có những điều không nói ra, chỉ ghi lại...
pn

Thứ Sáu, tháng 2 02, 2024

Bắc Hành




Dân ta, trong đó có người vùng Bình Trị Thiên, thường vào Nam lập nghiệp thay vì đi ngược ra Bắc. Ngay trong phạm vi Bình Trị Thiên mà thôi, xu hướng ấy cũng nổi bật. Nhiều người từ Quảng Bình, Quảng Trị, không ít người tài trí, vô Huế định cư từ đời này đến đời khác, lâu ngày biến thành người Huế. Rồi sau đó nhiều lưu dân sống tại Huế cùng với một số dân bản địa lại xuôi nam, vượt đèo Hải Vân vào Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt, Ban Mê Thuột, Sài Gòn. Trong một lần chuyện trò, nhà văn Võ Phiến cho nghe câu ca dao miền quê ông, có lẽ cũng mang ý nghĩa tương tự:

Anh về Bình Định thăm cha
Phú Yên thăm mẹ Khánh Hòa thăm em.

Chữ “em” ở đây nên được hiểu là người yêu, chứ không phải em gái, mà anh sẽ vô Khánh Hòa cưới làm vợ, chẳng khác gì xưa kia bố ở Bình Định vô Phú Yên lấy mẹ. Toàn là xuôi nam. Xuôi nam lập nghiệp, sinh sống, hòa hợp nhau, nâng đỡ nhau, điều đó vẫn xẩy ra từ trước đến nay. Nhưng bây giờ khác. Thực trạng xã hội ngày nay phức tạp, rối rắm hơn nhiều. Và đầy nghịch lý.

Tôi thử phác họa trong đầu một câu chuyện mà mọi người đều không muốn nó có. Thử tưởng tượng vào khoảng năm 2100 chẳng hạn, người thời ấy sẽ kể lể cho nhau nghe chuyện của thời đại chúng ta như chuyện “đời xưa”. Rằng xưa kia có những đàn chim từ Bắc bay vô Nam, hết lớp này đến lớp khác, những buổi sáng tinh sương, những buổi chiều tranh tối tranh sáng, những đêm đen, lúc bay trong mù, lúc in hình trên bầu trời xanh, cũng có khi ngả nghiêng trong gió táp mưa sa, nhưng cuối cùng đều đến được đất lành. Đất lành chim đậu, những đàn chim ấy sống vui vẻ, thân yêu với những đàn chim cùng loại đã ở đấy từ lâu, không mổ nhau, không cướp cái ăn của nhau, tuân theo nếp sống hiền hòa, êm đềm. Thế rồi, tai trời ách nước giáng xuống, một số ác điểu ra đời, ít thôi, nhưng rất hung bạo, quỷ quyệt. Chúng dụ được những con chim khác và mượn thêm sức những con chim “lạ” bay vào Nam thẳng tay tàn sát đồng loại và đảo lộn nếp sống đã có từ lâu đời.

Cứ tưởng rằng từ đó về sau sẽ vĩnh viễn làm chúa tể sống trên xương trên máu kẻ khác, không ngờ gậy ông đập lưng ông, lại đến phiên chúng bị những con chim “lạ” kia “phản phé”. Cờ bạc bịp mà! Loài chim “lạ” kia còn hung hiểm hơn, tìm ra vô số lý do để “ăn thua đủ”. Chẳng hạn chúng phán: trước nợ ta, nay phải trả cả vốn lẫn lời. Lòng tham không đáy, lại phán tiếp: hết nợ còn ơn, còn nghĩa, còn tình. Mà tình sâu nghĩa nặng thì biết đời nào trả cho xong! Chi bằng, để có kết quả vừa nhanh chóng vừa cụ thể, loài chim “lạ” đó đem luật rừng ra xử bọn thiếu nợ “vô ơn bạc nghĩa” ấy. Cướp bóc, đánh giết, chiếm đoạt, “giành sân lấn đất”, nay cấm bọn kia bay tới vùng này, mai làm thịt năm bảy con ở vùng khác. Rồi lại mang luật rừng áp dụng ngoài biển khơi, hóa phép thành loài cá “lạ”, ăn tươi nuốt sống những con cá khác. Những loài thú khác đứng từ xa thoạt đầu bỡ ngỡ rồi dần dần quen mắt thản nhiên nhìn cảnh tượng “mạnh hiếp yếu”, “cá lớn nuốt cá bé”, quen tai nghe tiếng kêu thảm thiết của những con chim sắp chết mà loài chim “lạ” thường kháo với nhau “chim sắp chết tiếng kêu bi ai” (Điểu tương tử kỳ minh dã ai). Còn cá sắp chết có biết kêu không? Hình như loài vật sống dưới nước không có khiếu nói năng, vì mới hả họng định kêu la thì nước đã tràn vào “bịt miệng”, lại nhớ cha Nguyễn Văn Lý, đành chết trong câm nín.

Những tên gọi như Ải Nam Quan, thác Bản Giốc, Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Đông, Tây Nguyên đã biến mất khỏi ngôn ngữ Việt Nam từ lâu, mà ngay cả tên nước Việt Nam cũng bị xóa nhòa trên bản đồ thế giới. Những người nô lệ tủi nhục, sợ sệt, tức là những người kể chuyện đời xưa cho nhau nghe, nói một thứ tiếng An Nam trọ trẹ tiếng Tàu, thỉnh thoảng cũng kể thêm chuyện Tấm Cám, chuyện Quỷ Nhập Tràng, để gọi là có nhớ nguồn gốc, nhưng không dám nhắc nhở gì đến chuyện Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Đức Thánh Trần, hay Quang Trung từng đánh đuổi những con “chim lạ” từ phương bắc bay tới. Đôi lúc chỉ dám rủa thầm trong bụng khi nhớ đến chuyện đời xưa gần hơn, chẳng hạn chuyện các ông chủ tịch nước cụng ly tung hô các khẩu hiệu như “Môi Hở Răng Lạnh”, “Mười Sáu Chữ Vàng”, nhưng rượu chưa ráo ly thì “mặt đã trở”, đã ra tay cho các đồng chí vĩ đại bé nhỏ mấy bài học nhớ đời. Đúng ra là “đã trở mặt”, nhưng tiếng Việt bị lãng quên dần. Thật là:

Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa

Vâng, thời đó truyện Kiều cũng còn được biết đến đôi chút nên có người chua chát lẩy một vài câu như trên cho đỡ bức xúc. Cũng có người đau xót nhớ đến nước cũ, nhớ những thời đại vinh quang ngày xưa nay còn đâu, đành mượn vài câu than thở:

Thân sao thân đến thế này
Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi

Chuyện “xưa” quả là một cơn mộng dữ, nhưng tỉnh mộng vẫn thấy thực tại đang tiến dần đến gần những gì đã hiện lên trong cơn ác mộng!

Ai đó đã nói một cách rất đúng đắn rằng lý do của hầu hết những cuộc chém giết, tàn sát, những cuộc chiến nói chung, đều xuất phát từ cái dạ dày, từ vấn đề di dân, tức là từ cung cách loài người noi theo bản chất của loài dã thú, loài chim dữ, loài cá mập, loài lang sói. Nhưng nói cho công bình, tuy cùng một bản chất vẫn có vài khác biệt. Một câu rất nổi tiếng của George Orwell, nhà văn người Anh trong Trại Súc Vật (Animal Farm) viết từ năm 1945: “Tất cả loài thú đều sinh ra bình đẳng, nhưng có một số bình đẳng hơn những con khác” (All animals are created equal, but some are more equal than others). Xin nhại theo câu nói ấy: Loài chim, loài cá, sinh ra đều rất thật thà, có gì nói nấy, nhưng ác điểu và chim “lạ”, cá “lạ” thật thà hơn, nào “bao la tình chim”, “mênh mông tình cá”, nào “giải phóng”, nào “môi hở răng lạnh”, nào “hợp tác toàn diện”, nào “bốn tốt”, “mười sáu chữ vàng”. Nghe thật sướng, êm ái như mật rót vào tai, líu lo như bà già sún răng ăn bún.

“Anh! Nghĩ gì mà ngẩn người ra vậy?” cô em họ chăm chú nhìn tôi, hỏi.

Tôi hơi ngượng. Quả thật độ rày lắm lúc tôi lẩn thẩn. Ba người chúng tôi đang bàn bạc với nhau, bỗng dưng đầu óc của tôi đi lạc, tôi lảm nhảm một mình. Tôi định bụng sẽ đi ra hướng Quảng Trị, cô em họ lại thích thuê một chiếc xe hơi nhỏ đi về hướng nam, và nếu có thì giờ sẽ qua Hải Vân, vô Đà Nẵng. Cô không thích ra hướng bắc dù chưa hề đi lần nào. Riêng tôi đã đi ra ngoài đó mấy lần, bằng xe lửa hoặc xe hơi. Cũng có thấy loáng thoáng phong cảnh hai bên đường, nhưng cưỡi ngựa ngắm hoa coi bộ còn trông rõ hơn. Cho nên lần này tôi đã có ý định sẽ cùng chú em chở nhau bằng xe gắn máy hai bánh để trước hết có thể chạy chậm lại khi cần, hoặc muốn ghé đâu thì ghé. Đành quay qua cô em họ nói gần như van lơn:

“Anh và chú T. có chút việc ra ngoài đó. Vài hôm nữa mình sẽ thuê xe đi vô thăm chùa Trúc Lâm Bạch Mã ở Cầu Hai nghe. Nghe nói chùa mới xây xong, đẹp lắm. Sau đó xuống Cảnh Dương rồi cảng Chân Mây chơi. Cô chịu không?”

Cô em vui vẻ nghịch ngợm lắc đầu: “Không chịu.”

“Cám ơn cô.”

“Anh khách sáo quá. Việt kiều có khác, hở một chút là cám ơn, xin lỗi, xin phép.”

*

T., chú em họ, gốc Quảng Trị, bố mất trong chiến tranh, theo mẹ vào Huế từ hồi còn thơ ấu, hỏi tôi:

“Anh muốn muốn ghé những nơi nào? Ghé ít, sáng đi chiều về. Ghé nhiều nơi thì phải ở lại đêm. Cứ ở lại đêm ngoài làng cũ của em, nếu anh không chê.”

Thật ra bà con ruột thịt của T. ở ngoài đó cũng không còn ai, nhưng cũng như những người Quảng Trị khác, T. rất quyến luyến miền đất ấy, nơi bị tàn phá nặng nề nhất trong chiến tranh vừa qua. Những đứa con của quê hương càng thống khổ càng nặng tình. T. thường xuyên ra đó thăm khi thì bằng xe đò, khi bằng xe gắn máy, bây giờ gọi là xe máy, tự lái lấy, thăm ngôi nhà từ đường bị bom đạn san bằng mấy lần nay đã được một người chú họ cho xây dựng lại trên mảnh đất cũ thuộc làng An Cư. Làng An Cư, cái tên hay. Mong rằng từ nay về sau mọi người ở đó sẽ được an cư lạc nghiệp như tên gọi ngôi làng mình. Tôi chưa biết An Cư, nhưng tôi đã đi qua nhiều làng mạc, nhiều thị trấn nằm dọc theo quốc lộ 1 thuộc tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình. Qua đó mới thấy quê ta nghèo nàn, xơ xác, nhưng lại rất giàu mồ mả, nghĩa trang. Đặc biệt là có nhiều nghĩa trang mang tên “Tổ Quốc Ghi Công”, tức là nơi yên nghỉ ngàn thu của chiến sĩ đã hy sinh của phe thắng trận. Trông khá khang trang, “hoành tráng”. Còn hương hồn tử sĩ miền Nam bại trận nay được thờ ở đâu, không thấy? Hay là tại những nghĩa trang mang tên hơi khác, “Tổ Quốc Ghi Ơn”, mà nay đều đã bị đào bới, san bằng? Nếu thế thì hương hồn của họ, tôi nghĩ đến mấy câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm, chắc là ở trong gió đang “ù ù thổi”, dưới trăng đang “dõi dõi soi”. Và ở trong lòng người.

Tôi bỗng liên tưởng đến bọn thực dân Pháp đô hộ nước ta gần một trăm năm. Dưới ách đô hộ, người sống chịu cực khổ mọi bề, nhưng người chết khá hơn. Thế là phải, ai lại đi trả thù người chết! Vào năm 1920, vua Khải Định và toàn quyền Đông Dương khánh thành Đài Chiến Sĩ Trận Vong tưởng niệm tử sĩ của cả hai bên, được xây dựng trên bờ sông Hương ngay trước trường Trung Học Khải Định. Chúng tôi gọi đó là cái Bia. Thời trung học, chúng tôi thường ghé Bia chơi khi nào đi đến trường quá sớm. Những giờ trống cũng thường ra đó đùa giỡn họăc bắt chuyện với mấy anh lính gác da đen rạch mặt xê-nê-ga-le (sénégalais). Hồi đó trường còn làm chỗ đóng quân của Pháp (mãi đến cuối 1954 mới được trao trả lại cho ta). Mấy lính gác trông mặt mày hung dữ nhưng cũng có người vui vẻ, hiền lành, chúng tôi bắt chuyện để tập nói tập nghe và học lóm năm ba tiếng Pháp thô tục ngoài đời. Ở trường chỉ học loại tiếng Pháp thanh nhã, học văn phạm, dịch, làm luận. Chủ yếu là dịch, Pháp ra Việt, Việt ra Pháp.

Sau này mỗi khi về thăm Huế, thăm trường cũ, tôi cũng thường “quá bộ” ra bờ sông thăm Bia, một trong những di tích có tiếng trong quần thể kiến trúc Huế cổ kính, tinh vi, đẹp đẽ. Nhưng vào mỗi thời kỳ trong đời người, hay ít nhất trong đời tôi, cái Bia ấy hiện lên khác nhau. Có lúc trông nó như một kỷ niệm êm đềm của tuổi học trò, có lúc quên nó, khi sực nhớ nhìn lại không ngờ thấy nó vẫn còn đấy, “trơ gan cùng tuế nguyệt”. Nhưng tuổi đời càng tăng, nay, sau bao nhiêu dâu biển, trông nó lạnh lẽo, cô đơn. Một buổi chiều từ ga Huế cuốc bộ đến Bệnh Viện Trung Ương thăm người thân, đi ngang qua cổng trường xưa, đứng lại nhìn vào trong một chốc, rồi không thể không quay ra đi thăm cái Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ Trận Vong này. Nó nằm trơ dưới bầu trời mây bay từng giải cuồn cuộn, mà người xưa, hồn người xưa, đã đi đâu hết, một đi không về. Nhìn xa hơn một chút, cây cỏ lớp lớp trên bờ kia của sông Hương lặng lẽ, tạnh vắng; quay đầu nhìn về phải, Cồn Hến trải dài bờ bãi mịt mùng; quay đầu về trái, như lờ mờ thấy con đường ngày xưa có tên Huyền Trân Công Chúa. Buổi chiều đứng đó nhìn quanh không thấy làng cũ, chỉ thấy dâng lên trong lòng một nỗi buồn khó tả. Bỗng nhớ Thôi Hiệu và Hoàng Hạc Lâu. Bài thơ ấy đọc lên lúc nào cũng thấy hay, và vào những lúc như thế này, nó càng gây nên những cảm xúc lan man, bồi hồi. Chữ Hán không có là bao nhưng cũng muốn dựa vào những bài Hoàng Hạc Lâu đã được dịch ra tiếng Việt mà viết lại theo ý mình, bỏ bớt niêm luật khắc khe:

Người xưa cưỡi hạc vàng đi mất
Hoàng Hạc Lâu còn tại chốn này
Hạc vàng một đi không trở lại
Mây trắng ngàn năm bay vẫn bay
Sông tạnh Hán Dương cây lớp lớp
Bãi thơm Anh Vũ cỏ hây hây
Chiều xuống quê nhà đâu chẳng biết
Sóng giục sầu lên chất ngất đầy

“Hả, anh muốn ghé những nơi nào? Ghé đâu trước?” T. lặp lại câu hỏi.

“Xin lỗi, anh độ này đãng trí lắm, hồi nãy quên trả lời em. Xem nào … hay là ăn sáng xong rồi tính.”

“Còn sớm quá, kiếm không ra quán đâu,” T. đáp. “Em đề nghị ra tới An Lỗ ăn sáng là vừa.”

Chúng tôi đi từ làng Phú Thượng lên phía Vỹ Dạ, qua Đập Đá, chạy ngang cầu Trường Tiền, quẹo trái về phía cầu Bạch Hổ, quẹo phải về hướng An Hòa, Văn Xá, rồi đi thẳng ra hướng bắc. Đến cầu An Lỗ, dừng lại ăn sáng tại một quán nhỏ bên đường, lỏng chỏng vài ba bộ bàn ghế cũ kỹ. Chưa có khách nào. Cháo bột cá lóc, bánh ướt thịt ba chỉ, và chén nước mắm ớt tỏi chanh thật cay. Ăn lạ miệng, ngon, và rẻ. Ở Huế món ăn gì cũng rẻ hơn nhiều so với Sài Gòn. Chúng tôi vừa ăn vừa bàn với nhau rằng chuyến ra theo một đường, chuyến vào theo đường khác, làm như thế, thăm được nhiều nơi. T. biết rất nhiều về Quảng Trị, thật là may mắn cho tôi. Buổi sáng còn se se lạnh, trên quốc lộ 1 còn vắng, tuy nhiên tại cây xăng gần cầu An Lỗ đã có mấy người ghé đổ xăng, có cả các bà đã lớn tuổi, các chị “buôn thúng bán mẹt”. Phụ nữ Huế độ rày rất xông xáo, tôi vừa nhận ra thế. Chúng tôi ăn sắp xong thì chủ quán đã mang đến ngay một ấm nước và hai cái ly: “Mời hai bác uống nước chè xanh ấm bụng. Có bỏ gừng.”

Khỏi Phò Trạch đến Mỹ Chánh, thay vì chạy thẳng ra Quảng Trị, chúng tôi rẽ phải đi men theo sông Ô Lâu, một trong ba con sông đổ về Phá Tam Giang (Hai con sông kia là sông Hương, sông Bồ), qua các làng Vân Trình, Thanh Hương. Thế là chúng tôi đang đi trên một trong những vùng mà trước kia người Pháp gọi là La ville sans joie (Phố Buồn Hiu). Sau đó nhà văn Bernard B. Fall dùng tên gọi ấy viết thành một cuốn sách nổi tiếng về chiến tranh Việt Nam nhan đề Street Without Joy. Phố Buồn Hiu là dải đất nằm giữa Quốc Lộ 1 và Biển Đông bắt đầu từ những ngôi làng thuộc nam Quảng Trị qua những sông, ngòi, lạch, đầm lầy, độn cát, và phá, kéo dài đến gần Sịa, Huế.

Bernard Fall viết trong lời tựa cuốn Street Without Joy: “This is not a history of the two ‘Indochinese Wars’ – that fought by the French from 1946 to 1954 with their Vietnamese allies, and that fought by the South Vienamese and their American allies since 1957- but a historical sketch of certain key developments in both wars, and of the men who fought on both sides” (Tạm dịch: Đây không phải là lịch sử của hai cuộc ‘Chiến Tranh Đông Dương’ – do Pháp và đồng minh Việt Nam chiến đấu từ 1946 đến 1954, và do Miền Nam Việt Nam và đồng minh Hoa Kỳ chiến đấu từ 1957 – mà là một phác họa lịch sử về một số biến chuyển then chốt của hai cuộc chiến ấy cùng với những chiến sĩ của cả hai bên). Vào giai đoạn cuối cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, một trận đánh vô cùng ác liệt đã xẩy ra tại vùng này bắt đầu từ tháng 7 năm 1953, Pháp gọi là cuộc hành quân Camargue (Operation Camargue) do thiếu tướng Leblanc chỉ huy, dân Huế và Quảng Trị gọi là trận chiến Thanh Hương. Quân Pháp, lê dương, và đồng minh Việt Nam, nói theo Bernard Fall, đã tung một mẻ lưới lớn gồm bộ binh, pháo binh, thiết giáp, nhảy dù, có cả tàu chiến yểm trợ ngoài khơi, oanh tạc cơ trên không, quyết làm cỏ trung đoàn 95 chính quy của cộng sản và du kích quân. Kết quả không mấy khả quan, theo Bernard Fall.

Chúng tôi đi chầm chậm ven sông Ô Lâu cách cầu Mỹ Chánh vài cây số. Rồi đi sâu vào các thôn xóm. Dấu binh lửa có còn sót lại trên miền đất có một thời bị bom đạn dày xéo tan hoang này hay không? Hình như không còn dấu vết gì. Con sông trong vắt, nhiều nơi trông thấy đáy, nước chảy nhè nhẹ, sóng lăn tăn, thuyền đò lác đác. Hai bên sông, làng mạc êm ả, những ngôi nhà tranh cũ, hầu hết một gian hai chái, một số ít ba gian hai chái, đứng sau những hàng rào chè tàu, bao quanh bởi cau, trầu, dừa, chuối, mít, nhãn, khế, đu đủ, vả, dứa. Trông khá quen mắt, nhà cửa, vườn tược của những làng quê xứ Huế đều na ná như thế. Chỉ lạ là vùng này dường như không có ruộng lúa. Thế là dân ở đây không sống bằng nghề nông như hầu hết những miền quê khác? Có nghề đánh cá chăng? Đang mùa xuân, chưa có trái chín, vẫn nghe trong không gian lành lạnh man mác mùi hương buổi sáng. Mọi vật tĩnh lặng, thỉnh thoảng chiêm chiếp mấy tiếng chim sâu. Và trầu thì bò lên quanh thân cau thẳng đứng lốm đốm rêu đen, rêu vàng, rêu xanh từ gốc đến lưng chừng ngọn. Gió từ con sông đưa lại chút mùi gây gây mằn mặn của biển cả – vâng, nơi này không xa phá Tam Giang bao nhiêu – làm đu đưa đọt chuối, bẹ dừa, ngọn cau, làm rung rung lá trầu trong nắng mới. Vết thương chiến tranh đã liền da. Đó là bên ngoài.

Nhưng trong lòng người? Tâm trí tôi không thể không quay về với những trận đánh đã xẩy ra cách đây gần 60 năm, và tiếp theo là những trận chiến tàn khốc khác kéo dài cho đến tháng 4, 1975. Nhiều lúc tôi tự hỏi tại sao thế, tại mình có tính thù lâu, hay do có trí nhớ dai dẳng? Không phải thế, tôi, và những người trên dưới vài thế hệ, cùng tâm trạng, cố quên mà không thể nào quên được quá khứ. Tình hình đất nước bây giờ càng gợi nhớ những ngày tháng điêu linh cũ.

Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, tức là chiến tranh chống Pháp giành độc lập, có những lý do hoàn toàn chính đáng của nó. Trong cuộc chiến ấy, người Cộng Sản đã biết vận động quần chúng, khơi dậy lòng yêu nước của toàn dân, nhưng nhân đấy tìm mọi cách tận diệt những người yêu nước không cùng chính kiến, đó là trọng tội. Tôi nghĩ đến những người theo Pháp chống lại phe Cộng Sản – một số ít có thể là bọn người vong bản bán nước cầu vinh, nhưng đại đa số lâm vào cái thế bị dồn vào chân tường đành phải dựa vào ngoại bang mong tìm một giải pháp khác trên con đường giành lại chủ quyền cho đất nước. Lại còn có người không chấp nhận cộng sản, cũng không chịu nổi thực dân Pháp, sống âm thầm cho hết những ngày còn lại của đời mình, hoặc tìm cách thoát ly ra nước ngoài tiếp tục cuộc đấu tranh. Lại cũng còn có không ít những người theo Cộng Sản vì phóng lao phải theo lao, hoặc vì muốn dựa vào Cộng Sản trong nước và Cộng Sản quốc tế để mưu đồ ích quốc lợi dân, đến khi đi gần hết con đường nhìn lại thấy ngao ngán.

Những nạn nhân của thời cuộc nói trên không phải chỉ có tại Việt Nam mà thôi. Ở những nước độc tài toàn trị khác trên thế giới, hoàn cảnh ấy vẫn xẩy ra hằng ngày hiện giờ.

Còn chiến tranh Đông Dương lần thứ hai thì sao? Gọi đó là cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước” quả không ổn chút nào. Miền Nam lúc ấy đã có kỷ cương vững vàng, đã trở thành một quốc gia dân chủ có chủ quyền trên mọi lãnh vực, đang muốn sống hòa bình, đang nỗ lực kiến thiết, xây dựng để có thể sánh vai với những nước lân bang và cả thế giới, và do đó được nhiều nước trong năm châu bốn biển thừa nhận và đặt quan hệ ngoại giao theo đúng thủ tục quốc tế. Nhưng miền Nam muốn yên mà đâu được yên. Lại bị “giải phóng”. Hai chữ “giải phóng” nghe quá quen thuộc từ ngày chủ nghĩa Cộng Sản ra đời, dần dần nó mang ý nghĩa hoàn toàn khác. Miền Bắc đóng vai trò tiên phong cho khối Cộng Sản để “giải phóng” Miền Nam rồi khối đó sẽ “giải phóng” nốt những nước còn lại của Châu Á trước khi nhuộm đỏ thế giới. Thì Miền Nam lại đứng ra làm “Tiền Đồn Chống Cộng”. Toàn là những nhiệm vụ cao cả vá trời lấp biển, dỏm, nhưng nó đè nặng lên trên một nước nhỏ bé. Một một dân tộc bất hạnh đứng ra làm bia đỡ đạn cho hai phe quốc tế tranh cường. Cảnh nồi da xáo thịt đã diễn ra một cách ghê rợn bằng vũ khí do ngoại bang cung cấp. Khi “cuộc chơi” đã mãn, khi bàn cờ quốc tế đã được sắp lại, Miền Nam bị Đồng Minh bỏ rơi. Và thất thủ. Và những đoàn quân nghèo khổ, đói khát, thiếu thốn mọi bề từ Bắc tràn vào Nam như nước vỡ bờ.

Trong một tài liệu mật được tiết lộ gần đây, theo Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng, cựu tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon gọi cuộc chiến tranh vừa qua là chiến tranh ủy nhiệm. Đó không phải là chiến tranh giữa Bắc và Nam Việt Nam, hay giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt Nam, mà là giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Cho nên khi Hoa Kỳ đã bắt tay với Trung Quốc, chiến tranh phải chấm dứt trong tình cảnh bi đát cho miền Nam, như đã xẩy ra.

Kẻ thắng trận thẳng tay đày đọa kẻ thua trận. Cả triệu người miền Nam liều chết bỏ nước ra đi, hàng trăm ngàn người vùi thân ngoài biển cả, trong rừng sâu. Oán thù ngùn ngụt chồng chất. Thế giới loài người bàng hoàng. Mang nặng mặc cảm, kẻ thắng trận lại càng sấn tới, càng hung hăng, tàn bạo. Mang đầy lòng tham, kẻ thắng trận lại càng siết chặt bàn tay sắt để bảo vệ những gì đã chiếm đoạt.

Tôi nghĩ đến học giả Trần Trọng Kim và cuốn hồi ký cuối đời của ông, Một Cơn Gió Bụi, ghi lại khá đầy đủ một thời kỳ đầy biến động của lịch sử nước nhà sau 80 năm bị Pháp đô hộ. Ông được vua Bảo Đại mời lập nội các khi Nhật đầu hàng Đồng Minh năm 1945. Chính phủ Trần Trọng Kim chỉ tồn tại hơn bốn tháng từ tháng 4 đến tháng 8, năm 1945, nhưng đã có những đóng góp lớn lao trong việc xây dựng một quốc gia vừa mới giành lại chủ quyền. Tiếc thay, chính quyền kế tiếp không đánh giá đúng mức mà còn lên án những đóng góp ấy.

Trần Trọng Kim là một nhân cách hiếm có, một sử gia uyên bác, công minh, ưu thời mẫn thế. Ông sinh năm 1883 khi nước ta bị Pháp chiếm gần hết, và qua đời năm 1953 khi trận chiến ác liệt bùng nổ tại Phố Buồn Hiu. Qua cuốn hồi ký ấy, người đọc có thể nhận thấy muôn vàn khó khăn mà ông và những người cộng sự phải trải qua trong nỗ lực lèo lái con thuyền bé nhỏ Việt Nam trong cơn bão tố, nhất là phải gánh chịu hậu quả của những thủ đoạn tàn độc của những người đặt quyền lợi đảng phái lên trên tổ quốc. Xin trích dẫn vài ba đoạn trong cuốn hồi ký:

“Việc binh bị trong nước là việc quan trọng đến vận mạng cả nước, mà lúc ấy quân lính và súng ống không có. Kinh đô Huế có tất cả hơn 100 lính bảo an, tức lính khố xanh cũ, và sáu bảy chục khẩu súng cũ, đạn cũ, bắn mười phát thì năm sáu phát không nổ. Các tỉnh cũng vậy, mỗi tỉnh có độ 50 lính bảo an, các phủ huyện thì độ chừng vài chục người.”…

“Việc người Pháp làm ở Đông Dương có nhiều lầm lỗi, ngay từ lúc đầu không chịu thay đổi cái thái độ với người Việt Nam, cứ tưởng lấy võ lực mà đàn áp và dùng quyền mưu mà lừa dối để đem người ta vào tròng như ý mình muốn, không biết rằng lòng người đã thay đổi, nhân trí đã biến thiên, không thể lấy thế lực mà bắt người ta đi lại con đường cũ được. Phàm cái quyền mưu lừa dối là chỉ dùng được khi người ta không biết, nhưng khi người ta biết rõ cái mưu thuật của mình thì cái mưu thuật ấy không có công hiệu nữa.”…

“Đảng Việt Minh cộng sản có tổ chức rất chu mật và theo đúng phương pháp khoa học. Trong khi ông Hồ Chí Minh ở bên Tàu để chờ đợi thời cơ, ở trong nước đâu đâu cũng có cán bộ, ngấm ngầm hành động và tuyên truyền rất khôn khéo. Họ lợi dụng lòng ái quốc của dân chúng mà tuyên truyền Việt Minh không phải là đảng cộng sản, chỉ là một mặt trận gồm tất cả các đảng phái lấy lại độc lập cho nước nhà, vậy nên từ bắc chí nam đâu cũng có người theo.”…

“Ai có vòng xuyến hoa tai họăc đồ gì bằng vàng phải đem nạp chính phủ để tổ chức việc nước. Hết cuộc quyên vàng đến cuộc quyên đồng, đủ mọi thứ. Trong hoàng thành, Việt Minh cho người vào lấy những bảo vật và y phục của các vua chúa đời trước đem ra chợ bán. Khi quân Nhật sắp hàng có đưa trả lại cho chính phủ Việt Nam bốn tấn bạc bằng thoi chở vào để trong cung, số bạc ấy không biết về sau ai lấy mất. Bấy giờ tôi không có tiền, may nhờ chính phủ Việt Minh ở Huế trả tôi 1600 đồng, tiền lương quá nửa tháng cuối cùng của tôi, tôi mới có tiền tiêu.”…

“Đến tháng 3 năm 1949, ông Bảo Đại đã điều đình với chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam được thống nhất và độc lập trong khối liên hiệp Pháp, đại khái theo cái nguyên tắc ông Bảo Đại và tôi đã đưa cho người Pháp khi chúng tôi còn ở Hương Cảng. Giá hai năm trước chính phủ Pháp đi hẳn vào con đường ấy, có lẽ đỡ được bao nhiêu thì giờ và sự tổn hại. Song cái tính con người ta bao giờ cũng thế, cứ để cho đến khi bất đắc dĩ mới chịu làm những việc phải làm, còn thì cứ muốn bám lấy cái lợi một lúc, rồi cứ xoay quanh mãi thành ra hư hỏng việc lớn. Lòng tham của người ta không có bờ bến, nếu không đem cái lòng công minh chính trực mà ngăn ngừa lòng tư dục, thì thường hay có những sự tàn ác, gây ra nhiều nỗi đau buồn.”

“Về phương diện chính trị của người Việt Nam thì chính phủ Việt Minh đã thất sách từ lúc đầu, chưa gì đã đem áp dụng cái chủ nghĩa cộng sản một cách đường đột quá, thành ra ở trong thì dân tình ta thán, mà ở ngoài thì không có ai muốn giúp đỡ.”…

“Người cộng sản, khi đã hành động, hay dùng đến chữ giải phóng. Theo việc làm của họ, tôi vẫn chưa hiểu rõ nghĩa hai chữ ấy. Có phải trước kia có cái cũi giam người, bây giờ họ đem cái cũi kiểu mới đến bên cạnh rồi bảo người ta chạy sang cái cũi mới ấy, thế gọi là giải phóng không? Nếu cái nghĩa giải phóng là thế, thì cũi cũ hay cũi mới cũng vẫn là cái cũi, chứ có gì hơn?”…

“Cái thủ đoạn của Việt Minh là dùng mọi cách bạo ngược, tàn nhẫn, giả dối, lừa đảo để cho được việc trong một lúc. Ngay như họ đối với Việt Nam Quốc Dân Đảng nay nói là đoàn kết, mai đoàn kết, nhưng họ vẫn đánh úp, vẫn bao vây cho tuyệt luơng thực. Khi họ đánh được thì giết phá, đánh không được thì lại đoàn kết, rồi cách ngày lại đánh phá. Dân tình thấy thế thật là ngao ngán chán nản, nhưng chỉ ngấm ngầm trong bụng mà không dám nói ra.”…

“Hiện nay đảng Việt Minh có nước cờ đáng rất cao, là tự mình lui bước đi, để cho đảng chân chính quốc gia đứng ra thực hiện sự độc lập và thống nhất của nước nhà, rồi lập thành một chính thể đúng theo cái nghĩa dân chủ đang thịnh hành ngày nay. Cho các đảng phái được công nhiên lấy nghĩa lý mà tranh đấu trên trường ngôn luận, nhưng không được dùng võ lực mà tranh quyền cướp thế. Làm được như thế, tất nhiên là họ giúp cho nước Việt Nam sẽ có cái địa vị rõ ràng trong quốc tế, không ai xâm phạm được nữa. Khi ấy mọi người trong nước phải quả quyết đi vào con đường kiến thiết, ai nấy đem hết tài lực của mình mà học tập và làm việc để đem nước đến cái trình độ cường thịnh như các nước khác.”

Cho đến nay, đọc lại cuốn Hồi Ký của Trần Trọng Kim viết cách đây hơn 60 năm, ta vẫn thấy có nhiều điều đáng suy gẫm, và đặc biệt là còn mang khá nhiều tính cách thời sự, hiện đại.

Trước khi qua cầu Mỹ Chánh để ra Quảng Trị, chúng tôi ghé lại một ngôi làng cổ, một trong những ngôi làng xưa nhất của Thừa Thiên-Huế, đó là làng Phước Tích. T. nói:

“Để em đưa anh tới chỗ làm đột đột. Phước Tích xưa kia có làm đột đột.”

“Xưa kia. Thế bây giờ còn làm không?”

T. nheo mắt nhìn tôi hỏi:

“Nhưng anh có biết đột đột là cái chi không?”

“Biết chứ. Đột đột là pháo. Pháo nổ độp độp. Phải không? Nhưng T. nói xưa kia, thế bây giờ hết làm?”

“Bây giờ cái nghề xưa đó đang được phục chế,” T. vừa nói vừa cười. “Đặc biệt tại làng này.”

Tôi nghĩ thầm làm pháo thì đặc biệt cái nỗi gì. Đâu chả có. Nhưng tôi lầm. T. giải thích:

“Đột đột không phải pháo. Đó là các loại đồ gốm xưa không tráng men như ấm nước, lu, ghè, hũ, chậu … Và những om đất nung dùng để nấu cơm. Om một, om hai – om một cho một người ăn, om hai cho hai người ăn. Loại om “đặc biệt” của làng Phước Tích thì để dành tiến Vua. Cơm Vua ăn phải được nấu bằng lửa rơm trong loại om đất ấy mới ngon, lớp cháy mỏng ở đáy om ngon tuyệt. Vua ăn xong, đầu bếp phải xáng om, lấy om mới nấu lứa cơm khác, vì om đã được dùng qua một lần sẽ mất đi mùi thơm tho, có lẽ mùi thơm của đất làng Phước Tích. Nhưng anh đi lâu ngày rứa có biết xáng nghĩa là gì không?”

“Biết chứ. Xáng là ném mạnh cái gì đó xuống đất cho nó bể, nó vỡ. Nhưng sao lại xáng đi, uổng của. Vua không xài để người khác xài.”

“Phải xáng chớ,” T. vui vẻ tiếp tục câu chuyện. “Mình xài đồ của vua, dù là đồ bỏ, rứa là phạm thượng, tội nặng lắm. Vua phong kiến mà.”

Sực nhớ, tôi hỏi:

“Ở đây không thấy người ta làm ruộng. Sao vậy?”

“Có đất đâu mà làm. Hơn nữa đất bị nước mặn. Làm nghề khác vậy. À làng Phước Tích cũng là gốc của họ Hoàng Trọng mà đa số làm nghề dạy học. Họ Hồ Đình khá tiếng tăm cũng gốc ở làng này.”

“Hình như họ Hoàng Trọng, họ ngoại của vua Bảo Đại, ở vùng Cầu Hai hay Túy Vân, Mỹ Lợi gì gì đó chứ.”

“Họ Hoàng Trọng ở đây thuộc nhánh khác,” T. trả lời.

Tại lò nung đột đột, tôi mua ba bình cắm hoa, trong đó có cái hình lục lăng nhỏ và rất đẹp, xong chúng tôi đèo nhau trở lại quốc lộ 1. Tôi ngồi sau phải ôm thêm mấy cái bình đất nung lỉnh kỉnh. Chúng tôi quẹo phải, qua cầu Mỹ Chánh hướng ra Quảng Trị. Xin mở dấu ngoặt, hôm sau khi trở về đến Huế, chỉ cái hình lục lăng còn nguyên vẹn, hai bình kia bể.

Lại dấu binh lửa. Chúng tôi dừng lại bên đường, nhìn vào một nghĩa trang rộng lớn ở cổng vào có hàng chữ “Tổ Quốc Ghi Công”. Vào những ngày cuối tháng 4 năm 1972, Miền Bắc, sau khi vượt vĩ tuyến 17, chiếm cổ thành Quảng Trị, xua quân và xe tăng đuổi theo những đoàn người tỵ nạn chen nhau chạy vô Huế nối đuôi nhau trông như con rắn khổng lồ dài hàng chục cây số. Cộng quân tấn công đoàn người tháo chạy chủ yếu bằng súng cối 61, B 40, đại bác 130. Người chết, trâu bò chết, xe cộ hỏng, nằm ngổn ngang dọc con đường dài từ Quảng Trị vào đến cầu Mỹ Chánh, bắc Thừa Thiên. Con đường ấy sau này được mệnh danh là Đại Lộ Kinh Hoàng thuộc huyện Hải Lăng, Quảng Trị.

Miền Nam cố thủ tại cầu Mỹ Chánh, rồi phản công. Đến giữa tháng 9, 1972, Quân Cộng Hòa chiếm lại Cổ Thành Quảng Trị, kéo cao ngọn cờ. Một thi sĩ nhà binh, Cao Tiêu, làm một bài thơ nổi tiếng về chiến thắng này, được phổ nhạc, Cờ bay, cờ bay, oai hùng trên thành phố thân yêu, vừa chiếm lại đêm qua bằng máu…Trong trận Cổ Thành Quảng Trị, số người chết của cả hai bên lên đến hàng ngàn. Quanh Cổ Thành, xác của quân Cộng Hòa và của quân Cộng Sản nằm la liệt tràn ngập các chiến hào, chồng chất lên nhau. Những tử thi ấy sau đó được kéo lên, người mang giày trận, kẻ mang dép râu. Có cả xác lính giày trận và lính dép râu ôm lấy nhau – lúc sắp lìa đời vẫn còn thù ghét nhau quyết đấm đá nhau thêm lần chót nữa hay sao, hay bỗng chợt cảm thấy cần phải xích lại gần nhau hơn mới có thể hồi tâm nhìn lại những uẩn khúc của cuộc chiến huynh đệ tương tàn đau đớn này?

Quân Bắc Việt rút lui qua bên kia sông Thạch Hãn củng cố lại lực lượng chờ ngày tái chiến, để lại một thành phố tan tành, nhà cửa, chợ búa, chùa chiền, am miếu, nhà thờ, thành lũy, tất cả biến thành bình địa.

Rời nghĩa trang, tôi hỏi T. mình sẽ đến thăm nơi nào. T. đề nghị:

“Hay là mình ghé La Vang thăm một chút rồi đi tiếp.”

Tôi đồng ý ngay. Tôi nghe tiếng La Vang từ lâu. Khu thánh địa này không xa, thuộc tỉnh Quảng Trị, cách Huế khoảng 60 cây số. Từ quốc lộ rẽ qua trái một đoạn đường gặp ngôi nhà thờ đang được trùng tu (nhà thờ cũ đã bị tiêu hủy trong trận chiến 1972), xe ủi đất đang mở thêm vài con đường mới, những lớp đất vàng tươi vừa được ủi lên phơi mình dưới nắng trưa. Nhà thờ nằm trong một khuôn viên rộng rãi cạnh một cây đa cao lớn đúc bằng bê tông, bên dưới là tượng Đức Mẹ. Trước pho tượng, khoảng gần một trăm giáo dân đang quỳ cầu nguyện rì rầm. Tôi nhìn kỹ bức tượng. Đức Mẹ mặc áo dài Việt Nam, chít khăn vành vàng có đính những hình ngôi sao trắng, tay bồng chúa hài đồng. Đặc biệt là khuôn mặt Việt Nam dịu dàng với đôi mắt to, đẹp, và buồn, quá buồn. Đức Mẹ đã hiện lên trên cây đa (nay được đúc lại bằng bê tông như đã nói) năm 1798 sau những trận tàn sát giáo dân một cách kinh khủng vào thời những vua chúa phong kiến. Thế thì Đức Mẹ hiện lên ở La Vang trước Fatima, Bồ Đào Nha, khá lâu (Đức Mẹ hiện lên ở Fatima nhiều lần vào năm 1917 khi Cách Mạng Vô Sản thành công ở Nga, khi Chiến Tranh Thế Giới thứ I đang ở hồi quyết liệt). Đến cạnh Nhà Thờ, thấy vắng người, thấy có những hàng bàn ghế dài đặt bên hông, tôi ngã lưng nằm xuống định nghỉ một chốc. Ngồi lâu trên yên sau xe hai bánh ê cả lưng. Và ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Bỗng như nghe vang vang đâu đây tiếng hát dìu dặt, tôi choàng tỉnh. Nhìn đồng hồ, đã hơn 12 giờ trưa, nhìn về phía tượng Đức Mẹ, giáo dân đang đứng đồng ca. Còn T. thì đi đi, lại lại quan sát những bức tường dài, thấp, chạy ngang, chạy dọc, trên đó có gắn những tấm đá, tấm sứ mỏng ghi tên họ những người đến viếng thăm, người nước mình và người nước ngoài. Có tên một số vị lãnh đạo quốc gia trước kia, cùng những lời xưng tụng.

Quanh quẩn nơi đấy gần một tiếng, chúng tôi lại lên đường. Ra tới cổng lấy xe mới biết được giữ xe miễn phí, lại biết thêm người hành hương nào muốn ở lại tại La Vang một thời gian, cũng có chỗ trọ tươm tất tại mấy tòa nhà gần cổng ra vào, khỏi trả tiền. Tôi quên hỏi ăn uống thì sao, được miễn phí hay không.

Xin giã từ, xin giã từ Đức Mẹ, xin giã từ La Vang. Xin giã từ những tiếng cầu kinh, những bài thánh ca ngân lên trong không gian trưa tĩnh lặng. Trên đường ra Quảng Trị và cho đến khi trở về, tuy là người ngoại đạo, tôi vẫn thường nghĩ đến Đức Mẹ Sầu Bi.

Đến Cổ Thành Quảng Trị, chúng tôi đi bao quanh giáp một vòng rồi mới vào bên trong. Không còn doanh trại như xưa, chỉ là một đám đất bỏ hoang, cỏ dại, lau sậy mọc cao dưới những hàng dừa song song. Những dãy thành ngang dọc nay chỉ còn sót lại vài ba bức tường thấp lè tè đổ nát trên đó rêu xanh, cỏ may loang lổ từng đám. Hào khô nước, bờ hào đang được xây lại. Hình như Cổ Thành đang được tu sửa lại để làm khu lưu niệm.

Không có thì giờ đi các nơi khác của thành phố Quảng Trị, trước kia bị san bằng trong chiến tranh nay đang gượng dậy, chúng tôi chạy đến bến đò Ngô Xá thuộc thôn La Duy, tìm dấu vết của người thân ngày xưa từng qua đây và không bao giờ trở lại. Cách đây hơn nửa thế kỷ, nền văn hóa làng mạc còn bao trùm hầu hết mọi sinh hoạt, đường sá giao thông khó khăn, cầu cống ít, thuỷ lộ được sử dụng nhiều. Hành khách, hàng hóa từ Huế đi Quảng Trị, hay đi các nơi khác, hay từ các nơi khác về, như bánh trái, gạo lúa, cau chuối, heo ca, gà vịt v.v… đều được chuyên chở bằng ghe, đò, nốt. Hồi đó chưa có máy đuôi tôm, động cơ, thuyền bè di chuyển bằng mái chèo, họăc buồm theo các ngõ sông, ngòi, hói, phá, biển. Chủ đò không thể nào chèo suốt ngày đêm, ngày này qua ngày khác, cho nên nếu muốn đò đi không ngừng nghỉ, hành khách phải phụ chèo – bạc trốt xuống nốt cũng phải chèo. Qua khỏi Vân Trình, Thanh Hương thuộc Huế, đi tiếp đến Trà Lộc, Trà Trì thì tới bến đò Ngô Xá. Đây là vùng khá tấp nập thuộc Quảng Trị, từ đó có thể đi tiếp hay dừng lại nghỉ, và nếu cần, đổi qua đường bộ đi những hướng khác, vận chuyển bằng xe bò, xe ngựa, gánh gánh.

Nay chúng tôi đi tìm bến đò Ngô Xá, không còn. Mọi dấu vết cũ đều bị xóa sạch. Bến đò Ngô Xá ngày xưa nay chỉ còn là một khúc sông bèo con trôi lềnh bềnh, tre pheo hai bên bờ uốn cong như vòng cung ngã xuống thật thấp, có đọt chấm xuống dòng nước đang trôi vẽ thành hình chữ V nhọn, dài, uốn éo. Tôi đứng nhìn khúc sông ấy nắng đã lên cao bóng cây che hơn một nửa dòng nước. Tôi đứng nhìn khá lâu. Tiếng chim bi thương vang lên từng chuỗi ngắn như từ một quá khứ xa xôi nào. Phải chi có nhang để cắm lên những mô đất có hình dáng những ngôi mộ. Tôi nhớ hồi sau tháng tư 1975, vợ một người bạn có chồng đi tù ở miền Bắc, chồng chết hơn một năm mới được tin, bán số tư trang ít ỏi còn lại để có tiền lặn lội trên nhiều chuyến xe hơi, xe lửa chật như nêm ra vùng Hoàng Liên Sơn tìm mộ chồng, được cán bộ đứng từ cổng trại giam đưa tay vẫy vẫy chỉ chỉ về phía chân đồi xa, không có ai dẫn đi, đành phải bước thấp bước cao một mình đi tới đó thắp thật nhiều nhang van vái trời đất đồi núi cỏ cây rồi cắm nhang lên trên đám đất cỏ gai mọc tràn lan không thấy đâu là mồ mả. T., có lẽ muốn cho tôi được yên, đi vào một ngôi nhà tranh bên sông hỏi han, uống nước trà với chủ nhà. Người dân quê ở đây rất hiếu khách, thấy người lạ vào là vui vẻ “mời bác ngồi chơi uống miếng nước cho vui”.

Lại tiếng chim bi thương ấy như kêu từ dĩ vãng, tiếng chim từ quy hay tử quy đâu đây rót vào không gian tịch mịch buổi xế trưa từng chuỗi ngắn rã rời, mệt mỏi, hụt hơi, buồn thảm. Tôi không hề nghe tiếng chim quy tại Mỹ đã đành, tại các vùng khác của Việt Nam cũng rất ít. Chỉ nghe nhiều ở các miền quê của Huế và Quảng Trị vào khoảng cuối xuân qua đến hết hè. Nghe như nghe một cái gì vừa đổ vỡ, tàn tạ, chia lìa. Đó có phải là tiếng kêu chim quốc như trong bài Qua Đèo Ngang của Thanh Quan, “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc”? Hay trong bài Quốc Kêu Cảm Hứng của Nguyễn Khuyến:

Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Đấy hồn Thục Đế thác bao giờ
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ
Đêm dài ròng rã kêu ai đó
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ

Có lẽ không phải. Trong thơ của Thanh Quan và Nguyễn Khuyến nói trên đều dùng điển tích vua Đỗ Vũ mất nước, sau chết hóa thành chim đỗ quyên, tức là chim quốc, theo hai nhà thơ ấy. Nhiều từ điển Việt Nam cũng cho rằng chim quyên là chim quốc (Từ điển từ và ngữ Việt Nam – Nguyễn Lân, 1998; Từ Điển Tiếng Việt – Viện Ngôn Ngữ Học, 1988). Tôi không nghĩ như thế.

Chim tử quy, tiếng dân dã miền quê thuộc vùng Bình Trị Thiên gọi là chim quy, khác hẳn chim ò ho, tu hú, hoặc chim quốc. Chim quốc lông đen, thuộc loài gà, thường ở trong bụi rậm, kêu quốc quốc, và hay lủi – lủi như quốc. Chim quy lông nâu vàng nhạt, lớn bằng chim sẻ, thân thon hơn, đầu nhỏ hơn, đuôi và chân dài hơn, thường đậu trên các cành cây nhãn, bưởi, khế, thầu đâu (sầu đông?) kêu liên miên từng chuỗi ngắn quy… quy… quy… quy… qùy-qùy-qùy, mà có người sính tiếng Pháp nhại père… mère… frère…tout perrrdu (cha mẹ anh em đều mất hết). Hay đó là chim quyên trong Chinh Phụ Ngâm, “Ca quyên gọi làm rơi nước mắt” của người chinh phụ, hoặc “Đầu cành quyên nhặt, cuối trời nhạn thưa” trong Kiều mô tả mùa hè đang kề cận ở ngay cành cây ấy mà mùa thu đã lấp ló ở chân trời?

Cửa Việt! Từ Ngô Xá đến Cửa Việt trời đã xế chiều. Cửa Việt, nơi ngày xưa chúa Nguyễn Hoàng đến đóng trại lần đầu tiên sau khi mang theo quân lính Thanh Nghệ, cả vợ con của họ và dân chúng vào lánh nạn vùng Thuận Quảng theo lời chỉ bảo của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân.” Đất Thuận Quảng hồi đó nay là Bình Trị Thiên. Sau một thời gian ngắn, vào năm 1600, chúa Nguyễn Hoàng dời doanh trại về Ái Tử thuộc huyện Triệu Phong, Quảng Trị bây giờ, được bô lão và dân sở tại đem dâng bảy chum nước. Ngài phán đây đúng là điềm tốt. Theo Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, khi sắp mất, Nguyễn Hoàng dặn người con thứ sáu Nguyễn Phúc Nguyên rằng: “Đất Thuận Quảng này bên bắc thì có núi Hoành Sơn, sông Linh Giang, bên nam thì có núi Hải Vân và núi Bí Sơn thật là một nơi trời để cho người anh hùng dụng võ. Vậy ta phải thương yêu nhân dân, luyện tập quân sĩ để mà gây dựng cơ nghiệp về muôn đời.” Theo Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả in tại Sài Gòn 1995, “Nguyễn Phúc Nguyên giao toàn quyền quyết đoán việc nước cho Nguyễn Phúc Khê, con thứ 10 của chúa Nguyễn Hoàng. Chỉ có án tử hình và trọng án thì phải tâu lên mà thôi.” Nguyễn Phúc Khê, thuỵ phong Nghĩa Hưng Quận Vương, được thờ ở Thái Miếu, là người tài trí, cơ mưu. Lúc Nguyễn Phúc Nguyên đã yếu cho vời Nguyễn Phúc Khê vào chịu cố mệnh, căn dặn: “Ta kế nghiệp tổ tiên, trên giúp vua, dưới cứu dân. Nay Thế tử lịch duyệt chưa đủ, mọi việc quốc, quân đều uỷ thác cho hiền đệ.”

Năm 1626, chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên) dời dinh về làng Phúc Yên, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên; năm 1636 chúa Thượng (Nguyễn Phúc Lan) dời về làng Kim Long, huyện Hương Trà, Thừa Thiên; năm 1687 chúa Ngãi (Nguyễn Phúc Trăn) dời về làng Phú Xuân, huyện Hương Trà, Thừa Thiên; năm 1712 chúa Nguyễn Phúc Chu dời ra làng Bác Vọng, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên; năm 1738 chúa Nguyễn Phúc Khoát lại dời về Phú Xuân; năm 1774 chúa Trịnh Sâm cử tướng Hoàng Ngũ Phúc vào đánh chiếm Phú Xuân, tiếp theo sau đó Tây Sơn chiếm giữ Phú Xuân gần 30 năm (theo Thái Văn Kiểm, Cố Đô Huế, 1994).

Năm 1801 chúa Nguyễn Ánh lấy lại được thủ phủ cũ của tổ tiên, cho xây lại thành trì làm kinh đô, nay là Huế, và lên ngôi Hoàng Đế năm 1802, xưng đế hiệu là Gia Long.

Sông Thạch Hãn và sông Hiếu đổ ra cửa Việt mênh mông ngoài kia. Không xa cửa biển bao nhiêu, bờ Nam sông Thạch Hãn thuộc huyện Triệu Phong, được nối liền với bờ Bắc thuộc huyện Gio Linh, bằng một cây cầu khá dài đang xây dở dang, xây xong sẽ dài hơn cầu Trường Tiền bắc ngang qua sông Hương nhiều. Trước 1975, Cửa Việt là một căn cứ hải quân khá quan trọng của Việt Nam Cộng Hòa nên sinh hoạt nơi ấy khá nhộn nhịp. Nay bờ Nam không được phát triển mấy, bờ Bắc thì khá tấp nập với quán xá, dinh cơ, mái ngói đỏ, đường sá, chúng tôi từ bờ Nam nhìn qua thấy. Chúng tôi đến cửa Việt, bờ Nam, thì mặt trời đã xế. Khát nước và đói nhưng không tìm ra được quán ăn nào. Cũng không có khách sạn. Nói chung, hoang vắng. Trên những mảnh sân hẹp tráng xi măng mỏng, người ta cho phơi con khuyết, một loại tép biển để làm ruốt chứa trong lu, vại lớn, rồi chiết vào thau nhôm mang ra chợ bán, tiếng miền Bắc gọi đó là mắm tôm. Nơi đầu cầu, trẻ con rách rưới chơi đùa, dưới chân cầu dăm ba chiếc thuyền buôn chở những bao khuyết, cá khô, gần cửa biển mấy chiếc đò nhỏ gắn máy đuôi tôm trôi chầm chậm ven bờ. Đặc biệt có một chiếc thuyền thon và dài trên đó khoảng trên mười người ra sức chèo, thuyền lao vun vút, xuôi dòng rồi quay ngoắt đầu ngược dòng một cách lẹ làng. Hỏi ra mới biết mấy thôn ven Cửa Việt sắp mở hội đua trải. Ở Huế vùng ngả ba Sình, ngả ba Tiên Nộn trước kia cũng có tục lệ đua trải đầu xuân, nay không biết còn hay hết. Làng mạc gần cửa Việt cũng hoang vắng với những túp tranh nghèo, vườn tược tiêu điều, cây cối thưa thớt.

Không kiếm ra quán trọ ngủ qua đêm, tôi hơi lo. T. nói:

“Không sao anh. Về làng An Cư cũng gần em có bà con mình ngủ lại.”

Trời đã chạng vạng tối. Trên đường chạy về An Cư tôi nhìn phong cảnh không được rõ nhưng cũng biết đã qua nhiều khu mồ mả. Dừng xe trước một ngôi mộ khang trang có hàng rào sắt bao quanh, T. cho biết đó là lăng ông Nguyễn Văn Tường, một nhân vật lịch sử quan trọng cuối đời vua Tự Đức, trước kia bị cộng sản lên án “Việt gian bán nước cho Tây”, nay đã được phục hồi danh dự. Một vị nữa hình như cũng đã được phục hồi danh dự, đó là Khâm Sai Đại Thần Phan Thanh Giản. Có câu nói dân gian chỉ bốn chữ thôi, thay đổi thứ tự của bốn chữ ấy sẽ tạo nên ba vế, ý nghĩa mỗi vế mỗi khác, thật hóm hỉnh: “Sai đâu sửa đấy, sửa đâu sai đấy, sai đấy sửa đâu.” Vế thứ ba muốn nói “hết thuốc chữa”. Nhưng trong trường hợp hai nhà yêu nước vừa nêu, nhà nước đã sửa đúng.

Đến một khúc sông, T. dừng xe lại bên bờ gọi một con đò được chèo bằng mái chèo chứ không dùng máy đuôi tôm đang trôi chầm chậm giữa dòng. Đò ghé vào ngay, và chúng tôi được chở qua bên kia sông chơi. Tiếc quá, trời đã tối, không ra cửa biển được, quanh quẩn một chốc đành phải quay lại bờ cũ. Nước trong xanh, sóng ít, gây gây lạnh. Buổi chiều tối trên sông tĩnh lặng lạ lùng, chỉ có tiếng sóng nhỏ đập vào mạn thuyền nghe róc rách như tiếng suối xa, và tiếng mái chèo đều đều khua nước. Không đừng được, tôi thò hai tay xuống rờ dòng sông rồi bụm lên một ít nước phả vào mặt, vào tóc, ướt mèm. Uống thử một ngụm, lợ lợ. T. cũng làm như tôi. Trên đường đò trở về bờ cũ, T. hỏi anh chèo đò:

“Sáng mai mấy giờ đi đánh cá, cho tụi tui đi theo với.”

“Dạ 4 giờ sáng, hai anh đi theo chơi cho vui.”

“Đậu mô?”

“Đậu ở Bến Đá cũng gần.”

Dân quê ở đây hiền hòa, chơn chất. Tôi bảo T. biếu một ít tiền, chủ đò nhất định không nhận, tôi năn nỉ, cuối cùng anh ấy lấy một nửa. Tôi hỏi nhỏ T. có quen anh chèo đò không. T. bảo em thường ra ngoài này nên nếu không quen thì cũng có thể biết nhau. Rứa là đủ.

Tối hôm đó chúng tôi mặc nguyên áo quần đi đường ngủ tại nhà từ đường của họ Phan trên một chiếc giường tre đặt ở chái phải, có chiếc mùng ngăn muỗi, bốn góc cắm trên đầu bốn cây hóp, chiếc chiếu lành lặn để đắp, nhưng cái gối thì đen bóng vì mồ hôi và cáu bẩn, may kiếm được tờ báo lót lên trên, cũng còn ngại, đội luôn nón vải mà ngủ. Cửa lá sách, cửa sổ đều mở toang, ánh trăng, ánh sao rọi vào. Quanh mùng, mấy con bướm đêm và vài loại côn trùng khác bay chờn vờn, kêu vù vù. Nhiều con đậu lên mùng, nhổm người dậy mấy lần xua đuổi, chúng bay đi rồi lì lợm quay lại đậu. Xin chào thua. Gió thổi suốt đêm và sóng biển xa dội lại. Tôi không yên tâm, nằm trằn trọc mãi. Việt kiều, trong túi có tiền đô la, nhiều tiền Việt Nam, tờ hộ chiếu, vé máy bay, thẻ tín dụng, và cả bằng lái xe do California cấp. Lỡ chuyện bất trắc xẩy ra, biết đâu. Nhưng tôi đã quá lo xa. Gần sáng mới ngủ thiếp làm trễ chuyến đi theo ghe đánh cá lúc 4 giờ như đã định. Một dịp may hiếm có đối với tôi thế là vuột khỏi tầm tay, biết bao giờ có được một dịp khác như thế.

Chúng tôi sửa soạn rời An Cư thì trời đã sáng “tửng bừng bưng” rồi. Người giữ nhà từ đường đã dọn sẵn một bữa ăn sáng thôn quê: khoai sắn luộc cháy sít đáy nồi thơm thơm chấm muối mè đậu phụng. Và một bình trà đậm. Chiều hôm qua ngoài Cửa Việt tìm đến một ngôi nhà tranh nhỏ, cạnh sân phơi khuyết, này mua bất cứ cái gì có thể cho vô bụng, được o con gái trả lời chỉ còn mấy khúc cá thu tươi kho nước xắp xắp với mía lau, nhưng không có bánh mì, cũng chẳng có cơm kiếc, bún biếc chi cả, ăn nể (tiếng vùng khác gọi là ăn vã) rứa thôi, có được không hai chú, còn muốn cơm thì phải chờ nấu. Được lắm chứ o, nhưng bây giờ đói quá, có chi ăn nấy khỏi cần cơm, ngon chưa từng thấy. Sáng hôm sau dậy đói meo, khỏi đánh răng, muốn đánh cũng không có, quên mang theo kem và bàn chải, ở dơ sống lâu, bốc ngay củ khoai, củ sắn, nóng hổi hổi vừa thổi vừa ăn, cũng ngon không kém bữa ăn cá nể tối hôm qua.

Trước khi khởi sự “bắc hành”, dù có ít thì giờ, chúng tôi đã định trong chuyến đi hoặc chuyến về sẽ đến thăm mấy ngôi làng trên rẻo đất nằm tiếp giáp với biển Đông bên ngoài phá Tam Giang, và vài làng lân cận, đặc biệt là làng quê của danh tướng Nguyễn Tri Phương.

Những người có công lớn cho tổ quốc như Nguyễn Hoàng, Nguyễn Tri Phương không được nhà nước bây giờ quan tâm mấy. Những vị ấy chỉ được đề cập sơ sài trong mấy cuốn Sử, họăc được đặt tên cho vài con đường nhỏ, vài ngôi trường bé, trong khi những kẻ khác được thổi phồng một cách quá đáng. Lấy trường hợp ông Hồ Chí Minh chẳng hạn. Dù ông là một nhà yêu nước hay chỉ là một người tranh đấu cho Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế, tuỳ theo góc độ nhìn của mỗi người, ông cũng đã phạm nhiều lỗi lầm khiến cho tổ quốc điêu linh từ khi ông cướp chánh quyền cho đến bây giờ. Chỉ xin nêu ra đây hai điều sai lầm nặng nề nhất. Trước hết ông đã du nhập một chủ thuyết ngoại lai càng ngày càng phô bày những khuyết điểm trầm trọng mà ngay cả nước chủ xướng và đem áp dụng chủ thuyết ấy trong 70 năm là nước Nga, nay cũng đã dẹp bỏ, đó là Chủ Nghĩa Cộng Sản. Đồng thời ông đã quên bài học lịch sử trong quan hệ giữa ta và kẻ thù truyền kiếp phương bắc, cho nên đã quá trông cậy và lệ thuộc Trung Quốc. Ai cũng biết trong suốt mấy ngàn năm lịch sử bang giao giữa hai nước, hễ Trung Quốc yếu, họăc bị xâm lăng, họăc có xáo trộn nội bộ, ta được yên thân; hễ ta có biến lọan trong khi Trung Quốc ổn định, hùng cường, ta bị “chiếu cố” ngay. Thế mà tên của ông, kể cả tên tục, tên húy, tên hiệu, bút hiệu v.v… được đặt cho các đường phố, trường học, học viện, tràn ngập từ bắc chí nam. Chưa hết, địa danh Sài Gòn đã nằm sâu trong lòng người, trong lịch sử, được cả thế giới biết đến, là tên của thủ đô miền Nam bại trận, lại bị phe chiến thắng xóa bỏ để đổi lấy tên lãnh tụ của phe họ!

Còn một điều lạ lùng khác là chế độ hiện tại ở Việt Nam đã bảo hoàng hơn vua, vẫn khăng khăng tôn thờ chủ nghĩa lỗi thời ấy. Nhưng có thật vậy không, hay đúng ra đó chỉ là chiêu bài dùng để che giấu ý đồ giành giật hết tất cả quyền lực vào trong tay của phe nhóm. Với xu thế dân chủ, tự do, nhân quyền đang bừng bừng nở rộ trên khắp thế giới, liệu một chế độ toàn trị xây dựng bằng bạo lực có thể tồn tại được lâu dài? Một câu nói chí lý của ông Ronald Reagan, vị tổng thống Hoa Kỳ mà dân chúng rất quý mến: Những chế độ xây dựng bằng lưỡi lê không bắt rể được (Regimes planted by bayonets do not take root).

T. lái xe chậm lại, quay người nói, cho gió đỡ tạt:

“Mình vừa qua khỏi các làng Bồ Bản, Chợ Cạn. Sắp tới Phương Lang, Cổ Lũy, tức là chạy theo đường biển để về Huế. Để anh được ghé những nơi anh muốn. Hồi còn nhỏ theo mẹ từ Quảng Trị vô Huế, em có đi đò dọc. Lúc ấy em nhỏ quá, bây giờ không còn nhớ gì. Chỉ nhớ mỗi khi chọc tay xuống nước vọc chơi, bị mẹ la, ‘Đừng, ma rà nó kéo xuống sông chừ.’”

Tôi thì nhớ đò dọc lắm, và nhớ luôn câu ca dao Huế mà lúc còn nhỏ tôi chẳng hiểu gì:

Mẹ già cuốc đất trồng tiêu
Con đi đò dọc mẹ liều con hư

Tại sao mẹ trồng tiêu lại sợ con hư trên những chuyến đò dọc? Ý nghĩa trong hai câu hình như không ăn nhập đâu vào đâu, chỉ thấy nó mênh mang một thứ tình cảm mông lung, lai láng. Sau này câu ca dao ấy gợi lên trong tôi nhiều liên tưởng. Mẹ nghèo không có đất làm trưa làm ruộng như người khác, đành phải cuốc đất trồng tiêu trong mảnh vườn nhỏ làm kế sinh nhai qua ngày. Việc cuốc đất trồng trọt lẽ ra là việc của đàn ông, còn mẹ già chỉ có việc giúp đứa con dâu lo nấu ăn, giặt giũ, giữ cháu. Có lẽ mẹ không có con trai, lại sinh muộn một đứa con gái, còn bố phải đi làm thuê làm mướn, hay đi làm ăn xa, hay đã qua đời. Mẹ mới vừa cuốc lật đất lên mà đã lo lắng trăm bề, lo chăm bón, săn sóc từng chút một vì tiêu không dễ trồng, vừa cần nước cần phân lại vừa sợi úng nước. Đến khi cây tiêu đơm bông kết trái, hái vô sàn sẩy, phơi phóng cho khô, cho giòn, lúc ấy mới bắt đầu có mối lo khác lớn lao hơn nhiều. Thế là phải sai đứa con gái còn ngây thơ mang tiêu đi bán ở những làng xa. Con đâu có thể đi bộ được, phải đi đò dọc, một mình trên sông nước lạ lùng, xôn xao, rối rắm, khó mà tránh được những lời ong bướm của bọn trai lơ sàm sỡ. Lỡ con mình cầm lòng không đậu. Lòng người như cánh chim, không chịu đậu thì sẽ bay đi không biết tới nơi đâu. Nhưng mẹ già đành phải cắn răng mà chịu, phó mặc may rủi.

Tôi thì khác, chú bé khỏi sợ ai lo lắng cho mình cả, như con ngỗng chưa lớn ngu ngơ, tha hồ đi trên những chuyến đò dọc. Tiếc thay mới đi được vài chuyến thôi. Mà cứ nhớ hoài.

Tôi lớn tuổi hơn T. nhiều. Hồi ấy tôi đã biết biết đôi chút, có lần được đi đò dọc về làng ngoại Vân Cù nằm ven sông Bồ. Rồi lại tản cư cũng đi đò dọc về phía phá Tam Giang, ra Quảng Trị. Vào thời gian ấy đường sá giao thông ít và xấu, vận tải khó khăn, thủy lộ là phương tiện tốt nhất trên đó đò ngang, đò dọc chuyển động bằng mái chèo chạy ngược xuôi nườm nượp. Kỷ niệm thời thơ ấu khó phai, nó làm chất men cho tưởng tượng và mơ mộng.

Con đò dọc không có buồm, trông gọn gàng hơn các loại ghe chài, hay ghe buôn, mui khum tròn làm thành mái vòm cong để che mưa nắng, chiếm trọn phần giữa của chiếc đò, chừa phần mũi và phần lái lộ thiên. Người lớn vô ra cái mui đò ấy phải cúi mình xuống để khỏi đụng đầu. Tôi con nít chả lo, chạy vô ra thoải mái. Ở phần lái, mái chèo dài và to bản được buộc vào cây cọc ngắn bằng những nuộc dây mây dẻo dai thắt thành hình số 8. Chèo lâu, nuộc dây nóng lên, thì lấy nước rưới vào. Trong mui có mấy khoang, có ngăn lửng, nhỏ làm bàn thờ tổ tiên, ngăn cho hành khách đẹp nhất, có lót chiếu, có gối kê đầu để ngả lưng khi cần, ngăn cho chủ đò thì “lùi xùi” nhưng chứa đủ “mọi thứ trên đời”, mẹ tôi nói thế. Phần sau lái có chuồng heo, lò bếp. Không có cầu tiêu. Gà được nhốt trong bội tre đan, gà trống sáng trưa chiều đều gáy ò o-o-o ò-ò nghe thật gần, muốn điếc cái lỗ tai, gà mái mỗi ngày mỗi cục tát đẻ trứng, còn con chó vàng ốm tong teo không bị nhốt chạy lăng quăng thỉnh thoảng ngó vô bờ sông ngứa miệng sủa khống. Nó tài lắm, có thể chạy trên lườn đò bên ngoài mui từ lái tới mũi vì nó không được phép chạy xuyên qua các khoang. Lè kè phía ngoài mạn đò ngang với dòng nước là mấy cái chẹp bằng tre dùng để bắt tôm, bắt cá, và cái oai đựng cá.

“Con mèo mô ôn?”

“Không có mèo.”

“Răng không nuôi mèo hả ôn?”

“Mèo sợ nước. Mà nuôi cũng xui.”

“Rứa có chuột thì răng?”

“Sức mấy. Thò ra con mô thộp con nấy.”

“Rứa răng lại nuôi chó?”

“Chó hên. Mà thằng cu có làm xấu thì chó đã chực sẵn dọn sạch bách liền liền, khỏi mất công lau khu, rửa đít.”

Chú bé làm chi cho hết ngày trên chiếc đò dọc ấy? Trước hết đứng trước mũi đò mê mẩn nhìn dòng nước tràn trề bị con đò rẽ sóng chạy phăng phăng tới, nước bắn lên làm ướt cả mặt mày tay chân đầu cổ, bố phải rầy la hắn mới chịu lùi xa mạn đò nhìn trời nhìn đất. Thế nhưng mỗi lần tới khúc quanh của dòng sông, hắn dòm chừng bố, thấy bố không chau mày, hắn lại chồm ra nhìn con nước xoáy tròn, lục bình trôi quanh như không bao giờ trôi ra khỏi những vũng xoáy. Rồi xóm làng, ruộng đồng, bờ bãi hai bên sông thay nhau dàn trải ra trước mắt. Và những hòn cù lao nữa chứ. Hắn nhận ra rằng cây cối lưa thưa trên các cù lao sao trông lẻ loi và buồn quá thế. Những thứ đó in đậm vào ký ức, đậm đến nỗi khi lớn lên, đọc câu Kiều “Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”, hay câu thơ Huy Cận na ná “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” bỗng có cảm tưởng rằng mình vừa được gặp lại một góc của tuổi thơ.

Rồi nào là chùa chiền, am miếu, đình làng, tất cả đều quay mặt lại nhìn con đò đang trôi trên con sông dài, và tre thì đu đưa mãi trong gió, cau thì nhón mình vươn cao lên đứng thẳng sau những mái tranh, dừa thì chồm ra mặt nước như muốn tìm kiếm cái gì, còn chuối, những cây chuối mẹ, lại lè kè mang nặng những cái buồng to, dài, như đàn bà có chửa, nặng quá có khi phải nhờ trụ chống. Qua mấy khúc sông thỉnh thoảng nghe vang dậy tiếng đập chiếu thùm thụp trên mặt nước, qua những bến đá ngó người ta giặt áo quần, vo gạo, rửa rau, làm cá, ngó những thằng bé con như mình mà đã đầu đội nón lá, tay cầm cần câu. Có khi đò chạy lòn dưới những chiếc rớ to lớn hơn cả mái nhà giăng trên cao cách mặt nước hàng chục thước. Mẹ đứng cạnh nói người ta phơi lưới đó con. Chưa tới bữa mà bụng thấy đói đã có bánh thuẫn, bánh tráng, bánh ú, khoai nướng hay hột mít lùi tro. Thỉnh thoảng nghe văng vẳng tiếng hò xa trên sông nước, ai mà dài hơi dữ rứa, nghe tiếng được tiếng được tiếng mất, ơi ới, hò hơ, chẳng hiểu gì. Đò đi qua không biết bao nhiêu làng xóm, không tài nào nhớ hết tên, chỉ nhớ “mạy mạy” năm ba tên do được nghe lóm bố nói chuyện với chủ đò, mà lại nhớ trật, Kế Môn tưởng là Kỳ Môn, Đại Lộc thì nhớ là Đại Lược, Đồng Xuyên mà cứ tưởng Đồng Xiêng, Mỹ Xá thành ra Mệ Xá. Thế nhưng từ đó về sau mỗi khi thoáng nghe cái gì liên quan đến những chuyến đò dọc, đến tên những xóm làng ven sông, ven phá, ven biển của những vùng quê ấy, trái tim cũng đánh mạnh thêm đôi chút.

T. lại giảm bớt tốc độ quay người nói:

“Mình đã qua khỏi các làng Hội Yên, Kim Giao, Diên Khánh, Xuân Viên. Anh có thấy mùi lúa không? Thơm ghê.”

Miền Bình Trị Thiên, chỉ Quảng Bình có những cánh đồng rộng lớn. Câu phương ngôn ngày xưa, “Thứ nhất Đồng Nai, thứ nhì hai Huyện”, đó là hai huyện Lệ Thủy, Bố Trạch thuộc tỉnh Quảng Bình nổi tiếng về sản xuất lúa gạo. Riêng Huế và Quảng Trị đất hẹp lại nhiều độn cát, truông, phá, đồi, núi, nhưng vẫn có nhiều cánh đồng xanh ngát vào mùa này. T. nói đúng, lúa đang con gái thơm lừng theo từng cơn gió đến. Đến Thanh Hương thuộc địa phận Huế, chúng tôi qua sông Ô Lâu, tới Vân Trình và chạy hướng về Chí Long.

Chí Long, một trong những ngôi làng chúng tôi phải đến. Chí Long, quê hương của danh tướng Nguyễn Tri Phương!

Nguyễn Tri Phương tài kiêm văn võ, một đại thần Triều Nguyễn dưới ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Lúc còn trẻ Ngài đã từng tham gia nội các thời vua Minh Mạng cùng với Hà Quyền, Hoàng Quỳnh cứu xét vụ án Lê Văn Duyệt. Năm Thiệu Trị thứ 5 (1845), Ngài cùng với Doãn Uẩn đem quân đuổi đánh quân Xiêm và Chân Lạp lấy lại thành Nam Vang. Năm Tự Đức thứ 11 (1858) quân Pháp đánh phá Đà Nẵng nhằm mở đường chiếm kinh đô Huế, Ngài vào lập đồn Liên Trì, đắp lũy dài từ Hải Châu đến Phúc Ninh chia quân chống giữ. Pháp liệu chưa đánh được nên kéo vào Nam đánh Gia Định. Nguyễn Tri Phương, Phạm Thế Hiển lại vào Nam cùng với Tôn Thất Hiệp đắp dãy đồn Kỳ Hòa (Pháp gọi là Chi Hoa, nay là Chí Hòa) kháng cự. Trước khi đi Nam (1860), Ngài để lại kế sách và tâu với vua Tự Đức rằng “đánh nhau với Pháp bây giờ khó lắm, khó gấp năm gấp bảy trước kia, nhưng cũng phải cố sức đền ơn nước, còn mặt Quảng Nam có việc gì thì các ông Phan Thanh Giản, Nguyễn Bá Nghi có thể cáng đáng được”. Đồn lũy xây dựng có quy củ, vững vàng, nhờ thế quân ta đã có thể cầm chân quân Pháp.

Pháp lại tấn công đồn Kỳ Hòa năm 1861, hai bên đánh nhau dữ dội. Bên ta Ngài bị thương, em Ngài là Nguyễn Duy tử trận, quan Tham Tán Đại Thần Phạm Thế Hiển bị thương nặng, rút về đến Biên Hòa được mấy hôm thì mất, quân sĩ chết nhiều. Bên Pháp chết hơn 300, thiếu tướng Pháp Vassoigne và đại tá I Pha Nho (Bồ Đào Nha) bị thương. Tôn Thất Hiệp kéo binh về Biên Hòa cố thủ. Thừa thắng, quân Pháp tiến đánh Biên Hòa, Tôn Thất Hiệp chống không lại. Ta mất luôn Biên Hòa rồi Định Tường, triều đình phải cử ông Phan Thanh Giản vào Gia Định xin giảng hòa. Không những thế, sau đó vua Tự Đức còn sai Phan Thanh Giản đi Pháp xin chuộc lại mấy tỉnh đã mất. Chuyến đi kéo dài hơn nửa năm. Pháp không chịu cho chuộc, triều đình sai Phan Thanh Giản vào Nam giữ ba tỉnh miền tây, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Năm Tự Đức thứ 20 (1867), Pháp vi phạm hòa ước, lại tấn công ba tỉnh miền Tây còn lại, quân ta thế cùng lực tận chống không nổi, Tổng Đốc Phan Thanh Giản cho mở cửa thành Vĩnh Long đầu hàng để cho quân dân bớt đổ máu, rồi uống thuốc độc tự tử.

Trong lúc miền Nam bị mất về tay quân Pháp, giặc giã lại nổi lên như rươi ở miền Bắc. Thế giặc rất mạnh, triều đình đã phải sai quan quân đi tiễu trừ hết nơi này đến nơi khác, thiệt hại nặng nề. Một số vị chỉ huy tử trận họăc bị vây khổn phải nhảy xuống bể tự tận. Trong những bọn giặc ấy, có đám cầm đầu bởi Tạ Văn Phụng khởi loạn từ năm 1861, cho người vào Nam cầu viện với thiếu tướng Pháp Bonard hứa hễ lấy được Bắc Kỳ thì xin giao cho nước Pháp bảo hộ. Năm 1863 triều đình cử Nguyễn Tri Phương ra Bắc dẹp được giặc Tạ Văn Phụng, đồng thời dẹp yên luôn những đám giặc khác vào cuối năm 1865. Sau đó nhà vua lại triệu Ngài về kinh đô lo việc triều chính. Thế nhưng miền Bắc có những đám giặc khác nổi lên, quan quân đi đánh dẹp mãi không yên. Cho nên vào năm 1872, triều đình lại cử Ngài ra Bắc thay Vua xem xét tình hình và điều binh khiển tướng lo việc trấn giữ và đánh dẹp những đám giặc ấy.

Quan hệ giữa ta với Pháp ngày càng gay go. Pháp tìm mọi lý do để chiếm thêm đất. Cướp xong miền Nam, Pháp tính chuyện đem quân tấn công miền Bắc. Với vũ khí thô sơ, lạc hậu mà đã phải chống cự với quân Pháp khi thì quyết liệt, khi thì dằng co, kể từ lúc Pháp nổ súng vào cảng Đà Nẵng năm 1856 cho đến năm 1873, thế là được hơn 17 năm. Bên ta càng ngày càng kiệt quệ về mọi mặt. Dân chúng hoang mang, hoảng hốt, con số quan quân hy sinh vì nước đã quá lớn.

Danh tướng Nguyễn Tri Phương, đã phục vụ ba triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, đã gần 40 năm cầm quân đánh giặc hàng trăm trận, lúc thì qua Chân Lạp đánh quân Xiêm, khi thì quay về Trung rồi vào Nam chống Pháp, rồi lại ra Bắc dẹp bọn phản loạn. Nơi nào có biến, nơi ấy có Nguyễn Tri Phương. Cuối năm 1873, quân Pháp đánh thẳng vào thành Hà Nội. Lão tướng Nguyễn Tri Phương bấy giờ đã tuổi già sức yếu, lại phải cùng con là Phò Mã Nguyễn Lâm lên thành Hà Nội giữ cửa Đông và cửa Nam. Thành vỡ, giặc Pháp tràn vào, Nguyễn Lâm bị trúng đạn tử trận, Ngài bị thương nặng, bị bắt, từ chối chữa trị và tuyệt thực cho đến chết. Thế là trong gia đình của Ngài, người em ruột là Nguyễn Duy tử trận hồi 1861 khi chống Pháp tại đồn Kỳ Hòa, nay con trai là Nguyễn Lâm, và chính bản thân của Ngài đều lấy cái chết báo đền nợ nước. Sử gia Trần Trọng Kim khi bàn về Nguyễn Tri Phương đã viết: “Thật là một nhà trung liệt xưa nay ít có vậy.” Ngay cả kẻ thù của Ngài là quân Pháp cũng tỏ lòng kính phục vị anh hùng dân tộc Việt Nam. Hiện nay tại một bảo tàng viện của Pháp tại Paris có trưng bày một chiến bào của Ngài.

Chẳng bao lâu sau đó triều đình Huế sai các ông Lê Tuấn, Nguyễn Văn Tường ra Bắc điều đình với Pháp xin trả lại thành Hà Nội và một số tỉnh miền Trung Châu Bắc Việt. Pháp đồng ý ký hòa ước Năm Giáp Tuất, tức năm Tự Đức thứ 27(1874). Mấy năm sau Pháp lại kiếm cớ đem quân ra Bắc lần thứ hai đánh thành Hà Nội. Lại một gương trung liệt khác, Tổng Đốc Hoàng Diệu, người Quảng Nam, chống cự không nổi, thắt cổ tự tận.

Cuối cùng, vào mùa hạ năm 1883, thiếu tướng Courbet và toàn quyền Harmand đem tàu đánh vào đánh cửa Thuận An, Huế. Lại những anh hùng vì nước bỏ mình. Chống cự được 4 ngày, từ 15 đến 18 tháng 7, thành Trấn Hải vỡ, hai quan trấn giữ thành là Lê Sĩ và Lê Chuẩn bị trúng đạn chết, các quan khác như Lâm Hoành, Trần Thúc Nhẫn nhảy xuống sông tự tử. Viết đến đây tôi không thể không nghĩ đến những tướng lãnh và quân, dân, cán, chính đã tuẫn tiết khi Miền Nam sụp đổ ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhưng đó là chuyện về sau.

Đọc lại nhiều lần trang sử đầy máu và nước mắt ấy, lần nào tôi cũng không thể nén được xúc động. Tôi thử tìm một khuôn mặt bi hùng có thể so sánh với Nguyễn Tri Phương, trong sử ta, sử Tàu, sử Pháp. Khó tìm thấy. Khổng Minh Gia Cát Lượng của nước Tàu chăng? Khổng Minh ngày xưa đã suốt 27 năm phò Lưu Bị để khôi phục nhà Hán, cuối cùng kiệt lực mà chết giữa trận tiền khiến quan quân phải bỏ dở cuộc chinh phạt, phát tang đưa linh cữu chủ tướng về Thành Đô. Sau đó người con trai của ông cũng cầm quân chống giặc và tử trận khi kinh đô đất Thục thất thủ. Sử gia Trung Quốc cho rằng cuộc đời của Khổng Minh là một tấn bi kịch lớn. Dân Tàu, và cả dân ta, thương tiếc một Khổng Minh suốt đời cung cúc tận tụy cho một dòng họ trong một cuộc nội chiến kéo dài, đặc biệt dân miền Tứ Xuyên, đất Thục ngày xưa, cho đến nay vẫn còn nhiều người quấn khăn trắng trên đầu giữ tục lệ để tang Khổng Minh dù ông đã chết hơn một ngàn năm về trước. Tấn bi kịch của Nguyễn Tri Phương xả thân vì nước chống ngoại xâm lâu dài hơn, lẫm liệt hơn, bi đát hơn. Nhưng Ngài đã được Tổ Quốc Ghi Ơn như thế nào? Rồi đầu óc lan man, tôi lại liên tưởng đến một cây cổ thụ vùng Waterloo nước Bỉ, nơi gần 200 năm trước tướng người Anh là Wellington đứng dưới tàng cây ấy chỉ huy trận đánh sống mái chống lại Napoléon. Anh đại thắng. Một người Anh mua cây cổ thụ ấy mang về nước. Tôi thì nay làm gì khi nhớ Ngài? Chỉ biết đứng lặng người trước nhà thờ tưởng niệm Ngài ở làng Chí Long.

Chí Long, một ngôi làng gần phá Tam Giang ít được người dân mình quan tâm đến. Các bô lão còn nhớ nơi thờ Ngài ngày xưa có trồng nhiều cây mưng. Đó là loại cây mọc trong rừng cạnh những dòng suối, không lớn lắm, dáng dấp cân đối, đẹp đẽ, to cỡ cây khế, cây ổi. Xin mở dấu ngoặt, các “đại gia” vùng Bình Trị Thiên bây giờ thường cho “gia nhân” vào rừng bứng nguyên một số cây đẹp mang về nhà trồng trước sân, trước ngõ làm cây kiểng trang hoàng, trong đó có cây mưng. Hoặc nếu mua, thì mỗi cây trị giá trên 20 triệu đồng Việt Nam tuỳ lớn nhỏ. Tôi nhớ lá mưng non, màu nâu nhạt, ăn thơm thơm, chát chát, chua chua, nó sống trên rừng lại tương tư cá mòi dưới biển để rồi kết duyên đằm thắm, “Mắm mòi đòi rau mưng/ Rau mưng ưng mắm mòi”. Các bô lão già hơn kể rằng dù Ngài ít khi có mặt tại quê nhà vì mải bôn ba đánh nam dẹp bắc, hay có về cũng bận dự chầu nơi kinh khuyết, thế nhưng tiếng vó ký vẫn ngày đêm liên tục khi thì rầm rộ như giông bão, khi thì gõ lóc cóc, lộp cộp, vang khắp xóm làng.

Làng Chí Long có ba thôn, người miền ấy gọi là ba Phường: phường Đợi (Đại), phường Trong (Trung Thạnh), và phường Chiếng (Chính An). Cách gọi ở miền quê là thế, có những tiếng được nói trệch ra do kiêng cử hay vì lý do nào khác, chẳng hạn khá gọi là khớ, anh thành yên, buổi mai thành buổi mơi, củ hành thành củ hờng, đi học thành đi hược, mặc áo thành mược áo, uống nước thành uống nác, Đại Lộc gọi là Đại Lược, Bao Vinh gọi là Bà Vang v.v… Hình như Huế cũng do chữ Hóa trong địa danh Thuận Hóa mà ra.

Ít được quan tâm nhưng Chí Long là một trong những vùng đất sản xuất nhân tài của miền Bình Trị Thiên mà người ta gọi là “địa linh sinh nhân kiệt”. Kẻ viết bài này chưa có dịp tìm hiểu thêm về danh nhân vùng ấy, tuy thế, qua những quan hệ thông thường với bạn bè cùng lứa, cùng lớp, cũng được biết đấy cũng là quê quán của Trà Mi, Diệm Mi, những người đẹp nổi tiếng một thời ở Huế; của Túy Hồng, nhà văn nữ nổi danh từ trước 1975, nay vẫn còn cầm bút; của nhà văn Nguyễn Trung Hối, cùng với những tiểu thuyết, tiểu luận của ông mà tôi rất trân quý, từng là chủ nhiệm, chủ bút tạp chí văn học Chủ Đề đầy tham vọng làm mới ngôn ngữ, xuất bản tại Sài Gòn trước1975, và hai lần tục bản tại Hoa Kỳ.

Rời Chí Long, thay vì theo ngã Phò Trạch họăc Sịa chạy về Huế gần hơn, chúng tôi quay lại hướng sông Ô Lâu, qua cầu (xưa là đò ngang), quẹo phải về phương Nam qua các làng Kế Môn, Đại Lược, Thế Chí Đông, Thế Chí Tây. Những ngôi làng này nằm trên rẻo đất hẹp bên ngoài phá Tam Giang như một bán đảo nhỏ, không xa Chí Long mấy, thế có nghĩa là tính từ bắc vào nam, bên phải của rẻo đất là phá Tam Giang, bên trái là biển Đông. Qua làng Thế Chí tôi lại nhớ mấy vị thầy cũ thời trung học, thầy Cao Hữu Hoành thông kim bác cổ dạy Pháp văn, Hán văn, Việt văn, thầy Cao Hữu Triêm dạy Sử Địa. Lại nhớ người bạn học cùng lứa, Cao Huy Thuần, hiện dạy môn Luật ở Paris, Pháp. Giòng họ Cao hay chữ này gốc làng Thế Chí.

Trời xế chiều, nắng chiếu nghiêng đã phai, chúng tôi ghé quán bên đường ăn cháo lươn có nhiều tiêu hành, uống nước trà đậm, rồi tiếp tục xuôi nam chạy về phía bến đò Ca Cút. Hồi còn bé tôi đã được nghe nói đến bến đò Ca Cút. Bến đò ấy xa lắm – tuổi nhỏ cái gì nghe cũng xa xôi, cũng huyền bí – ít có khách sang sông, nên chỉ một con đò nhỏ tí teo chở được vài ba người nằm chờ tại một bên bờ gần cuối phá, để đưa khách qua lại, bên này bờ là về phía kinh đô Huế, bên kia bờ là rẻo đất hẹp như đã nói. Khách đến bến đò, nếu hên thì gặp đò đợi sẵn, bằng không thì đứng bên này bờ gọi đò đậu bên kia bờ. “Ráng cổ lên mà gọi” kẽo gió lộng ngoài phá thổi tiếng gọi đò bay bạt đi hết. Người nào cẩn thận mang theo cái mõ gõ thật mạnh tay cho đò nghe. Nhưng tại sao lại gọi là bến đò Ca Cút? Đó là tên một loài chim được đặt nhại theo tiếng kêu của nó, chim ca cút. Tại bến đò ấy ngày xưa có nhiều chim ca cút, khi thấy khách bộ hành tới, sẽ gọi đò giùm từng chuỗi bốn tiếng: bơ đò ca cút/tóc dài tóc cụt/ tre già măng moọc (mọc) …

Nay không còn bến đò. Một chiếc cầu đã bắc ngang, gần hoàn thành, nối hai bờ, gọi là cầu Ca Cút. Cũng như chiếc cầu ngoài cửa Việt, cầu Ca Cút khá dài, đã tạm cho xe hai bánh chạy qua. Khi xong, xe hơi cỡ lớn đều sử dụng được. Qua khỏi cầu, thay vì quẹo phải một đoạn không xa là tới Bao Vinh, chúng tôi chạy thẳng về phía gần cửa Thuận An. Rồi chúng tôi quay qua cầu Thảo Long. Thảo Long trước kia là cái đập dùng để chận nước biển khỏi tràn vào đồng ruộng, nay đã được tu sửa để bên trên làm mặt cầu cho khách bộ hành và nhiều loại xe dùng, kể cả xe vận tải, bên dưới là đập ngăn nước như cũ. Qua khỏi cầu, chạy khoảng năm cây số hướng về chợ Nọ, huyện Phú Vang, rồi qua cầu chợ Nọ, quẹo phải chạy cũng khoảng năm cây số chúng tôi tới Huế. Đèn đêm đã bật sáng.

Thử tưởng tượng ngày xưa thực hiện một chuyến bắc hành như thế tất phải mất hơn một tuần lễ. Nay giao thông tiện lợi, đời sống được cơ giới hóa, nhịp sống nhanh quá đến hấp tấp, chúng tôi đi chỉ mất hai ngày. Được mặt này, mất mặt khác, tôi thấy mình như một hòn đá lăn nhanh, rêu có bám vào nhưng chẳng được là bao. Cũng chỉ là một lối cưỡi ngựa xem hoa! Tôi mong được trở lại đó để sống nhiều hơn, nhiều hơn nữa, man mác trong cỏ cây mây nước.

*

Hơn 7 giờ chiều trời vẫn còn nắng. Tôi đứng trên mô đất cao ấy, bóng tôi đổ dài lên gần một nửa sân cù (golf) dưới kia. Thật ra sân cù này vốn là một đoạn của lòng sông Santa Ana. Vào mùa mưa thường rất ngắn, chỉ vài tuần lễ trong một năm, nó là một khúc sông nước chảy mạnh vì lòng sông nghiêng đúc bê tông giữa dòng. Còn những thời gian khác, nó biến thành sân cù được săn sóc cẩn thận, mặt đất phẳng phiu, cỏ cắt sát xanh mướt, có hàng rào bằng dây thép rất cao để chắn những quả cù bay lạc. Sau lưng tôi, kế tiếp con đường cao trải đá dăm, viền cỏ xanh dành cho người đi bộ, xe đạp, và ngựa, là khu gia cư của người Mễ. Tiếng trẻ con reo đùa trong tiếng nhạc ngắn lặp đi lặp lại phát ra từ một chiếc xe bán nước ngọt và kem. Trước mặt tôi, xa xa bên kia sân cù, những ngôi nhà hai tầng, ba tầng, ngói nâu, tường trắng, khang trang, đẹp đẽ, ẩn hiện sau những hàng cây rậm rạp. Có tiếng chó sủa ồm ồm, ấm áp, tiếng sủa của chó berger Đức, từ bên xa ấy vọng lại khi một chiếc xe hơi màu đỏ quẹo vào một chiếc cổng sắt đang từ từ mở. Đồng thời văng vẳng tiếng nói chuyện rì rầm của những người đi bộ tập thể dục gần tôi. Tôi quay nhìn. Ba bốn người đi bộ mỉm cười chào tôi, “Hi”, và tôi cũng chào lại, như cái máy. Chúng tôi chưa hề quen biết nhau.

Tôi nghĩ rằng, không hiểu sao tôi lại nghĩ như thế, trong chiếc xe màu đỏ bên kia sân cù là một cặp vợ chồng son làm cùng sở vừa về đến nhà, chồng Mỹ, vợ gốc Nhật, họ sắp sửa phụ nhau làm một bữa ăn tối gồm có bánh mì nâu, thịt bi-tết, khoai tây chiên, xúp, xà lách và một chai rượu chát đỏ. Họ ngồi ở bàn ăn vừa ăn vừa xem TV ở phòng bên cạnh với màn ảnh chiếm nửa bức tường. Rồi họ sẽ làm gì nhỉ, tôi tưởng tượng tiếp … bỗng tiếng chim kêu lảnh lót từ một chòm cổ thụ gần chỗ tôi đứng khiến tôi quay nhìn xem thử đó có phải là giống chim cà cưỡng như ở quê tôi không. Cành lá rậm rạp, tôi không thấy được con chim dù tiếng hót của nó vẫn tiếp tục vang lừng. Năm bảy con chim nhỏ khác, chim gi, chim sẻ, chim sáo từ đâu bay về và đậu lẫn trong chòm cây.

Vâng, chiều rồi, chim quay về tổ. Nhưng người ta thì chưa, còn muốn níu lại một chút vui. Bên một mô đất nghiêng thoai thoải, một phụ nữ hai tay mang găng trắng cầm cây gậy cúi mình ướm ướm, nhứ nhứ một quả cù màu trắng nằm trên cỏ xanh, dáng người thon thả, đôi chân dài chụm lại. Tôi chăm chú nhìn, không trông rõ mặt, nhưng tôi đoán là đẹp. Người đàn ông ngồi trên chiếc xe chơi golf bốn bánh nhỏ, mui vải bạt, có lẽ là chồng của phụ nữ ấy, nhìn tôi rồi vẫy tay. Ý chừng anh ta muốn nói anh cũng nhận ra vợ tôi đẹp hả. Tôi vẫy tay đáp lại. Người phụ nữ uốn cong người lấy đà đã quất mạnh banh nghe bốp một tiếng. Trái cù bay xa trên không trung, người phụ nữ đứng yên như tượng, đầu ngẩng nhìn theo một chốc, xong lên xe ngồi cạnh người đàn ông. Anh ta vẫy tay với tôi lần chót rồi lái xe chạy theo hướng trái banh.

Tại một góc sân khác, một cặp vợ chồng già đùa giỡn với một con chó mập núc ních. Họ thay phiên nhau ném cái đĩa nhựa bay là là trên mặt cỏ để con chó chạy theo dùng mỏ bắt lấy trước khi cái đĩa chạm đất. Con chó trông mệt lắm rồi, lưỡi thè lè ra, không muốn chạy nữa, nhưng chủ nhân của nó ép nó tiếp tục trò chơi ấy. Tôi bỗng hiểu ra. Họ muốn con chó tập thể dục cho đủ số giờ đã định cho nó bớt cân, giảm cholesterol xấu. Có lẽ nó bị bệnh phì nộn.

Một buổi chiều quê trên đất Mỹ! Tôi nghĩ đến những chiều quê nơi quê cũ của tôi, lòng không khỏi bùi ngùi. Không, nước Mỹ không còn có nhà quê nữa, các thành phố, các thị trấn lan rộng ra mãi xua đuổi những miền quê đi nơi khác để bắt tay lấy nhau, tiếp giáp nhau. Và nếp sống cơ giới, đô thị, ngăn nắp, đẹp đẽ dần dần xóa nhòa miền quê cũ. Quê cũ của đất nước này. Thế có xóa nhoà dần quê cũ của tôi hay không? Ở đây tôi chỉ là một kẻ đứng trông, một kẻ có khi nhớ quê, không biết đi đâu, đến dòng sông cạn này nhìn buổi chiều xuống, nhìn cảnh trí chung quanh thoạt tiên hoàn toàn khác lạ, rồi quen mắt dần. Chiều tối rồi, chim bay về tổ, tiếng hót ríu rít cũng dần dần thưa rồi tắt hẳn. Nhìn lại cái bóng dài của mình in trên sân cỏ, không còn nữa. Sân cù dưới kia lấy lại dáng dấp của một dòng sông đêm, nước đen sâu thao thức[1], tôi thấy rõ trong trí tôi như thế. Có khác gì con sông chảy ra Cửa Việt trong chuyến bắc hành của tôi hay không? Tôi đi vội về căn nhà nhỏ trong chung cư có mấy người đồng hương hiếm khi chuyện trò với nhau, có vài gia đình Mỹ nhã nhặn nhưng ít nói, có nhiều người Mễ, Nam Mỹ thường mở nhạc ra nghe thật lớn, và ăn barbecue vào những chiều tối cuối tuần.


Ngự Thuyết
5/2010

-----------------------------------------

[1] Thơ Thanh Tâm Tuyền