Giai Đoạn Từ Khi Trở Thành Tổng Thống VNCH Cho Đến Khi Từ Chức
Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu đã đảm nhận trọng trách Tổng Thống VNCH gần trọn 2 nhiệm kỳ (mỗi nhiệm kỳ, theo Hiến Pháp ban hành ngày 1-4-1967, là 4 năm), trong một khoảng thời gian chính xác là 7 năm, 5 tháng và 21 ngày, từ ngày 31-10-1967 đến ngày 21-4-1975.
Người viết sẽ nhận định và đánh giá những việc ông đã làm với tư cách Tổng Thống VNCH trong 3 lãnh vực: chính trị, quân sự, và kinh tế – xã hội. Người viết sẽ sử dụng hệ thống điểm như sau: A (Xuất sắc = 4), B (Giỏi = 3), C (Khá = 2), D (Kém = 1), và F (Thất bại, không đạt yêu cầu = 0).
Trước khi tiến hành công việc đánh giá này, chúng ta cần nhận định rõ hai điều sau đây về Tổng Thống Thiệu để có thể thật sự công bằng trong việc đánh giá những việc làm của ông: 1) Ông đã có được một thời gian hơn 2 năm (từ ngày 13-6-1965 đến ngày 30-10-1967) tập sự cầm quyền với tư cách là Chủ Tịch UBLĐQG, tức Quốc Trưởng; 2) Trọn thời gian làm Tổng Thống gần 8 năm của ông, VNCH là một quốc gia trong thời chiến với những khó khăn về mọi mặt, và còn phải chịu rất nhiều áp lực từ phía quốc gia cung cấp các phương tiện chiến đấu là Đồng Minh Hoa Kỳ.
Trong Lãnh Vực Chính Trị
Người viết sẽ trình bày những nhận định và đánh giá trong các địa hạt sau đây: nắm quyền, xây dựng chế độ, quan hệ Việt-Mỹ, và hòa đàm Paris.
Nắm Quyền
Mối quan tâm hàng đầu của Tướng Thiệu sau khi trở thành Tổng Thống VNCH là nắm thực quyền của một Tổng Thống chớ không phải là một Tổng Thống bù nhìn trên danh nghĩa mà thôi như trong Mật Ước mà ông đã ký kết với Tướng Kỳ và các tướng lãnh cao cấp của VNCH lúc hình thành liên danh Thiệu-Kỳ trong thời gian tranh cử. Ngay từ đầu, Tướng Thiệu đã biết rõ là Mật Ước giữa ông và các tướng lãnh cao cấp là một sự vi phạm trắng trợn và nghiêm trọng Hiến Pháp năm 1967 của VNCH, và người Mỹ chắc chắn không bao giờ có thể chấp nhận nó cả, và vì vậy, dĩ nhiên, không một tướng lãnh nào dám công khai nói ra sự hiện hữu của Mật Ước đó cả. Tuy nhiên, sau khi trở thành Tổng Thống VNCH, trong thời gian đầu, khi thế lực của Tướng Kỳ vẫn còn bao trùm trên mọi lãnh vực chính trị và quân sự của VNCH, Tướng Thiệu, với bản tính khôn ngoan và tính toán cố hữu, đã cố gắng nhẫn nhục chịu thi hành Mật Ước này, và chờ thời cơ. Bằng chứng rõ ràng nhứt là việc ông đồng ý thực hiện đề nghị của Phó Tổng Thống Kỳ là chỉ định Luật sư Nguyễn Văn Lộc làm Thủ Tướng (ông Lộc là người đã đứng phó trong liên danh riêng của Tướng Kỳ trước khi liên danh Thiệu-Kỳ ra đời). Thời cơ đến với ông trong vụ Tổng Tấn Công của Việt cộng vào dịp Tết Mậu Thân (đợt 1 vào tháng 2-1968, và đợt 2 vào tháng 5-1968). Để tạo hậu thuẫn về phía người Mỹ cho những hành động của ông trong tương lai để nắm lại quyền hành, vào đầu tháng 3-1968, ông đã, một cách gián tiếp qua đường dây của C.I.A., than phiền với Chính phủ Hoa Kỳ về những hoạt động của phe Phó Tổng Thống Kỳ nhằm phá hoại uy quyền của ông, khiến cho ông không thể thi hành tốt trách nhiệm tổng thống của ông.(25) Và sau đó ông hành động ngay. Dựa trên chính sách cải tổ hành chánh khởi đầu bằng Khóa Quân Chánh khai giảng từ đầu tháng 3-1968, từ ngày 11-3 đến ngày 29-3-1968, ông bổ nhiệm một loạt 14 tỉnh trưởng mới cho các tỉnh sau đây: Thừa Thiên, Darlac, Quảng Đức, Tuyên Đức, Bình Thuận, Vĩnh Long, An Giang, Ba Xuyên, Gò Công, Kiến Hòa, Vĩnh Bình, Phong Dinh, Biên Hòa và Gia Định.(26) Phe Tướng Kỳ đã có phản ứng trước việc toan tính nắm lại quyền hành của Tướng Thiệu nhưng không đạt được kết quả mong muốn. Một Công điện Mật của CIA cho biết rõ là vào ngày 15-5-1968 Phó Tổng Thống Kỳ đã họp trước tại Bộ Tổng Tham Mưu với các tướng lãnh cao cấp để thống nhất chủ trương và sau đó vào Dinh Độc Lập để họp với Tổng Thống Thiệu và yêu cầu ông Thiệu ngưng lại chủ trương cài tổ hành chánh, nhưng ông Thiệu đã bác bỏ yêu cầu này.(27) Biến cố này giúp Tổng Thống Thiệu thấy rõ là tất cả các tướng lãnh cao cấp, kể cả Phó Tổng Thống Kỳ, không có ý định đòi hỏi ông phải thi hành cái Mật Ước vi hiến đó nữa. Sang tháng 5-1968, khi xảy ra vụ Việt cộng Tổng Tấn Công đợt 2, viện lý do Chính phủ Nguyễn Văn Lộc đã bất lực trong vụ Mậu Thân đợt 2 này, ông giải nhiệm Chính phủ Lộc và mời ông Trần Văn Hương làm Thủ Tướng và thành lập Chính phủ mới ngày 25-5-1968. Phó Tổng Thống Kỳ và nhóm tướng lãnh cao cấp cũng hoàn toàn không có hành động gì chống lại các quyết định thay đổi nhân sự quan trọng này cả. Đến đây thì ông Thiệu đã biết chắc chắn rằng phe ông Kỳ không thể nào không chấp nhận sự thật là chính ông mới là Tổng Thống của VNCH với toàn quyền theo Hiến Pháp năm 1967. Đến cuối năm 1968, ông đã thay thế được những nhân sự quan trọng trong hệ thống thế lực của Tướng Kỳ bằng người của ông như sau:
Thủ Tướng Trần Văn Hương thay thế Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc
Thay được tất cả 19 tỉnh trưởng: thêm 5 tỉnh là Pleiku, Bình Dương, Bình Tuy, Định Tường và Tây Ninh.
Thiếu Tướng Nguyễn Văn Minh, nguyên Tư Lệnh Sưư Đoàn 21 Bộ Binh, được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô thay cho Trung Tướng Lê Nguyên Khang ngày 4-6-1968
Đại Tá Đỗ Kiến Nhiễu thay Đại Tá Văn Văn Của làm Đô Trưởng Sài Gòn ngày 7-6-1968
Đại Tá Trần Văn Hai được bổ nhiệm làm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia thay Tướng Nguyễn Ngọc Loan (bị thương nặng trong vụ Mậu Thân đợt 2 vào ngày 7-5-1966) ngày 7-6-1968
Đại Tá Trần Văn Hai thay 7 Trưởng Ty Cảnh Sát tại Sài gòn ngày 16-6-1968
Mai Đen bị giải nhiệm khỏi chức Trưởng Khối Tình Báo Hải Ngoại tại Cục Trung Ương Tình Báo và bỏ trốn sang Thái Lan
Trung Tướng Đỗ Cao Trí được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn 3 thay thế Trung Tướng Lê Nguyên Khang (như vậy Tướng Khang chỉ còn giữ được chức vụ Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến mà thôi)
Ngoài ra, trong thời gian này lại xảy ra vụ trực thăng Mỹ bắn lầm vào bộ chỉ huy hành quân của QLVNCH tại Trường Tiểu học Phước Đức tại đường Khổng Tử trong Chợ Lớn vào lúc hơn 6 giờ chiều ngày 2-6-1968, gây thương vong cho một số sĩ quan thân cận của Tướng Kỳ: tử thương gồm các Trung Tá Nguyễn Văn Luận, Lê Ngọc Trụ, Phó Quốc Chụ, Đào Bá Phước, các Thiếu Tá Nguyễn Bảo Thùy và Nguyễn Ngọc Sinh; bị thương gồm Đại Tá Văn Văn Của, và Trung Tá Trần Văn Phấn.(28 )
Kết luận cho mục Nắm Quyền: Tổng Thống Thiệu đã xuất sắc thành công hoàn toàn, ông thật sự đã trở thành Tổng Thống VNCH với toàn quyền đã được xác định trong Hiến Pháp năm 1967. Điểm A.
Xây Dựng Chế Độ
Chế độ Đệ Nhị Cộng Hòa của VNCH được xây dựng trên nền tảng của Hiến Pháp29mới do Quốc Hội Lập Hiến (do phổ thông đầu phiếu bầu ra) thông qua và được UBLĐQG ban hành ngày 1-4-1967. Do đó việc xây dựng chế độ, mà Tổng Thống Thiệu có trách nhiệm phải thực hiện, hoàn toàn phải phù hợp với những điều khoản được ghi trong bản Hiến Pháp 1967 đó. Vì vậy, việc đánh giá của chúng ta, về mặt xây dựng chế độ (trong phần này chúng ta chỉ chú trọng về phương diện chính trị mà thôi), là xét xem Tổng Thống Thiệu có làm đúng theo Hiến Pháp 1967 hay không.
Đối với Nhân dân, Hiến Pháp 1967 tôn trọng tất cả các quyền sau đây:
“Quốc gia công nhận và bảo đảm những quyền căn bản của mọi công dân” (Điều 2)
“Quốc Gia tôn trọng và bảo vệ quyền an toàn cá nhân và quyền biện hộ” (Điều 7)
“Quốc Gia tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do truyền giáo và hành đạo của mọi công dân miễn là không xâm phạm đến quyền lợi quốc gia, không phương hại đến an ninh, trật tự công cộng và không trái với thuần phong mỹ tục” (Điều 9)
“Quốc Gia công nhận quyền tự do giáo dục” (Điều 10)
“Quốc Gia tôn trọng quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, báo chí và xuất bản, miễn là sự hành xử các quyền này không phương hại đến danh dự cá nhân, an ninh quốc phòng hay thuần phong mỹ tục; Chế độ kiểm duyệt không được chấp nhận, ngoại trừ các bộ môn điện ảnh và kịch trường” (Điều 12)
“Mọi công dân đều có quyền tự do hội họp và lập hội trong phạm vi luật định” (Điều 13)
“Mọi công dân đều có quyền bầu cử, ứng cử và tham gia công vụ trên căn bản bình đẳng theo điều kiện và thể thức luật định” (Điều 13)
“Quốc Gia tôn trọng các quyền chính trị của mọi công dân kể cả quyền tự do thỉnh nguyện, quyền đối lập công khai bất bạo động và hợp pháp” (Điều 13)
“Mọi công dân đều có quyền tự do cư trú, đi lại, xuất ngoại và hồi hương, ngoại trừ trường hợp luật pháp hạn chế vì lý do y tế, an ninh và quốc phòng” (Điều 14)
“Mọi sự hạn chế các quyền công dân căn bản phải được qui định bởi một đạo luật có ấn định rõ phạm vi áp dụng trong thời gian và không gian. Tuy nhiên trong mọi trường hợp, tánh cách thiết yếu của các quyền công dân căn bản vẫn không được vi phạm” (Điều 29)
Đối với sinh hoạt chính trị, Hiến Pháp 1967 ghi rõ như sau:
“Quốc Gia công nhận chánh đảng giữ vai trò thiết yếu trong chế độ dân chủ. Chánh đảng được tự do thành lập và hoạt động theo các thể thức và điều kiện luật định.” (Điều 99)“Quốc Gia công nhận sự định chế hóa đối lập chính trị.” (Điều 100)
Về chức vụ Tổng Thống, Hiến Pháp 1967 ghi rõ như sau:
"Nhiệm kỳ của Tổng Thống và Phó Tổng Thống là bốn (4) năm. Tổng Thống và Phó Tổng Thống có thể được tái cử một lần.” (Điều 52)
Có thể nói Hiến Pháp 1967 là một Hiến Pháp thật sự tiến bộ, tôn trọng đầy đủ tất cả các quyền công dân và sinh hoạt chính trị của một quốc gia tự do dân chủ. VNCH, trong thời gian cầm quyền gần 8 năm của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, có thật sự là một quốc gia tự do dân chủ như Hiến Pháp 1967 đã vẽ ra hay không ?
Bề ngoài, VNCH có đầy đủ tất cả các định chế tự do dân chủ như đã ghi trong Hiến Pháp 1967: dân chúng có quyền tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do đi lại, tự do bầu cử, ứng cử, vv; các chính đảng có tự do hoạt động và đối lập chính trị. Nhưng sự thật không phải hoàn toàn tốt đẹp như vậy. Dân chúng, các tôn giáo (nhứt là Phật Giáo), và các đảng phái luôn luôn bị theo dõi, trông chừng bởi một bộ máy an ninh khổng lồ và rất tinh vi, để xem họ có những hành vi nhằm chống đối chính quyền hay không. Chính phủ luôn luôn tìm những kẽ hở trong Hiến Pháp và các đạo luật để gây khó khăn cho dân chúng, cho các chính đảng và cho giới báo chí. Hiến Pháp công nhận quyền tự do ứng cử của mọi công dân, nhưng khi soạn thảo các luật bầu cử, chính quyền luôn luôn ghi vào một số điều nhằm giới hạn khả năng ứng cử của người dân. Sau 4 năm cầm quyền trong nhiệm kỳ 1, với sự phục vụ đắc lực lần lượt của 2 phụ tá Nguyễn Cao Thăng và Nguyễn Văn Ngân, Tổng Thống Thiệu đã kiểm soát được Quốc Hội Lập Pháp. Vì vậy Quốc Hội đã thông qua Luật bầu cử Tổng Thống năm 1971, với Điều 10, Khoản 7, quy định các ứng cử viên phải có được sự giới thiệu của 40 Dân Biểu Quốc Hội hoặc 100 Nghị Viên Hội Đồng Tỉnh thì mới hợp lệ.(30) Luật bầu cử này đã đưa đến cuộc bầu cử Tổng Thống “độc diễn” với một liên danh duy nhứt Nguyễn Văn Thiệu – Trần Văn Hương, làm cho nhiều nước trong phe thế giới tự do, và nhứt là phe phản chiến tại Hoa Kỳ, có thêm cơ hội chê bai chế độ VNCH là độc tài, không xứng đáng được Hoa Kỳ giúp đỡ trong cuộc chiến; và đây là mầm mống của việc Quốc Hội Hoa Kỳ, dưới sự kiểm soát của Ðảng Dân Chủ đối lập với Tổng Thống Nixon của Ðảng Cộng Hòa (và người kế vị là Tổng Thống Ford), đã quyết định, vào cuối năm 1974 và đầu năm 1975, cắt giảm và chấm dứt viện trợ cho VNCH. Luật Báo Chí 007/72 do Tổng Thống Thiệu ký ban hành ngày 4-8-1972 sửa đổi Luật Báo Chí 019/69 ban hành ngày 30/12/1969, quy định các báo muốn được xuất bản phải đóng một số tiền ký quỹ là 20 triệu đồng cho nhựt báo, và 10 triệu đồng cho báo định kỳ. Luật Báo Chí 007/72 này đã đưa đến việc nghiệp đoàn ký giả phải tổ chức “Ngày Ký Giả Đi Ăn Mày” vào ngày 10-10-1974 để phản đối. Để tạo thêm hậu thuẫn chính rị cho mình, Tổng Thống Thiệu còn tiến hành thành lập Đảng Dân Chủ làm một đảng cầm quyền, theo khuôn mẫu của Đảng Cần Lao thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Nhìn chung chế độ Đệ Nhị Cộng Hòa của Tổng Thống Thiệu có khá nhiều điểm rất giống chế độ Đệ Nhứt Cộng Hòa của Tổng Thống Diệm: có một Hiến Pháp tiến bộ nhưng không được áp dụng tới nơi tới chốn, có 1 Quốc Hội (đặc biệt là Hạ Viện) hoàn toàn bị mua chuộc và kiểm soát, với một số rất đông các nhân vật trọng yếu của chế độ là người Công Giáo, với việc kiểm soát báo chí rất khắt khe, và có một đảng cầm quyền. Chính vì thế tác giả Đỗ Mậu đã dành ra cả một Chương trong cuốn hồi ký của ông để nói về việc này, và được ông đặt tiêu đề là “Chế độ Thiệu: Chế độ Diệm không Diệm” (Chương XIX, từ trang 931-1007). Không những không tích cực xây dựng một chế độ chính trị hoàn toàn tự do dân chủ như Hiến Pháp 1967 đã ghi rõ, Tổng Thống Thiệu, vào năm 1974, còn tu chính Hiến Pháp 1967 để có thể ra tranh cử tổng thống thêm 1 lần nữa và tăng nhiệm kỳ tổng thống từ 4 lên 5 năm. Ông cũng phải chịu trách nhiệm về tình trạng tham nhũng của VNCH. Tình trạng tham nhũng này không những được dung dưỡng mà càng ngày càng phát triển mạnh, một số đông các tướng tá làm giàu nhanh chóng và trên xương máu của binh sĩ thuộc hạ. Trong nhiệm kỳ thứ nhì, ông Trần Văn Hương là Phó Tổng Thống và được giao nhiệm vụ diệt tham nhũng (vì ông nổi tiếng là một chính khách liêm khiết), đã phải thốt lên câu nói nổi tiếng: “Diệt hết tham nhũng thì lấy ai làm việc đây.” Vụ buôn lậu “Còi hụ Long An” vào ngày 31-1-1974, có dính líu tới phu nhân của Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, đương kim Thủ Tướng VNCH, chỉ là phần nổi của tảng băng sơn tham nhũng tại Miền Nam vào thời đó. Sau cùng đích danh Tổng Thống Thiệu đã bị tố cáo trong phong trào chống tham nhũng của Linh Mục Trần Hữu Thanh. Một số khá đông người Việt thường hay so sánh chế độ Đệ Nhị Cộng Hòa với chế độ Cộng sản trong nước hiện nay và cho rằng chế độ VNCH dân chủ hơn rất nhiều. Điều này không sai nhưng việc so sánh như thế là không đúng: không thể so sánh một lực sĩ chạy nước rút với một người què và kết luận là lực sĩ đó chạy nhanh hơn người què rất nhiều.
Kết luận cho mục Xây Dựng Chế Độ: Thất bại, thay vì xây dựng một chế độ tự do dân chủ theo đúng tinh thần của bản Hiến Pháp 1967, đã tạo nên một chế độ độc tài và tham nhũng. Điểm F.
Quan Hệ Việt-Mỹ
Trong thời gian cầm quyền gần 10 năm (2 năm Chủ Tịch UBLĐQG và gần 8 năm Tổng Thống), ông Thiệu đã làm việc với 2 vị Tổng Thống của Hoa Kỳ: Tổng Thống Lyndon B. Johnson (1965-1968) và Tổng Thống Richard M. Nixon (1969-1974). Trong khoảng thời gian này, Hoa Kỳ đã trải qua 2 chính sách trái ngược nhau trong Chiến tranh Việt Nam: leo thang (Johnson) và xuống thang (Nixon). Mặc dù không phải hoàn toàn suông sẻ và êm thắm, Tổng Thống Thiệu đã giữ được mối quan hệ tương đối tốt với Chính phủ Hoa Kỳ trong gần suốt thời gian cầm quyền của ông.
Khi ông trở thành Chủ Tịch UBLĐQG vào tháng 6-1965, Chính phủ Hoa Kỳ, dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Johnson, đã quyết định leo thang trong Chiến tranh Việt Nam. Chiến địch Rolling Thunder nhằm oanh tạc liên tục Miền Bắc đã được Tổng Thống Johnson chấp thuận vào ngày 13-2-1965 và bắt đầu thực hiện từ ngày 2-3-1965. Tiếp theo là việc Hoa Kỳ mang quân bộ chiến vào VNCH, khởi đầu bằng việc đổ bộ 2 Tiểu đoàn TQLC Hoa Kỳ (khoảng 1.500 quân) vào Đà Nẵng ngày 8-3-1965, và sau đó, theo yêu cầu của cả 2 Tướng Thiệu và Kỳ trong một buổi họp tại Sài Gòn vào giữa tháng 7-1965 với Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert S. McNamara,(31) mấy chục tiểu đoàn quân Mỹ được đưa sang tham chiến tại VNCH, nâng tổng số quân Mỹ lên đến 184.314 vào cuối năm 1965.(32 )
Hội Nghị Thượng Đỉnh đầu tiên của Tướng Thiệu với Tổng Thống Johnson diễn ra tại Honolulu, thuộc tiểu bang Hawaii, vào 2 ngày 7-8 của tháng 2-1966. Hội Nghị này rất quan trọng vì nó khẳng định vai trò của Hoa Kỳ trong cuộc chiến: cùng với VNCH quyết tâm chống lại việc xâm lăng của Bắc Việt tại Miền Nam, đồng thời giúp đỡ VNCH trong việc phát triển đất nước, đặc biệt chú trọng vào chương trình cách mạng xã hội. Đối lại, phía VNCH cũng cam kết xây dựng dân chủ, tiến tới việc soạn thảo một hiến pháp mới để làm nền tảng cho việc hình thành một chính quyền dân cử.33 Vai trò của Tướng Thiệu tương đối lu mờ hơn của Tướng Kỳ và bài diễn văn chính của phái đoàn VNCH tại Hội Nghị Thượng Đỉnh quan trọng này là do Tướng Kỳ trình bày.
Lần thứ nhì hai tướng Thiệu-Kỳ họp Hội Nghị Thượng Đỉnh với Tổng Thống Johnson là tại đảo Guam vào các ngày 20-21 tháng 3-1967. Chủ đề quan trọng của Hội Nghị là phía VNCH trình diện bản Hiến Pháp vừa được Quốc Hội Lập Hiến và UBLĐQG thông qua và sắp sửa được ban hành. Về phía Hoa Kỳ thì họ tái khẳng định những cam kết tại Hội Nghị Honolulu một năm trước đó. Cũng như lần trước, Tướng Kỳ vẫn là người có vai trò nổi bật tại Hội Nghị: chính ông là người thuyết trình về bản Hiến Pháp mới.34
Tướng Thiệu chỉ nắm được vai trò chủ chốt trong mối quan hệ Việt-Mỹ sau khi đã trở thành Tổng Thống VNCH, nhất là sau khi ông đã loại trừ được phe cánh của Tướng Kỳ và thật sự nắm trọn quyền hành trong tay. Đó là năm 1968, cũng là năm bầu cử Tổng Thống tại Hoa Kỳ. Thời điểm này, sau vụ Tổng Tấn Công Mậu Thân của Cộng sản (đầu năm 1968), cũng là lúc chính phủ Hoa Kỳ của Tổng Thống Johnson bắt đầu thay đổi cái nhìn của họ về Chiến tranh Việt Nam. Họ không còn tin tưởng có thể thắng được nữa. Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara từ chức và được Clark Clifford thay thế. Tướng Westmoreland cũng không còn giữ chức Tư Lệnh MACV nữa và được gọi về Mỹ. Ngày 31-3-1968, Tổng Thống Johnson tuyên bố ngưng một phần chiến dịch oanh tạc Bắc Việt và sẽ không ra tranh cử Tổng Thống nữa, đồng thời mời Bắc Việt tiến hành thương thuyết để chấm dứt chiến tranh. Nói tóm lại: Hoa Kỳ đơn phương quyết định xuống thang chiến tranh. Bắc Việt chấp nhận lời mời của Tổng Thống Johnson và hai bên bắt đầu thương thuyết tại Paris, Pháp, từ ngày 13-5-1968.35 Chúng ta sẽ thảo luận chi tiết về thái độ, lập trường và quyết định của Tổng Thống Thiệu về vấn đề này trong mục Hòa Đàm Paris. Về việc bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ của năm 1968, ứng cử viên đại diện Đảng Dân Chủ là Phó Tổng Thống Hubert H. Humphrey chủ trương hòa bình trong đường lối tranh cử của ông. Ứng cử viên đại điện Đảng Cộng Hòa là cựu Phó Tổng Thống (thời Tổng Thống Dwight D. Eisenhower, 1953-1961) Richard M. Nixon, một chính khách Hoa Kỳ nổi tiếng chống Cộng cứng rắn. Tổng Thống Thiệu, trong cuộc bầu cử này, đã có một quyết định vô cùng táo bạo có thể mang lại hậu quả nghiêm trọng đối với mối quan hệ Việt-Mỹ. Đáng lý ra, ông phải ủng hộ ông Humphrey, đại diện Đảng Dân Chủ đang cầm quyền và đang hết lòng yểm trợ VNCH trong cuộc chiến, nhưng vì e ngại lập trường hòa bình của ông Humphrey, ông quyết định tìm cách ủng hộ ông Nixon là người mà ông tin là hiểu rõ, chống Cộng sản quyết liệt, và vì vậy sẽ tiếp tục tích cực giúp đỡ VNCH trong cuộc chiến. Tuy việc ủng hộ này không được làm công khai, đây vẫn là một hành động trở mặt trắng trợn, gây bất mãn rất lớn với chính phủ Johnson. Và ông thành công: giúp được ông Nixon thắng ông Humphrey trong gang tấc (Nixon: 31.770.237 phiếu; Humphrey: 31,270.533 phiếu) 36 Mối quan hệ đặc biệt giữa hai vị Tổng Thống Việt-Mỹ bắt nguồn từ đó và phần nào khiến cho Tổng Thống Nixon cương quyết không chấp nhận điều kiện hòa đàm của phe Cộng sản là phải lật đổ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Ông viết trong hồi ký của ông như sau, ở trang 348: “…and I would not agree to any terms that required or amounted to our overthrow of President Thieu.”37 (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “…và tôi sẽ không đồng ý với những điều kiện đòi hỏi hay đưa đến việc chúng ta lật đổ Tổng Thống Thiệu”). Mối quan hệ đặc biệt này tiếp diễn mãi cho đến những năm cuối của cuộc chiến, qua những bức mật thư mà hai ông trao đổi với nhau, nhứt là trong suốt thời gian Hòa Đàm cho đến khi Hiệp Định Paris được ký kết. Trong thời gian này đã có 2 cuộc gặp gỡ chính thức của hai ông: tại đảo Midway vào ngày 8-6-1969, và tại San Clemente, California vào ngày 2-4-1973. Lần gặp gỡ tại Midway là để chính thức công bố việc Hoa Kỳ bắt đầu rút quân ra khỏi Việt Nam và chuyển giao trách nhiệm chánh trong cuộc chiến cho QLVNCH, thường được gọi dưới tên “Việt Nam hóa chiến tranh” (Vietnamization of the War). Lần gặp gỡ tại San Clemente là sau khi Hiệp Định Paris đã được ký kết, nhằm khẳng định Hoa Kỳ vẫn tiếp tục ủng hộ VNCH. Đáng tiếc, vì vụ Watergate, Tổng Thống Nixon phải từ chức. Phó Tổng Thống Gerald Ford lên thay, vì chưa hề được dân bầu, không có đủ uy quyền, lại bị áp chế bởi một Quốc Hội với đa số Dân chủ, đã không thể tiếp tục ủng hộ VNCH trong cuộc chiến nữa, và kết quả đưa đến sự sụp đổ của VNCH vào ngày 30-4-1975.
Kết luận cho mục Quan Hệ Việt-Mỹ: Tuy không phải hoàn toàn êm xuôi, Tổng Thống Thiệu đã duy trì được một mối quan hệ Việt-Mỹ tương đối tốt đẹp cho đến cuối năm 1974. Điểm C.
Hòa Đàm Paris
Như đã trình bày bên trên, Hoa Kỳ và Bắc Việt đã chính thức khởi sự thương thuyết công khai tại Paris, Pháp, từ ngày 13-5-1968. Vì là đàm phán công khai, hai bên không thể tạo được thỏa hiệp nên hoàn toàn không có kết quả chi cả. Do đó hai bên đồng ý chấm dứt họp công khai và bắt đầu họp kín từ ngày 26-6-1968. Tại phiên họp ngày 19-8-1968, Phó Trưởng Đoàn Hoa Kỳ Cyrus Vance lần đầu tiên đề nghị là nên mở rộng thành phần tham dự hòa đàm bằng cách mời cả 2 phe VNCH và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Phó Trưởng Đoàn Bắc Việt Hà Văn Lâu đồng ý xem xét đề nghị này. Tổng Thống Thiệu không đồng ý về việc này vì ông cho rằng làm như vậy là công khai và chính thức công nhận MTGPMN như một thực thể chính trị tại Miền Nam, nhưng vào lúc đó ông không chính thức thông báo sự phản đối này của ông cho Chính phủ Hoa Kỳ biết, vì ông tin rằng Bắc Việt sẽ không chấp nhận đề nghị mở rộng hòa đàm vì Bắc Việt không công nhận chính quyền VNCH.38 Quả đúng như nhận xét của Tổng Thống Thiệu, Bắc Việt không chấp nhận đề nghị đó. Hai tháng sau, vào tháng 10-1968, cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ đi vào giai đoạn cuối (ngày bầu cử là 5-11-1968) rất quyết liệt giữa 2 ứng cử viên Humphrey của Đảng Dân Chủ và Nixon của Đảng Cộng Hòa. Các cuộc thăm dò ý kiến cử tri đều cho thấy là khoảng cách giữa 2 ứng cử viên ngày càng hẹp lại với sự ủng hộ của dân chúng dành cho ông Humphrey đang càng ngày càng tăng lên và ông Humphrey có thể sẽ thắng. Phe Cộng sản rất muốn ông Humphrey thắng vì lập trường hòa bình của ông có lợi cho họ. Quay 180 độ, tại phiên họp ngày 26-10-1968, đại diện Bắc Việt Xuân Thủy tuyên bố chấp nhận đề nghị hòa đàm 4 phe của Hoa Kỳ, coi như đó là một nhượng bộ của ho, và, dĩ nhiên, họ cũng mong đợi một nhượng bộ từ phía Hoa Kỳ. Chính phủ Johnson vui mừng chớp ngay thời cơ. Đại sứ Hoa Kỳ tại VNCH, ông Ellsworth Bunker được lệnh ráo riết vận động Tổng Thống Thiệu đồng ý ký tên vào Thông Cáo Chung Việt Mỹ về việc ngưng oanh tạc Bắc Việt (mà Tổng Thống Johnson sẽ tuyên đọc vào tối ngày 31-10-1968) và cử ngay phái đoàn VNCH sang Paris để tham gia Hòa Đàm. Ông Thiệu đồng ý với các đề nghị đó của Hoa Kỳ. Ngày 30-10-1968, đại diện Hoa Kỳ ông Harriman báo cho Xuân Thủy biết trước là vào tối ngày hôm sau, 31-10-1968, vào khoảng 7 hay 8 giờ tối giờ Washington, Tổng Thống Johnson sẽ tuyên bố ngưng toàn bộ chiến dịch oanh tạc Bắc Việt. Với diễn tiến này chắc chắn ông Humphrey sẽ thắng trong cuộc bầu cử 5 ngày sau đó. Nhưng rồi mọi việc đã không diễn ra theo kế hoạch đã thông qua giữa 2 chính phủ Việt-Mỹ. Cũng trong ngày 30-10-1968 đó, Tổng Thống Thiệu quay 180 độ, báo cho phía Hoa Kỳ biết là ông từ chối không ký vào Thông Cáo Chung đó và cũng từ chối luôn việc cử phái đoàn VNCH sang Paris vào ngày 6-11-1968 như đã thỏa thuận. Tối ngày 31-10-1968, Tổng Thống đành phải đơn phương tuyên bố ngưng oanh tạc Bắc Việt. Nhưng vì sẽ không có sự tham dự của phái đoàn VNCH, Hòa Đàm Paris coi như bị khựng lại, chẳng giúp ích được gì cho ứng cử viên của Đảng Dân Chủ. Năm ngày sau, ông Humphrey đã thất cử. Ông Nixon thắng cử với một số lượng phiếu rất thấp, không tới 1% của tổng số phiếu dân bầu. Việc gì đã xảy ra khiến cho Tổng Thống Thiệu thay đổi lập trường vào giờ chót và giúp cho ông Nixon thắng cử như vậy? Trong cuốn hồi ký của ông, tác giả Bùi Diễm, Đại sứ VNCH tại Hoa Kỳ lúc đó, viết như sau: “Bốn giờ sáng ngày 30 tháng 10, nghe tiếng chuông điện thoại, tôi choàng dậy thì ở đầu dây, anh Hoàng Đức Nhã, bí thư của ông Thiệu, gọi từ Sài Gòn cho biết là chính phủ đang xét lại việc ông Thiệu cùng ký với Tổng Thống Johnson vào bản thông cáo chung, như đã được thỏa thuận với ông Bunker. Lý do chính là từ Ba Lê đại sứ Phạm Đăng Lâm cho biết là hai ông Harriman và Vance không bảo đảm được điều khoản Bắc Việt sẽ thực sự và trực tiếp đàm phán với Việt Nam vì “Hoa Kỳ không có cách nào bắt buộc được Bắc Việt làm việc đó.” Được tin này, ông Thiệu đã triệu hồi ngay ông Lâm về nước để tham khảo ý kiến.”39Đó là lý do chính thức mà phía VNCH đưa ra để giải thích việc thay đổi lập trường về Hòa Đàm Paris vào phút chót. Phía Hoa Kỳ thì Chính phủ Johnson hoàn toàn không tin câu chuyện đó. Tổng Thống Johnson, trong cuốn hồi ký của ông, đã ghi lại về việc này như sau: “I believe Thieu and his colleagues were eager to get on good terms with what they thought would be the new administration. I had reason to believe they had been urged to delay going to the Paris meetings and promised they would get a better deal from a Nixon administration than from Humphrey. I had no reason to think that the Republican candidate Nixon was himself involved in this maneuvering, but a few individuals active in his campaign were.”40 (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Tôi tin rằng ông Thiệu và các người cộng sự của ông ta rất muốn có quan hệ tốt với cái mà họ nghĩ sẽ là chính quyền mới của Hoa Kỳ. Tôi có lý do để tin rằng họ đã bị xúi dục chậm tham dự các phiên họp ở Paris và đã được hứa hẹn sẽ được lợi hơn với một chính quyền Nixon hơn là Humphrey. Tôi không có lý do gì để nghĩ rằng ứng cử viên Cộng Hòa Nixon có dính líu đến vụ dàn xếp chính trị này, nhưng một vài cá nhân trong bộ máy tranh cử của ông ấy chắc chắn là có dính líu”). Khi Tổng Thống Johnson nói “tôi có lý do để tin”là ông nói thật và nói một cách lịch sự. Vì quả thật chính ông đã ra lệnh cho 2 cơ quan an ninh của Hoa Kỳ là CIA (Central Intelligence Agency = Cơ quan Trung Ương Tình Báo) và FBI (Fereral Bureau of Investigation = Cơ Quan Điều Tra Liên Bang) theo dõi, ngay cả nghe lén điện thoại, của Đại sứ VNCH Bùi Diễm, cũng như các công điện gửi về VN từ Tòa Đại sứ. Mọi việc bắt đầu từ buổi gặp gỡ vào ngày 12-7-1968 của Đại sứ Bùi Diễm với ứng cử viên của Đảng Cộng Hòa Richard Nixon tại Khách sạn Pierre ở New York do bà Anna Chennault giới thiệu. Bà Anna Chennault, gốc Trung Hoa, là góa phụ của Tướng Không Quân Hoa Kỳ Claire Chennault, tư lệnh nổi danh của Không Đoàn Phi Hổ (Flying Tigers) thời Đệ Nhị Thế Chiến. Bà là một thành viên quan trọng trong ủy ban vận động tranh cử của ông Nixon. Sau cuộc gặp gỡ ngày 12-7 đó, bà trở thành người liên lạc giữa người của ông Nixon và Đại sứ Bùi Diễm. CIA và FBI đã nghe lén tất cả những liên lạc điện thoại giữa bà và Đại sứ Bùi Diễm. Trong cuốn hồi ký của ông, Đại sứ Bùi Diễm cũng xác nhận như sau: “Sự thực thì điều làm tôi thắc mắc hơn cả là từ đâu mà một phần nội dung của những mật điện của tôi bị thất thoát ra ngoài, nhưng thắc mắc bao nhiêu chăng nữa, tôi cũng không thể nào ngờ được rằng cả hai cơ quan CIA và FBI đều được lệnh theo dõi những hoạt động của tôi.” 41 Mặc dù nắm được một số bằng chứng trong tay, Tổng Thống Johnson quyết định bỏ qua toàn bộ vụ việc vì việc theo dõi, nghe lén điện thoại, và đánh cắp công điện mật của Tòa đại sứ một nước đồng minh như thế vừa bất hợp pháp vừa không có lợi cho uy tín chính trị và ngoại giao của Hoa Kỳ. Khi mọi việc đã xong, với ông Nixon đã là Tổng Thống đắc cử của Hoa Kỳ, ngày 7-12-1968, Tổng Thống Thiệu đã chính chính thức cử một phái đoàn VNCH do chính Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ cầm đầu sang Paris dự Hòa Đàm.42
Qua sự việc vừa kể trên, chúng ta có một nhận định về con người của Tổng Thống Thiệu. Ông không coi người Mỹ là một Đồng Minh tuyệt đối đáng tin cậy trong Hòa Đàm Paris. Ông thật sự là một người yêu nước, dám chống lại những hành động hay việc làm của người Mỹ nếu có hại cho VNCH, và dứt khoát không phải là một “yes-man” như người Mỹ mong đợi. Chính ông Kissinger cũng công nhận điều này. Ông viết như sau trong cuốn hồi ký của mình, ở 2 trang 1324-1325: “Thieu was a patriot and a highly intelligent man… But the imperatives on him were almost diametrically the opposite of ours… Our goal was honor; we could (as the phrase went) run a risk for peace. But Thieu’s problem was survival; he and his people would be left indefinitely after we departed; he had no margin for error.” (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Ông Thiệu là một người yêu nước và là một người rất thông minh… Nhưng những chuyện tối cần thiết của ông gần như là đối nghịch với những chuyện tối cấn thiết của chúng tôi… Mục tiêu của chúng tôi là danh dự; chúng tôi (như người ta thường nói) có thể liều với hòa bình. Nhưng vấn đề của ông Thiệu là việc sống còn; ông và nhân dân của ông sẽ bị bỏ mặc sau khi chúng tôi ra đi; ông không có thể sai lầm”).43 Chúng ta sẽ còn chứng kiến khía cạnh này của con người Tổng Thống Thiệu nhiều lần nữa, đặc biệt là việc ông từ chối không ký Hiệp Định Paris trong tháng 10-1972.
Việc Tổng Thống Thiệu không tin tưởng hoàn toàn vào Đồng Minh Hoa Kỳ trong Hòa Đàm Paris có lý do rất chính đáng. Qua các báo cáo định kỳ của Đại sứ Bùi Điễm, Tổng Thống Thiệu đã biết rất rõ là Hoa Kỳ đã thay đổi chính sách và quyết định bằng mọi giá phải thương thuyết để có thể rút quân. Hoa Kỳ đã đơn phương xuống thang trong những điều kiện căn bản về hòa đàm như sau: 44
Trong văn thư gửi cho Hồ Chí Minh ngày 8-2-1967: Hoa Kỳ sẽ ngưng oanh tạc Bắc Việt nếu Hà Nội ngưng xâm nhập quân vào Miền Nam; và Hoa Kỳ sẽ rút quân nếu Bắc Việt cũng rút quân về. Hồ Chí Minh bác bỏ.
Trong tuyên bố tại San Antonio, Texas, ngày 29-9-1967: Hoa Kỳ sẵn sàng ngưng oanh tạc Bắc Việt nếu việc này có thể nhanh chóng đưa đến thảo luận nghiêm chỉnh và nếu Hà Nội “không lợi dụng” việc ngưng oanh tạc này. Mai Văn Bộ, đại diện của Hà Nội tại Paris vẫn bác bỏ, và chủ trương việc ngưng oanh tạc Bắc Việt là “vô điều kiện.”
Trong tuyên bố ngày 31-3-1968, Tổng Thống Johnson đơn phương và vô điều kiện ngưng oanh tạc Bắc Việt ở phía Bắc của vĩ tuyến 20. Hà Nội đồng ý đàm phán và hai phe bắt đầu họp tại Paris, Pháp, từ ngày 13-5-1968
Trong tuyên bố ngày 31-10-1968, Tổng Thống Johnson ra lệnh ngưng hoàn toàn việc oanh tạc Bắc Việt, và đồng ý mở rộng Hòa Đàm Paris để có cả sự hiện diện của VNCH và MTGPMN
Sau khi ông Nixon trở thành Tổng Thống Hoa Kỳ, thay ông Johnson, cách làm của Hoa Kỳ có thề thay đổi nhưng mục tiêu thì không: vẫn là không tham chiến nữa (disengagement), có nghĩa là, dù cho VNCH có muốn và đồng ý hay không, Hoa Kỳ cũng sẽ rút quân, và tiến tới ký kết với Bắc Việt để hoàn tất việc rút quân và đem tù binh về. Điều kiện căn bản về hòa đàm mà chính Hoa Kỳ đặt ra ngay từ đầu, Bắc Việt phải ngưng đưa quân xâm nhập vào Miền Nam và rút quân về, đã bị bỏ qua một bên, và sẽ không được đề cập đến nữa. Trên thực tế, Hoa Kỳ đã tiến hành rút quân từ sau Hội Nghị Thượng Đỉnh Midway giữa Tổng Thống Nixon và Tổng Thống Thiệu vào ngày 8-6-1969, và đến cuối năm 1971, quân số Hoa Kỳ tại VNCH đã giảm từ 536.100 (1968) xuống còn có 156.800.45 Vì Hòa Đàm Paris không tiến triển, Tổng Thống Nixon quyết định cử Tiến sĩ Henry Kissinger, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của ông, tiến hành mật đàm với Lê Đức Thọ. Sau khi chuyển sang mật đàm tay đôi giữa Kissinger và Lê Đức Thọ từ ngày 21-2-1970, phía VNCH không còn biết rõ được những gì xảy ra nữa. Trên thực tế, Kissinger không những đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác về các vấn đề quân sự (rút quân) mà còn tự động cho mình cái quyền thảo luận với Bắc Việt cả những vấn đề chính trị của VNCH. Trên nguyên tắc, Hoa kỳ phải luôn luôn thông báo và tham khảo chính phủ VNCH về những diễn tiến của Hòa Đàm Paris, trên thực tế, Kissinger chỉ thông báo cho chính phủ VNCH những gì ông muốn thông báo, và lờ đi những chuyện khác, đặc biệt là những nhượng bộ của ông tại mật đàm với Lê Đức Thọ. Phần Bắc Việt, vì biết quá rõ mong muốn sớm rút quân và kết thúc cuộc chiến của Hoa Kỳ, nên không chịu nhượng bộ gì cả, cố tình kéo dài thương thuyết, và chuẩn bị cho cuộc Tổng Tấn Công vào cuối tháng 3-1972 để tăng thêm thế mạnh của họ tại hòa đàm. Do đó Hòa Đàm Paris đã dậm chân tại chỗ trong suốt gần 4 năm. Trong thời gian này, Hoa Kỳ tích cực tìm cách tiếp cận Trung Quốc. Tháng 7-1971, Kissinger bí mật sang Bắc Kinh để chuẩn bị cho chuyến viếng thăm chính thức Trung Quốc của Tổng Thống Nixon vào tháng 2-1972. Sang tháng 5-1972, cũng do dàn xếp của Kissinger, Nixon sang Moscow họp thượng đỉnh với Brezhnev, Tổng Bí Thư của Đảng Cộng sản Liên Xô. Bắc Việt rất lo lắng các với biến cố này vì họ không biết Hoa Kỳ có ký kết mật ước gì với Trung Quốc và Liên Xô hay không, đặc biệt là với Trung Quốc (họ vẫn còn nhớ đã từng bị Trung Quốc đâm sau lưng trong Hội Nghị Genève 1954). Sau khi thất bại hoàn toàn trong cuộc Tổng Tấn Công năm 1972, và trước viễn ảnh Tổng Thống Nixon sẽ được tái cử, nghĩa là họ sẽ còn phải tiếp tục đương đầu với Tổng Thống Nixon thêm 4 năm nữa, cùng với những lo âu về tác động có thể có của mối quan hệ Mỹ-Hoa vừa hình thành, Bắc Việt đã quyết định tạm thời hài lòng với những gì đã đạt được trong mật đàm và tỏ ra chiều hướng muốn sớm ký kết với Kissinger trước khi bầu cử Tổng Thống Mỹ diễn ra vào đầu tháng 11-1972. Kết quả là đã diễn ra rất nhiều phiên họp rất tích cực trong các tháng giữa năm 1972, và lập trường thương thuyết giữa Bắc Việt và Hoa Kỳ đã tiến đến gần nhau rất nhiều với một số nhượng bộ từ phía Bắc Việt. Trong cuốn hồi ký của ông, Kissinger ghi lại như sau ở trang 1318: “After three meetings, then, there had been significant movement, entirely by Hanoi; it was moving in the right direction but not at a pace that would keep it from reversing course later. Hanoi had given up the demand for Thieu’s immediate removal. It had agreed to negotiating forums in which the Saigon government would parricipate, thus in a sense recognizing its legitimacy.It had abandoned the absurd demand for an unconditional deadline for the withdrawal of American forces. The proposed coalition government, heretofore a transparent front for a Communist takeover, had been reduced to a fifty-fifty split of power.”46 (Xin tạmdịch sang Việt ngữ như sau: “Kế đó, sau ba phiên họp, đã có biến chuyển quan trọng, hoàn toàn do phía Hà Nội; họ đã đi đúng hướng nhưng không phải với một tốc độ có thể giúp họ quay ngược lại được. Hà Nội đã từ bỏ yêu cầu phải loại bỏ Thiệu ngay. Họ đã đồng ý thương thuyết về các diễn đàn mà chính phủ Sài Gòn sẽ tham gia, và như vậy có nghĩa là họ công nhận tính chính thống của chính phủ này. Họ đã từ bỏ cái đòi hỏi vô lý về thời hạn chót vô điều kiện cho việc rút quân của Hoa Kỳ. Cái chính phủ liên hiệp mà họ đề nghị, cho tới lúc đó chỉ là một cái bình phong quá rõ ràng cho việc chiếm quyền của Cộng sản, đã được giảm xuống thành một sự chia quyền 50-50”). Ngày 17-8-1972, Kissinger đến Sài Gòn để trình bày và thảo luận với Chính phủ VNCH về những tiến triển này. Trọng tâm của việc thương thuyết bây giờ không còn là về mặt quân sư nữa (vấn đề Mỹ rút quân) vì Hoa Kỳ đã rút gần hết quân về rồi (vào tháng 8-1972, Hoa kỳ chỉ còn lại khoảng 27.000 quân tại VNCH, chỉ hơn phân nửa số 50.000 quân Mỹ đóng tại Nam Hàn từ sau năm 1953), mà ngiêng nặng về các vấn đề chính trị của VNCH. Kissinger trình Tổng Thiệu một bản đề nghị mà ông sẽ công bố và thảo luận với phe Bắc Việt trong phiên họp sắp tới với Lê Đức Thọ vào ngày 15-9-1972. Về mặt quân sự, Hoa kỳ dời thời hạn chót để rút hết quân từ 4 tháng xuống còn 3 tháng. Về chính trị, Hoa Kỳ tiếp tục bác bỏ đề nghị thành lập chính phủ liên hiệp của Bắc Việt, nhưng sẽ đề nghị một ủy ban hỗn hợp ba thành phần để tổ chức bầu cử. Trong khi trình bày bản đề nghị này, Kissinger dùng luận cứ là cần phải làm như vậy để giúp Tổng Thống Nixon có thể thắng cử vào tháng 11. Đây là một luận cứ không trung thực vì Tổng Thống Nixon không cần điều này trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1972. Trong cuốn hồi ký của ông, Tổng Thống Nixon viết như sau: “The opinion polls confirmed my own intuition that, in terms of voter support, my handling of the war was generally viewed as a positive issue for me and a negative one for McGovern, who was perceived as weal and favoring surrender. Therefore any settlement that was hastily completed in time for the election would look cynical and suspicious … I am inclined to think that the better bargaining time for us would be immediately after the election rather than before.” 47(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Các cuộc thăm dò dư luận đều khẳng định trực giác của tôi rằng, về mặt ủng hộ của cử tri, cách điều hành cuộc chiến của tôi phần lớn được xem là một yếu tố tích cực đối với tôi và tiêu cực đối với ông McGovern, người bị xem như là yếu và chủ trương đầu hàng. Do đó bất cứ thỏa thuận nào hoàn tất một cách vội vã cho kịp trước bầu cử sẽ bi xem là ích kỷ và đáng nghi ngờ. … Tôi nghĩ rằng thời điểm tốt hơn để thương thuyết là ngay sau bầu cử hơn là trước bầu cử”). Ngày hôm sau, 18-8-1972, Tổng Thống đưa cho Kissinger một văn thư 4 trang gồm hơn 20 đề nghị sửa đổi đối với bản đề nghị của Hoa Kỳ, trong đó có 2 điều quan trọng là : 1) yêu cầu thay cụm từ “standstill cease-fire = ngưng bắn tại chỗ” bằng cụm từ “general cease-fire = ngưng bắn tổng quát”; và, 2) phản đối việc thành lập Ủy Ban Hòa Giải Dân Tộc (UBHGDT) gồm 3 thành phần (the tripartite Committee of National Reconciliation), với lý do điều này sẽ tạo ra nghi ngờ đối với nhân dân Miền Nam. Tổng Thống Thiệu cũng cho Kissinger biết là ông cần thời gian để suy nghĩ và chuẩn bị về mặt tâm lý và chính trị đối với đề nghị của Hoa Kỳ. Trong cuốn hồi ký về Hòa Đàm Paris của ông, tác giả Nguyễn Phú Đức, Phụ Tá Đặc Biệt của Tổng Thống Thiệu, có mặt tại buổi họp này, đã ghi lại như sau: “In Saigon, at the end of the 18 August session, President Thieutold Kissinger: We need time to think about it. We are not prepared psychologically and politically on your proposal.”48 (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Tại Sài Gòn, vào cuối phiên họp ngày 18 Tháng 8, Tổng Thống Thiệu bảo Kissinger: Chúng tôi cần thời gian để suy nghĩ về chuyện này. Chúng tôi chưa chuẩn bị về mặt tâm lý và chính trị đối với đề nghị của ông”). Sau khi Kissinger rời Sài Gòn, Tổng Thống đã triệu tập một phiên họp đặc biệt của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia gồm Tổng Thống, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, các ông Nguyễn Phú Đức và Hoàng Đức Nhã để duyệt xét từng điểm trong đề nghị của Kissinger. Sau khi thảo luận, những nguyên tắc chỉ đạo sau đây về thương thuyết tại hòa đàm Paris được thiết lập:
“Diễn đàn” giữa Washington và Hà Nội không có thẩm quyền “giải quyết” các vấn đề giữa Chính phủ VNCH và MTGPMN, như Kissinger đề nghị.
Hà Nội không có quyền can thiệp vào các vấn đề chính trị của VNCH. Hiệp Định Genève 1954 công nhận VN bị chia thành 2 nước phân cách bởi Vùng Phi Quân Sự. Trong khi chờ đợi thống nhứt, Chính phủ VNCH không có ý định thương thuyết để thay đổi chế độ chính trị của Miền Bắc. Ngược lại, Hà Nội cũng không thể đòi hỏi một sự thay đổi chế độ chính trị ở Miền Nam.
Hiến Pháp của VNCH, đã được thông qua bởi Quốc Hội dân cử của nhân dân Miền Nam, phải được tôn trọng như Tổng Thiệu đã tuyên thệ bảo vệ nó.
Một cuộc trưng cầu dân ý có thể được tổ chức theo đúng Hiến Pháp. Việc tổ chức trưng cầu dân ý có thể do ỦBHGDT thực hiện, thay vì do Tối Cao Pháp Viện như đòi hỏi của Hiến Pháp, để có thể bảo đảm sự công bằng. Nhưng sau cuộc trưng cầu dân ý, UBHGDT phải được giải tán, chứ không được tiếp tục ở lại để sửa đổi Hiến Pháp. Chính phủ VNCH, sau cuộc trưng cầu dân ý, có thể chấp nhận sự tham gia Chính phủ của các thành viên MTGPMN theo tỷ lệ phiếu của họ, với điều kiện họ phải công nhận Hiến Pháp.
Nếu Tổng Thống Thiệu chấp nhận từ chức trước khi bầu cử để bảo đảm cuộc bầu cử được công bằng thì Phó Tổng Thống Trần Văn Hương không có lý do gì cũng phải từ chức vì làm như thế là xóa bỏ ngành Hành Pháp của chính phủ VNCH.
Lập trường của VNCH về Hòa Đàm Paris, dựa trên các nguyên tắc chỉ đạo vừa kể trên, đã được trình bày trong một văn thư giao cho Đại sứ Bunker vào ngày 28-8-1972 để kịp chuyển giao cho Tổng Thống Nixon và Kissinger tại phiên họp của họ tại Honolulu, Hawaii vào ngày 30-8-1972.49 Kissinger, do đó, không thể bảo là không biết rõ lập trường của VNCH về Hòa Đàm Paris. Trong cuốn hồi ký của ông, Kissinger ghi lại như sau: “I left Saigon with a false sense of having reached a meeting of the minds. Thieu and I had decided that we would settle the few remaining disagreements over our draft proposal by exchanging messages through Bunker. There were plenty of time – nearly four weeks until my next meeting on September 15. Instead, Thieu enveloped himself in silence; we heard absolutely nothing from the Palace.” 50(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Tôi rời Sài Gòn với một cảm giác sai lầm là đã có sự đồng ý với nhau. Ông Thiệu và tôi đã quyết định rằng chúng tôi sẽ giải quyết một vài bất đồng còn lại về dự thảo đề nghị của chúng tôi bằng cách trao đổi thông điệp cho nhau qua ông Bunker. Thời gian còn nhiều – gần 4 tuần lễ trước khi tôi có phiên họp sắp tới vào ngày 15 tháng 9. Thay vì như vậy, ông Thiệu hoàn toàn im lặng; chúng tôi tuyệt đối không nhận được tin tức gì cả từ Dinh Độc Lập”). Lời tường thuật trong hồi ký này là một lời nói láo trắng trợn (cũng như những lời nói láo khác của Kissinger, như sau này chúng ta đã biết được qua những tài liệu đã giải mật của Chính phủ Hoa Kỳ) vì làm sao Đại sứ Bunker có thể không chuyển giao văn thư ngày 28-8-1972 của Chính phủ VNCH cho Tổng Thống Nixon và ông Kissinger tại cuộc họp ở Honolulu, Hawaii, vào ngày 30-8-1972 được. Sau đây là một bằng chứng không chối cãi được là Hoa Kỳ có nhận được văn thư ngày 28-8 về lập trường hòa đàm của Chính phủ VNCH. Trong cuốn hồi ký của mình, ông Nguyễn Phú Đức đã có ghi rõ như sau về cuộc họp với Tướng Alexander Haig, phụ tá của Kissinger vào ngày 2-10-1972 tại Sài Gòn: “PRESIDENT THIEU: The GVN has put down its views in its memo of August 28. Has the US transmitted these views to the North Vietnamese? HAIG: If we presented these views, this would break up the talks, and this would endanger our long range possibility to support you.” 51 (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “TỔNG THỐNG THIỆU: Chính phủ VNCH đã trình bày quan điểm của mình trong văn thư ngày 28 tháng 8. Hoa Kỳ có thông báo các quan điểm đó cho Bắc Việt hay không? HAIG: Nếu chúng tôi trình bày các quan điểm đó thì điều đó sẽ phá vỡ hòa đàm và gây nguy hại cho khả năng ủng hộ các ông về lâu về dài”). Như vậy, trên thực tế, rõ ràng là Kissinger đã lờ đi, bỏ qua hoàn toàn văn thư ngày 28-8-1972 của Chính phủ VNCH, và vẫn tiếp tục thảo luận với Lê Đức Thọ trên căn bản những đề nghị của ông. Đúng như Tổng Thống Nixon đã nhận định về trạng thái tâm thần của Kissinger trong hồi ký của ông như sau: “… obsessed with the idea that there should be a negotiated settlement.”52 (xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “… bị ám ảnh với ý nghĩ là phảiký cho được thỏa hiệp”), Kissinger thật sự mong muốn, và sẵn sàng trả mọi giá, để ký kết cho được với Bắc Việt trước ngày bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ vào đầu tháng 11-1972. Và quả thật ông đã đạt được thỏa hiệp với Bắc Việt trong phiên họp ngày 17-10-1972. Ông lập tức thông báo cho Tổng Thống Nixon thời khóa biểu hoạt động của ông trong thời gian còn lại của tháng 10-1972 như sau:53
Sau ngày 17-10, sang Sài Gòn 3 ngày để trình bày về thỏa hiệp với Bắc Việt và đạt sự đồng thuận của Chính phủ VNCH
Ngày 22-10 đến Hà Nội để ký tắt Hiệp Định với Bắc Việt
Trở về Washington để tuyên bố Thông Cáo Chung về Hiệp Định vào ngày 26-10
Lệnh ngưng bắn sẽ bắt đầu có hiệu lực vào ngày 30-10 khi Ngoại Trưởng của các bên cùng ký tên vào Hiệp Định tại Paris
Như vậy, trên thực tế, Kissinger tin rằng, với việc sắp đặt của ông, mọi việc đã xong, VNCH sẽ dễ dàng đồng ý và chấp nhận bản Hiệp Định mà ông đã đạt được với Bắc Việt tại Paris vì ông tin rằng đó là thỏa hiệp tốt nhứt mà VNCH có thể đạt được. Nó gồm những điều khoản chính như sau:
Một cuộc ngưng bắn tại chỗ
Hoa Kỳ rút hết quân sau 60 ngày
Bắc Việt đồng ý không xâm nhập thêm quân vào Miền Nam
Trao trả tù binh của cả hai phía
Bắc Việt không đòi hỏi một chính phủ liên hiệp nữa; thay vào đó là một HĐHGDT gồm 3 thành phần để tổ chức bầu cử
Bắc Việt không đòi hỏi Tổng Thống Thiệu phải từ chức nữa/
Lâm Vĩnh Thế
(Còn tiếp)
---------------------------------------------------
Chú thích :
25. Lâm Vĩnh Thế,”Công điện mật của CIA ngày 06-03-1968,” trong Bạch hóa tài liệu mật của Hoa Kỳ về Việt Nam Cộng Hòa(Hamilton, Ont.: Hoài Việt, 2008), tr. 77-93. Tài liệu này là một Công điện Mật của CIA, đề ngày 06-03-1968, giải mật ngày 30-06-1999, gồm 6 trang. Ở trang 2 có ghi rõ như sau: “President Nguyen Van Thieu said that his major problem at the present time is a personal one which involves activities designed to undermine his power and prestige as president. Thieu named Vice President Nguyen Cao Ky, Director General of National Plice Nguyen Ngoc Loan and Chief of the Overseas Security Service Mai Den as the instigators of this effort. Thieu feels that he has been backed into a corner, and although he is generally fair and gentle with all people, he would like to take some action to assert himself against such detractors. All Thieu wants is to be a good president for the full four years or even these first five months, if he does not survive the present fighting, though he has no fears for his personal safety.”(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bảo rằng vấn đề chính của ông hiện nay là một vấn đề cá nhân liên quan đến các hoạt động nhằm phá hoại quyền lực cũng như uy tín tổng thống của ông. Ông Thiệu nêu đích danh Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia Nguyễn Ngọc Loan và người đứng đầu Cơ Quan An Ninh Quốc Ngoại Mai Đen như là những người chủ mưu của các hoạt động đó. Ông cảm thấy ông đã bị dồn vào chân tường, và mặc dù nói chung ông đối xử với mọi người một cách công bình và nhã nhặn, ông muốn có những hành động để xác định tư thế của ông đối với những người phá rối đó. Ông cho biết điều ông muốn là làm một tổng thống tốt trong trọn nhiệm kỳ bốn năm, hay ngay cả trong năm tháng đầu tiên này của nhiệmn kỳ nếu ông không vượt qua được cuộc tranh chấp hiện nay, mặc dù ông không lo ngại cho sự an toàn của bản thân ông.”
26. Đoàn Thêm, Việc từng ngày: 1968 ; tựa của Lãng Nhân. [Sài Gòn]: Cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai, 1969 ; Los Alamitos, Calif. : Nhà xuất bản Xuân Thu tái bản, 1989. Các tr. 92, 107 và 111.
27. South Vietnamese President Nguyen Van Thieu’s meeting with Vice President Nguyen Cao Ky and the South Vietnamese senior generals to discuss cabinet reorganization and government policies, trong cơ sở dữ liệu DDRS. Tài liệu này là một Công điện Mật của CIA, đề ngày 16-5-1968, giải mật ngày 22-10-1999, gồm 9 trang.Ở tr. 3, có đoạn ghi rõ danh sách các tướng lãnh cao cấp đã họp với Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ tại Bộ Tổng Tham Mưu trước khi họp với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu như sau: “In addition to Ky and Khang others attending were I Corps Commander Lieutenant General Hoang Xuan Lam, II Corps Commander Major General Lu Mong Lan, IV Corps Commander Major General Nguyen Duc Thang, Chief of the Joint General Staff General Cao Văn Viên, Minister of Defense Lieutenant General Nguyen Van Vy, Minister of Interior Lieutenant General Linh Quang Vien, and Minister of Revolutionary Development Lieutenant General Nguyen Bao Tri.” (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Ngoài Kỳ (tức Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ) và Khang (tức Trung Tướng Lê Nguyên Khang, Tư Lệnh Quân Đoàn III), những người tham dụ khác là Tư Lệnh Quân Đoàn I Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh Quân Đoàn II Thiếu Tướng Lữ Mộng Lan, Tư Lệnh Quân Đoàn IV Thiếu Tướng Nguyễn Đức Thắng, Tổng Tham Mưu Trưởng Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Trưởng Quốc Phòng Trung Tướng Nguyễn Văn Vỹ, Tổng Trưởng Nội Vụ Trung Tướng Linh Quang Viên, và Tổng Trưởng Xây Dựng Nông Thôn Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị.”).Ở tr. 4, có đoạn ghi rõ như sau: “The Corps Commanders specifically asked Thieu to cancel his projected overhaul of the provincial administrative system…” (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Các Tư Lệnh Quân Đoàn đặc biệt yêu cầu Thiệu hủy bỏ chính sách cải tổ hành chánh địa phương mà ông đã hoạch định…). Ở tr. 5, có đoạn ghi rõ như sau: “Thieu then expounded on his concept of how the government should function. This exposition made it clear that he did not intend to reverse any of his administrative reforms…” (Xn tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Sau đó ông Thiệu nói về quan niệm điều hành chính phủ của ông. Phần trình bày này cho biết rõ ràng là ông không có ý định hủy bỏ việc cải tổ hành chánh của ông…).
28. Đoàn Thêm, Việc từng ngày: 1968, sđd, tr. 195.
29. Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 1967, cò thể truy dụng trực tuyến tại địa chỉ Internet sau đây: https://vi.wikisource.org/wiki/Hi%E1%BA%BFn_ph%C3%A1p_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_1967
30.“Phụ Tá Đặc Biệt Nguyễn Văn Ngân nói gì về những bí ẩn quanh Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu?”tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.quehuongngaymai.com/forums/showthread.php?127122-Ph%E1%BB%A5-T%C3%A1-%C3%90%E1%BA%B7c-Bi%E1%BB%87t-Nguy%E1%BB%85n-V%C4%83n-Ng%C3%A2n-n%C3%B3i-g%C3%AC-v%E1%BB%81-nh%E1%BB%AFng-b%C3%AD-%E1%BA%A9n-quanh-T%E1%BB%95ng-Th%E1%BB%91ng-Nguy%E1%BB%85n-V%C4%83n-Thi%E1%BB%87u
31. Johnson, Lyndon Baines, The Vantage point: perspectives of the presidency, 1963-1969. New York: Holt, Rinehart and Winston, 1971. Tr. 144 có ghi rõ như sau: “One of the first things General Thieu and Prime Minister Ky told McNamara was that they were convinced that American and perhaps other foreign forces would be needed to hold back the Communist attackers. When McNamara asked for their estimates of how many might be needed, the Vietnamese leaders said they thought that in addition to the forty-four battalions they had already requested, there should be another combat division. The total estimate called for about 200,000 American men in all categories.” (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Một trong những điều đầu tiên mà Tướng Thiệu và Thủ Tướng Kỳ nói với McNamaralà ho tin rằng là cần có quân Mỹ hay các nước khác để chận đứng quân xâm lược Cộng sản. Khi McNamar hỏi họ ước lượng cần bao nhiêu quân thì các nhà lãnh đạo Việt Nam nói họ nghĩ là bên cạnh 44 tiểu đoàn mà họ đã yêu cầu cần có them một sư đoàn tác chiến nữa. Tổng số ước lượng sẽ vào khoảng 200.000 quân thuộc đủ các binh chủng”).
32. 1965 in the Vietnam War, trên mạng Internet tại địa chỉ sau đây: https://en.wikipedia.org/wiki/1965_in_the_Vietnam_War ; “31 December. The number of U.S. military personnel in South Vietnam totaled 184.314 compared to 23,310 at the end of 1964.” (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “31 Tháng 12. Tổng số quân nhân Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam là 184.314 so với 23.310 vào cuối năm 1964”).
33. Johnson, sđd, tr. 244 có ghi rõ về Thông Cáo Chung giữa hai nước khi kết thúc Hội Nghị Thượng Đĩnh Honolulu, gọi là “Tuyên bố Honolulu = The Declaration of Honolulu” trong đó có đoạn ghi như sau: “… 4. We must build true democracy for our land and for our people… Under the last point, the Vietnamese leaders pledged to have a constitution written “in the months ahead.” (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “…4. Chúng tôi phải xây dựng một nền dân chủ thật sự cho đất nước và nhân dân chúng tôi… Về điểm cuối cùng này, các nhà lãnh đạo Việt Nam cam kết sẽ hoàn thành một bản hiến pháp trong những tháng sắp tới”).
34. Johnson, sđd, tr. 260 có ghi rõ: “At our formal meeting, Prime Minister Ky said: “Very soon this Constitution will be promulgated. Four to five months after that, we will hold national elections for a President and a Senate. One month after the Presidential and senatorial elections, we will hold an election for a House of Representatives. Vietnam will then have a freely elected, popularly chosen government.” (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Tại cuộc họp chính thức của chúng tôi, Thủ Tướng Kỳ nói: “Bản Hiên Pháp này sẽ được sớm ban hành. Bốn đến năm tháng sau, chúng tôi sẽ tỗ tổ chức bầu cử trên toàn quốc để bầu ra một Tổng Thống và một Thượng Viện.Một tháng sau cuộc bầu cử Tổng Thống và Thượng Viện chúng tôi sẽ tổ chức bầu cử một Hạ Viện. Đến lúc đó Việt Nam sẽ có một chính phủ do dân chúng bầu ra môt cách tự do”).
35. Asselin, Pierre, A Bitter peace: Washington, Hanoi and the making of the Paris Agreement. Chapell Hill, N.C.: University of North Carolina Press, 2002. Tr. 5.
36. Kimbal, Jeffrey, Nixon’s Vietnam War. Lawrence, Kansas: University Press of Kansas, 1998. Tr. 60 có ghi rõ như sau: “On Novermber 5 Nixon won the election by a narrow margin in the popular vote, 31,770,237 to 31,270,533. No presidential election has ever been a referendumon a single issue, but some issues are more important than others, and the war was a very important issue in 1968. In his memoir William Safire speculated: “Nixon probably would not be President were it not for Thieu. Nixon remembered.” Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Vào ngày 5 tháng 11 Nixon thắng cử với một đa số rất thấp trong số phiếu dân bầu, 31.770.237 phiếu so với 31.270.533 phiếu. Bầu cử tổng thống chưa bao giờ là một cuộc trưng cầu dân ý dựa trên một vấn đề duy nhứt, nhưng lúc nào cũng có những vấn đề này quan trọng hơn những vấn đề khác, và chiến tranh là một vấn đề rất quan trọng trong năm 1968. Trong cuốn hối ký của mình, William Safire nhận định: “Có lẽ Nixon sẽ không thể là Tổng Thống nếu không có ông Thiệu. Nixon nhớ chuyện này.” Xin nói thêm một ít về William Safire: ông là một nhà bình luận chính trị nổi tiếng của báo New York Times, phụ trách theo dõi việc tranh cử của Nixon năm 1968, và, sau khi Nixon đắc cử Tổng Thống năm 1968, ông làm việc cho Nixon với nhiệm vụ chuyên môn là soạn diễn văn cho Nixon.
37. Nixon, Richard, The Memoirs of Richard Nixon. New York: Grosset & Dunlap, 1978. Tr. 348.
38. Asselin, sđd, tr. 7-8 có ghi như sau: “However, because he believed Hanoi would not accept the proposal for quadripartite talks since it did not recognize his government, Thieu never formally communicated his objection to the proposal to Washington.” (Xin tam dịch sang Việt ngữ như sau: “Tuy nhiên, vì ông tin là Hà Nội sẽ không chấp nhận đề nghị hòa đàm 4 phe vì họ không công nhận chính phủ của ông, ông Thiệu đã không bao giờ thông báo chính thức sự phản đối đề nghị đó của ông cho Hoa Thịnh Đốn”).
39. Bùi Điễm, sđd, tr. 394-395.
40. Johnson, sđd, tr. 517-518.
41. Bùi Diễm, sđd, tr. 403.
42. Đoàn Thêm, Việc từng ngày: 1968, sđd, tr. 399.
43. Kissinger, Henry, White House years. Boston: Little, Brown &Co., 1979. Tr. 1324-1325.
44. Nguyễn Phú Đức, The Vietnam’s peace negotiations: Saigon’s side of the story. Christiansburg, Va.: Dalley Book Service, 2005. Tr. 10-13.
45. Quân số Hoa Kỳ tại VNCH trong khoảng thời gian 1968-1973 là như sau: 536.100 (1968), 475.200 (1969), 334.600 (1970), 156.800 (1971), và 24.200 (1972). Nguồn tin: U.S. Department of Defense Manpower Data Center; tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.americanwarlibrary.com/vietnam/vwatl.htm
46. Kissinger, sđd, tr. 1318.
47. Nixon, sđd, tr. 700.
48. Nguyễn Phú Đức, sđd, tr. 310.
49. Nguyễn Phú Đức, sđd, tr. 310-311.
50. Kissinger, sđd, tr. 1326.
51. Nguyễn Phú Đức, sđd, tr. 315-316.
52. Nixon, sđd, tr. 600.
53. Nixon, sđdf, tr. 693.