhưng Vũ Khắc Khoan vẫn còn đủ tỉnh táo để nắm lấy vai người sĩ quan dù mũ đỏ mà nói khẽ ”Anh học trò tôi có phải?” người sĩ quan dù đang hầm hầm sắc giận vội vàng nhìn lại rồi đổi giọng ”Thưa thầy...” Người sĩ quan ấy là môn sinh của họ Vũ, không biết ở Chu văn An hay ở Văn Khoa. Họ Vũ khoác vai người sĩ quan dù và nói ”Thôi… anh em cả” Người đánh đàn say không nhận được việc gì đã xảy ra sau lưng anh. Nếu không có Vũ Khắc Khoan đêm ấy... sự việc sẽ không biết còn diễn biến thế nào...”

Câu chuyện kể của nhà văn Phan Lạc Phúc thật là lý thú. Ở vai trò người bạn thân ông có nhận xét nào sâu sắc về vóc dáng của nhạc sĩ Cung Tiến:

“Có hai con người trong một Cung Tiến. Một con người duy lý, muốn đi đến cùng lý luận, một con người khác duy cảm - muốn thỏa mãn ngay những đòi hỏi của mình... Con người nào ưu thắng trong Cung Tiến? Tôi vẫn nghĩ là con người duy lý. Cung Tiến chỉ “bốc đồng” khi uống rượu say. Bình thường, như đã nói ở trên Cung Tiến trang nhã và thận trọng. Ở trong địa hạt Cung Tiến yêu thích nhất: âm nhạc Cung Tiến cũng rất là duy lý. Những bài hát đầu tay như Thu vàng, Hương Xưa, Nguyệt Cầm, Hoài Cảm... dù được yêu thích đến thế nào chăng nữa, đối với Cung Tiến, vẫn chỉ là bài tập - một giai đoạn cần phải vượt qua…”

Phong cách sống của một nghệ sĩ như Cung Tiến là như vậy. Hình như có một bài thơ của một người bạn viết về Cung Tiến với sự chia sẻ lớn lao. Tình cờ tôi có đọc một bài thơ của tác giả Phạm Nguyên Vũ. Ông là bạn thân với Cung Tiến, đi du học ở Úc thuộc thế hệ đầu tiên và có đăng thơ trên tạp chí Sáng Tạo bộ cũ. Thơ của ông có nét hồn nhiên của tuổi trẻ, có nét khai phá của những bước chân bước đến đầu tiên nhưng ít có chất làm dáng trí thức mà lại có sự chân thực của người hăm hở đi tìm kiếm nét mới lạ cho thi ca của mình. Bài thơ của ông viết tặng bạn là “Và Cung Tiến“:

“Nhạc của hồn ta phải không
Hay của những đêm
xa gia đình nhớ điên cuồng
mỗi một bóng cây là
tiếng thì thầm bạn hữu
nhạc của hồn ta hay nơi đây
của đêm sao đầy mắt
đầy linh hồn
ôi đêm tỉnh dậy nghe
trong khuya yên lặng nên
giọng lời nghe từng tiếng
em nào có biết đâu
mỗi giòng nhạc của anh hay của bạn anh
đều nói những ngày mai chưa đến
em nào tin sự êm đềm
và đau khổ ngày qua
như chẳng tin đời ta
có hai kẻ đọa đầy
bằng lên tiếng thay cho người khác.”

Với Cung Tiến, trong đời thường và trong âm nhạc, thấp thoáng những tình bằng hữu, những tâm giao tri kỷ tri âm. Từ lúc thiếu thời, ông làm nhạc để tặng bằng hữu, để bạn bè cùng một nòi nghệ sĩ ”ngứa cổ hót chơi”. Chính những bản nhạc như Hoài Cảm, Hương Xưa, Thu Vàng để tặng bạn hữu, những Đỗ Tuấn, Duy Trác,... để những giọng ca tài tử trong giới sinh viên học sinh này truyền đi những cung bậc âm thanh chuyên chở theo những tâm cảm bồng bềnh lãng mạn. Rồi ở tuổi lớn hơn, ông đã phổ nhạc từ thơ của những thi sĩ mà ông kính trọng và thương mến và trong đó có tất cả bạn hữu của ông. Như với Thanh Tâm Tuyền, ông phổ nhạc từ thơ của bạn và từ cung bậc âm thanh đã diễn tả được những thông điệp văn chương mà thơ Thanh Tâm Tuyền chất chứa.

Cũng như, với thi sĩ Vũ Hoàng Chương, mặc dù là thầy dạy Việt văn ở Chu Văn An nhưng ông vẫn coi Cung Tiến là bạn vong niên tri kỷ hơn là đối xử như tình thầy trò. Và nhạc sĩ Cung Tiến, trong sự kính trọng cũng coi nhà thơ khoáng đạt này như một người hiểu biết được tâm cảm của mình. Phổ bài thơ dịch Hoàng Hạc Lâu của Vũ Hoàng Chương từ thơ Thôi Hiệu, nhạc sĩ đã mang lại từ những âm điệu những chuyên chở của một thế thời đảo điên, bạn bè tản lạc. Dịch Đường Thi, một bài thơ nổi tiếng mà ngàn đời xưng tụng, từ tâm cảm của một người cảm xúc giữa cảnh tang thương của đất nước, thi sĩ họ Vũ đã tạo thành một bài thơ mà có người cho rằng còn tuyệt vời hơn nguyên tác nữa. Rất nhiều người đã dịch và cũng có những bản dịch hay được truyền tụng thí dụ như của Trần Trọng Kim, Tản Đà, Ngô tất Tố, Trần Trọng San,... nhưng, trong cái cảm xúc của thời thế, của những cuộc bể dâu thay đổi thì thơ dịch của Vũ Hoàng Chương làm người đọc cảm động nhất, và người đọc cảm động nhất là Cung tiến đã mang thơ để từ đó tạo những nhịp cầu làm người nghe, người đọc hay từ nhạc sĩ đến thi sĩ cùng hòa đồng với nhau những nỗi niềm của một thời đại đặc biệt của dân tộc của đất nước.

Có nhà văn đã phát biểu rằng ca khúc của Cung Tiến đều là những bản dịch từ thơ sang nhạc. Mỗi một người có nhận định riêng và theo cảm quan cá nhân nhất là thơ và nhạc hình như có rất nhiều liên quan với nhau đến nỗi có khi trở thành một.

Chính nhà văn nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn đã có nhận xét ấy. Ông còn nói đó là rượu cất từ trái nho chứ không phải là rượu ngang. Nhạc sĩ Cung Tiến là người có kiến thức sâu rộng về nhiều mặt ngoài viết nhạc ông còn là một dịch giả văn chương và là một chuyên gia kinh tế nhưng ông yêu thơ. Lời ca của ông có một vẻ gì đó như được chiết ra từ thơ, thơ của những người ông đã đọc, thơ của trời đất và của chính tâm hồn ông.

Tôi nghĩ điều đó hiển nhiên và nhà văn Nguyễn Đình Toàn đã có một nhận xét chính xác về nhạc sĩ nhà văn Cung Tiến.


Chúng ta đã phác họa chân dung văn chương Cung Tiến qua bút hiệu Thạch Chương và Đăng Hoàng. Vóc dáng nghệ sĩ của ông thật đa dạng và ở bất cứ một địa hạt nào cũng đều là kết quả của sự học hỏi khổ luyện từ khởi đầu của một bộ óc suy tư và nhạy cảm. Hôm nay, chúng tôi sẽ tản mạn về chân dung nhạc sĩ mà ở những bản nhạc xuất hiện đầu tiên đã trở thành những bản nhạc được hoan nghênh ưa thích. Chúng ta sẽ cùng bước chân vào cõi khai phá của một người nghệ sĩ luôn tìm tòi mong đạt được đến đỉnh cao nhất của những sáng tác để đời.

Chính vì sự đa diện phong phú nên phác họa lại chân dung nhạc sĩ Cung Tiến cũng không phải là một công việc đơn giản. Nếu được đặt ra câu hỏi rằng công việc ấy có “khó“ không thì sự việc không đơn giản.

Trả lời cho rõ ràng đến nơi đến chốn thì phải dài giòng lắm. Chúng ta như đi vào một khu rừng và chỗ nào cũng muốn bước đến, chỗ nào cũng đầy mùi thơm của hương hoa của đất trời. Nếu trả lời thật giản dị là yêu thích nhạc Cung Tiến nhất cũng xong nhưng nếu đi tìm những kỳ hoa dị thảo thì có lẽ cũng tốn hao thời giờ nhiều lắm. Nhưng nếu nói một cách thành thật nhất thì tôi yêu thích một vài bản nhạc Cung Tiến vì có một vài kỷ niệm với nó.

Kỷ niệm? Chắc là kỷ niệm với một nàng bé bé xinh xinh nào rồi. Có người đã bói quẻ để đoán mò như thế.

Nhưng trật. Trật lấc! Kỷ niệm không phải với một nàng bé bé xinh xinh nào. Mà không hiểu tại sao cứ mỗi lần nghe lại bản nhạc Hương Xưa là tôi lại nhớ đến một người bạn đã chết trên chiến trường Tây Nguyên năm 1972. Lúc đó tôi ở Pleiku và có một người bạn là phi công trực thăng thường hát luôn miệng hai câu nhạc đầu của bản nhạc Hương Xưa và chỉ láy đi láy lại hai câu ấy mà thôi ”Người ơi! Một chiều nắng tơ vàng hiền hòa hồn có mơ xa. Người ơi! Đường xa lắm con đường về làng hồn có mơ xa...” Những buổi chiều nhạt nắng, ngồi ở thảm cỏ đầu hiên barrack chờ đi ra phố ăn cơm, nhìn trời nhìn đất mà nghe những câu hát ấy thì quả là buồn nẫu ruột. Có lần tôi hỏi anh bạn sao hát hoài chỉ có một câu hát ấy thôi thì anh hồn nhiên trả lời "Vì câu hát mà tôi gọi người ơi là để nhớ tới em bé của tôi" Tôi bực mình kê nhẹ ”nhớ gì mà nhớ lắm thế? Cứ ù nhè mỗi buổi chiều hiu hắt như thế này mà nhớ thì thiệt là hại bạn vô cùng đó nghe!” Anh cười trừ và đánh trống lảng. Nhưng, rồi một ngày, con tàu của anh tan vỡ trên không và anh đã ra đi trong phi vụ ấy. Lúc nghe tin dữ tôi lạnh buốt cả người. Và tự nhiên câu hát ấy cứ lởn vởn trong tâm trí tôi. Buổi chiều về cư xá, hình như tôi vẳng nghe câu hát. Những câu người ơi của tha thiết tự tình. Những chữ người ơi của một mối tình đã tử biệt sinh ly. Tôi hình dung lại vóc dáng của người bạn và thấy khao khát vô cùng làm sao nghe được câu hát xưa. Nhưng người bạn đã ra đi và không hiểu tại sao cứ mỗi lần nghe bản nhạc ấy là như sống lại một thời thuở đó, của những ngày tuổi trẻ tưởng như mới đây mà đã hơn mấy chục năm. Nhạc để nhớ bạn và tôi đã từ những ca từ ấy để trở về nỗi niềm của hoài vọng xa xưa…

Thật là một kỷ niệm buồn! Nhưng lại có câu hỏi tiếp. Chẳng lẽ yêu nhạc Cung Tiến chỉ vì lý do ấy thôi sao?

Dĩ nhiên là có nhiều lý do chứ! Một trong những lý do là nhạc của ông tượng hình cho những bước chân suốt đời đi tìm kiếm. Luôn luôn thay đổi, từ phong cách đến ngôn từ, nhất là nhạc của ông dường như gắn liền với thơ, với những khung trời thơ mộng lãng mạn. Trong hành trình sáng tác, từ nhạc có lời sang nhạc không lời, từ những bản nhạc đầu tay như Hoài Cảm, Hương Xưa như những bài thơ văn xuôi trữ tình sang cả đến những bản nhạc về sau vượt qua cửa ải ngôn ngữ. Nhạc không lời có âm vực riêng và có phong cách diễn tả dễ làm người nghe xúc động...


Nhạc của Cung Tiến liên quan thế nào với thi ca? Năm 1987, Cung Tiến viết nhạc tấu khúc Chinh Phụ Ngâm soạn cho 21 nhạc khí được trình diễn tại San Jose với dàn nhạc thính phòng. Chinh Phụ Ngâm của Hồng Hà Nữ Sĩ Đoàn Thị Điểm là một áng thi ca nổi danh của dân tộc Việt nam viết về một giai đoạn chiến tranh của đất nước. Theo lời phụ dẫn của tác giả thì thi phẩm này vô cùng súc tích về cảnh, về cách xử dụng ngôn ngữ cũng như nhạc đệm của tiếng Việt. Vì thế không ai dám nghĩ đến việc phổ nhạc cả tập thơ để hát mà chỉ dùng nó như một cảm hứng cho sáng tác của mình. Do đó nhạc tấu khúc này cũng chỉ là một cố gắng “minh họa” chấm phá bằng nhạc một số tình, ý, và cảnh chính yếu trong tập thơ mà thôi. Theo đúng thứ tự xuất hiện trong thi phẩm của bà Đoàn Thị Điểm thì tập nhạc gồm 4 phần :

Phần giáo đầu với sự phụ họa của các nhạc khí sẽ ngâm giọng sa mạc mười hai câu thơ mở đầu cho tập Chinh Phụ Ngâm: ”Thuở trời đất nổi cơn gió bụi / Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyến /...”.

Phần thứ hai : Chuyển động I – Nuớc thanh bình – Cơn gió bụi. Minh họa 2 câu: “Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt / xếp bút nghiên theo việc đao cung”. Chuyển động chấm dứt bằng cảnh tiễn biệt, chia tay của chinh phu chinh phụ

Phần thứ ba chuyển động II: nhạc đề chính từ 4 câu thơ “Hồn tử sĩ gió ù ù thổi / mặt chinh phu trăng dõi dõi soi / Chinh phu tử sĩ mấy người / nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn”

Chuyển động III: Mộng khải hoàn. Chủ đề chính là hai câu thơ ”Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải / Tiếng khải ca trở lại thần kinh” và hai câu thơ ”Giở khăn lệ chàng trông từng tấm / Đọc thơ sầu chàng thấm từng câu”

Phần bạt : từ bốn câu chót của chinh Phụ Ngâm : ”Cho bõ lúc xa sầu, cách nhớ? Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình / ngâm nga mong gửi chữ tình / dường này âu hẳn tài lành trượng phu”

Tiếp theo ông có những nhạc tấu khúc. Năm 1982, nhạc sĩ Cung Tiến lấy 10 bài thơ của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền để soạn thành ca khúc lấy tên là “Vang Vang Trời Vào Xuân.” Năm 1992, ông hoàn thành tập nhạc Ta Về, thơ Tô Thùy Yên cho giọng hát, nói, ngâm và một đội nhạc cụ thính phòng. Năm 1993, ông soạn Tổ Khúc Bắc Ninh cho giàn nhạc giao hưởng với sự tài trợ của The Saint Paul Companies để nghiên cứu nhạc Quan họ Bắc Ninh và các thể loại dân ca Việt Nam khác. Năm 2003 ông hoàn thành một sáng tác nhạc đương đại Lơ Thơ Tơ Liễu Buông Mành dựa trên một đoạn dân ca Quan họ.

Trường hợp nào mà ông phổ nhạc thơ của thi sĩ Thanh tâm Tuyền? Chính nhạc sĩ đã kể lại về trường hợp sáng tác này:

“Năm 1991, họa sĩ Duy Thanh từ San Francisco gửi cho tôi tập văn / thơ / nhạc Tắm Mát Ngọn Sông Đào, do nhà Lá Bối mới in ở Paris gồm những sáng tác của một số văn nghệ sĩ miền Nam gửi lén ra từ các trại tù cải tạo.

Trong tuyển tập này có một số bài thơ của một Trần Kha nào đó. Duy Thanh, bằng thư tín với gia đình Thanh Tâm Tuyền còn ở Sài Gòn, bảo rằng ấy là thơ “bạn ta” đấy. Quả nhiên khi đọc tôi nghe thấy đúng là ý và lời của Thanh Tâm Tuyền. Sau này được hỏi ”Sao lại Trần Kha? Muốn làm Kinh kha chăng?” Thanh Tâm Tuyền đáp: Tôi đâu có đặt cái tên kỳ cục ấy! Giá như “Trầm Kha” thì nghe còn đỡ hơn.

Để nhớ tới và vinh danh người bạn thiết, lúc ấy vẫn còn đang “lao cải” trong “các trại học tập cải tạo” của Cộng sản Bắc Việt năm 1982-1983 tôi đã lựa 10 bài “ngục trung thi” của ông để soạn thành một liên ca khúc (song cycle) mang tên Vang Vang Trời Vào Xuân. Tập ca khúc soạn cho giọng hát và piano được biểu diễn lần thứ nhất tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn năm 1985 dưới sự bảo trợ và tổ chức của cặp bạn Lê Văn / Xuân Lan với hai giọng hát xuất sắc Mai Hương và Quỳnh Giao, nhạc sĩ quá cố Nghiêm Phú Phi (1930-2008) đàn piano và Lê Văn (đài Tiếng Nói Hoa Kỳ, VOA) giới thiệu chương trình.”

Hình như nhạc sĩ Cung Tiến có một biệt nhãn nào đó với thơ Thanh Tâm Tuyền. Phải nói thơ Thanh Tâm Tuyền rất khó phổ nhạc bởi vì thơ của ông có âm điệu khá đặc biệt, hay xử dụng vần trắc và diễn tả ý nghĩa cũng theo một cung cách âm vực riêng. Nhưng nhạc sĩ Cung Tiến đã phổ nhạc thành công có lẽ nhờ tình tri âm tri kỷ với nhau. Sau này, nhạc sĩ đã hỏi nhà thơ khi ông đang định cư tại Minnesota ”ông làm bài này trong tâm trạng nào?” về bài thơ “in trong tập Liên, Đêm Mặt Trời Tìm Thấy. Thanh Tâm Tuyền trả lời ”Tức là... dạo ấy mình đã chán làm thơ quá rồi. Miền Nam thì coi tôi như là thi sĩ tả phái, và miền Bắc thì coi tôi là thi sĩ hữu phái. Thế thì tôi là kẻ untouchable rồi, là hủi rồi chứ còn gì nữa? Thì làm thơ thêm làm quái gì cho mệt?“ Thành ra, bài hát ấy muốn lấy nhạc minh họa cho tâm trạng chán chường day dứt của cái ông thi sĩ lúc nào cũng thấy mình cứ vẫn “còn cô độc" này”.

Vói thi sĩ Vũ Hoàng Chương ông cũng có lòng kính trọng và liên tài không kém. Ông viết về trường hợp đã sáng tác bản nhạc Hoàng Hạc lâu từ bản thơ dịch từ Đường Thi Thôi Hiệu:

“Vì sao tôi lấy tên ca khúc Hoàng Hạc Lâu đặt tên cho Tuyển tập I này? Ấy là để ghi lại biến cố lịch sử 1975 của dân tộc ta, kết thúc cuộc nội chiến Nam Bắc đau thương trên hai mươi năm với những ly tán, thù hận, oán ghét, Năm 1976 lúc tôi mới qua Úc Châu định cư, cố họa sĩ Ngọc Dũng (1930-2000) từ Hoa Kỳ gửi cho tôi bài thơ tên ấy của Vũ Hoàng Chương (1916-1976) dịch thơ Thôi Hiệu (670-727). Xúc động vì lời thơ và nhớ tới thi sĩ ( lúc ấy đang bị giam cầm tại khám Chí Hòa) tôi đã phổ nhạc bài này với ý định sẽ gửi về Sài Gòn để Thái Thanh hát cho nhà thơ nghe. Không dè “Thi Vương“ họ Vũ (như Vũ Hoàng Chương tự xưng trong bài thơ Nét Đau Mặt Chữ) đã mất khoảng một hay hai tháng trước khi tôi có dịp gửi về Việt Nam. Trong sáng tác này để gợi không khí Đông Phương của Đường thi tôi đã dùng tự do thang âm ngũ cung để soạn giai điệu và hòa âm và đây cũng là lần đầu tiên tôi sử dụng một cách có ý thức chất liệu quý báu này của âm nhạc dân tộc ta.”

Bản dịch thơ Hoàng Hạc Lâu của thi bá Vũ Hoàng Chương mà có người cho rằng còn hay hơn cả nguyên tác và là một tuyệt bút của nỗi niềm tượng trưng cho một thời đại đặc biệt Việt Nam :

”Xưa hạc vàng bay vút bóng người 
Đây lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi 
Vàng tung cánh hạc đi đi mãi 
Trắng một mầu mây vạn vạn đời 
Cây bến Hàm Dương còn nắng chiếu 
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi 
Gần xa chiều xuống nào quê quán 
Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!”


Ca sĩ mà cũng là nhà văn Quỳnh Giao nhận xét:

”Toàn bài Cung Tiến dùng âm giai ngũ cung đầy chất Đông Phương với nét nhạc thanh thản, nhuốm vẻ Lão Trang và phảng phất giai điệu Claude Debussy trong bài “Clair De Lune”. Cung Tiến rất chuộng Debussy khi nhạc sĩ người Pháp này khám phá nhạc Á Đông vào đầu thế kỷ trước. Debussy cũng dùng hợp âm ngũ cung và cũng lấy “Arpège” rải tay trái và đưa ra một hợp âm lạ tai mà hài hòa êm ái...

Bìa Hoàng Hạc Lâu là viên ngọc quý của thơ Đường. Bản dịch Vũ Hoàng Chương là bài chuyển ngữ mang tâm sự của một thi hào trong hoàn cảnh bi đát của đất nước. Ca khúc Cung Tiến là sự kết gợp lạ kỳ của tình cảm và nhạc thuật để nối liền ngần ấy nét đẹp của thơ của nhạc. Điều hơi tiếc là ít người biết hoặc trình bày ca khúc trác tuyệt này để đời sau còn nhớ Vũ Hoàng Chương và dòng nhạc quý phái của miền Nam chúng ta khi mình đã mất hết.

Lần cuối mà miền Nam tự do có buổi sinh hoạt để vinh danh Vũ Hoàng Chương là vào Tháng ba năm 1975 tại phòng trà của Khánh Ly do Mai Thảo và Thanh Tâm Tuyền tổ chức. Đã 35 năm tròn rồi. Sau đó là cảnh chia ly tan tác “Vàng tung cánh hạc”... như ánh chớp chợt lóe rồi vụt tắt. Dư âm còn lại là tiếng nhạc lãng đãng trong chiều tà. Sau đấy là cõi tối đen của thơ và nhạc.”

Nhạc sĩ Cung Tiến còn phổ nhạc rất nhiều những bài thơ độc đáo của những thi sĩ nổi danh. Ông đã phổ nhạc rất nhiều. Như bản “Nguyệt Cầm" ý thơ Xuân Diệu như bản : Hoàng Hạc Lâu” từ bản dịch thơ của Vũ Hoàng Chương. Như “Vết Chim Bay” phổ thơ Phạm Thiên Thư. Như “Thuở làm Thơ yêu Em” phổ thơ Trần Dạ Từ. Như “Đi Núi” phổ thơ Xuân Diệu. Như “Đường Hoa “ phổ từ bài thơ “Đôi Mắt Người Sơn Tây” của Quang Dũng. Như ”Khói Hồ Bay” phổ từ bài thơ ”Thu ở Vermont” của Nguyễn Tường Giang. Như bài “Lệ Đá Xanh” và “Đêm” phổ thơ Thanh tâm Tuyền…

Phổ thơ Thanh Tâm Tuyền, từ những bài như Lệ Đá Xanh hay Đêm, nhạc sĩ Cung Tiến dường như ở trong tình trạng cùng chia sẻ với và chung xúc dộng cùng. Ông bày tỏ: ”Thơ Thanh Tâm Tuyền được sáng tác trong những năm đầu thập kỷ 50 và xuất hiện trong tập thơ đầu tay của ông mang tựa đề ”Tôi không còn cô độc” Sáng Tạo in năm 1956. Tôi phổ nhạc thi khúc này năm 1957 lúc đang học năm thứ nhất đại học ở Sydney, Úc Châu. “Đá Xanh” chỉ giản dị là thứ đá cứng màu xanh đập nhỏ ra để trải đường trước khi tráng nhựa. Vì với những viên đá xanh phải chăng vì những hạt lệ thầm “khóc không rơi ngoài trái tim mình” của nhà thơ đã không chảy được thành dòng mà đóng thành khối cứng, vô hình? Người nhạc sĩ bạn quá cố phạm Đình Chương năm 1970 đã trích mấy giai điệu gần cuối của ca khúc này để viết Nửa Hồn Thương Đau, bài hát chính trong phim Chân Trời Tím...”

Có một bản nhạc của nhạc sĩ Cung Tiến được giải thưởng của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa. Giai điệu ca khúc ”Mùa Hoa Nở” được soạn tại Sài Gòn năm 1955 đáp ứng thông cáo về cuộc thi của Đài Phát Thanh Quân Đội bấy giờ đang kiếm một ca khúc nào nói về cuộc di cư lịch sử vào Nam của những người miền Bắc để tránh chế độ Cộng sản. Ca khúc Mùa Hoa Nở được chấm giải nhất của Tổng Thống VNCH và được hai đài phát thanh Quốc Gia và Quân đội trình diễn nhiều lần trong nhiều năm với hòa âm và phối khí cho dàn nhạc của nhạc sĩ Hoàng Trọng. Nôi dung lời ca của ca khúc này nói về giấc mơ khải hoàn của những đoàn chiến sĩ quốc gia tiến về giải phóng Hà Nội…



Có những bài nhạc Cung Tiến hoàn thành rất sớm khi còn tuổi thanh thiếu niên nhưng lại có giá trị trường cửu. "Thu vàng “ và “ Hoài Cảm “ là những bản nhạc mà Cung Tiến đã sáng tác sớm nhất khi vừa 15 tuổi còn học ở trung học. "Thu vàng” viết về mùa thu Hà Nội của những ngày ấu thơ nhặt lá vàng. Ca khúc trở thành một bản nhạc của những người di cư luôn nhung nhớ quê hương đất Bắc của mình rất được thính giả ưa thích qua phần trình diễn trẻ trung sống động của Tâm Vấn, Đỗ Tuấn, Kim Tước, Mai Hương,... toàn là các ca sĩ trẻ trong giới sinh viên học sinh. Tiếp theo, ông viết “Hoài Cảm” để tặng Đỗ Đình Tuân (tức ca sĩ sinh viên Đỗ Tuấn) và cũng được ái mộ ngay từ buổi trình diễn đầu tiên. Theo nhạc sĩ Cung Tiến thì “đó là hai trong số những bài hát sớm nhất được viết năm 1952 hồi tôi đang học năm thứ ba bậc trung học. Người đầu tiên đem phổ biến hai bài này trên đài Phát Thanh Quốc gia dạo ấy là Đỗ Tuấn rồi tới ca sĩ Tâm Vấn, nhất là bài Thu Vàng. Giai điệu và hòa âm của hai bài này đơn giản cấu trúc và nhạc thể rất chân phương và lời ca mang ảnh hưởng nặng của các nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu, Huy Cận.”

"Hương Xưa” là bài nhạc Cung Tiến gửi tặng Khuất Duy Trác, một người bạn thân thiết của ông. Và cũng từ chính giọng hát của Duy Trác đã đem “Hương Xưa" đến đài phát thanh và các tiền trường sân khấu của các trường trung học hoặc đại học và trở thành một hãnh diện của những người trí thức trẻ say mê văn nghệ.

Nhưng tại sao, chính nhạc sĩ lại coi những ca khúc này như những bài tập - exercise mà thôi? Đó là một cá tính của nhạc sĩ Cung Tiến. Trong sự nghiệp âm nhạc của ông có nhiều giai đoạn phải tự vượt qua. Cung Tiến viết nhạc đầu tay ca từ trữ tình lãng mạn. Cung Tiến không xử dung ca từ thi ca của mình mà lại phổ nhạc những bài thơ mà ông ưa thích và quý trọng. Rồi sau đó ông không viết nhạc có lời nữa mà viết nhạc không lời. Có lẽ ông nghĩ rằng nếu đích thực là âm nhạc thì nhạc có ngôn ngữ riêng và cũng có những quy luật diễn tả tự nhiên như trời đất vẫn hiện hữu.

Với sự thay đổi chủ đề cũng như tìm tòi để có những ý tưởng cũng như giai điệu đấy chất sáng tạo như thế chắc căn bản nhạc lý của ông vững vàng lắm?

Thì trong thực tế chúng ta tìm ngay được câu trả lời. Với niềm say mê âm nhạc, ông đã học xướng âm và ký âm với hai nhạc sĩ nổi tiếng Chung Quân và Thẩm Oánh ở bậc trung học. Du học qua Úc, tuy môn học chính là kinh tế nhưng ông cũng đã theo học các lớp về dương cầm, hòa âm, đối điểm và phối cụ tại âm nhạc viện Sydney. Rồi khi du học bậc cao học về kinh tế học phát triển tại viện đại học Cambridge ở Anh, ông cũng theo học thêm các lớp về nhạc sử, nhạc học, nhạc lý hiện đại. Và về sau này ông cũng là người tự học rất nhiều nên trong các tác phẩm của ông đã bày tỏ sự gắng công dù ông có thiên khiếu về âm nhạc. Và hình như, ông vẫn tự coi mình là một amateur trong âm nhạc, một nghệ sĩ tài tử coi bộ môn này như một thú tiêu khiển làm đẹp cuộc đời…


Nếu có một kết luận thì tôi sẽ kết luận như thế nào về chân dung nhà văn nhạc sĩ Cung Tiến ? Tôi nghĩ mình khó mà gói ghém được tất cả những điều gì mà mình nghĩ về và cảm nhận về. Thôi thì mượn lời của nhà văn Phan Lạc Phúc vậy. Theo ông thì những bài hát đầu tay của Cung Tiến từ khi xuất hiện tới nay, trên 40 năm, không lúc nào ngừng tỏa hương thơm. Một hương thơm dịu dàng sâu kín, có để ý tìm mới thấy. Nó không gây ồn ào như một số nhạc thời thượng, tiền tuyến, hậu phương, du ca, về nguồn, thân phận nhưng có một sức sống riêng bền bỉ. Đó là một khu vườn Cung Tiến không lẫn với ai, nhạc “xưa” nhưng không cũ bao giờ, nghe càng lâu càng thấm. Nó chịu được sự thử thách của thời gian”.


Nguyễn Mạnh Trinh


nguồn www.phusaonline.free.fr