Đoàn người xuôi Nam tị nạn CS.
Rồi tháng 4.75 tới, đoàn người tiếp tục tìm đường tị nạn CS.
...bạo lực được che đậy bằng dối trá - dối trá tồn tại nhờ vào bạo lực.
(Alexandre Soljenitsyne)
Tháng tư năm 1975. Thời điểm gắng quên mà vẫn mãi nhớ. Ba mươi ba năm trôi qua. Bao nhiêu là hồi ức. Không phải với riêng cá nhân tôi, mà còn với nhiều người và nói rộng ra, cả dân tộc nữa. Những vết chém tới bây giờ vẫn chưa lành miệng. Những đau xót đến ngày nay vẫn còn tồn tại trong tâm. Nhiều người kêu gọi xóa bỏ chiến tuyến gạt bỏ hận thù. Nói thì dễ, nhưng hiện trạng bây giờ, vẫn còn rất nhiều điều để thấy rằng cái hố sâu ngăn cách dân tộc của thời nội chiến không dễ gì lấp đầy.
Đọc trong những tác phẩm mới xuất bản gần đây ở trong nước tôi mới thấy rằng ngay cả những người cầm bút cũng vẫn còn ảnh hưởng cái tư tưởng “địch-ta“ khá nặng nề. Mà tư tưởng ấy lại là sản phẩm còn sót lại của một nền văn học cổ võ hận thù tán dương chiến tranh, sản phẩm của tuyên truyền. Dù có đổi mới tư duy, có nhìn ngắm lại, nhưng ảnh hưởng vẫn còn trong văn chương.
Với những người Cộng sản Việt Nam, tuyên truyền ở một vị trí xung yếu. Tất cả, trên mọi phương diện đều phục vụ cho một mục tiêu: tạo một bánh vẽ tốt đẹp dể cưỡng bách bắt mọi người phục vụ theo đường hướng định sẵn. Nhà văn Alexandre Soljenitsyne trong diễn văn đọc khi nhận giải Nobel về văn chương đã viết về tính chất của các chế độ độc tài toàn trị như sau:
“… Ai là người sẽ đặt câu hỏi với chúng ta: văn học sẽ làm được gì để chống trả lại sự công hãm khốc liệt của cường quyền công khai? Là : chúng ta phải nhớ mãi rằng bạo lực không thể đơn độc một mình và cũng không có khả năng tồn tại duy nhất, nó bắt buộc phải bắt tay với sự dối trá. Giữa bạo lực và dối trá có mối quan hệ sâu sắc ruột thịt tự nhiên : bạo lực được che đậy kín đáo bằng dối trá và dối trá cũng nhờ vào bạo lực để tồn tại. Nếu có một kẻ nào tự nhận bạo lực là phương pháp áp dụng của mình thì bắt buộc phải chọn dối trá làm chỉ nam hướng dẫn. Khi khởi đầu quyền thế, bạo lực nghiễm nhiên công khai và rất là kiêu hãnh. Nhưng khi đã bành trướng, đủ sức mạnh áp chế với vị trí độc tôn của mình, nó lại cảm thấy bất an với dông bão chung quanh và chỉ thấy sẽ tồn tại được nếu cứ tiếp tục dối trá. Và dối trá đã sẵn được ngụy trang bằng nhũng ngôn từ ngọt ngào hoa mỹ. Bạo lực không nhất thiết luôn luôn bóp cổ bẻ họng trực tiếp dân chúng mà phần đông chỉ đòi hỏi từ nhân dân của chúng một lời thề từ dối trá, để có mặt trong vai trò ấy một cách tự nguyện.
Bước giản dị của một người dũng cảm để chống lại là không tham dự vào trò dối trá và không đi theo những việc làm dối trá. Nếu bắt buộc cứ để nó ngự trị và nếu thống trị cả toàn cầu cũng chẳng sao, ta không đứng về phía nó! nhà văn và nghệ sĩ còn có thể tích cực hơn nữa : chiến thắng sự dối trá. Trong cuộc chiến sinh tử này, nghệ thuật bao giờ cũng đã và đang chiến thắng. Sự ấy hiển nhiên, không một ai có thể chối cãi. Dối trá có thể lừa được rất nhiều thứ trên thế gian này nhưng chỉ bị một khắc tinh : nghệ thuật…“
Trở lại với hiện tình Việt nam tình trạng tụt hậu hiển nhiên rõ ràng. Từ mọi mặt, là sự sa sút tràn đầy. Xã hội tha hóa, giáo dục xuống cấp, con người chạy theo tiền bạc, luật pháp bất công, kinh tế trì trệ, thì đôi khi những nhà văn đã nhìn lại quá khứ chiến tranh và để tự hào vì những kinh nghiệm sống đã có.
Có nhà văn đã trích dẫn những đoạn văn mà các tác giả trong nước đã viết về cuộc chiến tranh vừa qua để nói về cái tâm lý đã có từ bao nhiêu năm nay bây giờ vẫn còn tồn tại. Những cuộc chém giết thản nhiên, pha lẫn chút hăng say bệnh hoạn, biểu lộ một tâm tính đã bị tha hóa cùng cực vì sự tuyên truyền của chế độ. Có nhiều người dân miền Bắc đã yên trí về hình dạng của người lính Cộng Hòa nên hỏi rằng lính Ngụy có đuôi không và có ăn gan uống máu người như hệ thống văn công đã mô tả. Thành ra, ngay cả một tác giả như Tạ Duy Anh, đã có nhiều suy nghĩ về cuộc chiến và đôi khi có những nhận định đi ngược lại với con đường văn chương vạch ra của hệ thống tuyên huấn Đảng mà còn viết trong tiểu thuyết “Đi tìm nhân vật”:
“…quân ta ào lên, bắt giết, đâm, dẫm đạp. Một mụ ngụy cái, ngực để trần, miệng há ra ú ớ. Niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn mình bốc lên ngùn ngụt trong ngực mình. Mình găm vào ngực mụ cả loạt khiến ngực mụ vỡ toác mà mặt mụ vẫn chưa hết hy vọng. Giết người lúc ấy sao thấy sướng thế! Một thằng ngụy bị mình xọc lê vào bụng, nghe “thụt“ một cái. Mình nghiến răng vặn lê rồi trở báng súng phang vào giữa mặt hắn. Hắn lộn một vòng, gồng mình giẫy chết như con tôm sống bị ném vào chảo mỡ...”
và một đoạn khác cũng … kinh dị không kém:
“Hai ngày sau bọn địch phản công. Cả trung đội mình bị băm nát. Thằng Thiết bị đạn găm đầy mình, vừa đưa tay ấn ruột vào vừa bóp cò. Bọn ngụy ào lên như lũ quỷ, quyết bắt sống thằng Thiết. Như sau này anh em trinh sát kể lại, chúng quay thằng Thiết như quay một con lợn rồi róc thịt uống rượu trả thù cho đồng đội. Nó đã hy sinh như một người anh hùng trên chiến trận...”
Và trong “Cõi người rung chuông tận thế“ của Hồ Anh Thái (hình như là chủ tịch hội nhà văn Hà Nội) cũng ghê gớm tàn bạo không kém:
”Hùng lao người bơi xuôi theo dòng suối tương đối cạn, xa hẳn chỗ Hoa đang nấp. Lũ thám báo văng tục chạy men bờ đuổi theo. Có những chỗ suối cạn không bơi được Hùng phải chạy. Bốn tên thám báo nhảy chồm chồm trên những tảng đá giữa lòng suối rồi quây được Hùng vào giữa. Anh quật ngã một thằng. Nó cắm đầu xuống nước không thấy động đậy gì. Nhưng những thằng kia đã xúm lại. Chỉ một lát sau, chúng đã lôi xềnh xệch Hùng lên bờ. Thân thể anh bầm dập đẫm máu. Chúng đấm đá anh túi bụi để lấy cung cho tới khi anh ngất đi. Anh tỉnh lại chúng đánh tiếp. Hoa hiểu vì sao chúng không dùng đến súng. Chúng cũng không muốn gây ra tiếng nổ ở vùng rừng này.
Cuối cùng, điều Hoa không ngờ đã tới. Cô chỉ nghĩ rằng bọn thám báo sẽ lôi Hùng đi làm tù binh để tiếp tục lấy khẩu cung. Nhưng thằng cầm con dao găm của anh đã cúi xuống rạch một đường thành thạo trên bụng Hùng. Anh quằn quại hét lên một tiếng rùng rợn. Ở trên cao Hoa nghiến chặt răng gần như ngất đi. Hai thằng kia đè chặt chân tay Hùng cho thằng mổ bụng moi tim gan ra. Chúng nổi lửa nướng tim gan ăn ngay tại chỗ. Hai hột tinh hoàn thì được phân chia cho hai thằng chắc là cấp cao hơn...”
Tôi tưởng những danh từ như “mụ ngụy cái”, “lũ thám báo“,... hoặc những chuyện moi tim gan người để ăn nhậu, có lẽ đã mất biệt rồi chứ? Cái văn chương sặc mùi căm thù ấy vẫn còn tồn tại sao? Mà cả với những người cầm bút luôn luôn kêu gọi hòa giải!!!
Nhà văn mà còn viết với giọng như thế thì những từ ngữ như “hòa giải, hòa hợp”, hay “hợp lưu, giao lưu” liệu còn ý nghĩa không? Tôi đọc những hàng chữ ấy và thấy hệ thống tuyên truyền quả đã có tác dụng, không phải với giới bình dân mà cả trong văn chương.
Đi xa hơn nữa, Bảo Ninh, người viết “Nỗi buồn chiến tranh” trong truyện ngắn “305” in trong tập “Lan man khi kẹt xe” đã đổ tội cho cả toàn dân miền Nam cái tội vong bản chạy theo đế quốc mà bỏ lại người thân một cách lãnh đạm vô nhân. Truyện ngắn này kể lại chuyện những người lính lái xe tăng mang số 305 trên đường hành quân đã ghé vào một thị trấn nhỏ khi đang hành quân vào tháng tư năm 1975. Và nhờ cung cách hiền hòa họ đã làm cho người thiếu phụ ở đó cảm mến. Sau đó cả xa đoàn chết hết chỉ còn sót lại một người trở về thị trấn xưa ghé thăm người thiếu phụ ấy. Giây phút gặp lại anh ta mới biết cả gia đình đã bỏ rơi chị để di tản ra nước ngoài. So sánh gia đình chị và anh bộ đội kia chị thấy cảm mến anh bộ đội ấy hơn… Câu chuyện ấy trong một thời kỳ mà cả nước đều cũng muốn vượt biển kể cả cái cột đèn hoặc là những câu ca dao như “khoai lang nấu khéo thì bùi, lấy chồng Việt cộng lấy … thằng cùi sướng hơn” được loan truyền rộng rãi trong nhân gian, thì đáng được phân loại vào những chuyện khôi hài đen. Hơn nữa, ở thời điểm bây giờ, mà còn viết với luận điệu như thế, nào ta anh hùng, địch dã man, ăn tim gan người sống thì làm sao thuyết phục được người đọc. Thế mà, những tiểu thuyết tương tự như vậy vẫn còn được in ra, được tán dương và trao giải thưởng...
Cái nếp nghĩ, nếp viết ấy đã ăn sâu vào tâm thức người viết và bao nhiêu năm sau chiến tranh mà vẫn chưa hề thay đổi. Nhà văn Phùng Nguyễn nhận xét khá xác đáng:
“... Có qúa nhiều điều luôn rắp tâm kéo nhà văn xuống thấp có khi thấp hơn cả mức độ cho phép. Đó là khi họ, vì một hay nhiều lý do, phải nín thở qua sông, phải viết điều không muốn viết, phải ca tụng những điều không xứng đáng, phải báng bổ điều họ thực sự quý trọng. Họ buộc phải đứng về phía của kẻ mạnh. Nhưng cũng có khi, không phải là luôn luôn vô tình, họ chọn đứng cùng phía với những thế lực đen tối một cách tự nguyện, gieo rắc mầm độc hại xuyên qua việc xiển dương điều trá ngụy. Chính là ở đây, nhà văn trở thành không chỉ là kẻ đồng lõa.”
Câu hỏi là bây giờ, các người cầm bút sẽ phải làm gì để hố ngăn cách nhau được lấp dần đi? cả người cầm bút ở trong nước và hải ngoại? Nhưng xem ra câu hỏi chỉ để mà hỏi. Khi văn học ở trong nước còn là một công cụ để phục vụ cho nhu cầu tuyên truyền của chế độ hiện hữu thì còn rất lâu sự phân hóa tạo thành chiến tuyến của thời chiến tranh…
Ngày 30 tháng tư năm 1975 có nhiều sự kiện lịch sử và văn học phải có nhiệm vụ phải làm rõ rệt hơn những sự kiện ấy. Quả thực, đó là một công việc không phải đơn giản. Từ những góc cạnh nhìn ngắm khác nhau đến độ đối nghịch, với nhiều chi tiết phức tạp, nhiều dữ kiện trong hậu trường không phải chỉ riêng với những người Việt Nam mà còn cả những cường quốc của cả hai phe Cộng sản và Tư Bản trong một cuộc chiến tranh lạnh có ảnh hưởng đến toàn thế giới. Cái chiến tuyến vô hình ấy vẫn hiện diện trong một vài thế hệ tới dù rằng mọi người đều nghĩ rằng phải quên qúa khứ để đoàn kết cho một tương lai. Nhưng những người lãnh đạo chính quyền trong nước có quên đi thực sự hay không? Hay chỉ là một chiêu bài để thực hiện cho được cái tham vọng quyền lực của một chế độ độc tài toàn trị.
Thực ra, đâu cần phải thực hiện hòa giải, hòa hợp dân tộc. Tôi cạn nghĩ rằng người miền Bắc và người miền Nam đâu có hận thù gì nhau. Cũng như người ở hải ngoại và người ở trong nước đâu có điều gì xung khắc đối nghịch. Chẳng những thế mà còn tương trợ nhau giúp đỡ nhau nữa.
Chỉ có chế độ hiện tại, chế độ mang danh là Cộng sản nhưng thực chất chỉ là một nhóm nhỏ bám chặt vào quyền lợi riêng mình thi hành những chính sách tồi tệ làm cả đất nước suy vi. Và, tiếp diễn là cuộc tranh đấu giữa toàn dân tộc Việt ở khắp nơi để chống lại chế độ hiện hữu.
Có người cho rằng nên quên đi ngày 30 tháng tư năm 1975 vì nhắc lại hoài đề tài đó thành một sự nhàm chán cho văn học. Bản thân tôi có một lần muốn thực hiện một tuyển tập viết về ngày ấy với hồi ức của những người đã trải qua những ngày tháng đó. Có thể đó là một người lính ở tuyến đầu đang ghìm súng thì nghe lệnh đầu hàng, có thể đó là một sinh viên ở ngoại quốc đang rối ruột gan về những người thân ở quê nhà. Mà cũng có thể đó là một nhà văn nữ, viết từ kinh nghiệm của chính bản thân mình và gia đình mình. Tóm lại đó có thể tạm gọi là những chứng nhân của ngày tháng lịch sử ấy. Tôi ngỏ ý với nhiều người, có người hưởng ứng nhưng có người phản đối khá mạnh. Anh ta nêu ra rằng không nên cứ moi móc hoài một vết thương lịch sử huống chi đề tài ấy đã thành bão hòa vì có quá nhiều người viết. Và anh ta cho rằng những đề tài khai thác về con người muôn thuở với những nét nhân bản sẽ là một đề tài có tính trường cửu còn những đề tài theo sát thời thế như vậy chỉ có tính giai đoạn mà thôi. Tôi không đồng ý với luận cứ ấy. Mà nghĩ ngược lại. Không phải một đề tài mà nhiều người viết sẽ thành nhàm chán. Nếu như chúng ta có thể sáng tạo ra được những điều mới lạ chưa ai đề cập đến thì sự thành công sẽ phải có. Hoặc là, nếu coi ngày 30 tháng tư năm 1975 là một vết thương của dân tộc thì cái niềm đau ấy vẫn phải nhắc đến như một cách thế tưởng niệm và là một kinh nghiệm cho chúng ta và cả đời sau hiểu được thân phận của một quốc gia bị xô đẩy vào cuộc chiến của các thế lực quốc tế.
Tôi nghĩ, tôi sẽ cố gắng làm cái công việc nho nhỏ ấy. Một cuốn sách ghi chép lại hồi ức của những chứng nhân của một thời đại nếu được phát hành thì chẳng phải là kết quả của một việc làm vô bổ. Và cũng có thể đó là một nén nhang cho những người đã hy sinh trong cuộc chiến của cả hai bên chiến tuyến...
Nguyễn Mạnh Trinh