Biển mênh mông. Không bờ bến, không một hòn đảo, không một mỏm đá, không một bãi san hô. Chỉ có nước và sóng. Trên mặt sóng trôi giạt một con thuyền nhỏ, quá nhỏ. Như con sâu cái kiến trên sa mạc hoang. Nhưng kiến bò từng đàn, quẩn quanh đâu đấy, rồi quay về tổ không xa mấy. Con thuyền thì một mình, trôi giạt mãi.
Chiếc thuyền này được đặc biệt đóng theo hình dáng một quả trứng ngỗng, mái, sườn, đáy, cửa, đều bằng gỗ chắc, khít khao, liền lạc. Đặc biệt, đáy khá nặng. Khi sóng dồi gió dập, người hoa tiêu bảo, đóng kín tất cả cửa và mái thuyền lại, thuyền sẽ quay cuồng lăn lộn như con rái cá rồi cuối cùng cũng nổi lên và trở lại vị thế cũ, đáy nằm dưới, mái bên trên. Như con mèo bị túm bốn chân mình lật ngửa, rồi bị thả xuống từ một độ cao ngắn, nó vẫn có thể xoay thân hình lại và rớt xuống bằng bốn chân an toàn.
Nhưng chiếc thuyền phải nhỏ. Vâng, nó nhỏ lắm, và khá chắc, chỉ chứa được một gia đình gồm vợ chồng và hai đứa con, đứa chị khoảng 16 tuổi, đứa em trai khoảng 12 tuổi. Và người bạn thân của gia đình đồng thời là hoa tiêu. Năm người tất cả. Không có hải đồ, chỉ có chiếc la bàn cũ kỹ mua ở chợ trời. Người hoa tiêu, một sĩ quan hải quân, yêu cầu mang theo hành lý, lương thực, nước uống tối thiểu, vì, theo anh ta, chỉ vài ba ngày hy vọng gặp tàu lớn vớt, bằng không, bốn năm ngày sau cũng đến được một hòn đảo của Mã Lai, hoặc Tân Gia Ba, hoặc Nam Dương. Vùng Biển Đông Nam Á chi chít đảo. Cho nên thuyền chở nặng làm gì, chỉ thêm khó xoay xở mà thôi.
Người chồng lên tiếng:
“Liều mạng đi vào mùa biển động, nhưng kìa, biển lại yên, gió lại lặng, thuyền chạy êm ru. Bây giờ trời mới sáng mà mình đã đi ra ngoài hải phận rồi, phải không? Mình may mắn quá cậu ơi?”
“Cho đến phút này thì may.” Người lái vui vẻ nói. “Biết đâu tối nay... Nhưng đừng lo, chiếc thuyền này sẽ chấp hết. Cứ việc bão tố đi, ta chả sợ.”
“Này Vĩnh,” người chồng tiếp lời, “tôi sung sướng quá. Càng xa bãi Phan Rí, càng xa dải đất hình chữ S đó, tôi càng cảm thấy lồng ngực như đang nở ra, tiếng nói như vang dội lên, con mắt thì tha hồ mở to để nhìn đến... đến... đến vô cực. Và tâm hồn thì..., tâm hồn thế nào cậu nhỉ?”
“Tâm hồn hả? Tâm hồn bay bổng.”
“Đúng, bay bổng.”
Nói xong, ông Cảnh, người chồng, hát lớn, giọng ồm ồm, lạc điệu, lạc nhịp, ông Vĩnh cũng hát theo, cũng lạc điệu, lạc nhịp, hai giọng hoà với nhau lộn xộn: “Ra khơi... thấy lòng phơi phới... thấy tình thế giới... thấy mộng ngày mai... thấy niềm tin mới...”
Đứa con trai mở to mắt ngạc nhiên nhìn bố, mẹ nó cũng mở to mắt nhìn theo. Chờ hát xong, người mẹ góp lời:
“Anh Vĩnh ơi, tôi cũng biết bài hát này. Bài Viễn Du của Phạm Duy chứ gì?”
Ông Vĩnh vừa trả lời người mẹ vừa ngoảnh nhìn cô gái rồi hét to:
“Đúng thế. Mình là cá gặp nước rồi. Như cá gặp nước hề, ta vẫy vùng. Chị có thấy thế không, anh có thấy thế không, cháu Hiền có thấy thế không?” Rồi cười lớn.
Ông Vĩnh là bạn vong niên của ông Cảnh, thua ông Cảnh trên dưới mười tuổi. Cô gái, Hiền, lặng lẽ vịn một tay lên thành ghe mân mê, mắt hoang mang nhìn xa về phía trời và biển gặp nhau làm thành một đường gần như cong cong dài mút mắt.
“Hết thấy chim trên bầu trời rồi, phải không cháu?” ông Vĩnh quay lại hỏi cô gái.
“Dạ, đúng thế.” Cô gái hơi giật mình trả lời nhỏ nhẹ.
“Cháu biết tại sao không?”
Cô gái lơ đãng:
“Thưa không.”
“Tại mình đã đi xa bờ, chim bay không tới.”
“Chú nói lạ chưa.” Cô có vẻ bắt đầu quan tâm đến câu chuyện. “Chim có thể bay hàng ngàn cây số, hàng chục ngàn cây số. Loài chim trốn lạnh có thể bay từ miền Bắc Cực xuống Nam Bán Cầu kia mà. Phải không chú?”
Ông Vĩnh mỉm cười:
“Đúng thế. Nhưng chú muốn nói những loài chim của đất liền như chim sẻ, quạ, hay ngay cả bồ nông chẳng hạn, chúng không bay xa lắm. Còn những loài di điểu khác, có loài bay thật cao trên trời xanh hay trên những lớp mây, mình không thấy được đâu. Và cũng thường bay ven bờ biển hoặc trong đất liền.” Cười khẽ. “Lỡ mỏi cánh, đói, kiếm chỗ đậu, chỗ ăn chứ.”
“Nhưng cháu nhớ ở vùng cháu cứ cuối mùa thu là thấy chim bay đầy trời, bay thành nhiều đàn theo hình chữ V hướng về phía Nam. Hết lượt này đến lượt khác. Cứ thế cho đến gần nửa tháng mới hết.” Ngẫm nghĩ, cô nói tiếp: “Không, chưa hết đâu. Sau đó cũng còn lại năm bảy cánh chim lẻ tẻ trên bầu trời. Có lẽ đó là những con chim già yếu bay theo không kịp.”
“Cháu nói đúng. Đó là lúc chúng nó mới khởi hành. Về sau bay càng lúc càng cao, như chú vừa nói, bay trong mây, rồi vượt lên trên những đám mây cao nhất và bay mãi, bay mãi. Thế là ta hết thấy.”
“Giống chim đó là hải âu, phải không chú?”
“Di điểu có nhiều loại, nhưng chim hải âu có thuộc loại đó hay không, chú không rõ lắm. Có thể đó là loại di điểu bay không xa lắm. Chỉ biết rằng chim hải âu luôn luôn nhớ biển, như một ám ảnh không rời. Chúng sống lẩn quẩn bên bờ biển, thường bay là đà trên mặt nước để bắt cá. Nhưng khi nào đậu trên mặt đất, thì thật là lạ.”
“Lạ ra làm sao?”
Ông Cảnh nói chen vào:
“Chú Vĩnh là sỹ quan hải quân, lại biết nhiều chuyện biển lắm. Hai người có vẻ tâm đầu ý hợp, con cứ việc tra khảo đi.”
Ông Vĩnh tiếp:
“Người ta nói cáo chết ba năm quay đầu về núi. Đấy chỉ là ẩn dụ. Giống chim hải âu mới là lạ. Những lúc bay đã mỏi cánh, hoặc những lúc biển vắng người, chúng thường họp nhau thành một đám khá đông, năm bảy chục con, đậu sát bên nhau, ngồi im trên mặt đất, giấu chân dưới hai cánh, tất cả đều quay về một phía, thường là hướng về biển, mắt nhìn mê mải. Như đó là thói quen có từ muôn đời.”
Cô gái ngắt lời:
“Nhưng chú vừa bảo đó là một ám ảnh không rời mà. Chứ đâu phải là thói quen.”
“Thì cái ám ảnh lâu đời biến thành quán tính, thành thói quen.”
Cô ta dường như chưa thoả mãn với lời đáp ấy. Cô quay nhìn ông Vĩnh trong một khoảnh khắc ngắn, rồi lại đưa mắt nhìn xa về phía trời và biển gặp nhau. Dường như cô quên hẳn ông Vĩnh vừa nói chuyện với mình. Cô nói nhỏ như chỉ để một mình mình nghe:
“Di điểu có bay đi luôn không? Hay hết lạnh lại quay về? Bầy chim én cũ qua thành phố, thơ ai thế? Còn mình thì sao?”
“Cháu nói gì?”
Cô thảng thốt:
“Dạ, cái gì ạ...Vâng, cháu nói những con chim già yếu, bệnh tật bay theo không nổi lại phải bỏ cuộc hoặc chết ở dọc đường.”
Ông Vĩnh cười:
“Hiền đa sầu đa cảm lắm đấy.”
Cô gái cũng cười theo, cười gượng, tiếng cười trong veo, đáp:
“Không, có gì đâu mà sầu với cảm hả chú. Cháu chỉ tưởng tượng vớ vẩn thế thôi.”
Nói xong, cô lại lơ đãng nhìn xa, rồi hầu như quên ngay người vừa đối thoại, lẩm bẩm:
“Mà ngay cả những con chim không già yếu cũng có thể vì một lý do nào đấy bay đi lạc đàn. Trời bao la, biển bao la, một cánh chim.”
Cô gái sắp tuổi dậy thì, tóc dài mượt mà, mắt to đen, người hơi gầy, những ngón tay thon đầu tháp bút. Trông cô thanh thoát như hình ảnh những thiên thần trong “chuyện đời xưa”. Đứa em trai trông nghịch ngợm, dường như thích thú từng giây từng phút của chuyến vượt biển, chốc chốc cười rú lên.
“Hoà! Yên đi nào. Đừng cười nữa có được không? Chị đang...”
“Thì cứ để nó vui được phút nào hay phút ấy,” người mẹ mắng nhẹ cô gái. “Mà hình như con có chuyện gì, chuyện gì... lo nghĩ.”
“Dạ không.”
Người cha chen vào:
“Con Hiền thỉnh thoảng vẫn thế. Con gái mới lớn mà, thỉnh thoảng ‘trở trời trái gió’ đấy thôi. Bà đừng quan trọng hoá vấn đề.”
“Không phải thế đâu,” người vợ ngắt lời. “Tôi để ý... chỉ mới đây thôi, từ ngày mình quyết định vượt biển.”
Nước mắt rưng rưng, cô gái nhìn bố. Ông Cảnh cau mày, rồi như không muốn biết thêm tại sao đứa con gái của mình có cử chỉ như thế, ông quay qua ông Vĩnh bắt chuyện:
“Cậu biết tại sao tụi nó tệ hại đến như thế hay không?”
“Tụi nào?”
“Thì tụi nào nữa. Cái bọn đã làm cho cả Miền Nam tan hoang.”
Ông Vĩnh nhún vai trả lời:
“Cộng Sản mà. Nga, Tàu, rồi Việt. Cá mè một lứa thế thôi.”
Ông Cảnh sôi nổi:
“Không, không đơn giản như thế. Chúng nó có mẫu số chung, nhưng đồng thời cũng có những nét cá biệt. Chẳng hạn Cộng Sản Việt Nam man trá nhất, độc ác nhất, tráo trở nhất, lật lọng nhất.”
“Anh nói có quá lời không?”
“Không quá lời một chút nào cả. Tất nhiên có nhiều nguyên do, mà cái khiến cho ta vừa thương hại vừa ghê tởm, đó là cái mặc cảm của chúng...”
“Anh cứ nói tiếp đi,” ông Vĩnh giục.
“Chiếm được miền Nam bỗng chúng nhận ngay rằng chúng thua kém đủ thứ. Nếu là người có lương tri, lương tâm, thì ráng rèn luyện, học hỏi để có ngày theo kịp người khác. Đằng này vì mặc cảm tự ti, chúng dối mình, dối người, bóp méo sự thật, rồi dùng bạo lực và gian trá chà đạp lên tất cả những gì trái ý chúng.”
“Tôi thông cảm với anh. Trước những mất mát lớn lao, người ta đâm ra có những ý nghĩ lạ, có khi cực đoan.”
Ông Cảnh gắt, to tiếng:
“Nghĩa là cậu bảo tôi nói sai?”
Hình như to tiếng là thói quen của ông Cảnh, chốc chốc ông lên giọng một lần thế thôi, chứ không phải đó là biểu lộ giận dữ.
“Không phải thế. Anh nói không sai nhưng... tôi chưa tìm ra chữ nào cho thích hợp. Đúng rồi, anh quả là người ngay thẳng của ngày xưa còn sót lại. Trong sáng quá, lương thiện quá, trắng đen phân biệt rành mạch quá, trong cái thế giới ma quỷ bây giờ.”
Người mẹ chăm chú nghe hai người đàn ông tranh luận, thằng Hoà ngồi sát mạn thuyền vói tay ra ngoài như muốn đón hết những đợt sóng nhấp nhô, cô gái thì nhìn trời thỉnh thoảng thở dài. Hình như cô có điều gì khó nghĩ.
Ông Vĩnh không muốn tranh luận tiếp, quay qua cô gái nói:
“Hiền, cháu nghĩ gì, nói cho chú nghe được không.”
“Dạ, cháu nghĩ... Thì còn nghĩ gì khác ngoài chuyện mong sao đi nhanh cho thoát.”
“Chú cảm thấy cháu... Cháu xem chú như người dưng nước lã, không muốn nói hết những gì muốn nói, chứ gì.”
Cô gái hơi bối rối:
“Không phải vậy đâu chú. Để cháu cố nói hết nhé. Dường như cháu muốn làm một cái gì đấy, quan trọng đối với cháu lắm thì phải, mà... mà... cháu chẳng biết đó là cái gì cả. Cháu nói thật đấy, tin hay không tuỳ chú.”
Ông Vĩnh im lặng nghe, chờ cô bé nói tiếp. Nhưng cô xoay qua mẹ thì thầm. Trời đang trong sáng bỗng nhiên nổi lên một đám mù bao trùm cả không trung. Rồi như có một loài thuỷ quái khổng lồ chạy điên cuồng dưới đáy, mặt biển sôi sục, tiếng gào phát ra ghê rợn. Hai người đàn ông vội đóng kín mái thuyền và mấy cái cửa hông. Chiếc thuyền trồi lên, trụt xuống, cuốn quanh. Chỉ trong một khoảnh khắc, biển lặng, sóng êm. Mấy cánh cửa được hé mở, mọi người nhìn ra ngoài, thở dài nhẹ nhõm. Đồ đạc mang theo đã được ràng rịt chặt chẽ, thế mà nhiều thứ bị sổ tung nằm ngổn ngang. Ông Vĩnh mở các cánh cửa và đẩy cái mái của chiếc thuyền ra cho ánh sáng uà vào, xong loay hoay tìm kiếm. Bỗng ông la to:
“Ô, chiếc la bàn vỡ rồi!”
“Chết chưa,” ông Cảnh la toáng, “thế phải làm sao?”
“Nguy quá, để tôi nghĩ xem,” ông Vĩnh đáp.
Người mẹ đầu bù, tóc rối, mặt tái mét, thằng Hoà đứng thun mình co ro run rẩy. Hiền không tỏ vẻ quá lo sợ, lẩm bẩm:
“Biết làm sao đây!”
Mọi người thu dọn lại đồ đạc trong thuyền, nhìn nhau sững sờ. Nước uống chứa trong mấy thùng nhựa bị đổ tháo gần hết, thức ăn, áo quần và các thứ đồ lỉnh kỉnh ướt mèm. Ông Vĩnh kiểm soát lại toàn bộ chiếc thuyền.
“OK chứ”, ông Cảnh hạ giọng xuống hỏi.
“Vâng, chưa đến nỗi. Nhưng cái la bàn hỏng rồi, đi hướng nào bây giờ. Có lẽ phải cho thuyền trôi thật chậm, chờ đến tối nhìn sao định hướng, rồi... Nhưng mùa này biển động, ngày thường âm u, đêm không sao.”
Ông chưa dứt lời bỗng từ xa sóng nổi lên cao như ngọn đồi làm mặt biển nghiêng hẳn. Ông nhanh tay kéo kín cái mái trong khi mấy người kia hối hả đóng kín các cửa hông. Chiếc thuyền chìm nổi, lăn lộn trong cơn thịnh nộ của biển. Hơn mười phút sau, biển lặng, sóng êm. Các cửa được mở ra, nước vào ngập kín đáy thuyền. Mọi người vội vàng tát nước. Thằng Hoà cũng bắt chước làm theo. Khi đã tát cạn, ông Cảnh lo lắng nói:
“Sao nước vào nhiều thế. Thuyền bị gì rồi chắc?”
“Không phải đâu, tại vì mình đóng cửa không kịp.” Ông Vĩnh trấn an.
Người mẹ quỳ xuống, hai tay chắp lại, lâm râm cầu nguyện, thằng Hoà quỳ cạnh mẹ. Cô gái đứng vịn tay lên khoan thuyền nhìn xa ngẩn ngơ xuất thần. Ông Cảnh đằng hắng:
“Hiền, con... con vói lấy cho bố chiếc khăn lông.”
Cô thảng thốt nhìn cha, có vẻ ngượng. Trao xong chiếc khăn, cô đến bên mẹ thì thầm:
“Cho con nói với mẹ một chút nhé.”
Người mẹ đáp nhỏ:
“Yên nào.” Rồi tiếp tục cầu nguyện.
“Nhưng có chuyện này gấp lắm mẹ ơi.”
Người mẹ ngạc nhiên nhìn con. Cô gái nói hối hả:
“Con nhớ con có đọc một truyện trong một cuốn sách. Hồi đó con thấy nó buồn cười...”
“Thôi con, giờ này mà con còn...”
“ Mẹ, mẹ, cho con nói tiếp. Nay con không còn thấy buồn cười nữa.”
“Chuyện chi vậy?”
“Trầm hà.”
“Là cái gì, mẹ không hiểu.”
Ngừng một chốc, cô nói:
“Con nhớ lời Phật dạy, đời người ngắn ngủi, vô thường. Ai rồi cũng sẽ ra đi, kẻ trước người sau, cách nhau có bao lâu đâu trong thời gian vô cùng. Chẳng hạn bố mẹ đi trước hay con đi trước thì cũng thế thôi. Mẹ ơi, bố ơi, đừng buồn, đừng giận con, tội nghiệp con lắm nhé.”
Người mẹ mở tròn mắt nhìn con, hoảng hốt:
“Hiền, sao con nói gì kỳ quặc vậy. Mẹ sợ quá!” Bỗng bà la thất thanh:
“Kìa lại sóng kìa! Lại sóng kìa!”
Mái thuyền và các cửa lần này được đóng lại rất nhanh kịp thời ngăn nước biển tràn vô. Chiếc thuyền quay tít. Biển lại gào lên như điên, như cuồng. Như muốn ra tay thanh toán cho xong ngay một món nợ truyền kiếp nào đó.
Mươi phút sau biển lặng.
Ông Vĩnh và ông Cảnh kiểm soát lại con thuyền. Ông Vĩnh nói lớn, giọng nói không còn bình tĩnh:
“Bánh lái gãy, chân vịt kẹt, nước đã tràn vô qua mấy kẽ nứt, lỗ hủng.” Ngẫm nghĩ trong vài giây, ông hét to: “Tát nước! Tát nước cái đã! Chuyện khác tính sau!”
Mọi người kẻ dùng nồi soong, người dùng thau, chậu, ông Vĩnh thì lấy ngay cái nón đang đội trên đầu, hì hục tát nước. Hiền đứng yên như tượng đá chờ đợi. Lại một đợt sóng thần khác chồm lên khỏi mặt biển trông như bức tường cong quái đản khổng lồ lù lù cuốn tới sắp nuốt chửng con thuyền bé. Mọi người không còn hồn vía, vất hết các thứ đồ dùng để tát nước, nằm nép mình xuống sát lòng thuyền. Hiền ngoảnh nhìn mọi người rồi đột nhiên lao ra khỏi mạn thuyền, dật dờ trên mặt sóng trong chớp mắt rồi chìm xuống nhanh, với mái tóc xanh loà xoà là những gì được trông thấy sau cùng. Bà mẹ đang nằm co quắp bỗng rú lên một tiếng kinh hoàng, đồng thời chồm người lên lao ra theo, người cha nhanh tay kịp ôm chầm lấy người mẹ. Lạ thay, bức tường nước đang tiến tới bỗng dưng chùn lại, rồi từ từ chìm rạp xuống, chìm rạp xuống. Mặt biển rùng mình sủi bọt trắng xoá. Sau một chốc, những ngọn sóng xanh trong veo lại nhấp nhô thay thế đám bọt trắng. Một cơn gió nhẹ thổi tới mơn man hoà với tiếng sóng rì rào tạo thành những điệu ru êm êm, vỗ về. Như những lời thì thầm muôn đời của biển. Mẹ Thiên Nhiên mới lên cơn thịnh nộ đấy bây giờ đã khéo làm lành.
Người mẹ chết giấc nằm gọn trong lòng người cha đang ngồi khóc không ra tiếng, không ra nước mắt, thằng Hoà như người vô hồn, ông Vĩnh gục đầu vào mạn thuyền bất động như cái thây ma. Chiếc thuyền không người lái lềnh bềnh, lắc lư trôi. Ông Vĩnh là người lấy lại bình tĩnh trước tiên, lặng lẽ tìm những thứ vặt vãnh còn sót lại trên thuyền dựng thành một cánh buồm nhỏ để gió đưa thuyền đi. Ông Cảnh nhìn vợ thẫn thờ, nói trong tiếng nấc:
“Con Hiền... nó đã muốn đi, và đã đi. Số phận của nó là thế... em hãy để nó yên tâm mà đi... đừng buồn...”
Ông Vĩnh nhỏ nhẹ nói với bạn:
“La bàn hỏng rồi, cái động cơ cũng hỏng. Tôi không định hướng được, nhưng phải cho thuyền nó chạy từ từ. Để nó trôi lềnh bềnh thì không cần phải sóng thần như lúc nảy, chỉ một đợt sóng không lớn lắm cũng đủ làm nó lật.”
“Lật thì cứ việc lật đi, chả còn gì đáng kể.” Một chốc: “Không lật thì cứ trôi, đi đâu cũng được.” Ông nghiến răng, dằn giọng: “Nhưng đừng, đừng, đừng lộn ngược về cái xứ sở khốn nạn ấy.”
Người vợ bỗng cựa mình lẩm bẩm:
“Con ơi, con chờ mẹ với.”
Nói xong bà lại chìm vào giấc mơ mê man.
Chiều hôm đó, chiếc thuyền nhỏ rách nát được một tàu buôn của người Anh vớt. Người mẹ tỉnh dần, nằm trên chiếc giường nhỏ có trải tấm “ra” trắng tinh. Bà quay đầu phía này, phía nọ, mệt nhọc, ngơ ngác, đảo mắt nhìn quanh con tàu, hết góc này đến góc kia. Thỉnh thoảng bà cố nhổm người dậy, ông Cảnh ngồi bên cạnh vỗ vỗ cho bà nằm xuống. Bà lại nằm yên từ từ nhắm mắt như thể để làm vừa lòng chồng. Cho đến khi hai dòng nước mắt của bà chảy ra hai bên má, ông Cảnh biết rằng bà lại chìm dần vào giấc ngủ mới. Cứ thế trong nhiều ngày. Có khi ông nghe bà nói trong giấc ngủ: “Không sao đâu mẹ. Bây giờ con thấy bình thản lạ”. Ông Cảnh không giấu nổi mối thương tâm, những nét đau khổ hằn sâu lên khuôn mặt hốc hác. Thằng bé chốc chốc khóc rưng rức.
Ông Vĩnh giọng nói đầy ân hận, ngập ngừng:
“Tôi cứ tưởng tôi đóng được một chiếc thuyền có thể...”
Ông Cảnh ngắt lời:
“Thôi, cậu đừng nhắc đến chuyện đó nữa. Có ai học được chữ ngờ. Mà ông Trời sao độc ác đến thế.”
“Nhưng cũng tại tôi nữa. Nghĩ mình có thể làm được chuyện phi thường, một con thuyền độc đáo.”
Sau một tiếng thở dài, ông tiếp:
“Xin anh chị cũng đừng quá buồn khổ. Trước khi ra đi, mình đã chấp nhận cái xấu nhất có thể xẩy ra. Nhiều gia đình chết hết là chuyện thường. Nay dù sao mình cũng còn chút may mắn.”
Ông Cảnh cười gượng:
“Cậu nói đúng. Có cả hàng ngàn, hàng vạn trường hợp đau đớn hơn gia đình tôi nhiều. Nhưng tôi thật không ngờ con Hiền nó đành đoạn bỏ chúng tôi. Hình như nó đã có quyết tâm từ trước. Lạ thật, tôi có linh cảm nó biết trước tai hoạ sắp xẩy ra. Cậu thấy đó chứ, trước đấy không lâu khi trời chưa trở chứng, khi biển còn lặng, nó đã nhỏ to chuyện gì đó với mẹ nó, rồi nó nhìn tôi như nhìn lần cuối.”
Ông Vĩnh gật gật đầu tỏ vẻ hiểu ý. Bầu máu nóng trong người ông Cảnh bỗng dưng sôi sục trở lại, ông nói lớn bất chấp những người khác trên tàu có bực mình hay không:
“Tai hoạ đến càng khiến tôi căm thù bọn chúng. Mọi điều ngang trái đều vì bọn chúng mà ra cả. Tất cả bọn chúng tuốt, không sót một tên nào.”
“Anh nói lạ,” ông Vĩnh nhẹ nhàng đáp. “Chẳng lẽ chúng nó cũng làm nên sóng gió ngoài biển hay sao? Lại nữa, anh không nên vơ đũa cả nắm. Chính danh thủ phạm là tụi chóp bu thôi. Bọn thừa hành kể chi.”
Ông Cảnh trợn mắt, nói như hét:
“Thế sao ông không ở lại?” Ngừng một chốc, ông nói tiếp, “Xin lỗi, tôi coi cậu như ruột thịt tôi mới nói thẳng thừng như vậy. Theo tôi nghĩ, nếu không có những tên chế tạo vũ khí giết người, những lũ tướng tá mưu mô, quỷ quyệt, những đám quân lính khát máu, tàn bạo, liệu Hitler và cả bộ tham mưu làm được gì? Cộng sản cũng thế thôi, liệu chúng làm được gì nếu không có bọn tay sai say máu, mù quáng. Còn nữa, tụi Cộng Sản Việt Nam đúc không được một viên đạn, chỉ giỏi nịnh bợ, làm tôi mọi cho ngoại bang, nghe lời chúng nó xúi giục đem xe tăng, thiết giáp, sơn pháo, đại pháo, về dày xéo Miền Nam.”
“Thì ta cũng xài súng Mỹ.”
“Nhưng ta tự vệ, chúng nó xâm lăng, chúng nó cướp. Đúng thế, cướp. Hồi 45 chúng ‘cướp chánh quyền’, chữ ‘cướp’ do chúng nó thú nhận, và tiêu diệt những đảng phái quốc gia yêu nước. Vừa rồi, miền Nam ta lo xây dựng để trở thành một nước dân chủ hùng mạnh ở Đông Nam Á, chen vai thúc cánh với Đại Hàn, Thái Lan, Nam Dương, còn chúng thì ngày đêm bóp trán suy nghĩ, mưu toan, lập kế hoạch ngắn hạn, dài hạn, để cướp.”
Ông Vĩnh đăm chiêu:
“Tôi đồng ý với anh, nhưng có lẽ ta phải có đủ một độ lùi nào đó mới có thể nhìn lịch sử một cách đúng đắn hơn. Bây giờ tôi xin hỏi thật, chắc anh bị bọn đó hành hạ hết cỡ nên... nên anh căm thù chúng nó lắm?”
Ông Cảnh ngắt lời:
“Ông nghĩ rằng tôi bị hành hạ nên bây giờ muốn báo thù, muốn nói xấu chúng nó cho hả giận? Nếu thế ông lầm rồi. Gia đình tôi chỉ là nạn nhân chung chung như hàng triệu người khác. Tôi lại còn không bị đi tù cải tạo như ông. Nhưng chỉ sống với chúng nó chưa đầy một năm, tôi ngán ngược. Trước kia nghe nói bọn ấy độc ác, dối trá, gian manh, tàn bạo, đểu cáng, mình nghĩ rằng đó chỉ là lối tuyên truyền tố cộng quá trớn. Nay mới thấy những lời tố giác ấy còn quá nhẹ.”
“Cũng đồng ý đi, nhưng không hoàn toàn đồng ý. Thuộc cấp thì phải theo lệnh trên, dù muốn, dù không. Hơn nữa, những đứa càng ngu dốt càng cuồng tín, trên bảo gì, dưới nghe răm rắp. Nhưng cũng có không ít những người ưu thời mẫn thế bị ép vào guồng máy. Họ nín thở qua sông.”
Ông Cảnh phì cười, đốp chát:
“Thế thì những người đó hết đất dụng võ rồi. Trước kia nín thở lặn lội qua sông Bến Hải gặp chúng ta, nay sông nào? Còn chuyện này nữa. Cậu có biết tại sao chúng nó tìm mọi cách nhục mạ và hành hạ chúng mình đến thế không?”
“Tại sao?”
“Tại vì, như tôi đã nói, và đây cũng là một trong những lý do chính, chúng tự ti mặc cảm. Nếu chúng nó có bản lĩnh, và tài giỏi hơn ta, và giàu có hơn ta, và còn một chút nhân tính, và còn biết nghĩ đến tình nghĩa đồng bào trong một nước dù Bắc dù Nam, chúng sẽ có cách đối xử khác hẳn.”
“Anh Cảnh này...”
“Khoan, khoan, để tôi nói tiếp. Đằng này chúng chẳng có gì cả. Thì chỉ có việc cướp. Vừa ăn cướp vừa la làng: ‘Chúng ông đến đây vì lý tưởng cao cả quyết trừ hung, diệt bạo, tóm cổ lũ phạm tội, hành hạ chúng nó, tịch biên gia sản, đất đai, nhà cửa, công xưởng.’ Làm như thế mới nuốt trôi được của cướp. Muốn được hiệu quả tối đa, trước khi ra tay, chúng họp nhau thảo luận thật kỹ càng, chu đáo những phương cách dối trá, lừa gạt, đổi trắng thay đen. Xong, tập dượt, tổng dượt hàng trăm lần từ bọn chóp bu đến lũ tốt đen, tốt đỏ. Thế là khi hành sự, tên nào cũng nhuần nhuyễn đường lối, làm và nói ro ro như máy. Chẳng hạn, ngay cả thời kỳ trước 75, vụ Huế Mậu Thân, chúng giết, chúng chôn sống hàng ngàn người chứng cớ rành rành, chúng cũng dám trâng tráo đổ tội cho Mỹ Nguỵ không chút ngượng ngập. Chúng thừa biết chẳng ai tin chúng, nhưng chúng lại nghĩ rằng cứ nói láo mãi sẽ đến ngày có người tin chúng, hoặc những thế hệ sau chẳng biết gì sẽ tin chúng. Một lũ lưu manh, mặt dày, trơ trẽn!”
Hơn ba mươi năm sau.
Hai người bạn ngày xưa thoát chết trong chuyến vượt biển nay ngồi bên nhau, một mái tóc hoa râm, một mái đầu bạc, chuyện trò tâm đắc. Trước kia họ đã là bạn thân của nhau, sau cơn hoạn nạn ấy, tình bạn càng thêm thắm thiết.
Ông Cảnh sống với người vợ già trong một khu chung cư gần một trung tâm cộng đồng Việt Nam tại nước Mỹ. Đứa con trai của ông, nay đã có gia đình riêng, đã vài lần mời bố mẹ già về sống chung nhưng ông từ chối. Có lẽ ông đã nhận ra rằng lối sống tại Mỹ là thế, cha mẹ già nên ở riêng để khỏi làm phiền con cháu.
Ông Vĩnh, sau vài lần lấy vợ không có con cái, không có hạnh phúc, quyết định không lập gia đình nữa. Ông đi làm việc và sống tại nhiều tiểu bang trên đất Mỹ, du lịch cũng nhiều, thỉnh thoảng về thăm Việt Nam. Bất cứ lúc nào có dịp đến Cali, ông đều tìm ông Cảnh, có khi chỉ trao đổi vài câu về sức khoẻ rồi ông đi công chuyện riêng, có khi ở lại chơi cả tháng. Ông đã nghỉ hưu, sống tự do theo sở thích. Ngoài du lịch, ông cũng có cái thú đọc sách.
“Anh Cảnh này, lâu nay anh có theo dõi thời cuộc bên nhà chứ?”
“Thì cũng đại khái,” ông Cảnh đáp. “Có gì mới mẻ đâu. Tôi nản quá. Cứ tưởng 5 năm là đã quá lắm rồi, thế mà lại nhân đôi lên 10 năm, rồi 20 năm, rồi sắp sửa 40 năm, tụi sâu dân mọt nước vẫn bám chặt quyền hành. Để làm gì cậu biết không? Để cuối cùng bán nước cho tụi Tàu.”
Ông Vĩnh ngồi lẳng lặng nghe, ông Cảnh càng nói càng hăng:
“Ta sắp bị tiêu diệt. Bọn cầm quyền thì bán nước, mà dân chúng bây giờ đã quá mệt nhọc muốn buông xuôi tất cả. Một số ít, quá ít, đáng được gọi là những bậc anh hùng, liệt nữ, đang cố sức vùng vẫy dưới những gọng kềm của bọn cầm quyền. Đúng thế, bọn bán nước lẽ dĩ nhiên phải tìm đủ mọi cách trừ khử những người yêu nước. Nếu không, chúng sẽ bị lật đổ. Liệu số người yêu nước ít ỏi và can trường ấy chống chỏi được bao lâu?”
“Tôi nghĩ khác.”
“Cậu không còn trẻ, nhưng cũng chưa già như tôi, cứ thử nghĩ khác đi xem nào. Biết đâu giấc mơ của cậu biến thành sự thật. Mà mơ và thật thường không đi đôi với nhau. Còn tôi? Quá đát rồi, sống rày chết mai, thấy sao nói vậy.”
Ông Vĩnh tỏ vẻ khó chịu. Ông gắt:
“Tôi còn nhớ anh bảo hễ bên nhà có thay đổi, anh về ngay. Về ở luôn.”
“Vâng, tôi có nói như thế thật, nhưng đã lâu rồi. Có lẽ nói trong lúc cãi cọ sôi nổi với cậu tôi nói cho hơn hơi. Bây giờ thì khác, hết hy vọng. Sống ở đâu cũng được, chết ở đâu cũng xong, miễn là đừng chung đụng với bọn đó. Ở cái đất Mỹ tự do, sung túc này, cơm no rửng mỡ, ta phải nói cho hả hơi chứ, chẳng ai làm gì ta được. Mà con người vốn được voi đòi tiên, như đứa con nít được cưng chiều vòi hết quà này đến quà khác. Sướng quá hoá quàng. Nhưng nghĩ cho cùng, ở đây tôi vẫn đứng ngoài rìa thỉnh thoảng dòm vào xã hội Mỹ thấy hoang mang, lạ lẫm dù vẫn mang tiếng là công dân Hoa Kỳ. Vậy tôi nay vẫn là người tỵ nạn như cách đây mấy mươi năm chứ chẳng khá hơn chút nào? Cũng có phần đúng đấy. Hay cái gọi là người tạm dung? Còn hy vọng gì đâu mà tạm với chẳng tạm. Mong ngày về quang phục quê hương? Ấy, ấy, xin chào thua. Tôi nói đầu gà đít vịt, xin lỗi, đầu Ngô mình Sở, lung tung, lôn xộn, nhưng cậu biết tôi nói gì chứ.”
Ông đứng dậy nhìn ra cửa sổ. Bà đang xách cái bình tưới nhỏ lụm cụm tưới mấy cây ớt, mấy khóm rau thơm. Ông thở phào một tiếng, tiếp:
“Chỉ vợ tôi là khổ thôi.”
Nhìn bạn thẫn thờ, ông Vĩnh ngập ngừng:
“Sao anh lại nói thế. Tôi thấy chị vẫn bình thường đấy chứ, vẫn vui vẻ đấy chứ. Đâu phải lạng quạng như anh.”
“Đó là bề ngoài,” ông Cảnh buồn rầu đáp.
“Tôi nghĩ rằng chị còn người thân bên nhà, muốn về, mà anh nhất định không cho chị về, nên...”
Ông Cảnh ngắt lời ngay:
“Ai bảo anh thế? Để tôi nói cho anh nghe, vợ tôi càng lớn tuổi càng đổi tính. Bà ta độ rày buồn vẩn buồn vơ hoài. Tôi cũng đã nghĩ như cậu, cho nên một lần tôi lẩm nhẩm hát đi hát lại mấy câu của một bài hát cũ, dọ ý đó mà, ‘Buồn nhớ quê hương / Lòng ta có bao giờ thắm tươi...’ Bà cười rồi phán một câu, ‘Anh lãng tai nặng, không nghe được giọng của mình, nên hát lộn tông này qua tông nọ mà cứ hát hoài. Nghe sốt ruột.’ Có lần trông thấy bà ngồi ủ rũ cả ngày, tôi bảo thẳng rằng nếu bà muốn về Việt Nam thì cứ về với mấy bà bạn đạo. Tôi ở đây một mình cả tháng cũng không sao. Bà lắc đầu.”
“Nghĩa là chị cũng không tha thiết gì chuyện về Việt Nam. Chị có thích đi du lịch không? Đi Âu Châu, đi Tàu, đi Úc?”
“Cũng háo hức vài ba lần đầu tiên, rồi đâu vào đấy.”
“Nghĩa là sao?”
Ông Cảnh chau mày:
“Nghĩa là bà bảo đi đâu cũng chừng ấy chuyện. Cũng chừng ấy nhà cao ngất trời và xa lộ dài thấy khiếp. Thêm tốn tiền. Vợ tôi khác tôi. Tôi chấp nhận số phận, không buồn cũng chả vui. Sống thế là đủ rồi. Còn bà...”
Sau một hồi ngẫm nghĩ, ông Cảnh tiết lộ:
“Có một điều khiến tôi suy nghĩ, tiện thể nói cho cậu biết xem có lời giải thích nào hay ho không. Gần đây, bà nhỏ to với tôi, ‘Anh chị Kha đúng là bạn tốt. Mình nên đi lại nhiều hơn nhé. Chiếc tàu nhỏ dễ thương quá.’”
“Kha? Tôi có quen không?”
“Không. Kha qua đây hồi 75, có tiền, có nhà cao cửa lớn, có chiếc tàu nhỏ đi chơi được ven biển. Ông bà Kha khá thân với chúng tôi, mời chúng tôi đi tàu chơi vài ba lần rồi. Nhà tôi từ đó thỉnh thoảng lại nhắc tôi đến anh chị Kha, để đi tàu.”
*
Tôi khác. Kỷ niệm thời thơ ấu sống mãi trong tôi.
Hồi còn nhỏ, chưa xong tiểu học, lũ trẻ con chúng tôi mỗi khi đi ngang qua đồn Vệ Quốc Quân ở ngoại ô thành phố, là luôn luôn dừng lại nhìn anh bộ đội đứng gác cổng, quân phục màu gì nhỉ quên mất, chỉ nhớ là nó bạc thếch, nón ca-lô vải bèo nhèo, giày da cũ kỹ, đứng thẳng người với cây súng trường dài dựng bên hông. Thấy chúng tôi nhìn, anh luôn luôn đáp lại bằng một nụ cười hiền. Tôi cảm thấy anh đẹp quá! Thương anh quá! Lính của mình mà. Trước kia lính Tây trắng, Tây đen mới có quyền đứng gác ở đấy. Nghe nói quân ta đã đánh đuổi được lũ Tây xâm lăng, dữ tợn đi chỗ khác. Người mình đã giành lại chỗ đứng của mình trên đất nước mình. Thật là vinh quang! Thật là oai hùng! Bên tai chúng tôi, ngày ngày văng vẳng những bài ca, không biết nhan đề, chỉ nhớ vài ba câu, tiếng được tiếng mất Đây là lúc quốc dân hùng tiến, hoặc Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu, hoặc Đoàn Giải Phóng Quân một lần ra đi, hoặc Còn đâu trên chiến khu trong rừng chiều... Trước mắt chúng tôi, những người thuộc thế hệ đàn anh, sôi sục lòng yêu nước, đang học những lớp cao của ngôi trường lớn nhất Miền Trung, tình nguyện xếp bút nghiên ra đi trên những chuyến xe lửa chật ních, trên những chiếc xe tải cà tàng xộc xệch hướng vào Nam. Hết đợt này đến đợt khác tiếp nối nhau. Họ vào Nam đánh Tây đang manh tâm trở lui tìm cách lập lại chế độ gông xiềng cũ. Lũ con nít chúng tôi hận là mình không đủ tuổi để noi theo ‘Các Anh Đi’. Những khẩu hiệu Dựng nước, giữ nước, nước còn, còn tất cả hoặc Ủng hộ Nam Bộ kháng chiến được ghi trên truyền đơn, hoặc được viết bằng những hàng chữ lớn trên các bức tường của công sở, của tư gia. Và bằng những dòng chữ khổng lồ trên những dãy thành dài rêu phong nối liền nhau bao quanh đại nội cổ kính đang bừng bừng tỉnh giấc.
Trên đồi cao, trên trời cao, trong gió, trong mây vang lừng tiếng nhạc thúc quân. Dưới dòng nước, dưới dòng suối, dưới dòng sông rần rật tiếng sóng giục giã lên đường. Chất men lạ lùng ấy không phải chỉ làm say lòng những bậc đàn anh, những bậc cha mẹ, mà cũng làm mê mẩn tâm hồn của bọn con nít ngây thơ.
Thời gian say sưa ấy chỉ kéo dài được mấy năm. Chiến tranh bùng nổ, chết chóc, đói khổ, gian lao. Rồi tản cư, rồi hồi cư. Bọn trẻ con chúng tôi lại cắp sách đến trường trong thiếu thốn, nghèo khó, nhưng hình ảnh hào hùng của Cách Mạng Mùa Thu không phai. Tuy nhiên nỗi hoang mang đã bắt đầu nẩy mầm. Quốc Gia là cái gì? Cộng Sản là cái gì? Thế Giới Tự Do là cái gì? Thế Giới Ngục Tù là cái gì?
Lớn lên, bắt đầu biết suy nghĩ, thì đã đến tuổi bị động viên. Như cánh bèo trôi theo dòng nước cuốn, vào quân trường Thủ Đức như những bạn đồng lứa. Sau 10 tháng huấn luyện, lúc ra trường chọn binh chủng Hải Quân, nghĩ rằng vào binh chủng này sẽ không phải hành quân liên miên như trên bộ, như các binh chủng Bộ Binh, hoặc Thuỷ Quân Lục Chiến, hoặc Nhảy Dù chẳng hạn. Như vậy một phần nào đỡ phải lâm vào hoàn cảnh hoặc giết chết hoặc bị giết chết bởi người cùng giống nòi.
Dần dần hiểu biết thêm về tình hình của đất nước trong bối cảnh chung của thế giới. Thì nhận ra được cái phi lý của cuộc chiến tranh tương tàn, khốc liệt, một cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc mà lại do những thế lực của ngoại bang nắm quyền quyết định. Nó làm tiêu hao quá nhiều tiềm lực của tổ quốc, nó gây hận thù liên miên chồng chất. Vậy mà, oái oăm thay, rất nhiều lúc vẫn còn phân vân tự hỏi phải chăng Bộ Đội Miền Bắc cùng với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ngày nay có phải là kế tục xứng đáng của Kháng Chiến oai hùng ngày xưa? Những buổi bình minh của Kháng Chiến, chưa thấy rõ bản chất của người Cộng Sản? Cho đến khi Miền Bắc thắng trận cuối cùng, câu trả lời muộn màng nhưng đích xác đã hiện ra. Cuộc chiến dai dẳng hơn 20 năm sau khi đất nước chia đôi năm 1954 quả không phải là chiến tranh giải phóng dân tộc chống Mỹ cứu nước mà Miền Bắc vẫn xác quyết, trái lại đó là một cuộc xâm lăng với sự giàn xếp và thoả thuận của những nước lớn.
Và điều tai hại là cách đối xử bất xứng của người thắng đối với kẻ thua. Tiếp theo là tệ nạn độc tài, tham nhũng làm cho đất nước điêu linh. Và cuối cùng kẻ chiến thắng lại đưa tổ quốc đến bờ vực của tiêu vong. Gần đây lại có tin đồn nhà cầm quyền đã lén lút chấp nhận Việt Nam trở thành một đặc khu hành chánh của Trung Quốc trong một tương lai không xa. Sao lại có chuyện lạ lùng đến thế! Mong rằng đó chỉ là tin đồn sai lạc. Nhưng rồi lại có tin làm mình bàng hoàng, hoảng hốt. Tin đồn ấy có cơ sở chăng? Cách đây không lâu, mấy em bé xinh xắn được cử đi cầm cờ Tàu vẫy chào lãnh tụ Tàu qua thăm. Cờ có một ngôi sao lớn với năm ngôi sao nhỏ thay vì bốn, tượng trưng cho bốn nước nhỏ đã bị lệ thuộc là Mông, Mãn, Hồi, Tạng. Vậy ngôi thứ năm là Việt? Sau đó, trước những phản ứng gay gắt của dân chúng, có lời giải thích thiếu thuyết phục về phía chánh quyền rằng người làm cờ nhầm lẫn. Tin được chăng?
Việt Nam và Nhớ.
Những xóm làng, những thành phố từng đến ở. Nơi nào cũng nhớ, lẫn lộn vào nhau, vương vấn lấy nhau.
Những quán ăn, những vỉa hè cà-phê, những tiệm chạp phô, những cầu khỉ. Và những con đường, sân ga, bến phà, sân bay, bãi biển. Còn nữa, những con tàu khuya ru êm xập xình vào giấc ngủ, những chuyến xe đò Lục Tỉnh đua nhau chạy như điên, những xe traction màu đen từ Huế qua đèo Hải Vân mù khơi, những xe lô bảy chỗ ngồi phóng như bay lên Đà Lạt. Sông thì lục bình trôi từng hàng dài, đò ngang, đò dọc tấp nập, chợ nổi xúm xít. Núi đồi thì thông reo, thác đổ, và những sơn thôn mơ màng. Sáng sớm tiếng xe thổ mộ lọc cọc cùng với tiếng rao hàng quà bánh rộn rã; trưa trưa mưa rơi lộp độp trong vườn chuối, rào rạt trên mái tôn; chiều về sương khói phủ kín những túp lều tranh đang nổi lửa thổi cơm; đêm xuống len lỏi vào những phòng trà ca nhạc ấm cúng đèn màu. Mùa đông ướt át luỹ tre nghiêng ngả, nước bạc ngập đồng trống, tiếng ệnh oạng vang xa và dội vào lồng ngực. Mùa hè ve kêu râm ran nhịp nhịp từng hồi từ sáng đến chiều để dành chạng vạng cho những con bọ đen, nhỏ bay nhiều trong gió đập vào mắt dụi mãi không được, nhờ cô hàng xóm hai ngón tay thon banh mắt ra thổi phù phù. Mùa thu tơ trời, và những ngày khai trường rập rờn kỷ niệm. Mùa xuân mưa bụi và những ngày Tết bồng bềnh trong khói hương và tiếng pháo.
Về thăm. Tìm kiếm. Mất mát nhiều, lẽ đương nhiên. Nhưng đáng buồn nhất, cái cảm giác lạc lõng càng ngày càng tăng.
Một người bạn, trái lại, về Việt Nam khi nào cũng thấy vui, như tìm lại được “thiên đường đã đánh mất”, lời của hắn. Cho nên hễ có dịp là hắn về. Hắn về nhiều lần. Lỡ không về được, hắn bồn chồn đứng ngồi không yên. Khi nào nhớ quá, hắn thường hay hát bài Chiều phổ từ thơ của Hồ Dzếnh. Hắn nói Chiều thơ hay đã đành, nhạc chắp cánh cho bài thơ bay lên cao khiến mỗi lần hát lên hay được nghe ai hát bài đó, hắn cảm thấy tất cả cái thấm thía của tình hoài hương. “Thế sao cậu không về ở luôn bên nhà?” Hắn đáp: “Nhớ là một chuyện, ở lại là chuyện khác. Cậu đừng hỏi khó với nhau.”
Mình dị ứng loại nhạc phổ từ thơ, vì hầu hết đều dở. Nhạc thường là cái cùm trói buộc khiến bài ca khi hát lên nghe vụng về, ngọng nghịu. Dĩ nhiên một nhạc sĩ có tài cũng có thể làm bài thơ thêm đẹp, thêm hay, nhưng trường hợp đó hiếm. Chiều thì sao? Không dở lắm. Tuy nhiên thử quên lời thơ, chỉ đánh bản nhạc lên, nghe nó ngang ngang, nhàn nhạt, đơn điệu.
Cho nên mình đi tìm nguyên bản bài thơ. Thử đọc hay ngâm tuỳ theo cảm xúc mỗi lúc mỗi khác.
CHIỀU
Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vang trong mây
Chim rừng quên cất cánh
Gió say tình ngây ngây
Có phải sầu vạn cổ
Chất trong hồn chiều nay?
Tôi là người lữ khách
Mầu chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng
Ngỡ hồn mình là mây
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây...
Bài thơ hay quá. Đọc đi đọc lại nhiều lần. Rồi ngờ ngợ tự hỏi tác giả đang ở nơi nào căn cứ vào ý nghĩa của bài thơ? Nếu đã về nhà thì việc gì phải tự xem mình là người lữ khách và đang nhớ nhà. Tôi là người lữ khách... Nhớ nhà châm điếu thuốc. Ở xa mới là lữ khách, mới nhớ nhà chứ. Hơn nữa khi ta đang trên đường về quê hương, về nhà, tình cảm nổi bật không phải là nhớ, mà là háo hức, bồn chồn, trông ngóng. Thế thì có lẽ Hồ Dzếnh đang đi về một ngôi nhà trọ xa xôi nào khác, gặp một cảnh trí trông na ná như nơi chốn quê hương, cũng có gió núi, chim rừng, cây cao bóng cả, bèn “tức cảnh sinh tình”.
Tìm đọc thêm Hồ Dzếnh. Đoạn dưới đây trong truyện ngắn “Trong Bóng Rừng” của Hồ Dzếnh mô tả ngôi nhà nơi tác giả lớn lên.
“Nói đến rừng, tôi quên sao được lớp nhà lá đẹp đẽ của ba tôi dựng trên một cánh đồng lớn, lớp nhà đổ xuống sân một đường bóng dài đậm, mỗi lần mặt trời nghiêng xuống dãy đồi cong. Chính ở nơi đó tôi lớn lên...”
Thế thì đúng rồi, trên đường về nhà trọ, gặp cảnh trông giống quê hương, bèn Nhớ nhà châm điếu thuốc.
Nhà thơ nói giùm lòng mình. Nếu Hồ Dzếnh thấy rừng nhớ nhà, mình đi đâu thấy những gì hao hao giống nơi mình từng sống từ bé cho đến khi trưởng thành là nhớ ngay đến Việt Nam. Những góc phố Paris khiến nhớ Sài Gòn, qua Bỉ nhớ Đà Lạt, tới Bắc Kinh nhớ Huế. Đi thuyền trên hồ Michigan nhớ bãi biển Phan Rí, vân vân, và nhớ Hiền. Nói thế không ngụ ý rằng Sài Gòn đẹp như Paris, Huế đẹp như Bắc Kinh. Rất chủ quan khi nhìn vào cái đẹp. Nhiều thành phố trông đẹp như bức tranh, một bức tranh không quá khứ, không kỷ niệm, nó có thể khiến ta ca ngợi hoặc khâm phục, nhưng không thể so sánh với cảnh đẹp nơi quê hương. Cái nhớ lại càng chủ quan hơn nữa, có khi như Nguyễn Du:
“Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người
Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi”
nhưng cũng có khi chỉ con bọ nhỏ, con bọ mắt, mùa hè buổi chiều tối bay nhiều trong gió vẫn khiến nhớ. Và nhớ bãi biển Phan Rí thì làm sao quên Hiền được, cô bé thanh thoát như nàng tiên. Nhớ quá. Cùng trải qua hoạn nạn, kẻ chết người sống, nỗi nhớ càng thêm da diết.
Nhớ quê hương thì về thăm. Chứ không phải như anh chàng Cảnh nhất định không về, sống chết ở đâu không thành vấn đề. Vợ anh thì sao? Ba người thân thiết nhau ba tâm trạng.
Buồn. Lạc lõng. Lại đi.
Những năm tháng gần đây tình hình ở quê nhà có nhiều chuyển biến. Mong Mùa Xuân Ả Rập đến với Việt Nam. Được như thế có lẽ những chuyến về thăm vui hơn chăng? Hay vẫn cứ ngơ ngơ, ngáo ngáo?
*
“Chị thích đi tàu? Vậy anh em mình sắp xếp đi cruise một chuyến nhé. Độ bốn ngày, chạy từ San Diego, Nam California đến La Paz bên Mễ. Không đắt tiền lắm đâu.”
Ông Cảnh buồn bã trả lời, dường như đã bỏ thói quen to tiếng:
“Không phải. Tôi biết nhà tôi không thích du lịch hoặc đi cruise gì đâu.”
“Anh vừa nói chị nhắc anh đến ông bà gì đó để đi tàu mà.”
“Câu chuyện hơi dông dài,” ông Cảnh đáp. “Đi chiếc tàu nhỏ chở bốn năm người như hồi mình vượt biển chứ đâu phải đi cruise với hàng mấy ngàn du khách đâu. Đi lần đầu bà bình thường, nghĩa là vui chiếu lệ, gọi là lịch sự vì lòng tốt của bạn. Tối hôm ấy bà trăn trở khó ngủ. Tôi cũng cho là chuyện bình thường. Từ khi về hưu không có việc gì phải bận tâm, bà trông sút thấy rõ. Cả ngày ngoài mấy bữa ăn, bà hết đứng lại ngồi. Về sau bà quyết định cuốc bộ đi chợ, bảo rằng làm như thế để giết thì giờ lại vừa có dịp tập thể dục. Thế nhưng thì giờ rỗi rãi cũng còn nhiều dù bà thỉnh thoảng đi chùa với các bạn đạo. Cho nên lần đầu ấy, ban ngày đi tàu, cả một sinh hoạt hoàn toàn mới lạ, đêm về thao thức thì có gì lạ đâu. Lần đi thứ hai, buổi tối bà càng không ngủ được, hầu như thức trọn đêm. Sợ tôi biết, nhiều lần bà cố nằm yên, thở đều, nhưng tôi càng biết rõ. Đến lần thứ ba … thôi, tôi không muốn nói thêm nữa.”
Ông Vĩnh chăm chú nghe, vội vàng thúc giục:
“Anh cứ nói hết đi. Biết đâu tôi có ý kiến hay.”
“Nhưng tôi đã có ý kiến rồi. Trong chuyến thứ ba, tôi không ham vui nữa. Tôi kín đáo quan sát mọi người. Vợ chồng Kha rất thoải mái, nói cười luôn miệng. Ông chồng nốc bia như hũ chìm, tôi đáp lễ, nhưng người ta cứ ba lon, tôi xong một, miệng đắng. Bà vợ lo phục vụ các món ăn, thỉnh thoảng đến bên cạnh vợ tôi chuyện trò, giải thích, chỉ trỏ. Trong khi ấy, vợ tôi càng lúc càng ít nói, nhiều khi trông ngẩn ngơ đến tội nghiệp.”
Ông Vĩnh chen vào:
“Tôi đoán được một phần.”
“Vâng, cậu là người tinh tế, tôi biết cậu đã biết đôi chút. Cháu Hiền ngày xưa giống mẹ như khuôn tạc. Nhà tôi đã già mà vẫn còn nhiều nét của con Hiền hồi đó nhất là khi bà đứng vịn lan can tàu nhìn ra xa. Chiếc thuyền nhỏ, sóng gió, con Hiền …Bà biết tôi để ý liền đến nói chuyện giả lả với tôi.”
“Chuyện cũ đã hơn ba mươi năm rồi mà như mới xẩy ra hôm qua.”
Ông Cảnh tiếp:
“Tối về tôi không đề cập gì đến chuyến đi thuyền, đến chuyện bà đứng ngơ ngẩn như xuất thần. Khơi lại chuyện cũ không nên, phải không cậu. Con đà điểu vùi đầu trong cát. Trước khi đi ngủ, chúng tôi bàn chuyện mai sau. Bà bảo cả hai còn sống thì ở với nhau cũng phải, nhưng nếu tôi đi trước, ông về ở với con chứ gì. Câu hỏi thật ngờ. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến điều đó, nên tôi chỉ ậm à cho qua chuyện, rồi tôi hỏi lại bà cũng câu ấy, tôi đi trước thì bà tính sao? Bà im lặng.”
“Chắc chị cũng bị bất ngờ như anh?” ông Vĩnh góp ý.
“Không. Bà không bị bất ngờ đâu, bà có chủ ý. Thấy bà không trả lời, tôi nói hay là bà về với người chị ở Việt Nam, bà bảo vợ chồng người ta đã già, mình về thêm một người già nữa nặng nề quá. Thì tới thằng Hòa được không? Bà lắc đầu nói tui không hợp với con dâu. Tôi chợt nhớ những khu dành cho người già yếu, đưa ý kiến ấy, bà trả lời rằng tui đã có nơi đâu vào đấy rồi, đến đó làm chi, buồn lắm.”
Nói đến đây, như để nén xúc động, ông Cảnh đứng dậy, đi lui đi tới, tay cầm ly nước trà uống gần cạn. Ông Vĩnh nhìn theo băn khoăn. Tình trạng này kéo dài chẳng biết bao lâu. Cuối cùng ông Cảnh đi ra sau vườn gọi bà vào. Sau nhà có mảnh đất nhỏ, bà trồng mấy cây ớt, dăm ba thứ rau thơm, một cây chanh tí hon sây trái. Lúc ông Vĩnh mới đến, sau vài lời thăm hỏi, bà ra vườn để hai người đàn ông tha hồ chuyện trò.
“Nhà tôi đây,” ông Cảnh nói như phân bua, “cậu là người thân nhất của gia đình mình, cho nên tôi rất cần ý kiến của cậu. Này Vĩnh, cậu nghe bà nói có lọt lỗ tai hay không?”
“Ô hay, tui nói cái gì vậy?” bà ngạc nhiên.
“Hôm nọ tôi hỏi bà nếu sau này tôi đi, nếu còn một mình bà…”
Bà cướp lời:
“A, tui nhớ ra rồi. Tui nói đùa đó mà.”
Ông Cảnh nóng nảy:
“Thì bà cứ nói lại đi! Xem có đùa hay không!”
Bà vẻ mặt thản nhiên, giọng nói êm êm, không trong trẻo như ngày xưa:
“Ông đã già yếu mà tui cũng già gần bằng ông, ra đi là chuyện bình thường. Nhưng tui đi trước thì có phải tiện việc hơn không. Thằng Hòa và vợ nó đều hạp với ông. Bởi vậy, nếu còn một mình … thì tui sẽ về quê của tui.”
Ông Cảnh vồn vã:
“Đúng thế, đúng thế. Lần này bà tính lại như thế là phải. Cho có chị có em.”
“Ông quên rồi sao, tui đâu có nói với ông tui sẽ về với chị tôi. Thôi đừng bàn chuyện đó nữa. Đang sống yên ổn với nhau, lại có anh Vĩnh đến chơi, nói chuyện ấy làm chi thêm …thêm … mất vui.”
Lúc bà Cảnh đi chợ lo bữa cơm chiều cho ba người, ông Cảnh trở lại câu chuyện với ông Vĩnh:
“Cậu biết không, bà bảo bà không thể nào quên con Hiền. Có nó biển lặng sóng yên. Nước biển chắc là mát mẻ, êm ái lắm. Mẹ con với nhau.”
Ngự Thuyết
3/2013