(Cho Trần Viết Gián, và ngày 18-5 ảm đạm tại Tàkeo)
Thằng nhỏ khóc ngon, mắt nhắm, mặt đỏ nhừ, nước mắt trèm trụa. Mạo xốc nách con, nâng lên khỏi ngực, dỗ: “Ờ, ùi… ùi, nào… nín nào”. Thằng nhỏ nhỏ quá, tai nó cũng nhỏ, nên lúc thường nó còn nghe người lớn nói để tập nói gió và ngó miệng cười theo, còn lúc khóc thì nó chẳng nghe gì cả, chắc tai nó ù. Nó cứ khóc, bụng rướn lên, lại chảy nước mũi, miệng ngoác rộng thấy cả cục thịt đỏ xa bên trong. Mạo hít hà: “Ờ… ờ thanh niên, coi này… bác Thới bận đồ đẹp này, khóc bác Thới cười cho”. Thới vỗ mông thằng nhỏ: “Im, im… cha chả Can Dũng gì lại khóc, xấu trai thế”.
- Có tiệc tùng phải ăn diện khác thường ngày, đưa áo quần các em nó ủi cho, ngon lành với người ta.
Thới cảm ơn. Cũng chỉ quanh quẩn anh em trong tiểu đoàn, quan khách là mấy vị già khọm trong làng. Chẳng lẽ bỏ công sửa sắc đẹp để lấy le với ông Ấp trưởng miệng chỉ còn lỏng chỏng đúng bốn cái răng.
Mạo hỏi:
- Chắc có ca hát?
Thới gật.
- Người đẹp?
- Không. Kiếm đâu ra?
- Chú Kiều bảo chải lại cái tóc, kiếm dầu bôi lên một chút.
- Mạo ra chơi nghe? Làm vài bản cho thiên hạ đứng tim.
- Đùa hay nói thật? Chửi tôi mấy thúng tôi không giận bằng nói câu đó. Mạo làm mặt giận.
Sân trường trở nên náo nhiệt. Ai đó lôi ở đâu về bốn dây bông giấy, giăng chéo trên ba cây dừa kéo vào mái hiên. Thức ăn đã dọn lên bàn khá nhiều. Người qua người lại, nhốn nháo, kêu la, cười, ồn như chợ, vui như đám đánh xóc dĩa bầu cua ngày tết. Đất bị chân cày, vấy lên một màng bụi mỏng, mù, là là. Không nhanh thì lúc vào ăn tô thịt sẽ được phủ một lớp bụi mỏng như tráng mỡ, và thổi nhẹ khúc bánh mì cũng bay khói như một điếu thuốc. Tiểu đoàn trưởng dành mọt phần thưởng danh dự cho đại đội nào nấu nướng ngon, trình bày đẹp. Có đại đội về phố mướn chén đũa, ly tách, khăn lau, bình bông. Cắt giấy màu lót dưới mỗi chén. Bánh mì, bánh ngọt, tăm xỉa răng đều được để vào một vị trí đã được năm bảy chuyên viên trang trí nghiên cứu cả buổi. Nhưng cũng có đại đội làm theo lối… dạn dày, phong sương. Thịt cá dồn trong mấy cái thau cục mịch. Bún, cơm, nước đá đựng trong mũ sắt. Họ mang những thau, những mũ sắt ấy bày lên bàn. Mũ sắt cái xanh, cái đen, cái thì móp. Chắc chắn đám này không thèm quay nhìn cái phần thưởng cao quý trên, hay chỉ nhìn bằng đôi mắt của một vị tu sĩ già nhìn một người đẹp.
Liên hoan mừng chiến thắng. Những người đứng bên bàn tiệc hôm nay xứng đáng được uống ly bia đặc biệt, chỉ một ngụm nhỏ rượu cũng đủ làm bốc lên một lớp máu nóng. Vì rượu lấy từ mồ hôi và nhọc nhằn. Rau trái đó của khu vườn chết chóc, gian nan. Hớp bia lạnh sẽ làm nóng các khuôn mặt, nóng lên hãnh diện. Mọi người đều được hãnh diện. Thới nghĩ, mình cũng hãnh diện? Cố nhiên, mình sẽ hãnh diện, và vui hết lòng. Những kẻ khuất mặt có sung sướng khi nhìn chiến thắng này hông? Khắc nghĩ gì khi nhìn thấy anh em đang vô tư, vui đùa? Nếu đúng như nhiều người vẫn nghĩ, người chết có thể về ăn uống những đồ vật trên bàn thờ, thì lúc này Khắc đang đứng một góc nào đó, quanh đây, nhìn vào sân trường? Hôm đó Khắc đã làm như một anh hùng. Các anh hùng góp tay mới tạo được nguồn vui to lớn này. Người ta cũng bảo mình là anh hùng. Anh hùng được ban khen nhiều lần, được huy chương, choàng hoa nặng vai, và còn được cho cả tiền. Ban đầu mình hơi ngần ngại, phải rồi… ngần ngại. Thới nhìn rõ quang cảnh sân trường, nhưng không nhìn ai, không nhìn thứ gì. Mạo nói gì sau lưng, và hình như chú Kiều cười… Lúc đầu mình còn ngờ, mình anh dũng không đây? Đến thế nào mới là anh hùng? Rồi người ta nói mãi, bảo mình can trường… Anh can trường lắm, biết không? Lặp lại mãi các ý đó. Cho đến lúc rồi mình cũng nhủ thầm, có thể ta đã dũng cảm, trong những phút nào đó, ta không để ý, nhưng người khác thấy, mọi người đều thấy. Vậy, vô tình cũng có thể là anh hùng… Khắc xông xáo, Khắc dũng cảm đó chớ, nhưng Khắc lại chết.
Thới ra dường, Mạo dặn: “ Đừng quên thủ vài cái bánh kha khá về cho Can Dũng”. Các đại đội vào bàn. Mọi người trông vui tươi, khác thường bữa nhờ bộ đồ sạch, tay áo xắn cao, và khăn đỏ viền xanh choàng cổ rất nổi. Trên bàn danh dự, thấy có mấy chai rượu đắt tiền, bên những chiếc ly trắng đẹp. Vợ ông tiểu đoàn phó, người đàn bà độc nhất ở đây, ngồi đối diện ông Trưởng ấp. Ông già này thường cười nhưng miệng không há lớn, làm người ta dễ tưởng lầm ông không thích khoe bốn cái răng của ông.
Mới bắt đầu trận ăn đã sôi nổi. Những cuộn tiếng nói quấn rít vào nhau, đứng xa vài thước chẳng nghe được gì. Một người nói, được một hai người ngồi ngay trước mặt nghe là nhiều. Bàn này chỉ thấy chớ không hiểu bàn bên kia. Ông tiểu đoàn trưởng nâng ly nói gì đó, những người cùng bàn cũng nâng ly, rồi ông nốc sạch ly nước màu vàng, mặt ông tròn, hai má núng nính dễ thương như má bé Can Dũng. Ông nhắm mắt, đưa tay lau miệng và cười toe. Thới uống rượu dở nhưng ngồi yên từ chối hoài không được, đành cho vào ba hộp, bốn hộp, rồi thêm nữa. Bia đắng, càng uống vị đắng như càng tăng thêm. Thới sợ uống nhiều vào sẽ không giữ được mình, đi đứng lật khật, cười nói dai. Khắc uống rượu giỏi. Ngày còn trong quân trường Khắc lôi Thới đi quán, tập Thới uống rượu nhiều lần. Khắc vẫn nói có rượu chè người con trai mới rắn rỏi, nhanh, xông xáo. Khắc có đủ, nhưng chẳng ai thấy cả. Người ta không biết gì đâu. Mày vẫn chê ta yếu, không uống được rượu, như con gái, làm chi nổi. Nhưng mọi người đang khen ta, kẻ lập công đầu. Khắc, lúc này, giỏi lắm bạn chỉ là người chết đầu tiên.
Đám trẻ con bu đen hàng rào ngó vô đám tiệc bỗng tản ra chạy đến người lính xách gói. Anh này chia cho mỗi đứa một nắm bánh, xôi, kẹo. Anh chàng mang máy ảnh tới trước sân định chụp bàn giữa. Anh đưa máy lên ngắm, thật lâu, rồi bỏ xuống, đổi chỗ. Xong lại ngắm. Dù ngồi đưa lưng về ống kính nhưng ông trưởng ấp và ông sĩ quan ban 5 cũng sửa lại áo, vuốt tóc mấy cái, nhún vai. Bà vợ ông tiểu đoàn phó cuối nhìn nhanh cái gì dưới chân, ngửng lên liếc thoáng máy ảnh, rồi vội rướn người tới trước để nói chuyện với người đối diện bằng bộ mặt nghiêm nghị. Chắc bà không muốn mình cười cợt trong tấm hình. Ông tiểu đoàn trưởng vẫy anh chụp hình lại, ông rót bia đầy ly, đứng dậy nâng ly lên cụng với ông trưởng ấp. Anh lính có bổn phận chụp, một cách trung thực và chắn chắn, hình ảnh đẹp đầy dẫy tình quân dân keo sơn này. Ông tiểu đoàn trưởng cười rất tươi, anh thợ phải bấm liền hai cái. Hình này sẽ được rửa lớn, đem về dán giữa văn phòng, cạnh những tấm hình chụp anh em đứng trên lầu khi chiếm phố, hình súng đạn hôm triển lãm ở sân vận động… Dãy ghế bên kia ngã ngớn. Ba bốn người gân cổ lên triết lý, nói về số mạng, cả bọn cùng nói không ai nghe “làm chó gì có số mạng… cái số nào dành cho trăm rưỡi thằng cộng sản cùng chết một lúc, để người ta xúc về đổ nằm triển lãm trước rạp Đại Nam bữa kia!… Số mạng nào khiến thanh niên khắp nước chết dài như gà mắc dịch lâu nay?… Rồi chúng ta…”. “Ai dám bảo là các chị đàn bà với lũ con nít ở giữa phố kia chết trước tụi mình, lại chết vì bom đạn?… Có đứa, như ta đây xông pha mười năm vẫn yên lành, lại có nhiều đứa mới ra khỏi cổng trường mười ngày đã nghẻo, đền nợ nước một cách hấp tấp, như sợ người ta giành mất… cơ hội…, nghẻo ngoẹo một cách tức tưởi. Vậy là sao? Như bữa đó, cả trung đội 6 băng qua đường trót lọt, tới lượt thằng Khắc thì lại bị… Nó ngã cái rật trước mũi tao chớ xa đâu, ông Thới chạy trước nó, tao chạy sau chẳng hề gì… Vậy nó không tới số thì gọi là mẹ gì… hở?”.
Ông tiểu đoàn trưởng vỗ tay yêu cầu anh em im lặng, ông nói:
“Dân thị xã lần đầu tận mắt thấy chúng ta chiến đấu đã cảm phục vô cùng. Tôi hân hoan thay mặt thượng cấp để nói lời khen tặng anh em. Anh em đã làm rạng danh trung đoàn chúng ta… Tiếc là hôm lễ mừng chiến thắng, gắn huy chương dưới sân vận động anh em không có mặt đầy đủ để thấy và để nghe đồng bào ca ngợi chiến công rực rỡ này. Đầu xuân, anh em đã mang lại cho đồng bào một mùa xuân lớn, đặc biệt… Bọn cộng sản chó đẻ không phải là người – ông ho khặc một tiếng – riêng tôi, tôi liệt tất cả bọn chủ trương giết người vào hàng thú vật – ông dừng một chút, sờ đầu mũi, cái mũi ũng đã say, đỏ hừng – chắc các anh đã nghe các đại đội trưởng nói qua về bữa tiệc này, tôi nhắc lại: Sư đoàn tặng chúng ta hai chục ngàn, tỉnh tặng hai chục. Đồng bào Châu Thành hai con bò. Hai con nghé hôm qua các anh thấy đó. Trung tá góp cho tám két bia hộp… Bia này đây…”.
Ông ngưng, hớp một ngụm bia: “Bây giờ… à”. Ông à… à một lúc. “Bây giờ chúng ta cùng hát… a, phải rồi, cùng làm một bản, đồng ca… cho vui nhộn…, hào hứng. Đồng ca, nghe… nào, Việt Nam Việt Nam”. Trận ca bùng lên, ầm ầm, ồm ồm. Tiểu đoàn trưởng giơ cao lon bia đánh nhịp. Anh thợ ảnh lại chạy ra quay bên này quay bên kia chụp lia. Thới vỗ tay mạnh nhưng không hát, hát không ra tiếng. Hát dứt. “Bây giờ đến đơn ca, anh nào xung phong?”. Vài tiếng ho, tiếng lào xào. Một người được nâng dậy, đẩy lưng ra giữa sân. Đây là kẻ hữu công nhất nhì. Anh ta đã phá hư được khẩu phòng không, bắt được một sĩ quan địch bị thương. Anh đứng tẩn mẩn chân tay lúc lâu mới ca được, ca khá hay.
Dĩa bánh lớn bị thúc trước mặt Thới. “Coi, uống đi chớ ông, năm mới có một lần… sợ hả, sợ say hả… đi không được thì tụi này đỡ cho, trời… uống đi”. Ly Thới lại được trút đầy. Thới bốc chiếc bánh đậu bỏ túi, về cho Can Dũng, Mạo dặn đùa nhưng cũng cứ mang về. “Này là thịt voi, thịt ngựa vằn hay thịt lạc đà sa mạc… mà dai quá cỡ!”. “Bò của dân Châu Thành thân tặng đó mày… Thiếu tá mới nói, điếc sao”. “Đồ bỏ, bò gì, thịt mua ở tiệm đóng giầy thì có! Nếu thịt bò nấu như vầy thì quá tệ… tổ sư nghề bồi ngồi đây sao mấy thằng bếp không hỏi cách nấu… khó chi, bỏ vô một cục nước đá là rục hết, nhanh nháy mắt… da đóng giầy cũng rục tuốt”. Chúng nó không giữ im lâu để nghe ca. Ăn thoăn thoắt và nói cười cuồn cuộn. Người thứ hai được các bạn xô ra sân, bắt phải ca. Anh này đã làm câm họng một toán súng lớn trên lầu ba. Một mình như trong phim gián điệp, anh quăng dây móc vào cửa sổ trên cao, đu lên tài tình. Chỉ mấy phút anh làm được công việc mà hai trung đội xoay cả buổi vẫn chưa xong. Khắc cũng đã chạy nhảy, đã chiến đấu, lấy được súng, giết địch… mà giờ không còn ai nhớ. Hỉ còn mình nhớ Khắc phải không. Thới dụi mắt, nước miếng trong miệng như dẻo lại. Ly bia chưa lưng kịp quá nửa đã được châm đầy lại, bọt sùi leo xuống thành ly. Nếu còn sống chắc lúc này Khắc cũng bị anh em ủi ra hát, có khi còn hát đầu tiên nữa. Khắc đã ngã trên đường, ngã sấp, một tay Khắc vói về trước, chỉ còn cách mấy gang tay là đụng cái thùng rác bên lề đường. Hai cây súng Khắc lột từ tay mấy tên địch nửa giờ trước, giờ một cây văng ra xa, cây kia Khắc đè dưới bụng. Thới chạy qua khỏi, nép vào bức tường dài của một hiên nhà. Nhìn lại thấy Khắc. Thới hoảng hốt, hai tay run lên. Hai người chạy sau Khắc vội nhảy lẹ lên, vào nhà, những người sau nữa thì quay lui, chạy trở lại nấp vô chỗ cũ. Đạn đâm phụt phụt, bụi bắn từng khóm trên lòng đường, như người ta tung một nắm sỏi xuống hồ nước. Đạn thổi tốc bụi quanh chân Khắc. Chúng có vẻ còn muốn bồi thêm lên người kẻ không may. Tiếng đại liên địch nghe đằng đầu và ở một chỗ quá gần, giòn và chát. Cái mũ sắt lăn ra sau nằm bên chân Khắc, như muốn che cho bàn chân, khi cái đầu không còn đội được nữa. Đạn trúng cổ. Nhưng Khắc không chết, bàn tay vói về trước đã ngọ ngoạy mấy cái ngón, nhưng chẳng thấy mắt Khắc mở hay nhắm. Một người từ sau chạy vụt tới, lách vào nép sát bên Thới, thở và nói: “Làm sao anh, nó còn sống… không khéo chúng nó bắn thêm thì chết… kéo nó vô”. Nhưng Thới chỉ biết mở to mắt. Làm sao đây. Bọn địch nằm trên lầu cao, canh sẵn, quá gần, mà đường thì quá rộng, trống trải. Khắc nhìn chằm chăp cái bàn tay Khắc còn sống. Chúng mình thân nhau, Khắc, mình thân nhau lắm. Bỗng, cái tay đó co lại, rồi từ từ Khắc chống hai tay, muốn ngồi dậy, cái đầu ngửng lên. Mắt nó mở trừng, nhìn thẳng về trước nhưng như không nhìn ai cả. Địch bắn ngay, đạn tung một đường dọc, quạt vào thùng rác. Một viên ghim lưng Khắc, hai cánh tay sụm xuống, cái đầu lại đập xuống mặt đường. Thấy rõ búng khói nhỏ bay ra từ dấu đạn. Thấy rõ lỗ đạn ịn vào. Thới thả cây súng xuống đất. Người đứng sau lưng kêu “trời”. Anh ta quăng một trái khói. Khói tả xanh đặc một khoảng, che khuất Khắc, cái thùng rác và phần dưới cái cây bên đường. Anh ta nhảy ra đường. Chúng nó lại bắn vào đám khói. Khắc dược lôi vào, chỉ còn là cái xác. Nhưng cái xác bị thêm hai viên đạn nữa. Trên lưng Khắc đóng rõ ba lỗ máu. Người can đảm trừng nhìn xác bạn, rồi tự vuốt mặt mình.
Mình không cứu được Khắc. Nhưng phút ấy trí óc mình đen kịt. Không nghĩ được một kế nhỏ như anh bạn đã nghĩ. Mình đi đánh nhau cũng đã lâu, đụng trận khá nhiều, một việc như thế lại chẳng làm nổi. Khắc chết. Suýt nữa anh bạn kia… Nhưng người ta choThới hai cây súng Khắc thu được. Người chết không cần công trạng, không cần tuyên dương, như không cần bạc tiền, quần áo, cơm gạo. Cái chết đã là công trạng lớn nhất, nặng nhất. Thới đã không từ chối hai cây súng. Không, có lúc Thới cũng nghĩ nên từ chối, nhưng nghĩ chậm quá, như khi nhìn Khắc ngã, thì chỉ thấy cái kế tạo màn khói cứu thương là hay lúc trái khói đã trùm kín xác Khắc. Nay ai cũng chỉ thấy là Thới lấy được nhiều súng quá. Nhưng, dù thế nào, Thới vẫn nhớ được: “Khắc, chúng mình là bạn thân”.
Bàn bên kia bày một cuộc xổ số uống rượu. Họ bỏ cái đầu gà lên dĩa, ụp tô lại, rồi xóc, như xóc dĩa ăn tiền. Mỏ gà chỉa vào ai người ấy phải uống một ly rượu. Chỉ trong một lát gần hết mọi người đều được uống, uống thỏa thích. “Lạy ngài, chết nhưng ngài vẫn khôn như sống, con đã uống ba lần, còn nhiều đứa chưa uống, ngài chiếu cố chúng”. Anh chàng mặt đỏ rịm chắp tay vái cái đầu gà.
“Đại đội 8 cho người ra, đại đội 8”.
“Thới đâu? Thới đại đội 8 lên đi… sợ gì, cộng sản chẳng còn sợ nữa là. Hoan hô… Cao Thới”. Một người ngồi bàn sau, lớn như một anh Mỹ lớn nhất, ẵm Thới ra trình diện mọi người. Thới đòi xuống đi đàng hoàng nhưng không được. Hơi chóng mặt nhưng Thới vẫn nhìn rõ mọi vật. Kìa, anh em ngồi quanh chỗ Thới đang quay lại cười lớn. Kia là, thiếu tá vỗ tay, mấy vị khác đưa ly lên hô “dzô… dzô”. Người khổng lồ đặt Thới xuống. Mình đứng vẫn vững, ráng đứng vững nghe. Thới dụi nhẹ mắt. Đừng lộn xộn, cố lên, hư là cả làng cười đó. Hai chân hơi run. Thới nhận biết như thế. Mặt mình có lẽ nóng, và đỏ lắm.
“Hát đi… đại diện đại đội 8 mà, mạnh dạn lên”.
“Dzô… dzô, coi vậy chớ lấy nhiều súng lắm đó nghe… xung phong thẳng lên tổ đại liên ở ngã Sáu đó”. Vỗ tay rầm rập. Thới nhìn xuống, nhìn mũi đôi giầy. Có gì dâng lên trong cổ, ợ, hơi khó chịu. Cố gắng làm một mạch cho xong, đứng lâu mỏi chân thì nguy. Thới đứng thẳng, dập chân mạnh, chào một cái. “Hoan hô… Cao Thới, hoan hô.” Luồng sóng cười trào lên, rần rần.
“Tôi hát không hay, với lại mới uống… hơi nhiều, tôi uống rượu nhiều không được, nên…”. Thới sờ cổ.
“Không cần hay, cứ hát”
“Tôi xin ngâm thơ… Tôi ngâm thơ được, và ngâm bằng ba thứ tiếng”.
“Hoan hô… dzô đi, đại đội 8”.
Đám bạn ngồi gần Thới vùng lên cười to, tung mũ, cổ võ hết mình: “Chịu chơi… đại đội 8”. Thới đưa tay ngăn các bạn.
"Trước tiên là thơ tiếng Việt."
Sự khó chịu lại trồi lên, như có một cuộn thịt bằm vừa tanh vừa lạnh trạo trực muốn bò lên cổ. Thới nhớ đến một bài thơ nói về một thời chinh chiến. Trong chinh chiến thì ít thấy niềm vui, chỉ có rất nhiều điêu tàn, tang thương. Chàng đi đã lâu, và nàng ở nhà, và những con thơ, mẹ già. Hắng giọng, Thới ngâm. Bốn bên im lặng. Những người ngồi các hàng ghế quay lưng ra sân đều quay lại. Thơ hay. Chiến tranh thì xưa cũng như nay. Được bốn câu, bỗng Thới thấy lại một cảnh đường phố, những người chạy, nhà sập, khói mù. Hại quá, mình chóng mặt đây, không khéo thì… Thới đấm trán, xốc lại quần. Mọi người lại cười rân. Thêm được hai câu nữa. Cảnh đường phố chập chờn, buổi chinh chiến… đạn xới sạt sạt lúc nhanh lúc như nhỏ giọt xuống mặt đường, bụi bay, một người ngã xuống mép đường, cây súng, cái mũ sắt… kìa nữa, khói xanh lan ra, chờn vờn. Không có được nữa. Thới lắc đầu, nguy mất thật, hai chân thì vẫn đấy, nhưng cái đầu thì, coi kìa… sao lạ, mắt cứ thấy dâng lên, lan mãi ra một màn khói xanh.
Lê Văn Thiện