có những điều không nói ra, chỉ ghi lại...
pn

Thứ Hai, tháng 11 16, 2015

Những ghi chép ở tầng thứ 14





1.

Sài Gòn là một thành phố có nhiều ma nhất trên thế giới.

Nó có nhiều ma hơn mọi thành phố có nạn diệt chủng ở châu Phi. Nó có nhiều ma hơn thành phố chết Nam Vang trong thời diệt chủng. Nó có nhiều ma hơn cả hai thành phố bị huỷ diệt bởi bom nguyên tử vào cuối thế chiến thứ hai ở Nhật cộng lại. Nói đúng ra, thì nó có nhiều ma hơn tất cả các thành phố trên thế giới.

Nếu là một người từng sống ở đó thì có thể bạn không ý thức được điều đó đâu, vì chắc chắn bạn đã thấy quen thuộc với cái khí quyển ma quái đó rồi. Khi mình đã quen với điều gì rồi thì sẽ thấy đó là một sự hiển nhiên, chẳng có gì để phải thắc mắc.

Còn nếu bạn là một du khách thì nhiều phần vì sự hèn nhát do sợ bị ma trả thù mà bạn không dám tiết lộ ra cái sự thật đó.

Do đâu mà tôi biết được điều đó ư? Tôi biết được là vì tôi là một du khách. Thật ra, tôi là một gã trai trẻ thèm giang hồ vặt, khao khát đi khắp thế giới với cái ba-lô và một số tiền còm dành dụm được trong một năm cày cuốc ở Austin, Texas.

*
Tên tôi do cha tôi đặt, tiếng Việt là Quân, tiếng Mỹ là William, 23 tuổi. Cha tôi người Việt, mẹ tôi cũng người Việt, họ vượt biên đến Mỹ từ năm 1979, cả hai người đều phải thi để lấy quốc tịch sau 5 năm ở Mỹ. Mẹ tôi đậu và thành công dân Mỹ. Cha tôi thi trượt 5 lần và nản lòng, quyết định không bao giờ thi nữa nên ông mãi mãi là người không có quốc tịch nào cả, Mỹ cũng không mà Việt cũng không.

Nếu hình dung quốc tịch như một cái mỏ neo để neo thân phận con người như neo một con tàu thì cha tôi là con tàu bị trôi giạt mãi và sẽ đắm trong nay mai vì mỗi ngày bị nước biển tràn vào một ít. Tới giờ, sau nhiều năm ở Mỹ, ông vẫn không nói được tiếng Anh suôn sẻ tuy rằng ông sống bằng nhiều nghề, đi và ở nhiều nơi trên nước Mỹ hơn phần đông những người Mỹ bình thường. Ông lái xe rất giỏi, chưa bao giờ ông gây tai nạn hay bị cảnh sát phạt vì bất cứ lỗi gì, nhưng ông không có bằng lái vì, theo lời ông, ông đã thi trượt 37 lần phần thi lý thuyết. Ông là một nhà thơ, một nhà thơ thất bại như hàng triệu triệu nhà thơ thất bại của nhân loại từ xưa đến nay, tất nhiên ông chỉ làm thơ bằng tiếng Việt.

Mẹ tôi là thương gia khá thành công, bà buôn bán với cả người Mỹ gốc Việt lẫn người Mỹ không phải gốc Việt. Bà bảo với tôi rằng bà đã lấy được bằng tiến sĩ về một ngành tương tợ như khí động học hay nhân chủng học gì đó, và tôi phải noi theo gương bà để trở thành một người thành đạt, thật ra tôi chẳng quan tâm mấy đến chuyện thành đạt bằng con đường khoa cử đó. Tôi muốn viết một cái gì đó, có lẽ nên là một cuốn tiểu thuyết.

Tôi là người Mỹ, tôi ra đời ở Mỹ, nên không phải thi quốc tịch Mỹ. Tôi hiểu được một ít tiếng Việt và nói hai thứ tiếng Anh-Việt trộn lẫn nhau khi buộc lòng phải nói tiếng Việt. Tôi bỏ học đại học sau hai năm theo một ngành gì đó mà tôi không buồn nhớ. Tôi vẫn sống chung nhà với mẹ tôi, bà dành cho tôi một căn phòng trong ngôi nhà 4 phòng ngủ, và tôi làm việc bán thời gian cho bà.

Cha mẹ tôi li dị từ 13 năm trước và tôi sống với mẹ từ đó. Cha tôi, sau khi đi kiếm sống ở nhiều tiểu bang khác nhau, dọn về sống không xa thành phố chúng tôi ở. Ông thường ghé đón tôi về nhà ông chơi. Kỳ lạ là cả hai cha mẹ tôi ai cũng sống một mình, thỉnh thoảng họ có bạn trai hay bạn gái nhưng không sống chung với ai nữa. Cha tôi thường thu xếp cho các cô bồ của ông không có mặt ở nhà mỗi khi ông đón tôi về. Hai cô người Việt, một cô người Mễ, một cô người Lào, hai cô da đen và một cô da trắng. Tôi nghĩ tôi kể còn sót vài cô những khi cha tôi dời đi qua tiểu bang khác sống. Có lần cha tôi nói con cu của ông giống như cây gậy của thằng mù, đụng đâu ông chọt đó, vậy mà chưa có lần nào dính luôn. Nghĩa là, ông chọt tới chọt lui, chọt hoài mà vẫn rút gậy ra được. Còn hai ông bồ của mẹ thì không như vậy, bà không có ý cho họ tránh gặp tôi. Có khi bà còn cho tôi đi chơi xa chung với họ và những đứa con của họ, và thuê một phòng riêng cho tôi khi ở khách sạn. Với tôi, họ — những người bạn của cha và mẹ — chỉ là những người xuất hiện trong đời mình một lúc nào đó rồi biến mất. Biến mất vĩnh viễn. Tuy rằng nhiều lúc tôi vẫn gặp lại họ. Tôi thường nhầm tên của những bạn trai bạn gái của cha mẹ mình với nhau. Thật ra chuyện nhầm lẫn đó chẳng có gì quan trọng. Tôi ngờ rằng có khi tôi cố ý làm như vậy. Để làm gì ư? Chẳng để làm gì cả. Hay chỉ để quan sát sự bối rối của những người lớn. Cho vui.

*
Tôi cho rằng đây mới là chuyến đi ra thế giới đầu tiên của tôi, đi Việt Nam, còn những chuyến trước là không kể. Không kể là vì những lần đó tôi không đi một mình, hoặc cho dù tôi đi qua Canada hay Mexico một mình thì những lần đó không phải là quyết định của chính tôi mà là sự cho phép của mẹ tôi. Khi không được tự quyết định mọi chuyện thì các chuyến đi đó không nên kể như một thành tích hay những dấu ấn trong đời.

Mục đích của chuyến đi Việt Nam này là tôi muốn tự mình tìm lại những dấu vết của cội nguồn, những điều lẽ ra tôi không cần quan tâm đến làm chi vì chúng gần như vô nghĩa với đời sống và thực tại của tôi.
Không có những dấu vết đó thì tôi vẫn sống một đời sống bình thường như mọi kẻ di dân ở các thế hệ thứ hai, thứ ba trở về sau trên đất Mỹ.

Tuy nhiên, với riêng tôi thì việc tìm lại dấu vết của cha, của ông mình, trên cái mảnh đất xa xôi và xa lạ đó không phải là một thôi thúc luôn canh cánh trong lòng như nhiều di dân ở thế hệ đầu nghĩ về cố quốc, nhưng mà là nỗi ám ảnh, trước sau gì cũng phải giải quyết, một lần cho xong.

Tôi muốn tái tạo và sống lại các phần đời của cha, mẹ, ông nội tôi ở Việt Nam.

Tôi có một khả năng đặc biệt. Hãy cung cấp cho tôi vài chi tiết, tôi sẽ sống, sẽ nhập vai vào câu chuyện đời của bất cứ ai. Rắc rối mà tôi gặp phải là ký ức của tôi thường xuyên không kiểm soát được trật tự của sự việc và thời gian, chúng nhảy cóc và hoàn toàn không có tính liên tục.


2.

Tôi cảm nhận được cái khí quyển ma quái ấy ngay từ khi cô tiếp viên hàng không thông báo bằng một thứ ngôn ngữ rất khó nghe. Dường như trong cái tràng âm thanh phát ra từ chiếc loa có chen vài từ tiếng Anh thì phải, nó vừa đủ cho tôi hiểu rằng chiếc máy bay của hãng hàng không China đang bay vào không phận Việt Nam.

Chuyến đi này là một khám phá thế giới rất quan trọng với tôi: lần đầu tiên tôi biết rằng mình là công dân ở một nước tự do đi đến một đất nước cộng sản. Nếu kinh nghiệm của chuyến đi này thành công thì điểm đến kế tiếp của tôi là Bắc Triều Tiên.

*
Máy bay hạ cánh. Vừa bước xuống là cảm nhận được ngay cái hơi nóng hừng hực của mùa hè ở xứ nhiệt đới. Hành khách được xe buýt đưa vào khu vực khai nhập cảnh.

Ngay lập tức, tôi bắt đầu thấy ma, hay đúng hơn thì nên gọi đó là những vong hồn không siêu thoát.

Không phải chỉ một hay hai, mà là hàng đàn hàng lũ những vong hồn nườm nượp trước mắt tôi; điều kỳ dị là chúng đang nói năng sinh hoạt cùng với người sống như không có một sự cách biệt nào cả.

Vài giờ sau, tôi nhớ lại vài thông tin mà mình đã tìm được trước chuyến đi, rồi dần dà hiểu ra rằng ở đây ma và người dùng chung một loại tiền tệ, ăn chung các loại thực phẩm, ở chung trong những ngôi nhà và những ngôi mồ, ngủ chung trên những cái giường sang trọng hoặc dưới nền đất ẩm ướt bẩn thỉu, và thậm chí họ còn thường xuyên làm tình với nhau.

Trong trường hợp đó, nếu không sử dụng các biện pháp tránh thai hữu hiệu thì hệ quả là họ sanh ra một loại sinh vật nửa ma nửa người với nhiều biến dị. Với loại sinh vật này, trong chiều thời gian thì họ có thể khi là ma, khi là người; hay tính theo thân thể nếu chia theo chiều dọc thì bên phải là ma, bên trái là người; hay chia theo chiều ngang thì từ bụng trở lên là ma, từ bụng trở xuống là người; hay cắt chéo từ đỉnh đầu bên trái xuống gót chân bên phải là người thì phần bên kia là ma; hay phần ngoài da là ma, phần bên trong da là người hoặc ngược lại; hay tế bào này là ma, tế bào kia là người; hồng huyết cầu này là ma, hồng huyết cầu kia là người; sợi lông này là ma, sợi lông kia là người; vân vân… Nghĩa là trong ma có người, trong người thì có ma, với một tỉ lệ gần như 50/50.

Còn giới tính ư? Chẳng có gì khác biệt với loài người, nghĩa là có cả nam lẫn nữ và các dạng đồng tính.

Lũ vong hồn ấy hoàn toàn khác với các loại ma mà tôi đã từng gặp. Loài tương cận nhất của chúng có lẽ là đám vong hồn ở Bắc Kinh vào đầu thập niên 90, tụ tập đông nhất quanh quảng trường Thiên An Môn.

Điều làm chúng khác biệt với loại ma toàn phần (hay ma nguyên thể) là chúng không đi hỏng chân khỏi mặt đất như đáng ra phải thế, mà lại lầm lũi, lếch thếch trên hai chân. Tuy nhiên, có không ít vong hồn bò toài trên mặt đất vì không còn chân, do bị cắt cụt bởi bom mìn ở cổ chân, ở đầu gối hoặc ở háng. Những con ma không chân này là dấu vết còn lại của chiến tranh, nhất là cuộc chiến tranh ở Campuchia. Bằng sự bất toàn trên thân thể của mình, chúng là biểu tượng và sự ám chỉ rằng đây là một đất nước chưa bao giờ nguyên vẹn ở phần hạ thể và không tự mình đứng lên được.

Bọn người/ma ấy sống cho tới khi phần người trong chúng ngừng thở hẳn, như sự kết thúc của một con người, thì chúng chết, trở thành ma toàn phần để chờ đầu thai.

Sau khi chết chúng trôi giạt về đâu ư? Không trôi giạt, di trú đi đâu cả, chúng vẫn hiện hữu ngay trong đời sống này! Vì sao ư? Có trời mà biết!


3.

Để trang bị cho sự hiểu biết về đất nước này, trước khi đến đây tôi đã nghiên cứu các tài liệu qua sách vở và trên internet, đồng thời tôi cũng ôn lại những kiến thức mà cha tôi đã truyền đạt mỗi khi tôi có dịp trò chuyện với ông.

Việt Nam là một cường quốc về thơ!

Cha tôi khẳng định rằng có vô số người đã khẳng định chắc nịch như vậy. Trong số đó có một ông quan, kiêm thi sĩ, năm ngoái tuyên bố trong cuộc hội nghị văn hoá cấp trung ương. Khi nói, ông quan thi sĩ vung hai tay lên trời thành một vòng tròn, đầy tính biểu tượng và quyền lực.

“Thơ của chúng ta, thi ca của đất nước chúng ta, là phải có âm thanh vừa lả lướt, vừa dịu dàng, mà phải vừa cuồn cuộn, vừa vang rền! Tư tưởng thì phải cao vời, phải thanh thoát, mà chấn động lương tri, mà lay chuyển tâm thức của toàn thể nhân loại! Đó là tầm cao của Đại Việt Thi!”

Cử toạ vỗ tay tán thưởng câu nói đó suốt cả 10 phút, cũng vang rền tương xứng với lời ông nói. Sau này, tuyên ngôn đó được đưa vào dự thảo hiến pháp, và có hơn nửa dân số khắp nước, giới bình dân cũng như giới hàn lâm, đều bỏ phiếu tán đồng trong những cuộc họp tổ dân phố.

Điều đáng nói là mọi tài liệu quan trọng và khả tín mà tôi tìm được đều cho rằng ở đây có vô số những con ma thi sĩ.

Việt tộc sống bằng gạo, thịt, cá mắm, rau cỏ, và bằng thơ!

Họ làm thơ từ lúc còn bí mật hoạt động cách mạng ở trong hang, cho đến khi cách mạng thành công, thì vừa tiếp tục làm thơ vừa nghiên cứu và thực hiện mọi chính sách của quốc gia trên các cao ốc chọc trời phải đi lên bằng thang máy.

Ca ngợi lãnh tụ và chính phủ, họ làm tụng ca.

Chống quân xâm lược và kêu đòi dân chủ, họ vừa xuống đường vừa làm thơ.

Ôm hận nằm trong ngục tối chờ ngày thay đổi vận nước, họ làm “ngục thi”.

Đám cưới, đám tang thì thi ca phục vụ cho việc hiếu hỉ.

Đi giải quyết sinh lý xong thì họ làm thơ thiền để cho tâm hồn thanh thản.

Mách qué với hàng xóm thì làm thơ tự trào.

Nỉ non với vợ thì làm thơ tự thán.

Nếu kẹt đạn, chưa tìm ra tứ thì chỉ cần mua tờ báo, đại loại như tờ “Công An” chẳng hạn, là sẽ có dư cảm hứng để làm thơ chống tham nhũng.

Thi ca vô cùng quan trọng với đời sống của người Việt ở mọi mặt, đặc biệt là ở mặt tâm linh và đạo đức. Ngày nay, thơ từ từ biến mất trên các tờ báo giấy nhưng lại chiếm lĩnh các diễn đàn trên mạng.

Trong chương 2 của cuốn cẩm nang “Những ứng dụng của thi ca”, một tài liệu tuyệt mật nằm trong thư khố của quốc gia mà tôi may mắn đọc được, có tiết lộ thế này:

“Muốn nguyền rủa, trù ếm một kẻ nào, hay một gia tộc nào, hay một tổ chức nào ư? Hãy biến cái mong ước cháy bỏng ấy thành một bài thơ trên giấy, chờ đến sau nửa khuya, chính xác là 00:00:01 AM, đi lên một cây cầu có vị trí ở gần đối tượng nhất, đốt tờ giấy có bài thơ ấy thành tro, rồi uống cái mớ tàn tro ấy với một ngụm rượu trắng, rồi quay mặt về hướng đối tượng, khấn 9 lần điều mình muốn xảy ra với đối tượng, rồi đái xuống sông đúng 13 giọt nếu mình là nam, và 27 giọt nếu mình là nữ. Rồi về. Đêm đó không được ngủ. Nếu là nam thì phải nằm sấp, nữ thì nằm ngửa, vừa thì thầm đọc lại bài thơ, vừa tự xoa vuốt mình, toàn thân, suốt đêm.”

Kẻ thù sẽ tiêu tùng trước khi mình chết. Chắc chắn vậy.

*
Theo các tài liệu mà tôi nghiên cứu lâu nay, hai nhà thơ Việt lớn nhất của thời hiện đại được nghiên cứu rộng rãi và đưa vào chương trình giáo dục là một lãnh tụ và một tay cuồng sĩ rách rưới sống với lũ chuột cống ngay trên các vỉa hè ở Sài Gòn.

Tôi có xem hình họ chụp. Ông lãnh tụ mắt sáng như sao, trán rộng, hơi hói, mặt gầy choắt nhưng quắc thước với bộ râu lưa thưa dưới cằm. Ông cuồng sĩ thì chỉ để lộ ra một cái răng khôn duy nhất, chiếc răng vừa mọc ở tuổi 90, khi ông nở nụ cười móm mém. Ông đeo quanh người 109 cái bàn chải đánh răng, có hầu hết các thương hiệu trên thế giới, có hầu hết các chủng loại dành cho mọi loại răng, và đủ mọi màu sắc, để làm vệ sinh cho chiếc răng duy nhất này.

Quy luật của thế giới thi ca cũng không khác gì những quy luật của cuộc đời thật, nghĩa là phải có kẻ mạnh làm đại ca và kẻ yếu để sai vặt.

Hồi cuối thiên niên kỷ trước, hai thi hào bày cuộc thi thố với nhau bằng thơ để phân cao thấp. Họ hẹn ngày và tổ chức cuộc thi tài công khai ở bên một cái hồ sen tại Văn Miếu của thủ đô Hà Nội, có phát truyền hình trực tiếp và cho phép giới báo chí quốc tế dự khán.

Luật của cuộc thi là mỗi người thay phiên nhau làm một bài thơ về bất cứ điều gì nảy ra trong đầu họ. Phải làm thật nhanh, thật độc đáo, thật sáng tạo.

Mỗi người ngồi ở một đầu chiếc bàn rộng, ở giữa là cái đồng hồ tính giờ như trong các cuộc thi đấu cờ tướng quốc tế. Hội đồng trọng tài gồm có 3 bậc trí giả khả kính về tư cách, và am tường về thi ca và văn hoá: một người Hoa, một người Nga, và người cuối cùng, cũng là trọng tài chính, là người Việt, ông này là Uỷ viên bộ Chính trị, phụ trách về văn hoá và tư tưởng. Quy trình thi cũng khá giống như các cuộc thi đấu cờ. Người này xướng lên một bài thơ xong thì bấm giờ, tới phiên người kia đáp trả bằng bài thơ của mình, rồi bấm giờ. Cuộc đấu bất phân thắng bại, kéo dài từ 8 giờ sáng đến xế chiều không ngưng nghỉ, chỉ thỉnh thoảng có người mang nước sâm lên cho hai đấu thủ uống lấy sức và mang bô cho họ đái, tất nhiên là uống vào và đái ra tại chỗ. Khi đái thì có người giúp, dùng một tấm vải nhiễu đỏ để che lại. Dăm phút lại có người giúp lau những giọt mồ hôi rịn ra trên hai gương mặt căng thẳng.

Sau cùng, ông lãnh tụ, tay chỉ vào mặt đối thủ, miệng chiếu bí ông cuồng sĩ bằng một bài thơ chỉ có 3 chữ nhưng ý tưởng thì vô cùng mênh mông, sâu thẳm, và quyết liệt, như một đường kiếm của sát thủ bậc thầy. Bài thơ như thế này:

“cương là ngủm”

Ông cuồng sĩ ngay lập tức phun nước bọt, quẹt tay chùi mép, rồi xướng lên một bài thơ 2 chữ để phản đòn:

“củ buồi”

Ông lãnh tụ ú ớ trong giây lát, nhưng vẫn làm kịp một bài thơ, buông ra chỉ một chữ sắc nhọn:

“ngủm”

Dứt lời, ông rút súng bắn gãy cái răng duy nhất của đối thủ. Xong, ông ra lệnh cho các đồng chí thuộc hạ tống ông này vào trại cải tạo.

Các trọng tài tuyên bố cuộc thi đấu chấm dứt ở đó. Họ tròng vòng hoa vào cổ ông lãnh tụ. Cả nước mở hội ăn mừng, pháo hoa bắn rực trời suốt 5 đêm.

Ông cuồng sĩ không bao giờ được chạm tới giấy bút, rượu, và mãi mãi bị cấm đi lên bất cứ cây cầu nào. Người ta không cho phép ông, họ canh giữ, theo dõi nghiêm ngặt. Họ sợ ông báo thù bằng một cuộc đi đái. Sợ, trong một đêm quạnh quẽ nào đó, ông lặng lẽ vén quần, nhỏ xuống mặt nước dưới cầu đúng 13 giọt, như tài liệu tôi đã dẫn ở trên.

Không còn cái răng nào, 109 cái bàn chải răng trở nên vô dụng. Ông viết một di chúc bằng thơ, hiến tặng 109 cái bàn chải răng cho viện Bảo tàng Văn hoá Dân tộc. Ngày nay, 109 cái bàn chải răng và tờ di chúc được đặt vào những cái hộp làm bằng gỗ trầm hương, lót đáy bằng nhung đỏ, trưng bày trong dãy tủ kính. Người ta cài đặt hệ thống an ninh điện tử hiện đại nhất để bảo vệ chúng. Những hiện vật này trở thành di sản quý giá của quốc gia.

Sau khi thi-cuồng-sĩ qua đời ở tuổi 102 vì một thứ bệnh xã hội có tính truyền nhiễm cao, chính phủ trưng cầu dân ý cách xử lý cái di hài của ông: nên ướp xác bỏ vào lồng kính cho nhân dân chiêm ngưỡng thờ cúng hay thiêu đi rồi rải tro ra khắp các miền trên đất nước như sở nguyện lúc ông còn sinh tiền? Cuộc trưng cầu dân ý bất thành do không có sự đồng thuận. Sau cùng, không ai biết được điều gì xảy ra với cái di hài đã từng 39 kg bị sụt xuống còn 37,5 kg của ông. Đó lại là một trong những bí mật quốc gia, chỉ dăm người có thẩm quyền được biết, và vĩnh viễn không bao giờ được tiết lộ với nhân dân.

Vị thi sĩ kiêm lãnh tụ qua đời trong lặng lẽ sau đó một năm, nguyên nhân không rõ. Trước đó, ông bị đám đệ tử truất phế một cách êm thắm. Dù rất nỗ lực chuộc lại lỗi lầm với chế độ nhưng ông vẫn thất sủng với những kẻ mới thay thế ông — bọn thi sĩ hậu sinh, tập tành gieo vần bằng các chương trình do máy vi tính xử lý — và ông bị tước hết mọi danh vị mà ông từng có; tất nhiên ông không còn chút quyền lực nào. Không còn ai có quyền nhắc hay nhớ đến ông, dưới mọi hình thức. Người ta tháo bỏ mọi công trình, tượng đài khắc hoạ về chân dung và cuộc đời ông. Cả những bài thơ đã từng được xem như châu ngọc của nền văn chương Việt và được đưa vào chương trình giáo dục cũng bị xoá bỏ trong đợt cải tổ giáo dục lần thứ 28. Tuy nhiên, trong giới văn nghệ under-ground, người ta vẫn thầm lặng tổ chức những buổi tưởng niệm và đọc thơ của hai ông, như một cách thế thể hiện tinh thần hoà giải hoà hợp dân tộc.

Người ta cũng giấu biệt việc cái thi hài 79 kg của ông được xử lý như thế nào. Đó lại là một bí mật quốc gia khác. Kẻ nào nhắc tới ông, kẻ ấy vừa phạm một trọng tội, dù cái tội đó không có trên bất cứ một văn bản luật pháp nào.


4.

Một trong những khiếm khuyết lớn nhất của tôi là không nhớ được tên người. Vừa được giới thiệu với ai xong, 2 phút sau tôi đã không thể nhớ được tên của kẻ đó là gì. Khi đọc sách cũng vậy, không những tôi không thể nhớ những cái tên trong đó mà nguy hại hơn thế nữa: tôi lẫn lộn họ với nhau.

Tôi lộn các tổng thống John F. Kennedy với Bill Clinton, George Washington với Thomas Jefferson. Tôi lộn Edgar Allan Poe với Charles Bukowski, Hồ Chí Minh với Ngô Đình Diệm. Và việc lộn các ông bạn của cha tôi với nhau, ông Trãi với ông Du, ông Quát với ông Khiêm, cô Hương với bà Huyện, là chuyện thường.

Cha tôi bày cho một bí quyết: nếu muốn nhớ tên của ai đó thì cách tốt nhất là hãy nhìn thẳng vào mắt họ, chạm vào thân thể họ, bắt tay, vỗ vai họ, xoa đầu họ, hôn họ, hít ngửi cái mùi mồ hôi hay mùi nước hoa của thân thể họ, nếu có thể. Tôi tin vào lời khuyên của ông, nhưng lại có vô số trường hợp không thể áp dụng được phương pháp này. Làm sao có thể vỗ vai, bắt tay hay hôn hít những kẻ làm tôi ngưỡng mộ nhưng họ chỉ từng sống trong quá khứ cơ chứ?

Giá mà tôi có thể hôn lên đôi môi, hay ngửi mùi nách, của cô Hương để không bao giờ còn lộn thơ của cô với thơ của bà Huyện nữa.

*
Một trong những kinh nghiệm kỳ cục và rất ấn tượng của tôi về Việt Nam là khi tôi đi với mẹ về Sài Gòn năm tôi lên 8 tuổi. Tôi không hiểu vì sao người ta thích sờ tay vào tôi, thích vuốt ve tôi, mà không hiểu rằng tôi rất ghét điều đó. Ai cũng sờ tôi. Không chạm tay vào những bộ phận trên thân thể tôi thì cũng xoa đầu, vuốt tóc. Tôi thấy trong ánh mắt của họ sự ngưỡng mộ thì ít mà sự hiếu kỳ thì nhiều. Tôi có cảm tưởng họ nghĩ rằng da thịt tôi được cấu tạo bởi những chất liệu khác hẳn với da thịt họ. Họ vừa sờ vào các bộ phận trên thân thể tôi vừa trầm trồ, vừa khen ngợi, vừa tỏ vẻ ganh tỵ. “Trời, thằng cu mau lớn quá, 8 tuổi mà bự như 12 tuổi, ngộ ghê!”; “Da thịt gì mà mát rượi vầy nè!”; “Kìa, coi cái cổ tay nó kìa, to mà tròn lẳn như củ khoai lang!”; “Cái má phính chưa kìa, ngó là muốn nựng à!”; “Đẹp trai như vầy lớn lên tha hồ mà gái nó đeo à nghen con!”; “Coi nè, ú na ú nần à. Sao mà để cho muỗi nó chích thằng nhỏ nốt xanh nốt đỏ, te tua như vầy chứ?”.

Thậm chí có lần có một ông nọ còn tính sờ chim tôi nữa! Tôi thét lên, “Fuck you! Don’t you touch me!” [1] rồi giáng vào mặt một ông ta một cú thật mạnh làm văng cái kính cận ra xa khi tôi phát hiện ra bàn tay có đeo chiến nhẫn vàng to sụ đang mơn man trên bắp đùi tôi. Ông ta bàng hoàng ngạc nhiên. Ông không hiểu vì sao mà tôi lại có phản ứng đột ngột và mạnh mẽ như vậy.

Ông la lên, “Bác có làm gì đâu nào. Tao tính sờ chim chút coi có ngon lành không chứ có làm gì đâu mà dữ vậy con?”, rồi loay hoay đi nhặt cái kính.

Lúc đó mẹ tôi đang nói chuyện với những người khác, bà phải ngừng câu chuyện để xuýt xoa xin lỗi ông. Tôi phản đối. Tôi nói với bà, tất nhiên bằng tiếng Anh, rằng bà không việc gì phải xin lỗi ông ấy. Ông ấy không được sờ tôi, và yêu cầu mẹ gọi cảnh sát đến xử lý cái sự lạm dụng trẻ con này. Cha nội đó phải bị nhốt vào tù, phải bị cách ly ra khỏi xã hội, hay ít ra là phải cách ly ra hẳn với trẻ con vì hành vi đó là quá nguy hiểm cho bọn trẻ.

Mẹ tôi nói với tôi rằng mọi người sờ tôi là vì họ muốn bày tỏ lòng yêu quý với tôi, đó là cái cách của họ. Rồi bà khéo léo dịch lại lời tôi nói, nhưng không dịch đúng y như ý của tôi. Mọi người cười xoà, có vẻ xem như tôi hỗn láo vì được nuông chiều quá mức, hay họ không chấp với hành vi quá đáng của tôi. Mẹ tôi nói:

“Ờ, tụi nhỏ ở Mỹ khó chịu vậy đó. Chúng nó không muốn nựng như vậy đâu!”

“Cha đó bệnh hoạn quá!” Tôi nói, rồi bỏ vào phòng.

Sờ chim là sờ chim. Sờ chim đâu phải là nựng. Thật là vô lý!Thật là bệnh hoạn! Sao lại có cái kiểu bày tỏ tình cảm một cách man rợ vậy chứ? Họ đâu có quan tâm gì đến cảm xúc của tôi! Vậy, nếu tôi là con gái thì sao? Liệu họ có sờ vào chim luôn không? Tay ông ấy có sạch không? Ông ấy có sờ chim các con của ông ấy hằng ngày như vậy không? Tôi đoán chắc rằng cha nội ấy là một tay bệnh hoạn. Vậy mà sao mọi người lại có vẻ đồng tình với chả, hay ít ra họ không xem sự việc tồi tệ này là nghiêm trọng?

Thật không thể hiểu nổi!

Sau này tôi thấy mình cũng kỳ cục. Lẽ ra một đứa không thích mặc quần như tôi thì có vấn đề gì với việc bị người khác ngó sự trần trụi của mình hay bị sờ chim cơ chứ?

Nhiều năm sau, nhắc lại chuyện này, cả cha và mẹ tôi đều cho rằng ông ấy sai khi làm cái chuyện sờ chim đó, nhưng họ cũng nói rằng tôi không nên có cách hành xử và suy nghĩ như một thứ thực dân, hay phản ứng với ý thức phân biệt như vậy, vì đó chỉ là sự khác biệt về văn hoá, mà sự khác biệt ấy chỉ nên khoan thứ và chấp nhận chứ không nên mang vác nó suốt cả đời. Tuy nhiên, nhiều lần nhìn xuống bắp đùi mình thì tôi lại thấy cái bàn tay đeo nhẫn vàng mân mê trên đó. Lại lợm giọng!

*
Lâu nay, chừng 5 năm trở lại đây, hai cha con tôi không thể nói chuyện được với nhau như trước nữa. Lần cuối cùng mà chúng tôi còn thấy thú vị, hào hứng tranh luận với nhau là khi tôi nhận viết một bài luận về cuốn Catcher in the Rye [2] cho lớp, và tôi tham khảo ý kiến của ông, vì ông đọc khá nhiều sách văn học.

Sau khi trò chuyện suốt ngày quanh đề tài cuốn sách, tôi viết được bài viết khá đạt, trong đó phần nhiều lấy ý từ những nhận xét của ông. Ông bảo rằng tôi đang có nhiều dấu hiệu y như thằng nhóc Holden Caulfield trong cuốn sách, có điều ngày nay cách biểu hiện những thái độ ‘quậy’ của tôi khác với nó ở hình thức, nhưng nói chung cái tâm lý bạo động, nổi loạn, là không khác, vẫn là cách ứng xử của bọn nhóc tì Mỹ trong lứa tuổi thiếu niên. Ông bảo rằng bọn trẻ Việt Nam, nhất là ở những thế hệ ngày trước, như thế hệ của ông chẳng hạn, không có cái tâm lý đó, hay có nhưng không mạnh mẽ, không xốc nổi. Tôi có cảm giác như ông vừa cố ý làm tổn thương tôi. Nhất là cái ánh mắt nhìn xoáy vào tôi như giễu cợt.

Một đêm nọ cha đi vắng, bỏ tôi ở nhà một mình. Thật ra, ông có rủ tôi cùng đến nhà người bạn ông xem trận bóng bầu dục nhưng tôi không đi. Sau khi xem chán những cuốn phim cũ và chơi chán những trò game online, tôi lên cơn khùng. Lý do là tôi chợt thấy ra và căm ghét sự giả dối và hư hỏng trong đời sống của ông.

Phải làm một cái gì đó. Đúng rồi, phải làm một cái gì đó cho cha tôi thấy sự hiện diện của tôi trong đời sống của ông là quan trọng như thế nào.

Tôi lấy trên kệ và trong tủ đựng rượu vang xuống 12 chai, nhiều loại rượu khác nhau, cả chai còn nguyên lẫn chai uống dở, sắp thành hàng. Tôi lấy cái búa đập nước đá, lần lượt đập vỡ cổ từng chai, đổ vào bồn rửa chén, vất vỏ chai vào thùng rác.

Xong rượu, đến mấy hộp xì-gà. Tôi xử luôn những điếu nằm trong ống bằng thiếc mỏng, cũng bằng búa, chúng cũng có cùng số phận vỡ nát và dúm dó. Rồi đến 5 cái tẩu mà ông rất quý, ông tự hào về việc sở hữu chúng, mỗi cái ông mua cả trăm đô-la. Tôi phải thay bằng cái búa tạ to để đập chúng. Tôi đặt từng chiếc tẩu lên bệ sắt trong ga-ra, rồi giáng búa. Do không tiên liệu được độ cứng của tẩu nên những nhát đầu tôi chưa giáng thẳng tay. Cái búa nảy lên vì không phá vỡ chất gỗ cứng lên nước bóng loáng. Tôi giáng búa điên cuồng.

Món cuối cùng là mấy tờ tạp chí có in hình gái cởi truồng, do cha tôi đặt mua hàng tháng. Ông chưa mở xem, chúng vừa còn nguyên trong phong bì. Tôi mang xấp báo ra gốc cây ngoài vườn, xối rượu lên rồi bật quẹt, lửa bùng lên. Một niềm khoái cảm kỳ dị dâng lên, trào ra thật nhanh, khi tôi thấy những ảnh chụp thân hình đàn bà trần truồng cong lên, từ từ uốn éo vờn trong ánh lửa.

Đêm đó, cha tôi về rất khuya, say khướt. Ông vào phòng, để nguyên áo quần, giầy vớ, nằm vật ra giường, nhưng không ngủ. Từ phòng ngoài, tôi nghe tiếng đập chân đập tay lên nệm; tiếng ông nói lảm nhảm và thỉnh thoảng lại gào lên như đang giận dữ với ai; tiếng nước tiểu đái xè xè vào bồn cầu; tiếng ông vả nước lạnh lên mặt. Ông trằn trọc, giẫy giụa, vật vã. Tôi không chịu đựng nổi những tiếng động đó. Không phải vì âm thanh, nhưng vì chúng gợi lên cho tôi hình ảnh thảm hại, khổ sở của một con thú bị dính bẫy.

Tôi rón rén tròng áo khoác vào, lấy chìa khoá treo ở cửa, mở cửa ra đường. Tôi leo vào xe ông, đang đậu nép bên đường, nổ máy. Ngoái nhìn lại, thấy ánh đèn trong phòng ông bật sáng, ông chồm ra cửa sổ cố gọi tôi, hốt hoảng hét lên điều gì. Tôi mặc kệ, lái thẳng ra biển.

Dừng xe lại ở khoảng bãi đỗ bên đường, vắng ngắt, không một ai. Đứng đây lâu có thể bị cảnh sát đi tuần hỏi thăm thì rắc rối to. Tôi ngó đồng hồ, 3:23 AM. Hàng cây âm u kéo dài tới cuối dốc mờ mờ trong sương mỏng. Bên phải, dưới sâu là biển. Gió lùa lồng lộng qua các ghềnh đá. Tôi quay cửa kính xuống, gió lạnh cóng tạt vào mặt.

Mở hộc xe, tôi thấy khẩu P.38 của ông. Ông thường nhét theo khẩu súng này sau thắt lưng mỗi khi ra ngoài vào ban đêm. Áp nòng súng lên má, chất thép lạnh có mùi tanh tanh. Tôi lấy gói thuốc lá trong hộc, đốt một điếu, rít vài hơi, ho sặc sụa, rồi ném xuống mỏm đá bên dưới. Gió đẩy đốm lửa bay khá ra, xoay xoay rồi biến mất trong bóng tối. Vài con mòng biển lượn quanh trên đâu. Chúng bay thật nhanh, xẹt qua xẹt lại trên nền trời tối. Chúng chỉ bay, im lặng, không kêu lên tiếng nào. Mấy đám mây sà thấp ngang đỉnh đồi. Tôi nhấc khẩu súng lên ngang tầm mắt. Tôi muốn bắn một phát. Không dưng tôi nhớ tay tài tử có bộ mặt lạnh tanh Christopher Walken với trò “Russian roulette”[3] trong phim Deer Hunter. [4] Có điều gì thôi thúc tôi. Man dại và tối ám. Tôi phải làm. Dễ quá, chỉ tháo đạn ra, chừa lại 1 viên, rồi quay ổ đạn, kê súng lên màng tang, siết cò, là xong.

Không được làm. Được. Không được. Được.

Tôi ra khỏi xe, mở khoá, hai tay ghì chặt súng. Bắn vào đâu đây? Lũ mòng biển trên đầu? Tôi chĩa xuống đám cây lá dưới vực, siết cò. Ánh lửa loé lên thành một vệt sáng trên đầu súng. Tiếng nổ chát chúa, vang ngân dội trong khoảng không im ắng. Lòng bàn tay tôi đổ mồ hôi nhớp nháp.

Tôi mở cốp sau xe, nhét khẩu súng xuống dưới mớ giẻ lau. Chạy một đoạn, gặp trạm xăng, tôi đổ đầy bình, rồi lái thẳng về nhà mẹ. Đường trơn, mưa suốt xa lộ. Tôi lái thẳng một mạch 5 giờ không nghỉ. Đến nhà, đậu xe ngoài đường, mở cốp xe lấy khẩu súng bỏ vào túi áo khoác, mở cửa, mẹ đi tiểu bang xa không có nhà, vào phòng, ngủ vùi một giấc thật sâu, suốt 10 tiếng. Cha tôi gọi nhưng tôi không nhận phôn.

Hai hôm sau cha tôi bay xuống, ông đi xe buýt rồi thả bộ đến nhà chứ không gọi tôi ra phi trường đón. Ông không vào nhà, có lẽ không muốn gặp mẹ tôi, tuy bà vẫn chưa về. Hai cha con ngồi trên băng ghế ngoài vườn. Ông không nhắc gì về chuyện đã qua. Hỏi tôi dăm câu như mọi khi, rồi ông chìa tay ra. Tôi lấy chìa khoá xe đưa ông. Ông vẫn còn chìa tay, không rút về. Tôi lấy khẩu súng trong áo khoác ra, đặt lên tay ông.
“Con có bắn một phát. Không trúng.”

“Chắc khoảng cách còn xa, và con ngắm chưa kỹ. Và con không thật muốn bắn.”

“Cha có biết con bắn cái gì không?”

“Biết.”

Ông nhét vào túi tôi 3 tờ $100.

_________________________ 

[1]“Fuck you! Don’t you touch me!”: ĐM ông, đừng có sờ tui như vậy!
[2]Catcher in the Rye, tiểu thuyết của J.D. Salinger, có bản dịch Bắt trẻ đồng xanh, của dịch giả Phùng Khánh.
[3]“Rusian roulette”: trò nạp một viên đạn vào súng, rồi xoay ổ đạn, thay phiên nhau dí súng vào đầu bóp cò. Một trò may rủi, xem tay chơi nào gan dạ và may mắn thì thắng cuộc.
[4]Deer Hunter: Kẻ săn nai. Một phim về chiến tranh Việt Nam, do đạo diễn Michael Cimino thực hiện (1978).



5.

Tuy Việt Nam là một cường quốc về thơ nhưng một trong những giới hạn lớn nhất của văn hoá Việt Nam là vấn đề từ ngữ. Có một sự thật là càng ngày tiếng Việt càng giàu ra và càng nghèo đi, cùng lúc. Theo một tài liệu tôi được đọc thì số vốn ổn định về từ ngữ của một người Việt bình thường là 1793 từ. Thủ đắc được chừng đó từ là người ta có thể nhẫn nhục sống qua ngày, sống một cách khá tệ, nhưng chưa phải là tệ nhất.

Tình trạng tệ nhất là khi con người có khả năng về thể chất — không bị khiếm khuyết các bộ phận phát âm như lưỡi, thanh quản... — để nói ra những suy nghĩ của mình, nhưng hắn bị đe doạ, thậm chí nghiêm cấm thực hiện điều đó. Có những kẻ bất chấp sự nghiêm cấm và phải trả giá cho sự ương bướng đó: họ bị trừng phạt. Hình phạt là bị tước đi khả năng phát biểu. Khi đó, cái miệng chỉ còn chức năng ăn, và bị tước đi chức năng nói.

Người ta cho rằng Việt Nam ngày nay đã có một bước tiến rất xa so với trước đây — trước đây có nghĩa là khoảng 30 năm trở về trước — khi đó, chẳng những đã đành không được nói, mà con người còn không được suy nghĩ. Người ta luôn quan sát nhau, dò xét nhau, để tìm hiểu xem kẻ kia có đang suy nghĩ gì không; nếu có, thì hắn đang nghĩ những gì. Con người không được suy nghĩ trái với những quy định, những nội dung, mà hắn được nhà cầm quyền cho phép. Hắn suy nghĩ khác đi, thì hắn không phải là con người xã hội chủ nghĩa. Không phải con người xã hội chủ nghĩa, thì không xứng đáng tồn tại trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, là phải bị loại trừ.

Hình thức kiểm soát suy nghĩ này dường như được sao nguyên bản và áp dụng trong các chương trình “Anger management”[1] dành cho những người bị cho là có vấn đề về tâm thần ở Mỹ. Trong các buổi học, có một vị chuyên gia tâm lý điều hành. Các học viên ngồi thành vòng tròn và lần lượt tự giới thiệu về mình, về lý do vì sao mình tham gia chương trình này, và tuyên xưng những tội lỗi vừa kịp hình thành trong đầu.
“Tôi tên là Betty Rose, 39 tuổi, hành nghề bác sĩ nhãn khoa, hiện ngụ tại 370 South Raineir Street, Bellevue. Tôi có gia đình, chồng tôi là John Doe, hai con tôi là Tim và David. Tôi tham gia chương trình này là do tôi có hành động vu khống chồng tôi ngoại tình và hành hung anh ấy vào lúc 9:45 tối 27 tháng Chín vừa qua. Tuần qua, tôi đã có những hành vi như sau:

- 6 giờ chiều ngày thứ Sáu tôi có ý định nện cho con chó nhà hàng xóm một gậy vì nó sang vườn nhà tôi ị một bãi.

- 3:45 giờ sáng ngày thứ Bảy, tôi có ý định, nếu có cơ hội, sẽ tìm cách làm tình với John là nhân viên vệ sinh trong bệnh viện của tôi. Tôi đã tưởng tượng mình sẽ có những cảm giác như thế nào khi làm tình với anh ấy.

- 9 giờ sáng ngày thứ Hai tôi lấy một cái bánh quy của Nick, người làm chung phòng với tôi, lẽ ra tôi nên hỏi xin anh ấy trước khi ăn nó.

Tôi rất xấu hổ vì những hành vi tiêu cực và ý nghĩ xấu xa của mình. Tôi sẽ cố gắng khắc phục và không làm những điều tệ hại đó nữa. Xin mọi người hãy phê phán và đề nghị hình phạt cho tôi, tôi sẽ nghiêm túc chấp hành. Xin cám ơn quý vị đã lắng nghe.”

Vì sao mà tôi biết được những điều đó ư?

Tôi từng là một học viên của khoá học đó, với giá gần 2 ngàn đô-la, kéo dài trong 2 tháng.

Đó là chuyện ở Mỹ.

Trở lại chuyện Việt Nam. Tôi có xem tấm hình rất nổi tiếng về tình trạng bị tước quyền được nói này. Tấm hình mô tả một con người bị đưa ra xử ở một phiên toà. Người bị xử, bị còng tay trước bụng, ngồi sau vành móng ngựa, hai mắt ông nhắm nghiền. Một kẻ khác đứng ngay sau lưng ông, vòng tay ra bịt miệng ông, không cho ông nói. Hai bàn tay to bè, gân guốc, bịt chặt từ phần sống mũi trở xuống tận cằm. Có khi lịch sử mở rộng cửa cho người ta bước vào bằng một hành động có tính biểu trưng trong chớp nhoáng như vậy đấy.

Tôi nghĩ, với số vốn từ ngữ hạn chế đó, nói chung, đời sống tinh thần của người Việt có lẽ khá là nghèo nàn và tẻ nhạt. Có một số người được đặc quyền sử dụng số từ nhiều hơn số từ vựng căn bản đó, từ đó họ cố gắng tranh thủ ưu thế của mình để mưu cầu những ưu tiên trong đời sống.

Sự khác biệt về thân phận của con người được chỉ rõ ra trong từ ngữ người ta sử dụng để nói về cái còn lại của họ sau khi đã chết: xác, tử thi, thi hài, di hài...

Còn cái khỉ khô gì nữa nhỉ? Tiếng Việt, và những gì liên quan tới Việt Nam thật là phức tạp dối với tôi. Vừa hấp dẫn vừa quái dị, vừa thân thiết vừa xa lạ. Nhiều khi nó làm tôi phát khùng.

*
Thay vì cúng giỗ bằng thực phẩm thì người Việt có thể cúng nhau bằng những bài thơ; có khi chúng là những bài văn vần dài được gọi là điếu văn, hay hịch, hay trường ca. Cha tôi từng thấy những dải lời thơ màu xám tối bay là đà trong làn hơi nước đục mờ của buổi sáng sớm tinh sương, trên đầu đoàn người đưa ma. Chúng bay theo họ trên con đường từ làng, từ thành phố, đến các bãi tha ma.

Được đặt bên cạnh nải chuối, chén cơm, cái trứng luộc, ly rượu trắng, bát hương với những nén hương cháy dở có tàn tro cong cong, là một bài thơ tiếc thương người quá cố. Bài thơ luôn luôn được viết dở dang trên một tờ giấy thếp vàng, hoặc hiện đại hơn thì được in ra khổ giấy A4 từ máy vi tính. Bài thơ phải được viết dở dang, phải chưa bao giờ hoàn tất, chưa bao giờ viên mãn, như những cuộc vui dở dang mà vong linh đó chưa hưởng hết ở cõi tạm này mà phải ra đi.

Thi sĩ là một nghề rất phổ thông và là con đường ngắn nhất để có được danh phận trong cộng đồng. Bạn là thi sĩ thì sẽ được miễn trừ một số nghĩa vụ công dân như đi quân dịch, quét dọn đường sá và các nhà vệ sinh công cộng, vắt sữa bò ở các nông trường, đập đá ở các công trường thuỷ lợi... và điều tuyệt nhất là nếu bạn là kẻ đang làm ra tiền thì bạn sẽ được miễn khai thuế thu nhập hàng năm. Thay vì phải làm các việc tạp dịch đó thì mỗi năm các thi sĩ được tập trung lại ở một khu trại gọi là nhà sáng tác thi ca. Vô số những bài trường ca ca ngợi đảng cầm quyền và các vị lãnh đạo đất nước ra đời từ những khu trại đó. Những trường ca mà ngôn ngữ trong đó có độ lóng lánh cao và được đọc vang rền trên những chiếc loa ở khắp mọi nơi trên đất nước, ở mọi thời điểm trong ngày, trong thời chiến lẫn thời bình.

Thi sĩ! Nó là một thứ danh phận nằm lơ lửng và được nhào trộn giữa các vị trí như chí sĩ, chiến sĩ, tu sĩ, cuồng sĩ, bác sĩ, dược sĩ, hoạ sĩ, vô công rồi nghề, bịp bợm, hoạn lợn, gia nô, tù nhân, công an mật, lãnh tụ, bệnh nhân tâm thần, điềm chỉ viên, và liệt sĩ.

Cha tôi nói: “90% những người tù ở Việt Nam là thi sĩ. Và ngược lại, 99% thi sĩ là những tù nhân thực thụ hay ít ra là những kẻ có nhiều tiềm năng sẽ trở thành tù nhân.” Ông nói: “99% thôi, vì 1% còn lại là những kẻ không làm thơ nhưng đạo thơ của người khác.” Những bài thơ được làm trong thời gian ở tù luôn luôn là những tác phẩm trùng lặp nhau về tâm cảnh mất tự do, mơ ước cho tương lai khi ở ngoài hàng rào trại tù, ngoài song sắt buồng giam, và đấu tranh cho lý tưởng giải phóng. Nội dung của việc ai giải phóng ai, hay giải phóng cái gì, thì tuỳ thuộc vào phe mà thi sĩ chọn (có khi họ không chọn nhưng lại bị/được đặt để một cách ngẫu nhiên), tuỳ thuộc vào thân phận của thi sĩ, và vào từng thời điểm lịch sử. Khi thì A giải phóng A ra khỏi B; khi thì ngược lại, B giải phóng B ra khỏi A; hay cả hai A và B cùng giải phóng A+ ra khỏi C, ...vân vân... Tuy nhiên, hình như chưa có, hay rất ít, thi sĩ nào nói về những khắc khoải khi mất dần cái nhu cầu giao tiếp xác thịt với người khác giới trong những đêm cô quạnh; những đêm trằn trọc vì nỗi kêu đòi của nhu cầu bản năng giới tính. Khi thi sĩ tiến dần đến liệt sĩ là lúc họ teo dần đi cái khao khát mà họ từng kêu đòi khi còn ở ngoài không gian tự do.

*
Bạn có thể phạm tội giết người, nhưng không thể phạm tội chê thơ kẻ khác dở.

Đó là một tội ác ghê gớm!

Khi làm điều đó, bạn không chỉ huỷ diệt sinh mệnh của một con người, mà bạn đang đẩy ít nhất là một linh hồn xuống hoả ngục của sự khốn khổ, đau buồn, hổ thẹn đời đời. Nhiều khả năng linh hồn ấy chính là linh hồn của bạn.

Cha tôi kể một câu chuyện như thế này:

Hồi thập niên 50, ở miền Bắc, có hai ông bạn cùng trang lứa đều là những người làm văn nghệ. Một ông đa tài. Vừa làm thơ, vừa viết ca khúc, vừa vẽ tranh, vừa dịch sách. Sau này, khi túng thế, ông còn vẽ minh hoạ cho các tờ báo để có tiền mua rượu. Ông kia là một nhà thơ chưa có chút tiếng tăm gì cả vào lúc thanh niên. Họ đi kháng chiến, cùng sống và hăng say làm việc cho cách mạng ở trong chiến khu.

Một lần, sau nhiều đêm dài thao thức, ông nhà thơ chưa nổi danh khoe với ông thi- nhạc-hoạ-sĩ đa tài rằng mình mới làm được thơ rất hay. Ông này đọc xong bèn bĩu môi.

''Cái này là vè chứ có phải là thơ, có gì hay ho đâu nhỉ. Nhưng dù sao đi nữa, ông quả là một nhà thơ cần cù trong thi ca và là một chiến sĩ kiên định với cách mạng. Cố gắng lên nhé!”

Ông thi-nhạc-hoạ- sĩ là người vô tâm. Ông chỉ nghĩ rằng đây là một câu nói đùa, nói xong rồi quên, và nghĩ rằng bạn mình cũng vô tâm, hồn nhiên như mình vậy.

Có ngờ đâu câu nói đùa đó thành mối thâm thù, đã làm tổn thương và đeo đuổi ông nhà thơ kia mãi. Về sau, ông nhà thơ trở thành một ông quan lớn nắm quyền sinh sát trong ngành văn nghệ và tư tưởng của đảng. Ông ta thanh toán mối nhục cũ với kẻ dám chê thơ, coi thường tài năng của mình. Ông buộc cho ông thi-nhạc-hoạ-sĩ tội phản động, chống đảng, và vùi dập cho tan nát sinh mệnh chính trị của ông này. Cay độc và tàn nhẫn hơn, ông ra lệnh cấm tất cả các cửa hàng tư doanh cũng như quốc doanh bán thịt chó cho ông cựu tri kỷ của mình.
 
Cha tôi nói rằng, ở Việt Nam, mối liên hệ giữa thịt chó và nghệ thuật là một mối quan hệ gắn bó bền chặt và vô cùng thiêng liêng. Ông kết luận chắc nịch với giọng hài hước thì ít, mà cay đắng thì nhiều, rằng: “Không có thịt chó và mắm tôm (một loại nước xốt màu tim tím, dường như được làm bằng thi hài của một loài nhuyễn thể hay loài phiêu sinh gì đó, để cho phân huỷ, rất nặng mùi; cha tôi rất ưa mà mẹ tôi thì ghê tởm thậm tệ) thì khó lòng có nghệ thuật! Việc tước đoạt thịt chó ra khỏi đời sống của một nghệ sĩ chân chính thì cũng tàn nhẫn và phi lý ngang với việc tước đoạt khái niệm tự do ra khỏi đời sống của một người Mỹ. Đối với giới nghệ sĩ ở Việt Nam thì việc thiếu vắng thịt chó là một hình phạt kinh khủng nhất.”

Tôi nghĩ, chắc có lẽ sự thiếu vắng thịt chó cũng là nguyên nhân của sự thất bại trong sự nghiệp thi ca của cha. Ở Mỹ thì làm quái gì có thịt chó để ông ăn!

Tôi tra từ ‘chó’ trong từ điển tiếng Việt, thì:

chó: gia súc thuộc nhóm ăn thịt, nuôi để giữ nhà hay đi săn; thường dùng để ví kẻ ngu, kẻ đáng khinh miệt, và làm tiếng mắng nhiếc. Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng / Treo đầu dê bán thịt chó.

Nhưng theo cha tôi định nghĩa thì chó là cái gì đó nằm lưng chừng, nằm lơ lửng, một thế nằm vừa cụ thể vừa trừu tượng nhưng lại xác tín một cách kỳ lạ, ở giữa một cục thịt và cái tâm + cái tài của giới lãnh đạo đất nước.

May mắn thay, ông thi-nhạc-hoạ- sĩ là tác giả của bài quốc ca từ lúc nền độc lập của đất nước vừa chớm nở, và bài hát ấy còn được sử dụng cho tới tận ngày nay. Theo cha tôi thì bài hát đã có công rất lớn, có tác động rất lớn trong giai đoạn cách mạng đang giành độc lập cho đất nước. Nó giúp cho chiến sĩ thêm lòng dũng cảm lao lên chiến đấu bất chấp cái chết. Cha tôi đọc phần ca từ cho tôi nghe. Quả thật nó vô cùng kích động, làm cho tôi sôi máu lên ngay. Và thật rùng rợn. Tôi rợn người khi nghe ông đọc, hát rồi dịch lại cho tôi hiểu từng câu. Cái gì mà “... thề phanh thây uống máu quân thù...”, với lại “... đường vinh quang xây xác quân thù...”.

Hôm đó là lễ Tạ Ơn, hai cha con tôi vừa ra siêu thị mua thực phẩm về để ăn suốt tuần. Cha tôi lôi con gà tây to đùng ra từ lò nướng, bỏ lên cái khay bọc giấy bạc. Ông lấy dao nĩa ra bày cho tôi cách xẻ thịt con gà.
 
“Phanh thây là làm như vầy nè.” Ông vừa lóc thịt hai đùi, ức và cánh, vừa mổ bụng con gà, chia thịt ra thành từng miếng nhỏ, rồi chan nước dùng lên. Tôi quan sát những động tác của ông, hình dung con gà là một gã “quân thù” với đầy đủ đầu mình và tứ chi, rồi tôi cầm lấy dao nĩa phụ ông một tay. Một lúc chán, tôi lại đổi vai, chơi trò tưởng tượng mình là con gà “quân thù” nằm trên đĩa, còn ông là “chiến sĩ” đang phanh thây tôi, từng miếng từng miếng một. Nhưng có lẽ hình ảnh để minh hoạ cho cái cảnh này tốt nhất là hình ảnh một bộ lạc ở Phi châu thời xa xưa đang quây quần nhảy múa bên đống lửa sau cuộc đi săn, có cái giàn gác ngang treo một thằng người đang được quay thành món barbecue [2] thơm phưng phức và giòn rụm. Tuy vậy, hôm đó tôi không cách gì ăn cho vô món gà tây, cứ nhìn cái cánh ra cánh tay, nhìn cái đùi ra cái chân của thằng “quân thù”, rồi tôi no ngang. Tôi biết người Việt có món ăn làm bằng máu, gọi là tiết canh, nhưng tôi không thể hình dung ra cảnh uống máu quân thù được. Trí tưởng tượng nghèo nàn của tôi không sáng tạo được màn gì hay ho hơn cảnh cắn cổ hút máu trong điện ảnh. Chẳng lẽ nguồn cội mà cha tôi thuyết phục rằng nó là của tôi, dính liền với thân phận của tôi, là một xứ sở đầy những con ma cà rồng?

Cha tôi nói tiếp: “Nhờ cái bài hát ấy mà ông thi-nhạc-hoạ- sĩ giữ được mạng, tuy rằng phải sống mòn mỏi như đốm lửa lập loè trong tăm tối gần suốt phần đời còn lại. Một điều khổ tâm là ông bị theo dõi suốt, rồi khi người ta không còn thấy ông là thành phần nguy hiểm nữa và ngưng cho nhân viên an ninh theo dõi thì ông vẫn không tin điều đó. Chỉ thỉnh thoảng, thường thì 2 tháng một lần, ông được mời đi uống nước để báo cáo những hành vi của mình trong thời gian vừa qua: gặp ai, đi đâu, làm gì và nghĩ gì. Ông luôn có cảm giác của một con thú bị dồn đuổi, luôn thấy những con mắt rình mò mình ở khắp nơi để báo cáo, kể cả sự ngộ nhận những con mắt ấy đến từ những người thân trong bạn bè và gia đình.” Tôi không tin lắm về tất cả những gì cha tôi kể. Ông có sống ngoài Bắc trong giai đoạn đó đâu? Cha tôi bảo rằng ông đọc được các thông tin đó trên trang mạng talawas.org , nếu tôi không tin thì lên đó xem mà tìm hiểu. Trời đất, tôi đâu có thì giờ để làm chuyện đó, nhưng dù sao cha tôi cũng đã cho tôi những khái niệm sơ khởi để làm cuộc hành trình về nguồn cội.

Cha tôi nhấn mạnh, giọng chì chiết:

“Tin được không chứ, thật là bi tráng! Làm sao ông ta có thể chịu đựng được suốt 30 năm mà những chiếc răng trong miệng ông, những chiếc răng vẫn còn đầy đủ mọi chức năng phục vụ, lại hoàn toàn không được cắn ngập vào các món dồi lòng, chả chìa, hấp, nướng, rựa mận, xáo măng cơ chứ? Ý chí sống còn của ông ấy thật đáng kinh ngạc! Sống thế mà cũng sống nổi!”

Cha tôi ngờ nghệch khi nhận định về người khác như vậy đấy, ông quên mất thân phận cũng không kém bi đát vì thiếu thịt chó của chính mình. Thân phận một thi sĩ.

_________________________
 
[1]“Anger management”: Chế ngự, kiểm soát sự giận dữ. Có thể xem thêm thông tin ở link này: http://en.wikipedia.org/wiki/Anger_management
[2]barbecue: món thịt nướng.



6.

Sài Gòn cuối tháng Sáu đôi khi có mưa nhưng vẫn còn nóng lắm. Bạn có thể làm quen dần với nhiều điều kiện môi trường sống nhưng khó mà thoả hiệp được với cái nhiệt độ hầm hập và thứ tiếng ồn kinh dị của thành phố này.

Tôi đón taxi về khu Tây ba-lô, một khu nằm ở trung tâm thành phố, theo chỉ dẫn từ cuốn Lonely Planet mà tôi mang theo. Ở đó là khu dành cho những kẻ như tôi, bọn du lịch bụi bờ, bọn người bị mẹ tôi cho rằng là mọi thành phần rác rưởi mà thế giới văn minh đã từ chối, nhưng bà cũng dư biết rằng cái bọn bụi đời ấy cũng khinh rẻ và chán ngán cái thế giới trật tự văn minh của bà và chúng không chịu thoả hiệp với nó. Và, điều quan trọng là cậu con trai duy nhất của bà lại lăm le muốn trở thành một thành viên của cái đám ấy. Bà biết và không đồng ý, rồi cảm thấy bất lực vì không thể lái tôi theo cái hướng tương lai mà bà hoạch định và kỳ vọng. Ban đầu bà khuyên răn tôi. Khuyên răn không xong, bà phản đối. Phản đối không ăn thua, bà dùng biện pháp chế tài, cắt giảm tiền allowance. Rồi, khi tôi đã 20 tuổi thì bà mặc kệ.

Giá phòng trong các nhà nghỉ ở khu này tương đối là rẻ so với các thành phố khác trong khu vực Đông Nam Á, chừng 10 đô-la cho tới 20 đô-la / một đêm, có thể trả giá thấp hơn và không phải đặt chỗ trước.

Ở đây, nếu bạn không quá khó tính thì lúc nào cũng có chỗ để đặt lưng xuống qua đêm. Nhưng tôi không muốn trải qua những ngày đầu tiên trong một căn phòng tồi tàn. Tôi muốn có một chỗ nằm tươm tất với ga trắng sạch sẽ, máy lạnh mát rượi, và các tiện nghi của một khách sạn chứ không phải ở căn phòng trọ hẹp, bẩn, ngột ngạt, không cửa sổ. Tôi cũng cần một cái hiên nhỏ có tầm mắt khoảng khoát để nhìn xuống thành phố, để cái không khí nhiệt đới hầm hập từ từ thẩm thấu vào các lỗ chân lông và làn da còn tươm mùi của thế giới tư bản; như lời cha tôi dặn, một cách hơi cường điệu và văn hoa không cần thiết: “Hãy sẵn sàng cải tạo chính mình và hội nhập vào phần đất hiếm hoi còn lại của thế giới.” Riêng điều này, một trong những điều hiếm hoi, tôi đồng ý với ông. Thêm nữa, tôi muốn chụp hình nơi mình đang ở, gởi qua e-mail cho mẹ, để trấn an bà rằng quý tử của bà vẫn đang được cuộc đời đối xử không tệ.

Liên Hiệp Quốc loan báo rằng chính thức coi việc tự do truy cập Internet là một quyền cơ bản của nhân loại: Tất cả mọi người, không phân biệt tầng lớp, tôn giáo, giới tính, độ tuổi, dân tộc... đều có quyền được truy cập Internet và tự do thể hiện suy nghĩ, quan điểm, góc nhìn của bản thân họ trên mạng thông tin toàn cầu này.

Làm thế nào để xác quyết rằng mình đang sống trong một đất nước cộng sản hay tư bản ư? Tôi bắt đầu có kinh nghiệm về điều đó. Bạn cứ lên mạng, gõ facebook.com, nếu bạn có thể đăng nhập vào một cách nhanh chóng và dễ dàng thì bạn đang ở Texas hay Toronto hay Tokyo, còn nếu không vào được, thì bạn đang ở Bắc Triều Tiên, Cuba, Trung Quốc, Việt Nam hay Pakistan...; tức là bạn đang ở một trong những đất nước độc tài hay cộng sản còn sót lại của thế giới.

Tôi chỉ lên mạng được để gởi e-mail cho mẹ, nhưng đếch vào facebook được.

Tôi đang ở Sài Gòn.

Thêm một kinh nghiệm nữa, khi tôi mở Ipad, bấm vào chương trình để xem phim của Netflix, một công ty cung ứng phim cho khách hàng xem trên mạng, thì được bọn ấy trả lời bằng dòng chữ: “We haven’t reached to this part of the world.” [1] Thế mới thấy cái bọn tư bản ấy phân biệt một cách chó đểu không chứ!

Tôi được bọn giang hồ vặt trên mạng cho biết rằng, không náo nhiệt như ở Bangkok hay Kalua Lumpur, nhưng Sài Gòn luôn có chỗ để bạn ngồi đến 3 giờ sáng với một chai bia 333, một loại bia địa phương khá ngon, và nhấm nháp từng hạt đậu phộng rang đựng trong đĩa nhựa, tán gẫu với một cô gái có số ngữ vựng tiếng Anh vừa đủ để hiểu nhau trong các đề tài thông thường. Tuyệt nhất là có thể phì phèo phun khói thuốc lá vào đám đông chung quanh mà không hề bị phản đối hay kỳ thị. Tôi không hút thuốc nên tôi sẽ không được hưởng cái khoái cảm tự do đó.

Khách sạn này nằm ở góc đường Đề Thám và Bùi Viện ở quận 1, nó có tên là “Murderers’ nightmare”. [2]

Tôi chưa từng giết người. Thỉnh thoảng tôi cũng có ác mộng với bàn tay nhỏ máu ròng ròng. Thường thì trong các giấc mơ khi gần sáng ấy tôi bị giết bằng một cách nào đó, thật dã man, bởi một kẻ mà tôi chưa hề quen biết. Những cơn ác mộng có vài tình huống cứ lặp đi lặp lại. Thường thì tôi bị cắt mất một hay hai bộ phận trên thân thể trước khi bị xô xuống từ một tầng lầu cao, hay từ một chiếc máy bay đang bay. Ngoài những khi bị giết bởi kẻ lạ, thì cũng có khi tôi bị cha tôi xô, khi thì bị mẹ tôi xô. Tôi thức giấc trước khi thấy mình chết hẳn; nằm một lúc định thần cho tỉnh, tôi sung sướng đến ngạt thở vì thấy mình còn sống. Có khi sung sướng quá vì còn được sống tiếp, tôi phải la hú lên thật lớn, cười sằng sặc, đập chân đập tay lên nệm ầm ầm. “Chúa ơi, con sướng quá!”

Tôi muốn thuê căn phòng trên lầu ba, phòng số 317.

Google cho tôi biết vào nhiều năm trước một vụ án mạng đã xảy ra trong chính căn phòng này. Một gã du khách gốc Thái Lan đã giết rồi chặt xác nạn nhân ra thành nhiều mảnh, bỏ vào bao rác, nhét xuống ngay dưới cái gầm giường mà tối nay tôi sẽ nằm. Lý do tôi muốn ở căn phòng này là tôi hi vọng cái không gian đó sẽ kích thích tôi, hay ít ra cũng gợi cho tôi một cái gì khác thường để tạo hứng cho trí tưởng tượng, hay tạo hứng cho việc viết.

Bà chủ khách sạn đồng ý giảm cho tôi 50% giá phòng khi tôi cho bà biết rằng tôi cũng biết cái thông tin kinh dị đó. Bà xuýt xoa tỏ vẻ khâm phục cái kiến thức có từ Google của tôi. Bà nói:

“Tôi thừa nhận là căn phòng đó có vấn đề bất thường, nhưng anh xem kìa, không phải chung quanh chúng ta chẳng có gì là bình thường cả sao? 22 đô-la là giá đặc biệt chỉ dành cho anh thôi đấy.”

Tôi nhìn vào tấm gương đối diện, bà chỉ hiện diện trong đó với một cánh tay phải, một nửa phần cái đầu bên trái được chẻ dọc bằng một lát cắt rất phẳng.

Tôi đưa bà tờ 50 đô-la cho 2 ngày đặt trước, với cuốn hộ chiếu, rồi lấy lại tiền dư, chìa khoá và hai cái điều khiển, một cho máy lạnh và một cho ti-vi, rồi kéo va-li vào thang máy.

Trong hộc bàn hay trên cái bàn nhỏ ở đầu giường trong các phòng khách sạn ở Việt Nam không có cuốn Thánh Kinh như khách sạn của Mỹ thường có. Tôi chưa đi châu Âu và châu Phi nên không biết các nơi đó như thế nào. Dù sao, tôi nghĩ Thượng Đế cũng nên hiện diện một cách cụ thể và công bằng ở khắp mọi nơi, nhất là các nơi như thế này, ít ra là cho những kẻ độc hành như tôi. Với những kẻ du hành cô độc thì một cuốn Thánh Kinh còn quan trọng và hữu dụng hơn chai dầu gió và thuốc tiêu chảy cộng lại. Không sao, tôi có mang theo trong túi xách một cuốn Tân Ước khổ nhỏ bằng bàn tay.

Tắm xong, tôi ngủ một giấc ngắn, cố làm quen với mùi thuốc xịt phòng gây gây, xốc lên mũi.

*
Tôi thức giấc nhưng chưa thoát ra khỏi trạng thái mê mệt khi nghe một tiếng nổ lớn rồi ngay sau đó đèn tắt phụp. Tôi để máy lạnh nên đã đóng hết cửa sổ và kéo màn lại. Căn phòng kín bưng và tối om. Tiếng động rì rì của máy lạnh và cái tủ lạnh im bặt, im bặt cùng lúc với tiếng nhạc dội lên từ dưới phố. Tôi có cảm giác căn phòng đang rơi trong một giấc mơ. Tôi nằm im lắng nghe tiếng tim mình đập. Tôi mở mắt ra, không thấy gì, nhắm lại. Khi nhắm mắt, dù có ánh sáng hay không, tôi vẫn thấy dễ chịu hơn là mở mắt. Việc nhắm mắt, không phải chú mục vào một gương mặt hay vật thể nào, cho tôi cảm giác yên bình. Nhắm mắt và lắng nghe một cách lơ đãng là trạng thái dễ chịu nhất, nhất là khi nằm bên người tình. Tôi đọc được điều này ở trong một cuốn sách mà không còn nhớ là cuốn gì, nhân vật chính có thói quen khi nằm bên người tình thì hắn không bao giờ mở mắt. Những kẻ nằm bên nhau mà mở mắt nhìn nhau thì trước sau gì cũng phải xa nhau nếu không muốn giết nhau. Vậy mà hắn liên tục phải xa rời hết người tình này đến người tình khác. Ở đoạn kết của cuốn sách, tác giả cho gã nhân vật bỏ được thói quen nhắm mắt, lúc này hắn luôn mở mắt và ngó mãi cái trần nhà hết đêm này đến đêm khác vì bên cạnh hắn không còn một ai.
Tôi ngửi thấy mùi khét của điện cháy. Có tiếng sấm dội lại từ đâu đó rất xa. Hình như có mùi nước mưa len vào từ cửa sổ. Một hai tiếng sột soạt thật nhỏ từ góc xa của căn phòng, có lẽ tiếng móng của một con gián cào lên mặt giấy.

Tôi cố nhớ lại, căn phòng này có hai giường được đặt song song, cách nhau chừng sải tay. Giường gỗ, có thành giường sát tận mặt đất, như khung của một cái hộp. Trên mỗi giường trải ga trắng, có hai gối kê, một gối ôm cũng được bao bằng vải trắng, một tấm chăn trắng mỏng, và cái khăn tắm cũng màu trắng được gấp lại dưới chân.

Lúc này, một ý nghĩ bật ra trong đầu: khi giết cô gái ấy xong, thì gã người Thái chặt xác ra làm nhiều phần, bỏ vào bao rác, nhét xuống gầm giường, nhưng gầm giường nào? Cái giường kề bên cửa sổ mà tôi đang nằm hay cái giường nằm gần nhà vệ sinh kia? Tôi hình dung ra mớ chăn gối, khăn đều màu trắng ướt sũng máu.

Tôi mở mắt, cố với tay ra mặt bàn đầu giường mò tìm, hi vọng bắt được bao diêm hay cái quẹt ga, nhưng không thấy gì cả, chỉ sờ tay đụng vào cái đế đèn ngủ bằng kim loại, lạnh ngắt. Mắt tôi tập làm quen với bóng tối. Một ánh chớp loé lên thật nhanh từ khe cửa sổ. Tôi thấy được những hàng số trên cái điện thoại bàn nhá lên chút ánh sáng.

Tiếng xe máy đột ngột rú lên. Không phải chỉ một chiếc, mà nhiều chiếc cùng rú máy. Tôi không muốn nằm im trong cảm giác chịu đựng và bất lực nữa. Tôi gượng ngồi dậy, dựa lưng vào tường. Tôi đang không mặc gì cả. Da lưng tôi cạ vào vách gai gai. Một giọt nước rơi trúng vào sống mũi lạnh buốt làm tôi giật mình. Mất vài giây tôi mới nghĩ được rằng có lẽ nước từ máy điều hoà nhỏ ra. Tôi hít sâu vào rồi thở ra thật chậm, dè sẻn từng chút không khí trong buồng phổi. Tiếng nước nhỏ từng giọt chậm trong phòng tắm. Từ vòi nước xuống cái xô. Hay từ vòi xịt bên bồn cầu xuống sàn nhà. Ban chiều, tôi đã ngạc nhiên khi thấy cái vòi xịt này, tôi chưa từng thấy nó bao giờ, rồi hiểu ra công dụng của nó khi nhấc lên xịt thử, một vòi nước bắn ra thật mạnh. À, ở đây ngoài giấy vệ sinh thì người ta còn dùng cái vòi nước này để rửa đít, tôi chưa thấy cái hình thái văn minh này ở Mỹ và các nước bên đó. Bạn thấy nó kỳ cục ư? Rồi bạn sẽ quen, tôi tin rằng tôi cũng sẽ làm quen với nó. Một cách thân thiện.

Cha tôi được kể rằng trong một hội nghị về văn hoá ở nước ngoài, một diễn giả Việt kiều tâm tình với cử toạ người ngoại quốc rằng thuở thiếu thời, khi ông ấy còn ở Việt Nam, chưa vượt biên ra khỏi nước, ông thường chùi đít bằng những viên đá ông nhặt được dọc theo đường rầy xe lửa gần nhà, ở một tỉnh miền Trung. Một cách tự nhiên, ông thường có lại cảm giác quen thuộc ở hậu môn, thấy dấy lên nỗi nhớ những viên đá ấm nóng được nung trong nắng trưa thời thơ ấu, nhớ da diết, mỗi khi đứng trước quầy hàng có hàng chục loại giấy vệ sinh mịn xốp và thơm tho. Hàng trăm người im lặng lắng nghe ông nói, rồi tiếng vỗ tay vỡ bùng lên khắp khán phòng khi ông dứt lời. Tôi muốn khóc khi nghe câu chuyện đó.

Trước đó, tôi không ngạc nhiên mấy khi thấy một cái hộp gỗ như cái tủ nhỏ, có mái che, bên trong có bức ảnh một ông râu dài mặt đỏ bên những hàng chữ Hoa, và hiểu ra đó là cái bàn thờ. Cái bàn thờ giống thế này thì tôi đã thấy trong các tiệm người Hoa ở các khu China-town bên Mỹ. Khác biệt là ở bên đó những cây nhang là đồ giả, sáng đỏ, lập loè, được làm bằng bóng điện như những con mắt nhỏ tí, còn ở đây người ta thắp nhang thật, mùi gây gây nồng khó chịu.

Mưa bắt đầu rơi lên kính cửa. Tôi quyết định ra khỏi phòng để tìm người hỏi vì sao cúp điện và khi nào thì có lại. Ít ra tôi cũng nên tìm cho mình một ít ánh sáng.

Đúng lúc đó, tôi thấy “nó”.

Thật ra, tôi không thấy, nhưng tôi cảm nhận được sự hiện diện của “nó”, ngay trong căn phòng này, ngay bên dưới cái giường tôi. Tôi không thấy “nó” bằng mắt, nhưng cảm nhận “nó” bằng tất cả mọi giác quan còn lại. Tôi cảm nhận cái mùi tanh tanh trong không khí; mơ hồ thấy cái vật thể tròn, to như một thân người, không đầu, không chân tay, lăn lướt nhẹ êm, chuyển động thật nhanh từ gầm giường tôi sang gầm giường bên kia, rồi lăn trở ngược lại; cảm nhận được cái chất nhơn nhớt “nó” để lại trên mặt sàn nhà như một vệt lân tinh sáng lên rồi từ từ tắt dần. Tôi cứng người vì sợ. Tôi không có gì để che chắn. Tôi nghe mình thét lên, một tiếng thét câm không thành tiếng:

“Chúa ơi!”

“Nó” bắt đầu đổi hướng, không theo lộ trình từ bên này sang bên kia giữa hai giường nữa. “Nó” như ngập ngừng phân vân, rồi dừng lại ở cuối chân giường tôi, chỉ cách chân tôi chừng một mét. Tôi thét lên, lần này tôi nghe tiếng mình thét, tay chân vùng đạp kinh hoảng.

“Nó” biến mất.

Tôi cảm thấy “nó” vụt biến mất thật nhanh như chưa từng hiện hữu nơi này, như một ngọn đèn tắt phụt. Tôi vơ cái gối, ném vào dưới chân giường, hướng “nó” đã có mặt. Cái gối rơi phịch xuống sàn nhà trống. Tôi mở căng mắt cố nhìn về hướng đó, không dám rời mắt, sau một lúc không thấy gì, rồi nhìn quanh căn phòng. Không có gì bất thường, mọi vật vẫn y nguyên như trước khi tôi chìm vào giấc ngủ mê mệt, ngoài cái gối nằm dười sàn nhà. Tôi ngồi yên, hít một hơi dài để trấn tĩnh.

Tôi xuống giường, mở cửa khi nghe tiếng người bồi phòng gõ khẽ. Ba người khách trọ cùng tầng lầu mở cửa phòng họ, ló đầu nhìn rồi bước hẳn ra hành lang nhờ nhờ sáng. Anh bồi cầm đèn pin, chìa ra mớ nến cho mọi người chia nhau, anh đưa tôi 2 cây nến, cố giải thích và xin lỗi lý do mất điện. Ngay lúc đó đèn bật sáng, có điện lại.

Tôi thấy mình đứng tồng ngồng trước cửa phòng, thân hình trắng bệch hiện ra trên tấm kính lát tường, tay cầm 2 cây nến, trông thật luống cuống ngớ ngẩn. Một cô gái đứng ở cửa phòng số 313 ngó tôi mỉm cười, rồi thật nhanh, nàng nheo mắt, đưa tay lên ra dấu như chĩa súng bắn. Tôi ôm ngực, vờ trúng đạn, loạng choạng ngã bật ra sau, ngã vào trong khung cửa phòng mình, đá cánh cửa đóng sầm lại.

Vài phút sau, bà chủ khách sạn gọi điện thoại hỏi thăm, đề nghị rằng tôi có thể đổi sang phòng khác nếu muốn, mà giá thuê không thay đổi, bà sẽ cho người lên thu dọn giúp. Tôi phân vân vài giây, rồi cám ơn và từ chối.

Tôi lấy trong va-li ra quyển Tân Ước, đặt lên bàn ngủ. Tôi đặt tay lên cuốn sách, thì thầm đọc bài kinh Lạy Cha, đọc đi rồi đọc lại 3 lần. Lạy Cha là bài kinh mà tôi thích nhất trong các bài kinh mà tôi biết. Mỗi khi đọc lên, đọc rất chậm, tôi cảm nhận được ý nghĩa của từng chữ thấm dần vào mạch máu mình, nó giúp tôi hồi sinh, giúp tôi thấy rằng mình nhỏ bé, yếu đuối dường nào nhưng luôn được bảo vệ trong tình yêu của Thượng Đế. Đó là cách tôi gõ cửa Thượng Đế. Mẹ tôi luôn dặn, “Con phải làm như vậy mỗi khi con có nhu cầu tìm đến sự an ủi và che chở của Cha Trên Trời.” Bà ít khi gọi Thượng Đế là God, hay Lord, mà bà trang trọng gọi Người là Our Father in heaven. [3]

Vì sao tôi không muốn đổi phòng?

Tôi tin rằng mình sẽ làm quen và vượt qua được vụ này, sự việc không đến nỗi sẽ trở nên quá tệ. Tôi sẽ làm bạn với “nó”. Sẽ từ tốn giải thích cho “nó” hiểu rằng tôi hoàn toàn có thiện chí, không hề có ý muốn xâm phạm vào không gian của “nó” với ý xấu. Và phần nào, tôi thấy việc rút lui khỏi căn phòng này sẽ như là dấu hiệu của sự thua cuộc, sự hèn nhát, của mình. Ngoài ra, đây mới là lý do chính. Tôi muốn gặp lại cô gái ở phòng 313, vì tò mò. Tôi muốn được nàng bắn mình thêm lần nữa. Lần này, tôi nhất định sẽ ngã về phía trước, phía nàng đứng. Nàng không phải là ma. Nàng không phải là người/ma. Tôi thấy nàng khá rõ, nguyên vẹn thân thể con người, từ chân tới đầu. Nàng rõ là người. Và rất quyến rũ.


_________________________
 
[1]“We haven’t reached to this part of the world”, tạm dịch: “Chúng tôi chưa vươn đến được cái phần [đất] này của thế giới.”
[2]“Murderers’ nightmare”, tạm dịch: “Ác mộng của bọn sát nhân”.
[3]Our Father in heaven: Cha của chúng con ở trên trời.



7.

Cha tôi khẳng định rằng gia tộc của chúng tôi là một gia tộc có bề dày truyền thống, nhiều tiếng tăm, giàu có và quý phái ở Huế, cái kinh đô trăm năm trước của thời phong kiến.

Họ chúng tôi đang mang là một dòng họ lớn. Ông nói.

“Chúng ta là danh gia vọng tộc.”

Tính cho tới ngày nay, cái làng mà dòng họ chúng tôi từng sinh sống có đến 1 ông tiến sĩ, 7 ông thạc sĩ và 24 ông cử nhân, còn tú tài thì vô số, không kể hết. Tôi không hiểu rằng cha tôi có kể luôn những người đã bỏ làng, bỏ nước, ra ngoại quốc như gia đình chúng tôi hay không. Vì nếu kể thì phải tính thêm một mớ kha khá nữa. Cha tôi nói với giọng kiêu hãnh rằng, “Kể về học hành, khoa bảng thì làng mình là oách lắm, cứ gọi là một trong những nơi đứng đầu chốn kinh kỳ. Ra ao làng, lấy rổ xúc một cái thì có cả rổ trạng nguyên với bảng nhãn.” Tất nhiên, trong cái rổ ấy không có ông, vì ông bỏ học rất sớm, chưa học xong trung học.

Kỳ, chỉ có chừng đó trí thức thôi mà cha đã lấy làm ghê gớm. Cái thành phố bé bằng cái lỗ mũi mà tôi đang sống có một trường đại học, trong đó có hàng trăm cái học vị mà cha tôi vừa kể. Tôi băn khoăn tự hỏi vì sao trong cái làng của chúng tôi chỉ có các ông vĩ nhân mà không có một bà vĩ nhân nào cả, rồi sinh lòng tự hào với mấy cái bằng cấp của mẹ tôi, vì tuy bà là cháu dâu thì cũng phải tính chứ, cho nó công bằng. Tôi hỏi ông về điều đó thì ông lộ vẻ bối rối trong một thoáng rồi nói lảng ra chuyện khác. Về sau tôi biết người ta không khuyến khích, thậm chí không cho phụ nữ đi học. Đàn ông không cho phép phụ nữ có địa vị và tri thức cao hơn họ. Đó là một thứ phong tục bất biến. Cha tôi nói, tất nhiên chỉ thì thầm với tôi thôi, rằng, tuy ông không có bằng cấp gì, nhưng lẽ ra mẹ tôi phải xé đôi tất cả những văn bằng mà bà có để chia cho ông, mỗi người một nửa, vì ông đã có công nuôi bà đi học. Tôi không đồng ý, phải xé ra để chia ba thì mới công bằng, một phần là của nhà nước Mỹ vì họ đã cho bà học bổng.

Ông cho tôi xem một tấm hình mờ ố vẽ truyền thần chân dung người cha của ông cố tôi, ông ấy là quan tri phủ. Có lẽ đây là một trong những người được chụp hình chân dung sớm nhất ở Việt Nam, chỉ sau vài vị hoàng đế và quan lại cao cấp trong triều đình thời đó. Điều làm tôi có ấn tượng nhất là một nốt ruồi hay cái bớt sậm màu, to bằng con ong bắp cày, nằm kề bên chòm râu dài ở bên mép phải của ông. Mẹ tôi nói những người có nốt ruồi như thế thì ăn bẳm lắm. Bà nhấn nhá giọng khi nói đến hai từ này. Ăn thì tôi hiểu, nhưng bẳm thì tôi không hiểu. Sau cùng tôi cũng hiểu rằng, với hai từ này, mẹ tôi ám chỉ việc ăn hối lộ hay tham nhũng gì đó. Cha tôi nói ăn như thế đã thấm gì với các ông quan cộng sản thời nay đâu.

Mẹ tôi rất quan tâm đến nhân tướng học. Gặp ai, bà cũng quan sát tướng tá, các chi tiết trên gương mặt, và ngay tức thì rút ra một kết luận về nhân cách và tương lai của kẻ đó, rồi quyết định có nên tiếp tục giao du với nữa không.

Bà cũng nói cô em dâu có cái nốt ruồi ngay dưới mắt phải là nốt ruồi trích lệ. Tất nhiên, nghe thì nghe vậy thôi, chứ làm sao tôi hiểu trích lệ có nghĩa là gì. Chú tôi thì có nốt ruồi ngay dưới mắt trái.

“Lãng mạn, đa tình lắm đấy. Sẽ khóc và đau khổ vì tình nhiều lắm đấy.” Bà kết luận.

Quả vậy, chẳng bao lâu sau thì chú thím tôi li dị, thím tôi dọn sang tiểu bang khác với anh chồng mới gốc Thuỵ Sĩ, còn chú tôi thì dọn vào sống với cô bồ gốc Mễ. Con bé Liz, con của họ không có cái nốt ruồi dưới mắt nào cả nhưng nó là kẻ khóc nhiều nhất, khóc trong ba ngày, khóc thầm thôi, sau vụ li dị này.

*
Ông quan tri phủ của gia tộc tôi chỉ làm quan trong 5 năm. Người ta đồn rằng tài sản của ông để lại rất lớn, ông không thừa nhận cũng không phủ nhận điều này. Cha tôi nói, nếu tính ra vàng thì phải vài chục ký, số vàng này được chôn giấu và cất giữ ở nhiều nơi. Trong nhà, ngoài vườn, ngoài đồng, và cả ở trong những hang động trên núi. Ông tri phủ ghi dấu lại những nơi đó trên tấm bản đồ làm bằng một vuông vải trắng do tự tay ông vẽ và ghi chú cẩn thận, bằng một thứ mật ngôn chỉ duy nhất một mình ông hiểu. Mảnh vải này được ông bỏ vào một cái hộp gỗ nhỏ bằng hộp diêm rồi vùi sâu dưới mớ tro trong cái bát hương để ở đầu giường. Tài sản lớn thế nhưng con cháu các đời sau lại không thể hưởng được.

Cha còn cho tôi xem một tấm hình khác, nó cũng ố vàng cũ kỹ như tấm chân dung kia, chụp một ngôi nhà trông giống như cái chùa khá to, có đôi sư tử đá ở hai bên thềm và mấy con rồng bay lượn trên mái ngói, một cây cổ thụ to, dây rễ chằng chịt, sừng sững toả bóng ngay trước sân. Cha bảo đó là nhà từ đường lúc các cụ còn sống. Tôi cần được cha giải thích từ đường là gì để không phải kinh ngạc vì làm sao người ta có thể xây dựng một ngôi nhà bằng sugar. [1]

Rồi cha lại đưa ra một tấm hình khác chụp ông ngồi xổm ở một bãi cỏ cao ngang đầu người, bên một ụ mối, nước đọng thành vũng, cái sân gạch có mấy cái gốc cột gãy; đây là những gì sót lại của cái nhà từ đường trong chuyến về thăm quê nhà duy nhất và sau cùng của ông.

Cha tôi không muốn về Việt Nam thêm lần nào nữa.

Lý do là ông luôn gặp ác mộng và không thể ngủ được khi ở trong địa phận Việt Nam, mà điều đó hoàn toàn không phải do jet lag [2] hay sự sai biệt về múi giờ, sự lệch đồng hồ sinh học. Hễ cứ máy bay vào địa phận Việt Nam là ông thấy mệt, choáng và có cảm giác bất an liền ngay lập tức. Tình trạng này khác hẳn với khi ông đi du lịch ở các nước châu Á khác. Khi ở Thái Lan hay Mã Lai trong những chuyến du lịch trước đó thì ông vẫn khoẻ khoắn, ăn ngon ngủ yên, thoải mái hưởng thụ kỳ nghỉ. Ở Việt Nam, ông hoàn toàn sống trong một cảm giác bất an thường trực, y như cái cảm giác ở cách đây 30 năm trước mà ông đã kinh qua. Ông kể.

“Lần đầu tao về thì thấy vẫn ok, chỉ có chút lo lắng ở khâu trình passport di trú và hải quan ở sân bay, cho tới khi về khách sạn. Thậm chí khi ngồi trên taxi, được nhìn lại và nhận ra vài khung cảnh cũ của Sài Gòn thì còn thấy vui và khoẻ nữa. Nhưng sau khi tắm xong ra, không biết trời xui đất khiến sao tao lại cầm cái điều khiển bấm nút mở ti-vi, nhằm đang lúc chương trình tin tức. Nó chiếu cảnh trước 75, ‘mùa xuân chiến thắng Mậu Thân’ hay cái con mẹ gì đó. Tao mệt và nổi khùng ngay lập tức. Đù má nó chứ, cả nửa thế kỷ rồi, hỏi chứ nó chơi vậy có điên không?”

Ông nói tiếp: “Từ đó, hễ cứ nhắm mắt sắp ngủ là tao mơ hồ lo sợ sẽ nghe tiếng gõ cửa của công an đến soát nhà hay kiểm tra hộ khẩu, rồi chúng sẽ bắt tao đi, y như tao đã từng bị như vậy khi chưa rời khỏi Việt Nam.”

Phải mất một lúc lâu ông mới giải thích được cho tôi hiểu hộ khẩu là gì, và vì sao người ta phải có hộ khẩu, và vì sao phải đăng ký tạm trú với công an địa phương khi đến một nơi khác với nhà mình để trú qua đêm. Những khái niệm này thật xa lạ với tôi. Tôi không thể hình dung ra điều đó vì nó chưa từng có ở nơi tôi sống, và có lẽ ở phần lớn mọi nơi khác trên thế giới trong thời đại này cũng không có. Nó cho tôi cái cảm giác như mình đang sống trong những cuốn phim về thời Đệ nhị Thế chiến, thời dân Do-thái sống dưới chế độ Đức quốc xã, những cuốn phim đen trắng hay chỉ có màu vàng nâu với nhiều vạch chớp cắt rạch ngang màn ảnh và âm thanh rất tệ, rột roạt, rột roạt, không rõ tiếng.

*
Về cuối đời, trên 70 tuổi, ông cựu tri phủ được chính quyền cách mạng cho ra làm một chức cán bộ nhỏ trong làng vì ông tình nguyện hiến hết gần 2/3 tài sản, gồm có ruộng đất và nhà, cho họ, như một nghĩa cử góp phần vào công cuộc cứu nước chống lại thực dân Pháp.

Mỗi chiều, ông dắt một đoàn con nít ra bến sông tắm. Ông là người duy nhất trong vùng sở hữu một cục xà-bông. Ông gói cục xà-bông trong một vuông vải rồi dắt vào lưng quần, chỉ dùng nó cho riêng mình. Ông bắt bọn con nít đứng sắp hàng thành vòng tròn ở khúc sông nước cạn, mỗi đứa cầm một miếng xơ mướp (tất nhiên, cha phải giải thích cho tôi biết trái mướp như thế nào, làm xơ mướp từ trái mướp ra làm sao), rồi đứa đứng sau kỳ lưng cho đứa đứng trước, rồi đứa đứng đầu sẽ quay lại kỳ lưng cho đứa đứng sau cùng. Ông cho đó là một trong những bài học vỡ lòng đầu tiên của ý thức cộng sản; sau này người ta diễn giải nó như là một lý thuyết về phục vụ và được phục vụ, hay nói nôm na là “một người vì mọi người và mọi người vì một người”.

Một chiều nọ, ông ra bến một mình rồi không trở về. Mọi người đổ xô đi tìm nhưng không thấy ông đâu cả. Có người cho rằng ông đi tòm tèm với nhân tình rồi không về, hay có khi ông đi chơi về khuya và đã bị ma giấu. Trưa hôm sau, đám trẻ chăn trâu phát hiện xác ông ở bãi hoang cuối nguồn sông, nằm sấp, úp mặt xuống nước. Một nhát chém vụng, xả từ sau gáy. Người ta cũng tìm thấy một cây rựa chẻ củi vấy máu ở một lùm cây cách bến đò khá xa. Vài hôm sau có tin đồn rằng kẻ sát nhân là một đứa nhỏ chăn trâu, chừng 13 tuổi, một đứa trong đám trẻ mà ông thường dắt xuống bến tắm. Thằng nhỏ đã bỏ đi từ buổi tối đó. Nó bỏ làng đi biệt. Đi theo cách mạng.

Ông cố tôi mang cây rựa về gói lại trong một vuông vải trắng, để lên bàn thờ, với lời nguyền sẽ rửa thù bằng chính cây rựa này, nhưng vài hôm sau tay trưởng đội du kích thôn đến tịch thu cây rựa, bảo rằng cần giữ nó làm vật chứng. Tin trong hội đồng cứu quốc, hay một tổ chức cách mạng đại loại gần giống như thế, cho rằng cậu bé chăn trâu yêu nước đã được tuyên dương xứng đáng vì có công tiêu diệt tên phản động — cha của ông cố tôi. Ông anh hùng cách mạng trẻ tuổi này về sau trở thành một sát thủ của quân kháng chiến trên núi, lừng danh với thành tích chuyên ám sát, tiêu diệt bọn phản động trong các thôn làng trong tỉnh. Chưa đến 20 tuổi mà ông đã có một danh sách hơn 20 mạng do chính tay mình hạ thủ. Đầu ông được treo giá mấy lượng vàng. Ông không hi sinh trong trận đánh nào cả, nhưng bị một đồng chí lụi cho một dao chí tử trong một bữa giỗ. Ngày nay, không còn ai nhớ đến câu chuyện cũ ngoài những người già còn sống.
 
Bí mật của những kho tàng cất giữ vàng bạc của ông cựu tri phủ cũng biến mất theo cái chết của ông, cho dù sau này những người trong gia đình tìm được mảnh vải vẽ bản đồ. Không ai đọc ra và hiểu nổi những gì được ghi trên đó. Người ta đoán mò rồi đào xới lung tung khắp mọi nơi mà họ nghi ngờ kho tàng được chôn, nhưng chỉ công cốc, họ không tìm được món gì cả. Có lẽ lúc đó người ta mới tin rằng ông chẳng có chút tài sản nào như lời đồn, ngoài hai cái rương gỗ chứa mớ sách chữ Tàu cũ nát.

Cái chết là một bí mật. Cái chết mang theo kho tàng, của cải, thì còn ghê gớm hơn thế: nó là bí mật của bí mật.

_________________________
 
[1]sugar: đường để ăn.
[2]jet lag: tình trạng mất quân bình trong chu kỳ thời gian sinh học của cơ thể, thường xảy ra sau một chuyến bay dài với vận tốc cao (trên phản lực cơ) băng qua nhiều múi giờ của trái đất, từ đông sang tây (hay ngược lại).



8.

“Chào cô.”

“Xin lỗi, tôi đang nói chuyện với ai đây ạ?”

“Thưa cô, tôi là người mà cô vừa bắn trúng ngực, cách đây nửa giờ. Tôi sống sót, và giờ xin mời cô uống với tôi một ly, nếu cô thấy không phiền.”

“À, tôi nhớ rồi. Anh lém lắm. Vì sao anh có thể gọi điện thoại đến phòng tôi?”

“Tôi hỏi người quản lý khách sạn, và bà ta cho số của phòng cô.”

“Anh tên gì? Tôi phải gọi anh như thế nào đây?”

“Tôi là William. Còn cô?”

“Gọi tôi là Cathy.”

“Cô đi uống với tôi một ly nhé, ngay dưới phố đây thôi.”

“Hấp dẫn nhỉ? Bao lâu nữa thì anh có thể đi?”

“Ngay bây giờ.”

“Vậy 10 phút nữa nhé. Gặp ở dưới khách sảnh.”

“Vâng, cám ơn cô. Tôi mừng quá.”

“Tôi cũng vui như anh vậy. Bye.”

“Bye.”

*
“Chào William, bây giờ trông anh khá hơn lúc nãy.”

“Vâng, tôi đã tỉnh ra, và đỡ hơn nhiều.”

“Chúng ta đi đâu đây?”

“Thú thật, tôi vừa đến đây lúc chiều, chưa biết gì về thành phố này. Có lẽ tìm một bar bất kỳ nào đó. Quán bên kia đường chăng? Ừ, quán ‘Go, go, go’ đó. Cô có đề nghị gì không?”

“Ở đó ồn lắm. Nếu anh không biết thì đi theo tôi. Tôi biết một chỗ có quang cảnh nhìn hay lắm. Ở cuối con đường này thôi, chỉ đi bộ chừng 5 phút.”

Tôi bước theo Cathy. Trời vừa tạnh mưa. Những vũng nước trên đường hắt lên ánh đèn màu lấp loá. Khu phố thật náo nhiệt. Người đi tràn xuống đường vì không có lề cho người đi bộ. Bắp chân Cathy trắng như sữa, thấp thoáng trong làn váy hoa.

Cathy dừng lại ở ngã tư đường. Cái bảng gỗ nhỏ kẻ tên quán “Santa”. Anh bồi cho biết chúng tôi có thể ngồi dưới nhà hay trên lầu tuỳ ý. Chúng tôi lên một cầu thang hẹp và tối, chỉ vừa một người đi. Bên trong có vài bàn, ánh đèn mờ, không để nhạc. Cathy đẩy tôi ra phía hành lang. Một dãy ghế cao kê dọc bên gờ tường thấp, được gá lên một mặt bàn bằng đá. Đã có vài người ngồi, có vẻ như toàn người nước ngoài, không có ai là người bản xứ. Chúng tôi ngồi dưới cây quạt máy gắn trên tường, tầm nhìn hướng chếch xuống phố. Ngay trước mặt, cách chỗ chúng tôi ngồi chừng 2 mét, là một trụ điện trông như cái cây kỳ dị, chằng chịt từng búi dây điện xoắn xít như những rễ cây toả ra. Nhìn xuôi theo hướng con đường, ngoài xa, là một toà nhà màu xám, cao hơn hẳn những tòa nhà khác, có lẽ nó là một trong những toà nhà cao nhất thành phố, có một sân máy bay trực thăng chìa ra ở lưng chừng. Toà nhà trông như một lưỡi đao đâm lên bầu trời thấp.

“Tôi đã nghĩ rằng anh là một người bản xứ ở đây. Anh không khác gì họ lắm về nhân dáng. Ý tôi muốn nói rằng anh là người Việt, chỉ cao lớn hơn họ một chút, và nói tiếng Anh.”

“Tôi là người Mỹ gốc Việt. Cha mẹ tôi người Việt. Tôi sanh ra và lớn lên ở Mỹ. Người ta nói những đứa như tôi thuộc về thế hệ chuối. [1] Nghĩa là ngoài vỏ thì vàng, còn bên trong ruột là trắng.”

“Ra là vậy. Tôi cũng có liên hệ với Việt Nam về mặt huyết thống, nửa phần. Cha tôi gốc Đức, mẹ tôi gốc Việt. Ông bà gặp nhau khi ông đi lính ở đây, rồi ông mang bà về Mỹ khi giải ngũ. Gia đình tôi ở Alabama. Họ cũng hay đi Việt Nam tuy rằng mẹ tôi không còn ai thân thích ở đây nữa. Họ thất lạc hết trong chiến tranh. Bà tìm mãi mà không ra ai nên bỏ luôn ý định tìm kiếm. Anh đi du lịch?”

“Tôi không biết. Tôi chỉ thích đến Việt Nam sống thử một thời gian ngắn, rồi sau đó hẵng hay. Chưa có ý định gì rõ rệt cả.”

“Anh có muốn nói tiếng Việt với tôi không, thay vì tiếng Anh?” Cathy đổi giọng, cô nói bằng tiếng Việt khá trôi chảy, không phải cố gắng.

Tôi trả lời bằng tiếng Việt.

“Ô, tôi muốn lắm. Đừng cười tiếng Việt của tôi nhé.”

Cathy cười.

“Được lắm, tiếng Việt của anh tệ, nhưng không tệ quá lắm đâu, tôi hiểu hết mà. Khi nào không thể nói được tiếng Việt thì hãy dùng tiếng Anh.”

Tôi làm theo lời cô. Thấy vui vì kiểu nói chuyện bằng 2 ngôn ngữ như thế này khá dễ dàng và nó kích thích đầu óc tôi làm việc nhiều hơn là một câu chuyện bằng tiếng Anh như bình thường, dễ dàng như khi tôi trò chuyện với cha mẹ và những người Việt khác ở Mỹ.

“Lúc nãy sao anh hét lên to vậy, lúc trong khách sạn đó?”

“Tôi nghĩ là tôi thấy ma.”

“Ma à? Ghê rợn thế?”

“Căn phòng tôi ở có ma. Mấy năm trước có kẻ bị giết và chặt khúc ra ngay trong đó.” Tôi vừa nói vừa chém bàn tay ra dấu. “Cô không biết ở đây nhiều ma lắm à?”

“Không. Tôi không biết.”

“Cô không thấy là bà chủ khách sạn và các nhân viên là người/ma sao?”

“Tôi không hiểu ý anh. Người/ma? Nghĩa là thế nào?”

“Nghĩa là họ nửa người, nửa ma. Cô không thấy hầu hết bọn họ là như thế hay sao?”

“Có vẻ như anh cần chút thời gian để bình tĩnh lại. Thú thật, tôi không thích đùa kiểu này và chúng ta không nên tiếp tục câu chuyện theo cái hướng ma quái này nữa. Nếu anh muốn tìm nơi để trút những thứ nhảm nhí đó thì, xin lỗi, anh tìm sai người rồi.”

Người bồi đến, chìa ra cuốn thực đơn bìa nâu, những tờ bên trong được bọc nylon nhàu nhò. Cathy gọi một ly Rhum, tôi cũng gọi như vậy.

Thấy cô im lặng ra vẻ phản đối, tôi nối lại câu chuyện bằng kể vắn tắt về mình và dự định của chuyến đi này. Cathy nghe, lơ đãng. Cô nheo mắt cười khi nghe tôi nói đến dự định viết một cuốn sách, nhưng không hỏi gì thêm. Cô chuyển đề tài.

“Rượu Rhum nội địa ở đây không ngon lắm, nhưng rất rẻ. Nếu mua nguyên chai ở tiệm tạp hoá thì chỉ hơn 1 đô-la. Các loại rượu nội địa làm bằng gạo khác thì cũng rẻ. Còn các loại rượu ngoại đều đắt, thường đắt hơn cả bên Mỹ, và nhiều phần là hàng giả.”

“Làm sao cô biết rành vậy?”

“Tôi đã sống ở đây đủ lâu để biết.”

“Là bao lâu?”

“Ba năm.”

“Cô làm gì ở đây đến ba năm?”

“Tôi làm thiện nguyện cho vài tổ chức phi chính phủ, và đi dạy.”

“Tuyệt nhỉ. Cô dạy gì?”

“Lăng nhăng, dạy tất cả những gì tôi biết mà người địa phương không biết, và ngược lại, học những gì họ biết mà tôi không biết, chủ yếu là dạy tiếng Anh. Tôi có thể dạy về critical thinking, [2] nhưng ở đây người ta còn dè dặt với môn này.”

“Nếu tôi không lầm thì cha tôi kể rằng ông đã ngồi ở đây, ngay quán này, ngay hành lang này. Không chừng ông đã ngồi ngay cái ghế mà tôi đang ngồi.”

“Hay nhỉ? Anh có chắc về điều đó không? Anh có thấy những điều ngẫu nhiên đều rất tuyệt phải không?”

“Ừ. Những điều ngẫu nhiên đều rất thú vị. Tôi nghĩ là đúng như vậy. Cha tôi đã ngồi ở ngay đây. Ông đã tả nơi này rất tỉ mỉ, với tôi. Ông đã tả búi dây điện trước mặt mình. Cái sân cho trực thăng đáp ở lưng chừng toà nhà ngoài xa xa kia. Căn nhà mái tôle lụp xụp đối diện bên kia đường, ông thắc mắc không hiểu vì sao họ không chịu sửa sang cho đồng bộ với những căn khác. Gánh hàng rong trên vỉa hè. Ông thắc mắc vì sao những chiếc ghế nhựa lại chịu nổi trọng lượng của người Tây phương, và vì sao họ lại có thể nhét cái mông to vào nó. Món rượu Rhum pha với nước trái quýt. Nước mưa làm chạm điện bắn lửa lẹt xẹt. Tiệm bán áo thun cho khách du lịch ở bên kia đường. Ông đã ngồi ngay đây. Bây giờ thì tôi có thể khẳng định vậy. Ông ngồi đây với cái laptop, vừa uống Rhum, vừa hút thuốc, vừa viết một truyện ngắn.”

“Không phải trái quýt. Trái này nhỏ hơn trái quýt, người ta gọi là trái tắc. Ba anh là nhà văn à?”

“Ừ, ông ấy viết thơ và truyện. Bằng tiếng Việt. Tôi có đọc, nhưng không hiểu gì nhiều, và không thích lắm. Ở Mỹ, tôi có học đọc và viết tiếng Việt ở chùa trong vùng.”

“Ông viết chuyện gì ở chỗ này?”

“Ông viết về những con rồng. Ông kể chuyện ông được bạn cũ mời đi ăn thịt rồng, ngay trong quán này, ăn xong thì ói ra máu. Chắc là ông bị lừa ăn nhầm một thứ thịt thú nào đó, và bị ngộ độc.”

“Có lẽ là vậy. Hoặc là anh đọc nhầm, hoặc ông ấy viết nhầm. Ở Việt Nam người ta chỉ ăn thịt rắn, trăn, các loài bò sát. Và côn trùng. Và hằng trăm thứ thịt thú hoang khác. Nhưng không có thịt rồng. Làm gì có komodo dragon [3] ở xứ này mà ăn!”

“Không, không phải chuyện thật, ông hư cấu mà.”

“Ừ, vậy à. Hư cấu thì được.”

Tôi nhằn ra hai hột trái tắc trong ly rượu của mình. Vị Rhum hăng, nhưng nhạt. Những viên đá tròn tròn chạm vào thành ly lanh canh, tan nhanh.

Cathy nói tiếp.

“Người ta ăn đủ thứ thịt. Một số khách du lịch đến từ Tây phương có thể ăn được thịt chó, thậm chí thịt mèo. Họ xem việc đó như là một bằng chứng, một điểm son, về khả năng hội nhập và tính hoà đồng của họ. Tôi không ăn. Người Việt uống cả mật con gấu pha với rượu. Họ nuôi gấu để lấy mật khi nó đang sống. Lấy mỗi ngày. Đâm ống tiêm vào bụng gấu rồi hút chất mật ra. Người ta nuôi con gấu như cách mở một trương mục ngân hàng. Rút mật nó như người ta rút tiền khi cần tiêu xài. Tôi có ông bạn ở Hà Nội làm như vậy. Ông bảo, ‘Tôi đãi cô một ly rượu quý nhé.’, rồi sai người lấy ống tiêm rút mật con gấu đang nuôi trong chuồng ở góc vườn ra, pha vào rượu nếp màu trắng đục, loại rượu như Volka, mời tôi.”

“Cô uống thấy ngon không?”

“Không, tôi không uống được, tôi ói.”

“Cô dở ẹt.”

“Tôi không làm chuyện man rợ.”

“Ai tưởng mình đang đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã. Thánh Phaolô nói như thế.”

“Dẹp câu châm ngôn lạc điệu và ông thánh man rợ của anh đi. Ông ấy đâu có uống mật gấu bao giờ.”

“Ở Ấn Độ người ta ăn cả cứt khỉ và uống nước đái bò.”

“Có người cho rằng cứt khỉ ở Ấn Độ thơm ngon như sô-cô-la của Bỉ. Nhưng chuyện đó khác với việc uống mật rút ra từ bụng con gấu khi nó còn sống. Sau này tôi nghe kể rằng con gấu đó đã nhịn ăn rồi chết. Nó tự sát. Ở Phương Đông này, loài vật cũng biết tự sát như loài người. Khi một sinh vật không còn hài lòng với đời sống nữa thì nó tự kết liễu.”

“Vậy sao? Cô không thích ứng với những thứ văn hoá lạ thì làm sao cô có thể sống được ở đây, và ở những vùng xa lạ khác trên thế giới?”

“Tôi thích ứng với các thứ văn hoá lạ, chỉ không thích ứng với sự man rợ, sự ác độc. Cha tôi từng đi lính ở đây 4 năm khi vừa lớn. Ông bảo ông đã trưởng thành nhờ khoảng thời gian này. Ông bắn người khác và bị họ bắn. Tôi không biết ông ấy có tự tay giết ai không, ông không kể, nhưng chắc mẹ tôi biết. Khi đó tôi chưa ra đời. Ông cho tôi xem sẹo và những miểng đạn được lấy ra từ thân thể. Đó cũng là một trong những lý do khiến tôi đến và ở lại đây. Tôi đi tìm cái hình ảnh và đoạn đời ông ấy đã sống, và của mẹ tôi.”

“Tôi cũng có ý định đó, tìm lại hình ảnh của các thế hệ trước, những người trong gia đình tôi, vì họ gọi nơi này là quê hương, ‘quê hương của chúng tôi’. Còn cô thì khác, nơi này có liên quan gì nhiều với cô đâu? Cô có xem nó là quê hương đâu. Cô tìm cái quá khứ của ông ấy để làm gì vậy?”

“Sao lại không liên quan? Trong tôi có nửa phần là Việt Nam mà. Tuy nhiên, tôi tìm cái phần đó chẳng để làm gì cả. Nó như một thôi thúc bí mật. Tôi không lý giải được sự thôi thúc đó.”

“Vì sao cô bắn tôi?” Tôi giơ tay ra dấu.

“Vì sao anh ôm ngực mà không ôm dái? Khi đó anh đang truồng tồng ngồng.”

“Vì tôi không muốn cô không thấy tôi đang truồng tồng ngồng.”

...

“Vì sao bây giờ cô bỏ đi khỏi đất nước này?”

“Tôi muốn thay đổi trong một thời gian.”

“Ba năm là khoảng thời gian không ngắn chút nào.”

“Nhưng bây giờ thì mọi chuyện đã khác, tôi hiểu tôi cần làm gì. Với lại, giờ đây Việt Nam hay một nước nào ở châu Phi hay Trung đông chắc cũng không có gì quan trọng hơn nhau. Tôi còn cả một thế giới để khám phá và 2/3 cuộc đời để sống. Tôi không thấy mình có trách nhiệm hay ràng buộc gì với cái quá khứ của cha mẹ mình nữa. Cái quá khứ mà tôi không có mặt.”

Cathy dừng lời, uống một ngụm, nói tiếp.

“Tôi sắp đi khỏi đây. Tôi đã đặt vé, đã thanh toán gần hết đồ đạc, đã dọn nhà, chỉ ở khách sạn vài hôm để lo cho xong việc, rồi đi.”

“Tôi có thể biết cô đi đâu không?”

“Tôi về Mỹ.”

“Cô có thấy uổng phí khi bỏ ra 3 năm sống ở đây không?”

“Tôi đã sống. Và đã hài lòng. Giờ thì muốn làm chuyện khác.”

“Cô mang gì về Mỹ?”

“Những câu chuyện.”

“Như chuyện gì?”

“Chuyện này chuyện kia. Như chuyện cha anh từ Mỹ về đây viết truyện ăn thịt rồng rồi quyết định không trở lại. Như chuyện tôi đi tìm con cá trê nặng hàng trăm ký ở sông Mê-kông, rồi hiểu ra rằng nó chỉ là chuyện nhảm, con cá đó chỉ là huyền thoại. Chuyện anh gặp ma và thấy người ta là người/ma. Đại khái những chuyện như vậy, chuyện có khi là thật mà nghe như huyền thoại.”

“Vì sao chỉ là huyền thoại?”

“Vì đây là một đất nước mà người ta sống bằng huyền thoại, có lịch sử được xây dựng bằng huyền thoại. Món này ở Mỹ thiếu, ở đó không có. Ở đó chỉ có những huyền thoại kiểu như Bill Gates.”

“Tôi định sẽ sống ở đây một thời gian. Cô có lời khuyên nào cho tôi không?”

“Có. Anh phải tìm thuê một phòng trọ cho ít tốn tiền, ở quận 3 hoặc Phú Nhuận cũng được, không xa lắm, hay ra ngoại ô ở Thủ Đức hay Bình Chánh. Nhưng đừng sống ở ngay quận 1, anh sẽ bị luộc chín vì sự hào nhoáng và tốn kém. Anh mua lại chiếc xe gắn máy của tôi để dùng, chỉ 500 đô-la thôi, cũ nhưng tốt. Anh nên đi chơi một vài chuyến, ra Hà Nội và miền Bắc, vào miền Trung, cũng nên đi Campuchia và Lào cho biết, đó là những đất nước tuyệt vời. Đi du lịch ở đây là rẻ nhất. Rồi xin đi dạy Anh văn để sống qua ngày trong khi làm quen với mọi thứ ở Việt Nam và tìm công việc khá hơn. Người ta tin rằng Anh văn là chìa khoá để mở cửa ra thế giới. Rồi tìm một cô bạn gái để sống chung, để học tiếng Việt và cho đỡ cô đơn. Tôi cũng đã từng có một anh bạn trai người Việt. Còn đêm nay thì hãy khoan tính đến việc ngủ với tôi. Tôi chưa sẵn sàng. Nếu anh cần thì hãy xuống dưới kia, có các cô mặc áo thun, váy và quần sọt ngắn. Giá chừng 30 cho tới 70 đô-la. Tôi khuyên anh nên dùng bao cao-su, và cẩn thận với những thứ như đồng hồ, ví, mắt kính… kẻo bị chôm mất, và hãy trả giá. Bọn đàn ông kể với tôi về những kinh nghiệm chơi bời của chúng, và họ khuyên nhau như vậy.”

“Đồng ý và cám ơn cho lời khuyên. À, tôi có thể chạy xe gắn máy, nhưng tôi nghĩ tôi không chạy xe được ở đây. Tôi chưa từng hình dung ra có một nơi nào mà giao thông lại hỗn loạn như thế này. Vả lại, tôi không có bằng lái của Việt Nam.”

“Anh phải lái được xe gắn máy nếu anh muốn sống ở đây. Không có cách nào khác. Còn bằng lái thì không cần. Cái này thay thế cho bằng lái.” Cô lục ví chìa ra cho tôi xem một tờ giấy bạc màu xanh. Tôi không kịp nhận ra mệnh giá của nó. Cô nói tiếp:

“Anh phải luôn luôn có ít nhất là một tờ 100 ngàn trong ví. 100 ngàn là đơn vị căn bản để giải quyết hầu hết những rắc rối trong đời sống ở đây. Từ việc vi phạm luật giao thông cho tới việc giải quyết những xung đột khác.”

“Tôi chưa hiểu ý của cô.”

“Nghĩa là, anh hãy đưa một tờ bạc 100 ngàn cho cảnh sát khi bị thổi phạt, đưa hai tờ cho nhân viên hành chánh khi đi đăng ký tạm trú, đưa năm tờ cho du đãng khi sắp bị hành hung trong quán bar, vân vân… Nghĩa là nó hữu dụng trong hầu hết mọi trường hợp rắc rối. Hãy tập làm quen với giá hối đoái và dùng tiền Việt thay vì đô-la. Khi anh dùng đô-la ở đây, anh sẽ hoang phí vì thấy cái gì cũng rẻ.”

“Cô nghĩ điều này, việc hối lộ, là đúng trong mọi trường hợp?”

“Đúng vậy. Hai mươi năm trước, người ta không dùng tiền như đơn vị để hối lộ, mà dùng thuốc lá, loại có đầu lọc, thuốc lá ngoại nhập, thường là thuốc lá hiệu 555. Một điếu là mời hút xã giao, 10 điếu là cho vi phạm luật giao thông, 1 gói trở lên là cho các vấn đề nghiêm trọng hơn. Họ dùng thuốc lá cũng như người thượng cổ dùng vỏ sò để giao dịch vậy. Nhưng bây giờ thì mọi chuyện đã thay đổi rồi.”

“Cô nói thật chứ? Vì sao lúc đó họ không dùng tiền cho đơn giản hơn?”

“Người ta kể với tôi như vậy, và tôi tin thật. Vì đạo đức. Vì tập quán. Vì tâm lý. Vì văn hoá. Vì những thứ đại loại như vậy.”

“Tôi nghĩ cô nên viết một cuốn sách về những kinh nghiệm riêng. Với nội dung đại khái như thế này, ‘làm sao một du khách sống sót ở Việt Nam’ chẳng hạn.”

“Ờ, ý kiến hay, nhưng bây giờ thì muộn mất rồi.”

“Ly nữa chứ?”

“Không, nếu anh thích thứ này thì để tôi kêu nguyên chai, khỏi mất công gọi nhiều lần. Hôm nào nếu còn kịp thì tôi đưa anh đi chơi với những học trò của tôi. Tôi thích những người trẻ tuổi ở đây, họ dễ thương và nhiệt tình.”

“Ok. Đêm nay cô ngủ với tôi nhé? Nhưng tôi không thể làm tình với bao cao-su. Tròng bao cao-su thì chỉ là một màn tập thể dục chứ không phải làm tình.”

“Không. Nếu không thích những cô gái dưới kia thì hãy ngủ với những con ma của anh, cho quen.”

Cathy gõ cái bật lửa vào thành ly những tiếng leng keng. Người hầu bàn bước tới.

“Cho tôi một chai Rhum Hiệp Hòa, sô-đa, và nước đá nhé. Cám ơn anh.”


_________________________

[1]thế hệ chuối: banana generation
[2]critical thinking: tư duy phê phán
[3]komodo dragon: loài rồng đất ở Indonesia



9.

Viết như sáng tác là việc khó khăn. Tôi chỉ muốn ghi lại những điều mình nghĩ, hay thuật lại những gì đã xảy ra trong đời sống của mình, như một dạng nhật ký không theo trình tự thời gian nhất định. Vào năm tôi 16 tuổi, tôi đã bắt đầu có ý định ghi chép lại những sự kiện xảy ra trong đời mình. Tôi sẽ bắt đầu ghi chép những sự kiện mà mình còn nhớ trong thời thơ ấu.

Tôi có phần nhút nhát và cô độc, khá khó khăn trong việc kết bạn với bọn cùng lứa, và không chơi thân với ai từ khi bắt đầu đi học cho tới khi vào trung học. Tôi không có nhiều thành kiến. Tôi nghĩ rằng mình sẽ kết bạn với mọi người, bất kể chúng thuộc chủng tộc, màu da, trình độ, giàu nghèo, giới tính, tín ngưỡng... nào. Tuy vậy, sau này những đứa chơi thân với tôi nhất lại là bọn nhóc tì gốc Việt, nới ra một chút là bọn tóc đen gốc Á như Hàn và Hoa, chứ không phải bọn nhóc da trắng và da đen. Có lẽ, một cách vô thức, tôi thấy gần gũi về chủng tộc với chúng hơn là những đứa thuộc hai sắc dân kia, chứ không phải do kỳ thị.

Lúc còn bé, trò chơi thường khi của tôi là tưởng tượng. Tôi chỉ ngồi một góc đâu đó và tưởng tượng ra mọi tình huống mà tôi là vai chính trong đó. Những anh hùng và những trận chiến với đủ thứ quái vật.

Trận chiến đầu đời của tôi là một trận tơi bời hoa lá năm tôi lên 8 tuổi, năm đó cha mẹ tôi chưa li dị. Đối thủ là con bé Lucia, cha mẹ nó thuê cùng chung khu nhà với cha mẹ tôi. Nó cũng 8 tuổi, nhưng người đậm chắc, cao hơn tôi vài phân. Da rám, mắt xanh biếc, có khi tôi thấy mắt nó ranh ác, hoang dã như mắt mèo, làm liên tưởng tới một loài thú ăn thịt, môi dầy mọng, đỏ tươi. Chúng tôi học cùng trường, nhưng khác lớp. Nó cũng là con một như tôi.

Dạo đó, cha mẹ tôi thuê một căn trong dãy phòng 6 căn xây sát liền nhau theo hình chữ L. Sau lưng dãy nhà là sân chơi khá rộng, thảm cỏ dày, những bụi hoa được trồng rải rác đây đó. Có mấy cây lê sai trái, đến mùa trái chín rụng đầy đất, nhưng không ai thích ăn vì chúng chua chứ không ngọt như lê mua ngoài siêu thị. Khi chúng tôi dọn về thì nhà của Lucia đã sống ở đây 2 năm rồi. Chủ khu nhà là bà Nicky, người Hoa, đến Mỹ từ Hồng Kông. Khu vực này vắng, nằm cách bìa rừng không xa, giá nhà cho thuê khá rẻ. Những nhà kia không có trẻ con để chúng tôi làm bạn cùng, do đó Lucia và tôi là 2 đứa bạn duy nhất trong khu nhà. Mùa đông, mỗi sáng 2 đứa trùm kín áo lạnh dày đến mấy lớp, trông như 2 cái nấm biết đi, lủi thủi lội tuyết đi học. Khi thì cha mẹ tôi, khi thì cha hay mẹ Lucia, dắt chúng tôi ra ngã ba đầu đường đứng đón xe buýt của trường đến chở, chiều cùng về chung. Nó tròn miệng khó khăn gọi tôi là Quân, như mẹ tôi gọi. Tôi thì dễ dàng hơn khi gọi nó là Lu.

Cha của Lucia — ông Feathers — làm thợ sửa mọi thứ lặt vặt,[1] nhưng có vẻ như ông không có việc làm thường xuyên. Tôi thấy có khi ông không đi làm cả tuần, chỉ ngồi nhà nhậu bia. Ông nhận thêm việc quản lý khu nhà cho bà Nicky, có trách nhiệm sửa chữa những hư hỏng lặt vặt như điện nước, máy giặt, thông ống cống, sơn cửa, cắt cỏ... trong khu nhà. Còn bà Betty, mẹ của Lucia, thì tôi nghe nó nói bà làm kế toán viên, nhưng tôi thấy bà cũng thường ở nhà như chồng. Những hoạt động của bà mà tôi thấy là đọc sách hoạt hình, nấu mì spaghetti, [2] và uống bia với ông chồng. Mẹ tôi nói thầm với cha tôi, nhưng tôi nghe được, rằng có lần bà thấy Betty trả tiền ở siêu thị bằng phiếu thực phẩm.[3]

Thời đó, Toys-R-Us [4] bán nhiều đồ chơi, nhưng chưa có các loại đồ chơi điện tử. Cha mẹ tôi ít khi mua đồ chơi cho tôi. Không phải ông bà không cưng chiều tôi, cũng không phải ông bà không có tiền, nhưng họ cho rằng tôi không nên phí thời gian cho việc chơi những trò chơi vô bổ. Thỉnh thoảng cha tôi mua video phim hoạt hình cho tôi xem. Lion King [5] là cuốn phim tôi thích nhất năm tôi 6 tuổi. Nhưng cuốn phim gây ấn tượng sâu đậm nhất là một cuốn nói về đời sống một gia đình khủng long. Có hôm, mẹ tôi phát hiện tôi nằm trong phòng một mình, xem phim này và khóc, khi tới đoạn con khủng long con đứng bơ vơ trên sườn núi, cha mẹ nó vừa bị một con khủng long ác độc giết. Tôi vừa thích vừa ghét cuốn phim; ghét vì không kềm được nước mắt khi xem đến đoạn đó, nhưng một điều gì cứ thôi thúc tôi xem đi xem lại nó nhiều lần cho đến thuộc lòng mọi tình tiết. Vừa xem đoạn đầu là tôi đã hồi hộp mong chờ đến đoạn con khủng long mồ côi chơ vơ bên sườn núi, để khóc thầm thương cảm nó.

Tôi có chiếc xe đạp, loại xe có gắn 2 bánh phụ ở sau để dễ tập, nhưng tới khi tôi có thể chạy giỏi thì cha tôi tháo chúng ra. Lucia cũng có một chiếc nên mỗi chiều hai đứa rủ nhau chạy xe lòng vòng. Cha của Lucia lấy dây thừng treo cái vỏ xe cũ lên cành cây lê làm cái xích đu. Thường khi, tôi và Lucia chơi chung cái xích đu ấy rất hoà thuận. Tôi leo lên thì nó đứng đẩy, rồi đổi phiên. Thỉnh thoảng mẹ nó nấu mì spaghetti thêm phần cho tôi, mẹ tôi cũng chiên chả giò đãi nó. Khi mẹ tôi bận việc trong một hai giờ thì bà gởi tôi qua bên nhà nó chơi, hoặc xem ti-vi, và ngược lại cha mẹ nó cũng vậy. Tôi bập bẹ tập nói những câu đơn giản bằng tiếng Spanish khi ở nhà nó, nó cũng tập nói tiếng Việt khi sang nhà tôi chơi. Càng ngày tôi cảm thấy càng thích nó. Tôi thích chơi với nó hơn với bất cứ đứa con trai, con gái nào khác. Tôi thấy nó đẹp hơn tất cả mọi đứa con gái trong trường mà tôi biết. Có nhiều đêm tôi mơ thấy nó. Những giấc mơ rối rắm làm tôi thấy vừa thích thú vừa bất an.

Trong dãy nhà 6 căn có một căn nằm ở góc cuối, kề bên phòng để máy giặt, sát với sân chơi, còn để trống vì chưa có người thuê, cửa không khoá, chỉ khép hờ để phòng khi có người muốn đến xem thì mẹ Lucia hướng dẫn và giới thiệu thay cho bà Nicky. Một hôm, chỉ có hai đứa tôi tha thẩn ngoài sân, Lucia lôi tôi vào căn nhà đó. Mùa này, lá đang đổi màu, đứng bên cửa sổ chúng tôi có thể ngắm được bìa cánh rừng phong vào mùa chớm thu. Có thể thấy sắc độ của lá thay đổi từng ngày, từ xanh sang vàng, sang nâu đỏ, rồi rụng. Ai bảo là đẹp chứ tôi chỉ thấy nhàm chán, chỉ mong lá rụng hết cho mau đến cuối năm, mùa nghỉ lễ.
Tôi đang nghĩ vẩn vơ thì bỗng dưng Lucia nhìn chăm chăm vào mắt tôi.

“Cha mẹ mày trả tiền nhà đúng hạn không?”

“Đúng chứ. Mẹ tao luôn trả vào ngày 5 mỗi tháng.”

“Cha mẹ tao không trả 3 tháng rồi. Nicky ngày nào cũng gọi điện thoại cho mẹ tao.”

“Không sao đâu. Bà ấy sẽ trừ tiền lương của cha mày vào tiền nhà thôi.”

Lucia im lặng. Nó ngó mông lung ra ngoài vạt rừng, rồi quay lại nhìn tôi như cân nhắc chuyện gì hệ trọng.

“Mày muốn nhìn tits [6] của tao không?”

Bất ngờ, nhưng tôi trả lời ngay.

“Muốn chứ.”

“Mày có nói lại với ai chuyện này không?”

“Tất nhiên là không.”

“Không, kể cả cha mẹ của mày chứ?”

“Tất nhiên.”

“Làm sao tao tin được là mày sẽ không nói?”

“Tao thề. Tao sẽ không nói với ai đâu.”

“Mày chỉ được nhìn thôi nhé.”

“Tao hứa, chỉ nhìn thôi.”

“Nhưng này, vì sao mày muốn nhìn tits của tao?”

“Tao không biết. Chắc vì mình là bạn thân, nên mày cho tao nhìn.”

“Mày úp mặt vào tường đi. Khi nào sẵn sàng thì tao nói quay lại thì hẳn quay lại.”

Tôi úp mặt vào tường. Tôi hồi hộp. Tôi chưa từng thấy vú người phụ nữ nào ngoài đời thật, ngay cả vú của mẹ tôi cũng chưa từng thấy, hay có thấy hồi còn nhỏ mà đã quên mất rồi. Tôi chỉ thấy vú trong hình hoạt hoạ, nhưng cũng không phải toàn phần, thường các cô gái trong hình được vẽ đôi vú thật to tràn ra khỏi xú-chiêng trên cái eo thật bé, trông không cân đối chút nào.

Tôi từng tưởng tượng mình được nhìn vú của Lucia.

“Ok. Mày quay lại đi.”

Tôi quay lại. Lucia đã cởi cái áo thun ra, bên dưới bụng chỉ còn chiếc váy hoa. Nó đứng chếch với ánh nắng chiều chiếu vào từ khung cửa, mái tóc sáng lên óng ả.

Tôi bước lại, cách nó chỉ một bước, quan sát. Lỗ rốn không có gì khác với rốn của tôi. Da bụng nó phẳng, phập phồng. Gò ngực nổi căng, trắng. Hai núm vú hồng hồng, nhỏ bằng hạt đậu, ở giữa vòng rám nâu. Những sợi gân xanh xanh nổi mờ mờ trên gò. Tôi đứng sững, hoa mắt, thở dồn dập. Tôi chết mất. Tôi thèm sờ, thèm ngửi, thèm hôn lên vú nó quá.

“Tao sờ nhé?”

“Sờ đi. Nhẹ thôi.”

Tôi đưa tay phải sờ lên bên vú trái của nó. Nâng lên một chút, gờ vú nằm tràn ra bàn tay tôi. Tôi thoa ngón tay lên núm vú, thật nhẹ. Tôi liếc nhìn lên. Lucia đang nhắm nghiền mắt. Nó bước lui một bước dựa hẳn vào tường. Tôi tiến lên theo. Tôi đánh liều, cúi xuống, hôn. Nó ôm lấy đầu tôi, áp mặt tôi sát thêm vào. Tôi hôn và liếm mút núm vú bé tí, bên này rồi bên kia, đê mê. Tôi thèm hít hà ngấu nghiến, nhưng không dám. Mùi da thịt nó gây gây xông vào mũi. Không dưng tôi buồn đái quá, bụng tức căng.

Tôi vòng tay ra sau lưng, ôm siết nó, hôn lên mặt. Lucia áp miệng nó vào miệng tôi. Miệng nó nồng, nhiều mùi hăng hăng, tôi nhận ra mùi tỏi của món spaghetti. Lucia lùa lưỡi vào miệng tôi, răng nó chạm vào răng tôi, nước bọt của nó trào vào miệng tôi. Tôi tê điếng, ngạt thở. Khi nó buông ra thì tôi quỵ xuống, thở hổn hển. Tôi mơ hồ biết còn một bí mật nữa. Tôi kéo tay cho nó quỳ xuống ngang tầm.

“Làm nghen?”

“Làm cái gì?”

“Làm chuyện đó... fuck...”[7] Từ fuck này tôi học được từ những người lớn, bọn nhóc đôi khi cũng nói.

“Fuck? Không...”

“Sao không?”

“Mình không biết làm. Mày không biết, tao cũng không biết.”

“Mày cũng muốn mà. Mình sẽ làm được mà.”

“Không...”

Tôi luồn tay lên đùi nó, lòn vào váy, chạm làn vải quần lót. Tôi cố luồn ngón tay vào trong, nó giằng tay tôi ra.

“Ngưng lại.”

“Không, làm đi mà.”

“Ngưng lại. Mày đang làm tao đau.”

“Không, làm đi, tao sẽ làm nhẹ.”

“Mày không biết làm.”

“Tao biết...” Tôi nói dối, thật ra tôi không biết gì cả.

“Không... Ngừng lại.”

“Vì sao?”

“Vì... con nít không được fuck.”

“Vì sao không được?”

“Vì con nít fuck sẽ có bầu!”

Tôi choáng váng. Tôi có nghe loáng thoáng đâu đó chuyện có bầu này nhưng chưa bao giờ thật sự hiểu.

“Làm sao con nít có bầu được?”

“Có chứ. Con nít rất dễ có bầu. Không chừng mày hôn tao cũng làm cho tao có bầu rồi.”

Tôi không ngờ mình có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng như vậy.

“Ai nói với mày như thế?”

“Mục sư nói. Mẹ tao cũng nói. Có bầu thì sẽ sanh em bé.”

Nó xô tôi bật ra sau, ngã ngửa ra đất. Nãy giờ tức bụng quá, tôi không kềm được nữa. Tôi thấy mình đang đái ra quần.

“Không tình dục, không ma túy [8] cho tới khi thật sự lớn, mẹ tao bảo vậy.” Lucia quyết liệt khẳng định.

Lucia đứng dậy, bước lui ra khỏi tầm tay tôi, vơ áo tròng vào. Tôi nằm im trong nỗi phức cảm kỳ quặc, vừa xấu hổ vừa đau đớn, vừa sướng khoái, vừa lo lắng. Sướng khoái vì tôi đái được ra ngoài, giải phóng được lượng nước tiểu ứ tràn, tức thốn trong bọng đái. Nước tiểu lan dần ra nền gỗ. Tôi nằm im giữa vũng nước, lưng ướt mèm.

Lucia bước tránh ra khỏi vũng nước.

“Thấy chưa, mày đái rồi kìa. Mày có biết làm đâu.”

“Mày cũng đếch biết.”

“Tao biết. Tao đã thấy cha mẹ tao làm.”

“Vậy sao mày không bày tao?”

“Thôi, hôm nay chừng đó là quá nhiều rồi. Mày không được nói với ai đấy.”

“Ừ, tao không nói.”

“Tao về đây. Bí mật nghen.”

“Bí mật.”

“Mãi mãi!”

“Mãi mãi!”

“Bye.”


“Bye, Lu.”

...

Sau hôm đó mọi chuyện giữa tôi và Lucia vẫn bình thường; đi học chung, chạy xe chung, nhưng nó không rủ tôi ra bìa rừng chơi và vào căn nhà trống nữa. Tôi muốn trải nghiệm lại những cảm giác phê ngất đó, nhưng sợ nó giận, không dám đề nghị. Không đêm nào tôi không khắc khoải nhớ hình ảnh đôi vú và mùi thân thể nó.

Tuần sau, một buổi trưa thứ Bảy, tôi thấy Nicky và Betty cãi nhau gì đó trước hiên nhà. Nicky đùng đùng bỏ đi ra xe. Betty xô cửa đánh sầm. Nicky ngoái lại nói:

“Này, đừng xô cửa như vậy. Tôi là chủ nhà, các người là người thuê nhà. Cái cửa là của tôi đấy!”

...

Chiều tắt nắng, trời đang tối dần. Trên khoảnh sân sau không có ai ngoài hai đứa tôi tha thẩn chơi bên cái vỏ xe xích đu. Không dưng một điều gì tối ám khiến tôi cảm thấy bực tức với Lucia mà tôi không biết nguyên nhân rõ ràng. Tôi muốn doạ nó, muốn làm cho nó đau, muốn làm cho nó sợ. Xong phiên tôi ngồi xích đu cho nó đẩy, tới phiên Lucia ngồi cho tôi đẩy. Tôi đẩy mạnh. Tốc độ cứ tăng dần cho tới khi không còn kiểm soát được. Cái vỏ xe bay vùn vụt tít lên cao. Ban đầu Lucia thấy thích, nhưng rồi hoảng sợ, hai tay bíu chặt dây, nó la ré lên bảo tôi dừng lại. Tôi không dừng. Lucia thét:

“Dừng lại, Quân, dừng lại ngay! Tao ngã.”

“Ngã đi. Ngã đi, Lu...”

“Mày ác quá! Tao nhảy đây.”

“Nhảy đi.”

“Tao nhảy thật đó...”

“Nhảy đi!”

Nó nhảy thật. Nó nhắm mắt, buông tay, lao ra khỏi vòng vỏ xe, thân hình văng xa, lăn mấy vòng ra bãi cỏ. Cái vỏ xe mất đi trọng lượng, xoay vù tùng phèo trên không trung. Lucia nằm im thin thít. Tôi chạy lại, cúi xuống lay con bé, nó vẫn không nhúc nhích. Tôi chưa biết phải xử trí làm sao. Bất thần, Lucia bật dậy, một tay bíu lấy áo tôi, chân thì đạp, tay kia nện vào mặt tôi túi bụi. Tôi trúng một đạp vào bụng, ngã ngửa ra, đau đến tức thở. Lucia chồm lên đè nghiến tôi xuống, cỡi lên bụng, vừa đấm vừa cào. Tôi không xoay xở gì được, chỉ cố che mặt khỏi những cú cào đầy móng tay sắc lẻm của con bé.

“Đồ ác độc. Sao mày làm vậy với tao?” Nó gào vào mặt tôi.

“Không, không. Tao xin lỗi...”

“Mày biết là mày có thể giết tao vì trò đó không?”

“A, a, đau...”

Lucia buông tôi ra, đứng dậy. Lúc này tôi mới nhìn rõ nó. Hai cùi tay nó xây xước rướm máu. Áo thun rách toạc tới nách, ló ra một phần ngực nhu nhú. Má trái đỏ bầm một vạt lớn do bị nện mạnh xuống đất.

Tôi co rúm dưới đất. Vừa đau vừa xấu hổ.

Lucia co chân đá vào lưng, tôi oằn mình. Tôi nhìn lên khi nó sắp đá cú thứ hai, chiếc váy đỏ tung bay, bên trong quần lót cũng màu đỏ. Bàn chân nó sượt vèo qua gáy tôi. Hụt chân, Lucia quỵ xuống, ngồi bệt hẳn mông lên mặt tôi. Hai bắp chân to bè kẹp hai bên má tôi. Tôi không còn thấy đau. Tôi không thấy nặng. Tôi ngửi thấy mùi mồ hôi, rồi mùi khai nồng nồng giữa đùi nó, rồi cảm giác ươn ướt của nước tiểu từ từ tràn trề xối trên da mặt, thấm lên lưỡi tôi, chảy vào mắt tôi cay xè, chảy vào mũi tôi sặc sụa.

Tôi không giẫy giụa. Tôi nằm yên. Nằm yên để nước chảy tràn trên mặt, xuống đầu, xuống cổ, xuống lưng. Nước tiểu nóng hôi hổi. Lucia cũng ngồi yên, bất động. Một cảm giác kỳ cục mà kích thích đến tột độ dâng lên thật nhanh. Chúng tôi giữ nguyên tình trạng đó trong một lúc lâu.

Lucia chuồi người cúi xuống, vuốt má tôi, hôn lên mặt tôi. Tôi cảm thấy lưỡi nó liếm nước tiểu bám trên da mặt tôi, rồi rê tìm miệng tôi. Tôi vói tay lên kéo nhẹ vai nó, Lucia trườn người nằm xuống, áp sát lên thân tôi. Áo sơ-mi ướt đẫm của tôi bung nút, áo thun nó trật ra, da bụng của hai đứa áp vào nhau, lèm nhèm nước, trầy trật trơn tuột. Tôi ngẩng đầu, vùi mặt lên phần ngực nhu nhú của nó. Những chiếc bong bóng bé tí đọng trên da trắng phập phù.

Màu vải đỏ. Ngấn thịt trắng trên bụng Lucia. Tàng cây cao chấp chới. Gờ tường xi-măng khô. Bầu trời tối dần. Đám mây trôi ngang như một đụn khói lớn. Đừng, đừng xê dịch. Lu ơi, đừng nhúc nhích. Thế giới ơi, hãy ngưng lại, hãy bất động. Bất động vĩnh viễn. Tôi thầm mong vậy.

Có tiếng xe dừng ngoài đường. Lucia lóng ngóng chống tay ngồi lên, trượt ra khỏi thân tôi. Nó nói, khi đứng dậy:

“Mày thề là không được kể với ai nhé!”

“Tao thề!”

“Giữ lời đấy!”

“Mãi mãi.”

Lucia chần chừ một giây, dường như còn muốn nói thêm điều gì nữa nhưng đổi ý, rồi quay đi, bước về phía nhà nó. Trước khi biến mất sau cánh cửa, nó quay lại đưa ngón trỏ tay phải quẹt ngang cổ, ra dấu doạ cắt cổ tôi như bọn băng đảng trong phim hay làm, rồi vòng ngón trỏ và ngón cái lại thành một vòng tròn. Tôi hiểu cái dấu cắt cổ nhưng không hiểu ý nó muốn nói điều gì bằng cái vòng tròn, tôi nghĩ về điều đó mãi.

Tôi nằm im, ngửa mặt nhìn lên những trái lê treo lủng lẳng trên cao. Ánh nắng cuối cùng của buổi chiều tắt hẳn. Im vắng.

Từ sau hôm đó, cái xích đu không còn là trò chơi chung nữa. Mặc cho tôi nói gì, thậm chí xin lỗi, Lucia nhất quyết không làm bạn với tôi. Chấm dứt luôn những chiều chạy xe đạp. Không đứa nào chịu sang nhà đứa kia như trước. Mẹ Lucia không gọi tôi sang ăn mì nữa, tôi muốn lắm nhưng không sang, vì tôi có sang làm hoà thì Lucia vẫn giữ mặt lạnh tanh, không thèm trò chuyện với tôi, dù chỉ một lời. Hình như Betty đoán biết có chuyện gì bất thường giữa chúng tôi, bà nhìn tôi dò xét.

“Có chuyện gì giữa mày và Lu hả?”

“Thưa bà Betty, không có gì đâu.” Tôi nói dối.

“Thật vậy chứ?”

“Vâng, thật.”

“Lu là đứa con gái ngoan. Mày chơi dễ thương với nó nhé.”

“Vâng, thưa bà Betty.”

Tôi cũng không thể kể nguyên do mọi chuyện với mẹ hay với cha, hay với bất cứ ai. Tôi nghĩ, chắc nó còn giận hay đã có bạn chơi khác nên lơ tôi. Tôi nhớ từng chi tiết của hai buổi chiều đó, không nguôi, trong suốt hai năm. Còn mùi khai nồng và ấm nóng từ giữa hai chân nó thì có lẽ sẽ đeo đuổi tôi đến cuối đời.

Mùa xuân năm sau, cha mẹ tôi dọn nhà sang nơi khác tốt hơn. Dọn nhà là chuyện bình thường với chúng tôi. Tôi không còn nhớ hết những nơi mà chúng tôi đã dọn đến và dọn đi trong quãng thời gian 10 năm sau khi cha mẹ tôi không còn sống với nhau. Thỉnh thoảng, tôi gặp lại Lucia ở trường.

“Chào Lu, khoẻ không?”

“Chào Quân, cũng vậy vậy.”

“Betty và Feathers có khoẻ không? Mày còn ở Holly Park không?”

“Họ cũng thường. Không, gia đình tao không còn ở đó nữa.”

“Vậy nhà mày dọn đi đâu?”

“Tao ở đâu mặc kệ. Không việc gì đến mày.”

Giọng nó dấm dẳng. Rồi nó bỏ đi. Câu chuyện thường chấm dứt ngay ở đó cho dù tôi có cố gắng đến thế nào đi nữa.

Một hôm, tôi nhất quyết phải hỏi cho ra lẽ.

“Tao có làm lỗi gì mà mày giận tao? Vì sao mày không muốn chơi với tao nữa?”

“Vì tao ghét bọn chink [9] chúng mày.”

“Chink? Mày gọi tao là chink?”

“Ừ, đúng vậy, chink!”

“Tao không phải chink.”

“Vậy mày là gì?”

“Tao là người Việt.”

“Không, cha mẹ mày là chink thì mày cũng là chink tuy rằng mày nói tiếng Anh. Mày ăn burger [10] và uống cô-ca không có nghĩa là mày là người Mỹ!”

“Người Việt không phải là người Hoa, không phải là chink.”

“Thì cũng là chink!”

“Không phải vậy. Mày ngu lắm. Người Việt, người Thái, người Nhật, người Hoa đều ở châu Á, nhưng là những dân tộc khác nhau.”

“Tao thấy không khác. Chúng mày và mụ Nicky đều là chink như nhau.”

“Vì sao mày ghét chúng tao?”

“Đây không phải đất nước chúng mày. Chúng mày ăn chặn chúng tao. Chúng mày lấy công việc của chúng tao. Chúng mày bắt chúng tao phải trả tiền nhà với giá cắt cổ cho chúng mày trên đất nước chúng tao. Chúng mày nên về nước của mình mà sống.”

“Không phải, tao sanh ra ở đây, đây là nước của tao! Mày là đồ kỳ thị chủng tộc!”

Đôi mắt xanh biếc của nó long lên, “Chink, cút đi!”

Tôi chỉ muốn nhào đến bóp cổ nó ngay lúc đó. Tôi biết mọi chuyện đã vượt qua giới hạn, không thể cứu chữa hay thay đổi tình huống nữa rồi. Lucia không còn là bạn của tôi. Không bao giờ chúng tôi có thể nói chuyện với nhau. Tôi đã mất nó.

Sau này, khi lớn lên, bọn con trai quỷ quái kể với tôi rằng trong danh sách những món ăn chơi ở các động đĩ lịch lãm, có một món gọi là “golden shower”, [11] tôi nhớ lại thì ra trò đó giống y như cơn mưa vàng mà Lucia đã tưới lên mặt tôi.

Tôi chưa kể chuyện này với ai cả cho tới hôm nay — khi viết xuống những dòng này — nhưng cứ băn khoăn mãi vì sao hôm đó Lucia lại tè lên mặt tôi. Nó cố ý hay do không kềm được nhu cầu của bản năng tự nhiên? Nếu cố ý thì nó làm vậy để làm gì? Nó muốn làm nhục tôi? Nó có biết rằng nó vừa làm một điều chấn động đến đời sống tâm sinh lý của tôi hay không?

Điều này có khác gì với việc loài thú đánh dấu lãnh thổ của mình bằng một bãi nước tiểu?

Nếu tôi làm điều đó với nó thì liệu có một hiệu ứng như nó đã làm với tôi không?

Tôi không thể tưởng tượng được việc mình đái lên mặt nó. Làm sao tôi có thể hình dung ra cảnh mình đứng cầm cu đái xuống gương mặt xinh đẹp Lucia, hay kề cu sát vào mặt nó mà xịt? Nhiều hôm tôi cố tưởng tượng một gì điều khác trong tình huống mình là nó, nhưng tôi không thể. Thật là rối rắm, không có hình ảnh nào hiện đến rõ ràng cả.

Tôi hôn lên bụng của cánh tay mình và tưởng tượng làn da trắng trên bầu ngực nhu nhú những đường gân xanh xanh, mảnh như đường chỉ, của Lucia. Bụng và cu tôi đau thốn. Mẹ tôi ngạc nhiên và giận dữ vì bà không hiểu nổi vì sao không dưng tôi lại sanh chứng đái dầm trở lại, tôi đã bỏ không mang tã và tự đi tè hằng đêm khi lên 3 tuổi.

Tôi nhớ Lucia da diết mỗi khi nằm một mình. Nhớ Lucia da diết, tôi thọc tay vào quần ve vuốt dịu dàng. Khi vòi nước bắn ra, tôi chảy nước mắt vì thấy mình vừa sung sướng vừa khốn khổ quá. Tôi đái dầm mỗi khi nhớ Lucia da diết. Sau cùng, cha tôi cũng phát hiện ra điều đó. Có lẽ ông ngạc nhiên và không hiểu rằng đó có phải là hành vi thủ dâm hay không, vì tôi còn quá nhỏ, thậm chí khi đó cu tôi không có chút tinh dịch nào. Ông im lặng, không nói gì với mẹ về phát hiện đó, giữ kín cho tôi như một điều bí mật. Tôi nghĩ, biết đâu ông cũng đã từng như tôi, đó cũng là một kinh nghiệm của chính ông trong thời thơ ấu? Tôi cảm thấy mình mang nợ với ông, một món nợ theo kiểu hai gã đàn ông nợ nần nhau. Tình trạng đái dầm kéo dài, nó không chấm dứt cho tới tận 2 năm sau, khi tôi lên 10.

Sự liên hệ từ nỗi nhớ vị mặn nước tiểu trên đầu lưỡi đến chứng đái dầm là như thế nào?

Đôi khi, tôi băn khoăn không biết Lucia còn nhớ tới tôi không. Nó có xốn xang, khốn khổ như tôi không. Nếu có, thì cảm giác của nó — của một đứa con gái — như thế nào?

Tôi không quên con bé, nhưng dần dần không còn nhớ Lucia một cách xác thịt da diết như đã từng nữa. Khi đó, tôi không còn sờ chim thường như trước, và hết đái dầm.

Ký ức về các buổi chiều đó trôi đi từ từ trong mù mịt, xa dần, xa dần thực tại của tôi.


_________________________

[1]thợ sửa mọi thứ lặt vặt: handy man.
[2]spaghetti: món mì ống của người Ý.
[3]phiếu thực phẩm: food stamp, do chính phủ ban hành để trợ cấp cho người nghèo, dùng để mua thực phẩm.
[4]Toys-R-Us: tiệm bán đồ chơi trẻ em, rất lớn, có chi nhánh ở nhiều tiểu bang trên nước Mỹ.
[5]Lion King: Vua Sư Tử. Một phim hoạt hình nổi tiếng của Mỹ.
[6]tits: núm vú của người nữ.
[7]fuck: đụ.
[8]không tình dục, không ma túy: no sex, no drug.
[9]chink: tiếng để gọi người Hoa một cách khinh miệt.
[10]burger: bánh mì tròn, kẹp thịt, rau xà-lách, phô-mai.
[11]golden shower: mưa vàng. Một chiêu sành điệu của gái điếm khi làm tình với khách, làm cho khách hứng lên rồi đái lên mặt khách.



10.

Câu chuyện này do ông nội tôi kể lại.

Hình ảnh Việt Nam được tái hiện lại trong tôi qua những câu chuyện như thế này. Tôi biết chúng không hoàn toàn được kể lại một cách chính xác, mà nhiều phần chúng bị ông nội và cha tôi sắp xếp lại theo thiên kiến của họ.

Ông nội tôi căm ghét cộng sản như hầu hết những người Việt trong cộng đồng, những người đã bỏ nước ra đi bằng nhiều cách, nhiều đợt khác nhau, nhưng hầu hết đều có chung tâm trạng thất vọng với cái giá của hòa bình mà họ phải trả, cũng như những kinh nghiệm cay đắng với chế độ cầm quyền khi còn sống trong nước. Ông cho rằng cộng sản là nguyên nhân của mọi thất bát của cuộc đời ông; xa hơn nữa, sự thất bát và xuống dốc của gia tộc; xa hơn nữa, sự đổ vỡ, tan nát của cả đất nước; cộng sản là nguyên do mà ông, và những người như ông, phải bỏ nước ra đi. Ông thấy mình có bổn phận truyền nỗi căm phẫn ấy xuống cho cha tôi, cha tôi truyền xuống tôi, và tôi sẽ truyền xuống các đời sau.

Ông chưa bao giờ kể với tôi về chiều dài lịch sử Việt Nam xa hơn thời điểm 1945. Ông chỉ khuyến khích tôi tự tìm hiểu lấy bằng cuốn Việt Nam Sử Lược của sử gia Trần Trọng Kim, cuốn sách mà có lẽ ông mua lại từ hiệu sách cũ ở Sài Gòn hay đâu đó, rồi đưa cho tôi trong dịp Tết, năm tôi lên 15 tuổi, khi mẹ tôi đưa đến thăm ông.

Cuốn sách bìa cứng, dày, được bọc bằng vải xanh, với nhan đề và tên tác giả mạ vàng. Giấy mỏng, màu vàng ngà, cổ kính.

Khi tôi đứng vòng tay kề bên, ông nắn nót viết ở trang đầu, “Tặng Quân, cháu của ông. Đây là câu chuyện của đất nước mình”, rồi ông trao cho tôi.

“Cháu giữ lấy mà đọc. Chuyện đất nước của mình ở trong đó.”

Tôi cảm động và thấy được sự nghiêm trang khác thường ở cử chỉ và giọng nói.

Khi nói “đất nước”, tất nhiên là ông nói đến cái đất nước xa xôi, bé tí, được in trên mô hình quả địa cầu trong phòng ngủ của ông. Những năm trước ông thường đố tôi tìm ra dấu vết của cái đất nước châu Á đó trên quả cầu, một màn đố vui có thưởng. Và “của mình” tức là của ông, và của tôi – của thằng cháu chưa từng đặt chân lên Việt Nam, mảnh đất mà ông gọi là quê hương ấy

Khi lớn lên, tôi mơ hồ cảm nhận được nỗi mong ước và kỳ vọng mà ông đặt vào tôi — đứa cháu đích tôn — nhiều hơn là lên những đứa cháu khác, qua những trao truyền về dòng dõi và huyết thống, rằng phải bảo tồn những gì đang có và khôi phục những gì đã mất.

Tiếng Việt của tôi phát triển tốt nhờ cuốn sách này và những cuốn sách văn học miền Nam được in lại ở Cali mà tôi tìm mượn ở thư viện, những tạp chí Văn học, Hợp lưu, Thế kỷ 21... mà ông đặt mua hằng tháng, những băng ca nhạc Thúy Nga Paris, những phim bộ Hồng Kông xem ở nhà mấy đứa bạn, những tờ báo mẹ tôi nhặt ở các chợ địa phương, và những buổi học với hai vị sư trụ trì chùa Báo Ân — một ngôi chùa Việt ở trong vùng.

Tôi theo học tiếng Việt ròng rã suốt hơn 4 năm, mỗi tuần 2 buổi, mỗi buổi 3 giờ. Sau này, khi đã khá, tôi vừa học vừa tham gia vào nhóm giáo viên dạy thiện nguyện cho trẻ em ở đó và ở một nhà thờ Việt khác, như một cách trả lại món nợ mà mình đã vay.

Tiếng Việt có thành ngữ “người mù sờ voi”. Theo ý nghĩa của thành ngữ này thì tôi là một thằng mù đang rị mọ sờ sẫm từng phần cái cội nguồn, cái căn cước văn hoá và chủng tộc của mình, cố gắng tạo dựng những ý niệm về hình hài tổng thể của nó. Ông tôi rất khuyến khích chuyện này. Ông bảo tôi nên làm vậy, vì đó là “về nguồn”, là “tìm về nguồn cội”, để khỏi “mất gốc”. Cội nguồn là những từ có ý nghĩa vô cùng thiêng liêng với ông. Sống ở Mỹ lâu rồi, nhưng tôi thấy ông vẫn tỏ vẻ khinh miệt với những kẻ vì nỗ lực hội nhập vào vùng đất sống mới mà xao lãng với cái nơi mà họ từ đó ra đi. Ông khinh, bất kể kẻ đó thuộc sắc tộc nào: Á hay Phi hay Âu hay Nam Mỹ, bất kể hắn có địa vị gì.

Tôi thì, tôi thấy mình sờ voi.

Tôi không sờ trúng ngà voi.

Tôi không sờ trúng vòi voi.

Tôi không sờ trúng tai voi.

Nhiều khi tôi ngờ rằng mình sờ trúng đít voi.

Một cái đít chỉ đầy cứt là cứt!

*
“Hồi đó ông nội còn là một đứa bé 9 tuổi, tham gia trong đội thiếu niên tiền phong ở trong làng, còn ông cố chỉ là anh nông dân, không làm một chức vị gì cả, thậm chí dân quân cũng không, vì có cha bị cách mạng thanh trừng. Làng của gia tộc mình nằm bên con sông, ở khúc hẹp, rộng chừng hơn 100 mét, bên kia là đồn Tây.”

“Vì sao gọi là Tây vậy ông?”

“Tây là Tây phương. Người ta gọi Pháp là Tây vì họ từ phương Tây tới.”

Qua lời ông kể, tôi cố gắng tưởng tượng mình là ông, nhập vai vào tình huống và bản thân ông, qua những tình tiết của câu chuyện.

Tờ mờ sáng, tôi choàng dậy cùng lúc với những người trong nhà khi nghe tiếng mõ bất ngờ vang lên cuối làng. Có tiếng ai la lớn:

“Trâu ăn lúa, trâu ăn lúa...!”

“Trâu ăn lúa” là quy ước của dân quân để báo rằng lính Tây đi bố ráp. Còn “Bò ăn khoai” là báo lính bảo an.

Mạ tôi lay, “Dậy mau con, dậy... Tây đi lùng! Tây đi lùng!”

Tôi choàng dậy. Bà tôi xua tay, nói với cha mẹ tôi.

“Hai đứa bây chạy mau đi, ra phía cánh đồng sau làng với họ. Tao lo cho thằng Bái được, cứ yên tâm.”

Bà ra dấu cho cha mẹ tôi chạy thoát thân trước, cùng với vài người hàng xóm, còn mọi việc ở nhà để bà lo.

Cha mẹ tôi vơ vội nón tơi. “Tụi con chạy ra đồng trước, chiều êm thì về, mạ hỉ?”

Nói xong, hai ông bà bước vội ra ngõ, mưa nhoè nhoẹt con đường làng.

Tiếng mõ đã dứt, có lẽ người ta đã chạy xa rồi, không còn cần báo nữa.

Có tiếng chó nhà ai sủa. Tiếng súng nổ. Con chó ẳng lên một tiếng rồi im bặt.

Bà lôi tôi xuống bếp, dúi ngồi xuống kề bên. Bếp lửa còn cháy âm ỉ dưới cái kiềng, trên bắc nồi cháo nấu từ đêm qua. Bà giở nắp nồi, vơ đũa bếp quậy lên, rồi múc ra lưng một bát cho tôi. Bà bốc nắm tro thả lên đầu tôi, cái đầu húi trọc vì chứng cứt trâu. Bà quẹt lọ nghẹ dưới đít nồi, bôi lên mặt tôi, lên người tôi, để ngụy trang. Tôi đã được dặn bài học này từ trước. Tôi sẽ đóng vai một thằng bé nhem nhuốc, đói ăn, và đang bị bệnh. Cha mẹ đi làm ăn xa không có nhà, không biết họ ở đâu. Chỉ có hai bà cháu sống với nhau. Một thằng bé côi cút bệnh hoạn và một bà già lú lẫn.

Tôi chỉ có thể dẫn mình theo câu chuyện ông kể tới đây thôi, một cách khó khăn. Tôi không thể hình dung được thêm những chi tiết khác. Những hình ảnh như một đoạn phim bị đứt mất giữa chừng.

Chứng “cứt trâu” là chứng gì mà người ta phải cạo trọc đầu? Có phải do bị ghẻ? Tôi thắc mắc nhưng không dám hỏi vì ngại làm đứt đoạn dòng hồi tưởng của ông.

Hai ông cháu đang ngồi ngoài vườn. Hôm nay thứ Bảy, mọi người đã ra khỏi nhà đi shopping hay đi chợ mua thực phẩm cho tuần sau.

Ông nhả từng bụm khói lớn sau mỗi lần bập bập, rồi gõ cái ống vố vào thành ghế đá cho tàn lửa bên trong rơi ra. Trời vẫn còn ấm trong nắng cuối thu. Một con ong nhỏ cứ bay vo ve lẩn quẩn mãi bên hai ông cháu.

“Rồi sao nữa ông?”

“Rồi lính Tây được xe tải chở đến đầu làng và tràn vào ruồng bố thật nhanh. Mọi người không kịp chạy trốn. Dù đóng vai thằng bé bẩn thỉu và bệnh hoạn, ông cũng không được chúng tha. Ông bị chúng lùa theo đám trẻ con ra sân làng, bắt đứng một bên. Bên kia là đám người lớn bị bắt khi cố chạy băng qua cánh đồng. Ông không thấy mẹ, nhưng thấy cha đang đứng cùng với số nông dân trong làng. Chúng lùa mọi người ra để nhận diện và phân loại.”

“Nhận diện và phân loại để làm gì vậy ông?”

“Để quyết định giết hay không. Nếu không giết thì đánh cho sợ để không theo Việt minh nữa. Hoặc bắt vào nội thành giam hay làm tạp dịch cho chúng.”

“Việt minh là ai vậy ông? Ông có theo Việt minh không?”

“Việt minh là Việt cộng. Lúc đó nhà mình đang sống trong vùng quê, vùng hoạt động của Việt cộng.”

“Cháu hỏi là ông có theo Việt minh không?”

“Không, ông không theo Việt minh.”

“Vậy ông theo Tây?”

“Không, ông cũng không theo Tây.”

“Vậy ông theo ai?”

“Ông không theo ai cả. Lúc đó ông chỉ là một đứa bé, nhỏ hơn cháu bây giờ.”

“Còn cha của ông? Ông ấy theo ai?”

“Ông ấy cũng không theo ai cả. Ông ấy chỉ là một anh nông dân.”

“Vậy Việt minh với Việt cộng là một hả ông? Có phải Việt cộng là người Việt theo cộng sản không ông?”

“Ừ, Việt cộng là người Việt theo cộng sản. Việt minh với Việt cộng ban đầu là hai thứ khác nhau, nhưng rồi là một. Việt minh là Việt cộng. Chuyện này dài và phức tạp lắm.”

“Ông có thể giải thích cho cháu không?”

“Không, ông không thể. Cháu tự tìm đọc tài liệu để hiểu lấy. Cháu muốn nghe ông kể tiếp chuyện Tây đi lùng không?”

“Muốn chứ. Ông kể tiếp đi.”

“Vậy thì đừng cắt lời ông.”

“Vâng.”

“Sau đó, những người đàn ông bị trói quặt hai tay ra sau lưng, đứng bên nhau sắp thành hàng ngang. Đàn bà thì chạy theo than khóc đứng chung quanh nhìn chồng và con mình đang trong bàn tay may rủi của số mệnh. Ông tuy nhỏ cũng phải đứng chung với đám con nít cùng lứa, nhưng đám này không bị trói.

Một người trùm kín đầu bằng bao bố, chiếc bao có khoét hai cái lỗ cho hai mắt nhìn ra, được bọn lính dắt ra. Nhiệm vụ của hắn là nhận diện và chỉ điểm những ai tham gia cách mạng. Hắn lần lượt đi ngang qua từng người, thỉnh thoảng gật cái đầu trùm bao trước một kẻ xấu số thì kẻ ấy bị lôi đi. Có mấy kẻ bị hắn cho rằng theo Việt minh. Lính Tây lôi những người này ra ngoài đồng bắn bỏ. Một số khác thì chúng nện một trận đòn chí tử bằng báng súng và lưỡi lê, rồi mang vào đồn để tiếp tục điều tra.

Hắn đứng lại trước mặt cha của ông, ngần ngừ giây lát lâu hơn khi đứng trước những người khác. Rồi bước qua. Nhưng khi qua đám con nít thì hắn lại gật đầu với ông. Ông nghe tiếng mẹ rú lên kinh hoàng.

Thằng sĩ quan Tây hỏi ông có phải là đội viên thiếu niên hay không. Ông gật đầu. Nó xáng cho ông hai bạt tai xính vính. Ông khóc nức nở. Không hiểu sao nó đứng ngần ngừ một thoáng khi thấy ông khóc dữ quá, rồi móc túi lấy ra một thỏi kẹo sô-cô-la đưa ông, xua tay ra dấu thả cho ông đi. Ông chạy qua với bà nhưng không chịu về, dù bà lôi đi. Ông vùng ra, len vào đám đông xúm xít để xem cảnh chúng bắn 4 người theo Việt Minh ở ngoài đồng, cách một khoảng xa. Không phải Tây bắn. Một gã lính người Việt bắn. Gã xô họ quỳ xuống bờ ruộng rồi bắn vào gáy ở tầm gần. Vừa bắn vừa nốc rượu. Sau mỗi phát đạn, gã bước lại lật xác lên xem nạn nhân đã chết chưa. Máu của họ vấy lên áo lính và mặt gã. Bọn lính Tây rút về, lôi theo những người tình nghi bị trói lại thành xâu, trong đó có ông Đoàn, dượng của ông. Lúc đó, người ta mới ra mang xác 4 người này về đặt ở sân làng.

Chập choạng tối, ông tham gia cùng đội thiếu niên. Họ tổ chức cuộc mít-tinh đả đảo bọn thực dân xâm lược, rồi lập kế hoạch phản công làm tiêu hao lực lượng và tinh thần bọn Pháp theo lời chỉ dẫn của một anh đoàn viên du kích. Ông cùng đi với người anh bà con là Kiên, tên ở nhà gọi là Chó Anh. Hai anh em đi đâu cũng có nhau, ông là Chó Em, vì nhỏ tuổi hơn Chó Anh. Chó Anh là con trai duy nhất của O Toan và ông Đoàn — người dượng đã bị bắt đưa về đồn.

Mười ba đứa cả thảy, mang theo nồi, thùng sắt, hay bất cứ thứ vật dụng gì mà gõ vào có thể phát ra tiếng kêu. Ông có cái trống múa lân nhỏ. Cả bọn nằm phục trong vạt cỏ rậm và vườn chuối bên bờ sông, quan sát động tĩnh ở đồn Tây bên kia sông trong ánh hoàng hôn mờ mờ hơi sương chiều. Rồi theo hiệu lệnh của anh du kích, cả bọn đồng loạt vừa hò reo vừa gõ nồi, trống... liên hồi. Bọn Tây trong đồn tưởng là bị bộ đội chủ lực của Việt Minh tấn công, bèn hốt hoảng chĩa súng bắn xối xả qua phía làng bên kia sông, bắn suốt cả giờ, cho tới khi trời tối hẳn. Ông và các chiến sĩ cách mạng chạy thục mạng vào làng trốn. Bọn Tây cũng sợ, chúng không dám vượt qua sông để truy kích.

Kết cục, quân ta toàn thắng, vì đã làm tiêu hao một cơ số đạn đáng kể của địch và làm cho chúng sống trong nỗi hoang mang lo sợ, suy sụp tinh thần. Thiệt hại của phe cách mạng trong làng thì chỉ hai con heo, vài con gà, 2 cái chuồng heo bị trúng đạn cháy nham nhở nhưng đã được dập tắt sau khi địch ngừng bắn.

Khi lính Tây ngừng bắn, ông không thấy Chó Anh đâu, hỏi trong đám bạn cùng chạy về thì không ai biết. Cả bọn hào hứng kéo nhau vào làng nấu nồi khoai để ăn liên hoan mừng chiến công, rồi ai về nhà nấy. Cho tới khuya vẫn chưa thấy Chó Anh về, cả nhà lo sợ nhưng không thể đốt đuốc đi tìm xa. O Toan vừa lo cho chồng bị bắt chưa có tin tức, vừa lo cho đứa con thất lạc. O đi loanh quanh trong mấy thửa vườn, vừa đi vừa thất thanh gọi con, ‘Kiên ơi...! Chó Anh ơiiii!’.

Mờ sáng hôm sau, ông theo cha và mấy người quay lại bờ sông. Khi đến đoạn cả bọn nằm phục kích chiều hôm qua thì ông thấy Chó Anh nằm bên vồng khoai, tay bíu lấy dây khoai, một viên đạn phá tan lồng ngực. Chắc Chó Anh không chết ngay, anh ấy giẫy giụa, đạp nát cả một khoảng cỏ. Ông thất thần, cúi xuống nhìn vào cái lỗ toang hoác trên ngực người anh mình. Những dẽ xương sườn gãy chìa ra. Máu còn trào ri rỉ. Chó Anh không chịu nhắm mắt, cho dù ai vuốt, cho tới khi được mang về cho chính tay O Toan vuốt mắt. O khóc không thành tiếng, không còn nhận biết gì nữa. O thất thần, trở nên bất bình thường và không có con nữa trong suốt quãng đời còn lại. Người ta mang xác Chó Anh về, đặt nằm kề bên 4 cái xác của những người đã bị lôi ra đồng bắn ngày hôm qua.

Với ông, ngày hôm đó chưa bao giờ hết, vì nó còn nằm mãi và trở lại nhiều lần trong ký ức. Chiều xuống, tiếng mõ thê thiết, rờn rợn trên ngọn lúa cháy.

Người ta thắp đuốc tổ chức truy điệu những người bị giết trong trận càn và Chó Anh, người đội viên tuổi trẻ anh hùng. Rồi những cái xác được mang đi chôn. Ông chưa kịp chia với Chó Anh thanh kẹo sô-cô-la, nó bắt đầu mềm oặt, chảy ra nhão nhoét. Ông ăn nửa thanh kẹo, gói phần còn lại trong miếng lá chuối, rồi bỏ lại ở ngôi mộ mới, cho kiến ăn.

Ông và các bạn nhỏ được chính quyền cách mạng tuyên dương lòng yêu nước. Nhưng sau đó ông lại bị bà và mẹ đánh cho một trận lê lết không phải vì tội yêu nước, mà vì tội đã góp phần làm cho cháu Chó Anh của họ phải chết.

Vài tháng sau, ông Đoan, cha của Chó Anh, được lính Pháp thả về. Ông gầy rộc, xơ xác. Ông và vợ — O Toan — là một đôi thảm hại, như hai con ma thất thểu, không ra dáng dấp con người. Một ngày nọ, ông bị dân quân phát hiện có giữ một chiếc gương nhỏ và mảnh vải xanh trong túi. Chính quyền cách mạng cho rằng ông giả điên giả tỉnh, nhưng thật ra là gián điệp của Pháp, dùng hai vật này để làm tín hiệu báo tin mật cho chúng. Họ quyết định sẽ khử ông, bất chấp sự việc ông là gia đình liệt sĩ, có con hi sinh cho kháng chiến. May sao tin này lọt đến tai gia đình. Mọi người thấy tình hình quá nguy ngập, lén bàn với nhau rồi quyết định trốn vào nội thành. Chuyến vượt sông vào thành trót lọt. Phải mất một thời gian để phòng Nhì — cơ quan an ninh của Tây — điều tra, xác minh lại lý lịch. Chuyến đi mở ra một vận mệnh mới cho gia tộc mình.

Sau này, nghiệm lại, ông thấy rằng vận mệnh của con người, hay của cả một đất nước, đều ở những chuyến đi, những cuộc chạy trốn.”

“Như chuyện vượt biển của ông, hả ông?”

“Ừ, như chuyện vượt biển.”

Ông không kể nữa. Ông nhồi thêm thuốc vào chiếc tẩu, đốt, và hút. Tôi ngồi im theo, thở thật nhẹ theo từng bụm khói của ông. Tôi không muốn phá cái không khí hoài niệm mà ông đang chìm vào đó.

Tôi thấy mình chìm vào câu chuyện. Vào cái không gian ở một miền Trung Việt nắng gió, nghèo xơ xác. Có Tây đen, Tây trắng. Có trâu ăn lúa, bò ăn khoai. Có Việt minh, Việt cộng. Có Chó Anh, Chó Em. Có vết thương trên ngực đứa trẻ trạc tuổi tôi, mở ra toang hoác lộ những dẽ xương, rỉ máu.

“À, cái mõ là cái gì? Nó kêu như thế nào, ông hả?”

“Con tra tự điển đi. Ông quên rồi.”

Tôi nói ra thành tiếng. Cố gắng phát âm cho đúng. “mmmm... oooo... mooo... mõ”. Rồi lắng nghe từng âm thanh của danh từ, của động từ, của tính từ; của từng từ của một thứ ngôn ngữ vừa xa lạ vừa gần gũi mà tôi mới học được ngân vang trong đầu.

Tôi thấy mình đứng trước một con voi. Mắt bị bịt lại bằng một dải khăn đen, hai tay lần mò quờ quạng. Con voi ngó xuống tôi, cái thằng người nhỏ bé và tội nghiệp.

Tôi không hiểu hết những chuyện được kể, nhưng thấy chúng quá buồn, và thật kỳ cục. Chúng như những chuyện viễn tưởng ở một thế giới xa xôi nào, một thế giới nằm ngoài không gian và thời gian của địa cầu, của trí tưởng tượng. Chúng khác với những cuộc chiến tranh mà tôi được xem trong phim. Khác với cuộc chiến ở chiến trường Trung Đông hằng đêm tôi thấy trên ti-vi. Khác với những cuộc giết chóc man rợ ở châu Phi. Tôi tự nhắc mình rằng chúng là những câu chuyện xảy ra ở Việt Nam. Những câu chuyện có tuổi thọ đã gần 100 năm. Tính đến bây giờ thì 100 năm là dài lắm, thuộc về thế kỷ trước, ở một thiên niên kỷ khác.

Việt Nam ở một thiên niên kỷ khác.

Ở một thế giới khác.




11.

Chúng tôi về lại khách sạn khi đã gần 2 giờ khuya.

Nhớ lời của Cathy, tôi nhét tờ bạc 10 ngàn vào tay gã bảo vệ khi gã kéo cánh cửa kính cho chúng tôi vào. Tôi nắm tay Cathy, khom người, chui qua những sợi dây giăng mùng trong phòng khách, rồi bấm nút thang máy. Khi thang dừng, chúng tôi bước ra, tôi kéo Cathy vào lòng, hôn lên má. Mùi rượu toả ra từ miệng cô gây gây. Cathy chào tạm biệt, rồi bước về phòng mình.

Tôi đá văng đôi giầy ra khỏi chân, để nguyên quần áo leo lên giường. “Nó” vẫn còn lẩn khuất đâu đây, tôi cảm nhận như vậy. Hơi mệt, tôi thao thức. Tôi cố tìm hiểu trong sâu xa lòng mình lý do nào đã mang tôi đến đây. Tôi mơ hồ hiểu ra rằng “nó” cũng là một trong những thứ tôi đi tìm trong chuyến đi này.

Tôi với tay lên đầu giường tắt đèn ngủ.

*
Điện thoại bàn reo. Giọng Cathy.

“Anh ngủ chưa? Có ngủ được không?”

“Chưa. Không ngủ được.”

“Tôi cũng vậy. Tôi không muốn ở một mình. Mình ngủ với nhau đi. Tôi qua phòng anh hay anh qua tôi?”

“Tôi qua cô, 5 phút nữa. Nhưng tôi không có condom.”[1]

“Tôi có. Nhưng chưa chắc mình cần đến nó.”

*
Cathy mở sẵn khoá cửa, tôi chỉ vặn nhẹ rồi đẩy vào. Đèn ở góc phòng hắt ra ánh sáng vàng mờ dưới cái chụp to hình nón. Cô ngồi hút thuốc trên ghế ở đầu giường, mặc áo thun màu xanh biển, loại áo rộng và dài đến gối thay cho áo ngủ, chân để trần. Trên bàn có sẵn hai cái ly, loại ly nhỏ để uống rượu, chai JB còn lưng nửa, và mấy lon bia 333. Phòng chỉ có một giường, không cửa sổ, bốc nồng mùi thuốc lá, trên góc tường có ô trống nhỏ gắn quạt thông gió. Quạt cùng với máy lạnh phát ra tiếng rì rì. Hai va-li to đặt bên nhau, một dựng đứng, một đang mở toang bày áo quần bừa bộn.

Tôi ngồi xuống chiếc ghế còn lại, nhìn tay ghế, sớ vải hình ca-rô bọc ghế cũ sờn.

“Anh uống chút gì nhé? Có whiskey và bia.”

“Ờ, có lẽ tôi uống lon bia.”

“Tôi không có ly uống bia.”

“Không cần đâu. Tôi uống từ trong lon.”

Bia không còn lạnh. Tôi tợp từng ngụm nhỏ, muốn gợi chuyện nhưng không biết nên nói gì. Cathy rít nhanh vài hơi thuốc rồi dụi, thả mẩu tàn thuốc vào lon bia rỗng ở dưới chân. Cô đứng dậy đi vào toilet. Tiếng nước đái dội róc rách vào thành bồn cầu. Có tiếng cô đánh răng.

Tôi hỏi bâng quơ: 

“Mấy căn phòng này cùng dãy nhưng thiết kế không giống nhau. Phòng này khác với phòng bên tôi. Họ có tính cùng giá tiền không nhỉ?”

“Ừ, không giống, giá rẻ hơn nhiều. Tôi chỉ trả có 15 đô cho một ngày thôi. Mà này, anh có chuyện gì khác để nói ngoài chuyện giá phòng không?”

Tôi bước tới toilet, cửa để mở, Cathy đang thoa kem lên mặt. Tôi ôm cô từ sau lưng. Cathy dừng tay, đứng yên. Cô để ngực trần, hai tay tôi vòng ra trước ôm kín hai bầu vú tròn êm dưới lần vải. Tóc cô vàng và khô, sáng lên dưới ánh đèn. Tôi hôn lên gáy.

Cathy đặt ống kem xuống, gỡ nhẹ tay tôi ra.

“Anh tắm không? Dùng khăn này, khăn sạch. Bàn chải này cũng mới, chưa dùng.” Cô mở hộc tủ, đưa tôi hai vật vừa nói, rồi bước ra.

Tôi cởi đồ, vắt lên giá, bước vào đứng dưới vòi sen. Những tia nước lạnh xối xuống làm đầu tôi nguôi dần những thèm muốn xác thịt. Tôi đổ nước xà-bông màu tím trong chai ra tay, thoa lên người, mùi oải hương thoang thoảng thật dễ chịu. Tôi lau người rồi đánh răng.

“Anh không có condom thật à?”

“Ừ, tôi nói rồi. Không có.” Tôi nói lúng búng trong miệng.

“Đàn ông đi ra ngoài không mang theo condom thì tệ hơn là không mang theo thẻ tín dụng.”

Cathy đã lên giường, cô vặn nhỏ đèn ngủ, quầng sáng thật nhỏ. Tôi lăn lên giường, chui vào tấm chăn mỏng. Cathy thân trần, da mát lạnh. Tôi kéo cô vào sát. Thân Cathy gầy. Tôi vuốt dọc từ hông, những nhánh xương sườn hơi gồ lên, tới ngực thì lại vun đầy. Cathy quay lại. Môi cô ghì lên môi tôi. Tôi lật qua, hất tấm chăn, chồm lên người cô. Tay Cathy bấu lên lưng tôi, thoa dọc theo lưng xuống mông, lần ra trước rồi dừng lại, mơn trớn. Giữa hai đùi Cathy là những lọn lông xoăn, rậm, bắt đầu từ dưới rốn, cuồn cuộn che phủ hết mọi thứ bên dưới. Đám lông phong nhiêu kỳ dị. Dưới ánh đèn, chúng đen nhánh chứ không vàng nâu trùng với màu tóc như tôi tưởng. Tôi không cưỡng được sự liên tưởng đến bờm của loài mãnh thú, hay những lọn râu uy nghi của loài rồng.

Cathy đẩy tôi nằm xuống. Cô ngồi dậy trên đùi tôi, vói tay lần trong áo gối lấy ra chiếc bao Durex [2] màu xanh bạc, giơ ra ánh đèn, xé bao. Nâng tôi lên, cô tròng bao vào. Nhè nhẹ lần bao lên từ từ. Ân cần và cẩn trọng, như đang thực hiện một nghi thức trang trọng. Cùng lúc với cơn hứng tình, lòng tôi dâng lên niềm biết ơn vô hạn.

Bóng tôi mờ mờ trên tấm gương đầu giường. Bóng Cathy hiện ra, rõ hơn, phía bên trái. Mắt trái, mày trái, nửa phần mũi trái, nửa phần môi trái.

Bên phải gương mặt Cathy là một vạch cắt phẳng trơn.

Tôi rùng mình. Tôi vừa bị xối một xô nước đá, lạnh ngắt. Tôi mềm oặt, rũ rượi.

Cathy cảm nhận được ngay những thay đổi của tôi. Cô buông nắm tay ra.

Cái giường bồng bềnh. Cái giường thành chiếc thuyền vượt biển, nó đang dập dềnh trên đầu những ngọn sóng. Căn phòng không còn là căn phòng, mà là mặt biển tối đen mênh mông. Cathy nằm ngửa. Cathy không còn là Cathy. Cathy thoắt nhiên là con cá voi khổng lồ, trắng bệch với những cuộn lông xoăn tít râu rồng dưới bụng. Vòng tay Cathy nới, thả tôi ra, cô ngã xuôi xuống nệm. Bụng tôi co thắt. Tôi cố bước ra khỏi giường, về phía toilet. Chiếc condom không còn ôm bó như trước, lùng nhùng rộng, thõng thượt lắc theo từng bước chân.

Tôi bật đèn, mở vòi, vả nước lên mặt. Tuột chiếc bao ra ném vào thùng rác. Tôi nghĩ, Cathy đã tiên đoán đúng, tôi không còn cần đến nó nữa. Chiếc bao nằm vắt lên những miếng bông tẩy trang bẩn, trông như loài bò sát vừa bị lột da.

Tôi bước ra, nhìn vào giường, Cathy đã mặc lại áo, nằm quay lưng lại phía tôi, mái tóc rũ xoà trên gối. Tôi ngồi xuống, đặt tay lên vai cô, bóp nhè nhẹ.

“Anh không cần an ủi tôi. Đừng, đừng hỏi gì cả. Về đi, biến về phòng của anh đi.”

“Không, tôi sẽ không nói gì đâu.”

“Anh thất vọng vì nhận ra tôi là một thứ người/ma.”

“Không, không thất vọng. Nhưng tôi bị bất ngờ vì đã không nhận thấy điều đó trước đây.”

“Tôi không muốn gạt anh. Tôi nghĩ rằng anh biết và chấp nhận điều đó. Vả lại, anh thấy đó, tôi đề nghị dùng condom để anh được an toàn.”

“Tôi hiểu.”

“Tôi gọi anh qua không phải chỉ để làm tình. Thật ra, tôi không muốn nằm một mình đêm nay. Tôi muốn có người bên cạnh.”

“Tôi xin lỗi vì mình ứng xử vụng về. Tôi ở lại với cô nhé? Tôi không muốn về lại phòng mình.”

“Anh có thể trải tấm ga xuống đất mà nằm.”

“ Không, Cathy. Tôi muốn nằm bên cô.” Tôi nằm xuống, vòng tay qua ôm vai Cathy.

“Anh thấy tình cảnh này có buồn cười không. Hai đứa gốc Việt mà không phải là người Việt, về Sài Gòn tình cờ gặp nhau, lang thang nhậu nhẹt phố xá, rồi về nằm bên nhau trong một khách sạn, trong một thành phố đầy ma. Một trong hai đứa cũng là một con ma…”

Tôi nhớm người lên nhìn vào tấm gương. Nửa bên phải khuôn mặt của Cathay vẫn là một lát cắt phẳng lì nhưng tôi không còn thấy đáng sợ, thậm chí còn thấy quen dần.

“Ok, vậy mình nói chuyện nhé. Cô nói tiếng Đức được không?”

“Được, nhưng không giỏi như tiếng Việt.”

“Vì sao vậy? Tiếng Đức cũng là một thứ ngôn ngữ của cô, đến từ cha cô, như tiếng Việt là của mẹ cô.”

Cathy xoay người lại, nghiêng qua, gối đầu lên tay tôi.

“Có lẽ trong trường hợp này có thể giải thích rằng người ta có khuynh hướng ủng hộ, hay nghiêng về bên nào yếu thế hơn chăng? Tôi thấy rất gần gũi, hầu như không có vấn đề gì với tiếng Đức hay văn hoá Đức, bên họ của cha tôi. Không có gì nhiều để kích thích tôi, làm tôi hào hứng trong việc khám phá. Khác hẳn với thứ tình cảm mà tôi dành cho Việt Nam. Luôn luôn có điều gì bí ẩn, chưa được khám phá.”

“Tôi có thể hỏi cô vài thắc mắc không dễ chịu chứ?”

“Anh cứ hỏi. Hay để cho công bằng hơn thì mình nên đặt ra quy ước cho dễ nhé.”

“Quy ước thế nào?”

“Anh có quyền hỏi bất cứ điều gì, nhưng tôi có quyền trả lời hay từ chối không trả lời. Và ngược lại cũng vậy.”

“Đồng ý.”

“Vậy anh hỏi trước đi.”

“Điều gì làm cho cô khó chịu nhất khi ở Việt Nam?”

Cathy cân nhắc, “Khi phải deal [3] với những người biết rằng trong tôi có dòng máu Việt, biết mẹ tôi là người Việt.”

“Vì sao?”

“Khi đó tôi có cảm giác như họ không xem tôi như một người ngoại quốc, cũng không xem tôi là một người Việt, mà là một thứ gì đó không định hình, không rõ ràng.”

“Tôi không hiểu. Dường như cô mẫn cảm quá.”

“Anh có biết ở đây người ta gọi những đứa như tôi là gì không?”

“Không. Là Việt kiều?”

“Không. Là con lai.”

“Tôi biết ngày xưa người Việt có thứ thành kiến như vậy đối với con lai, nhưng bây giờ thì khác rồi.”

“Không, không khác. Con lai là sản phẩm của cuộc chiến, trong thời chiến, một thứ hậu quả của chiến tranh. Thứ sản phẩm có từ một gã da trắng, hay da đen, với một cô điếm. Và có vẻ như người ta không gọi những đứa con được sanh ra giữa người Việt với người Hoa, với người Nhật, với người Hàn, hay với bất cứ một giống dân châu Á nào khác, là con lai.”

“Ngày nay, tôi thấy người Việt lấy người khác chủng tộc rất nhiều. Ở Mỹ chẳng hạn, mà có thành kiến gì đâu.”

“Đúng vậy, những đứa con lai thời này dễ dàng được chấp nhận. Nhưng những đứa trong lứa tuổi của tôi thì khác.”

“Sao khác? Khác như thế nào? Cô không ra đời ở Việt Nam, cô ra đời ở Mỹ, sau khi cuộc chiến đã chấm dứt. Cô có thể cho tôi biết tuổi không?”

“Cha tôi mang mẹ tôi rời khỏi Việt Nam vừa kịp trước ngày lính miền Bắc vào chiếm Sài Gòn. Tôi ra đời sau đó 6 năm, sau này tôi biết mẹ tôi có thai ngoài ý muốn của ông bà nhưng họ vẫn giữ tôi lại. Tôi lớn hơn anh chừng 10 tuổi. Anh hài lòng với những thông tin này chưa?”

“Vì sao cô không giải thích với tôi về chuyện người/ma khi mình ở quán rượu mà còn gạt chuyện đó đi khi tôi đề cập tới?”

“Lúc đó tôi thấy quá sớm để nói đến một chuyện nhạy cảm như vậy. Tôi không muốn làm anh thất vọng, và không muốn phá đi không khí của buổi chiều đẹp.”

“Cô biết như thế nào về chuyện này?”

“ Không ai còn nhớ chính xác hiện tượng con người trở thành ma và thành người/ma đã bắt đầu xuất hiện từ lúc nào. Theo những gì tôi được kể, thì ban đầu, nó như một làn sương mù mỏng tang trong sâu thẳm con người, lan toả dần, rồi đột ngột biến thành một hiện tượng được chấp nhận trong toàn cộng đồng mà không một ai đặt ra bất cứ nghi vấn nào về sự hiện hữu của nó. Vả lại, vào thời điểm đó, người ta không có quyền đặt nghi vấn với bất cứ điều gì, đó là luật bất thành văn nhưng phải tuân thủ nếu không muốn bị biến mất khỏi đời sống. Người ta chỉ chấp nhận thực trạng và những gì được kẻ thắng ban phát chứ không được thắc mắc hay đòi hỏi bất cứ điều gì.

Hai năm sau khi hoà bình, tình trạng con người biến thành ma và người/ma đã đột nhiên xuất hiện và phát triển thật nhanh khắp nơi trên đất nước. Có lẽ một sáng nào đó người ta phát hiện ra sự bất toàn của hình ảnh vợ chồng, con cái mình hiện ra trong gương.

Sự kiện này gây ra tình trạng hoang mang, có nguy cơ dẫn đến khủng hoảng lớn trong xã hội. Mọi nỗ lực để giải thích và ngăn chặn đều không có hiệu quả. Vào lúc đó, người miền Nam bắt đầu vượt biên, lao ra biển, chỉ để thoát khỏi đất nước, không cần biết điều gì chờ đợi mình ở ngoài kia. Lúc ấy người ta còn khái niệm “sau bức màn sắt” cho những quốc gia cộng sản, như tình trạng của Bắc Triều Tiên hiện nay. Sau bức màn sắt là bóng tối, là the unknown region.*

Rồi không biết khởi đầu từ đâu, người ta tự động đồng loạt đập nát hết tất cả gương, kính, kể cả các loại kính đeo mắt cho dù thị giác sẽ bị hạn chế, và họ tuyệt đối không chế tạo, không sử dụng, các thứ kim loại bóng sáng — nghĩa là bất cứ loại vật thể nào có khả năng phản ảnh bóng người trên nó — với mục đích làm cho không ai còn có thể nhận diện được chính mình và người khác là người hay ma, hay người/ma. Đây không phải là luật, nhưng nó gần như một quy ước về đạo đức, một thứ đạo đức mới, để điều chỉnh hành vi con người cho phù hợp, và giúp họ sống còn được với môi trường xã hội lúc bấy giờ.

Mãi về sau, cả hơn một thập niên sau, một thế hệ mới ra đời. Khi những người thuộc thế hệ mới này chấp nhận và tự tin với hiện trạng thật của mình, thì họ đồng loạt chế tạo, phục hồi lại những thứ gương, kính mà thế hệ trước đã phá huỷ, một cách bất ngờ và tự phát như cha mẹ họ trước đó đã làm điều ngược lại. Từ đó người ta mới được nhìn gương mặt thật của mình, và của nhau.”

“Nghe như chuyện hoang đường!”

“Điều này chúng ta đã nói rồi. Đây là một đất nước được xây dựng trên huyền thoại và chuyện hoang đường cơ mà!”

“Làm thế nào để một con người trở thành ma hay người/ma?”

“Qua đường tình dục! Đúng vậy, theo một thống kê đáng tin cậy thì 30% biến thành người/ma là qua đường tình dục, giống y như trường hợp người ta bị lây nhiễm các loại bệnh xã hội do không sử dụng condom khi giao phối. Chuyện này chắc anh biết rồi.

30% khác trở thành người/ma là do hệ quả của việc vô tình ngộ độc những thông tin sai lạc về lịch sử.

30% khác nữa trở thành người/ma là do tự nguyện tiêm một liều ma tố vào máu như người ta truyền dịch huyết thanh khi lâm bệnh. Những kẻ này nhận thức rằng ở vị thế người/ma thì họ có đủ mọi tố chất để len vào bất cứ giai tầng nào trong xã hội, và đó là phương tiện để họ tiến thân.

10% còn lại trở thành người/ma là do được ban phát, nghĩa là đám ma già phát cho họ — những kẻ trẻ tuổi — một cái thẻ và một cuốn cẩm nang có bìa màu đen để họ tự tu luyện, như hình thức nhà vua ban cho kẻ dân dã một thứ quốc tính trong thời phong kiến.

Những người/ma lâu ngày sẽ trở thành ma toàn phần.

Tôi giải thích như vậy anh hiểu chưa?”

Tôi không hiểu lắm, nhưng không trả lời Cathy.

“Làm thế nào để nhận biết đó là một con người, hay một con ma, hay một con người/ma?”

“Với sự mẫn cảm của mình thì tôi cảm nhận được ngay đối tượng mà tôi muốn tìm hiểu thuộc thể dạng nào. Có một cách nhanh và chính xác nhất để nhận dạng là hãy nhìn vào cái hình ảnh hồi phản của kẻ ấy hiện ra trong gương. Đây là cách mà anh đang chứng nghiệm với tôi. Nếu là con người toàn phần thì trong gương sẽ hiện ra nguyên vẹn cái nhân dạng đầy đủ, như tôi đang nhìn thấy anh. Nếu là ma thì trong gương tuyệt đối sẽ không có một dấu vết nào chứng thực sự hiện hữu của hắn cả. Còn nếu là người/ma thì trong gương sẽ hiện ra phần người mà thôi, không có phần ma. Anh đang nhìn thấy tôi như vậy.”

“Người ta sẽ là ma hay là người/ma suốt phần còn lại của cuộc đời ư?”

“Đúng vậy. Bất cứ khi nào còn đặt chân lên lãnh thổ Việt Nam thì khi đó họ là người/ma, hay là ma. Khi nào rời khỏi nơi này thì họ trở lại con người bình thường. Nó gần như là một thứ chi tiết xác nhận nhân thân cho visa của ngoại kiều và căn cước của người dân trong nước.”

“Đó là lý do cô trở về Mỹ?”

“Đó là một trong những lý do tôi trở về Mỹ.”

Tôi kéo cái chăn cho nó trượt hoàn toàn ra khỏi mặt gương, rồi nhìn Cathy hiện ra trong đó.

“Vì sao anh làm vậy?”

“Vì tôi muốn làm tiếp việc mình chưa kịp làm.”

“Anh có thể tiếp tục điều đó, với một điều kiện.”

“Điều kiện gì?”

“Ở đất nước này có một quy ước. Đó là, người ta không nói chuyện về thời cuộc, không mang những chính khách, những nhà lãnh đạo đất nước, lên giường.”

“Vì sao vậy?”

Tôi nghe Cathy trầm giọng, như thầm thì.

“Không hẳn là do mê tín, nhưng vì người ta tin rằng làm vậy thì sẽ gây ra tình trạng liệt nhược. Ít ra thì đàn ông sẽ liệt dương và đàn bà thì lãnh cảm. ”

Tôi bật cười. Cathy nghiêm giọng.

“Tôi nói thật đấy, không phải chuyện đùa đâu.”

“Nó xảy ra như thế nào? Cũng đột ngột như những hiện tượng khác à?”

“Không. Tình trạng này xảy ra một cách tiệm tiến. Nó giống như triệu chứng teo cơ và suy thoái khả năng cương cứng ở nam giới, và khô cạn nguồn nước ở nữ giới.”

Tôi cười: “Tôi nghi ngờ cách diễn giải và những thuật ngữ bệnh lý của cô.”

“Tôi không có khả năng diễn giải chính xác, nhưng anh hiểu tôi muốn nói gì, phải không?”

“Vậy người ta nói những chuyện đó ở đâu, khi nào?”

“Trong bàn nhậu. Thường thì trong bàn nhậu, và trên facebook, gọi là chém gió. Thôi quên chuyện đó đi. À, tôi không còn condom. Cái lúc nãy là cái cuối cùng tôi có. Anh gọi tiếp tân đi, họ sẽ mang lên.”

“Có nên làm phiền họ không? Vào lúc khuya khoắt như thế này?”

“Không phiền. Đúng vậy, không phiền. Ngay cả vào lúc khuya khoắt như thế này.”

Tôi với tay lên đầu giường tắt đèn ngủ.

“Tôi nghĩ lúc nói trên điện thoại cô đã tiên đoán đúng, mình không cần đến nó.”




_________________________

[1]condom: bao cao su
[2]Durex: hiệu condom thông dụng
[3]deal: giro tiếp.





12.

Không biết với người khác thì như thế nào, riêng với tôi thì hầu như những kỷ niệm, hay sự kiện, đáng kể trong đời, và ngay cả của nhiều người Việt mà tôi biết, đều liên quan đến miếng ăn và những sinh hoạt tình dục. Khi tôi nói ra điều đó, thì mẹ tôi lý giải rằng là do chúng tôi đến Mỹ từ một đất nước nghèo khó, ở đó người dân đói thường xuyên, nên thực phẩm luôn là nỗi ám ảnh; và cho dù tôi sanh ra và lớn lên ở Mỹ nhưng tôi cũng luôn có nỗi ám ảnh như các thế hệ trước vì nó là thứ bệnh tâm lý có tính di truyền qua nhiều đời kế tiếp nhau.

Vương Văn Quang, một ông nhà văn bạn của cha tôi, cà rỡn về câu chuyện cổ tích sớm nhất của Việt tộc về thực phẩm cổ truyền, món bánh chưng và bánh dầy, rằng:

“Thuở xa xưa, xứ Lừa [tôi không hiểu vì sao mà ông ấy lại ám chỉ Việt Nam là ‘xứ Lừa’], có em nhỏ kia đã lên làm vua, nhưng miếng ăn vẫn luôn lởn vởn thống trị tư tưởng ẻm. Có độc mụn con gái đến tuổi gả chồng, ẻm treo notification: Thằng nào kiếm tao món nhậu tốt, làm rể tao, ngai và luôn.

Bánh chưng bánh dầy Lừa tộc vẫn cắn mỗi khi Xuân về có từ khi ấy. Nó xuất phát từ bướm một nàng công chúa và tâm hồn đớp hít của một vị vua.” [1]

Ông Xuân là anh họ của cha tôi. Ông là lính của chế độ Việt Nam Cộng hòa, ông rời Đà Nẵng trong ngày cuối cùng trước khi miền Nam mất vào tay Cộng sản. Sang Mỹ, ông được một gia đình người Mỹ bảo trợ về một miền quê hẻo lánh, không có người Việt nào sống ở đó. Gia đình này làm nông trại, trồng bắp và nuôi bò. Suốt hơn một năm, bò là sinh vật ông giao tiếp với thường xuyên nhất, vì không mấy khi ông được gặp người, và lúc đó ông chưa thể sử dụng được tiếng Anh. Công việc của ông bắt đầu từ mờ sáng cho tới tận đêm, hết vắt sữa bò thì đến việc ngoài đồng. Chân lúc nào cũng xỏ trong đôi ủng để lội trong phân bò ngập ngụa. Người chủ Mỹ này không hề nhắc nhở gì đến lương tiền của ông, thậm chí còn không cho ông cơ hội để tiếp xúc với ai khác ngoài những người trong gia đình họ. Một hôm ông trốn đi, tìm đường về Cali, về với đồng hương. Cày cuốc ở Cali vài năm, ông lấy vợ, hai vợ chồng trôi giạt qua Virginia. Ban đầu làm công, rồi vay ngân hàng mở một tiệm giặt. Ông nói với cha tôi:

“Có nhiều tháng anh không hề nhìn thấy mặt trời là gì. Mờ sáng, ra khỏi nhà khi trời còn tối; đến khi xong việc, đóng cửa tiệm thì đã tối mịt, về đến nhà là nằm quay ra ngủ để lấy sức cho ngày mai cày tiếp. Một năm chỉ nghỉ ngày Noel và những ngày có bão tuyết không thể ra đường được thôi, còn lại 364 ngày kia là một chuỗi ngày lập lại y như nhau.”

Người Việt ở Mỹ không nói “đi làm” mà nói “đi cày” cho dù công việc không liên quan gì đến việc nhà nông, và cho dù có khi công việc cũng không nặng nề gì lắm.

Vợ chồng ông Xuân chí thú làm ăn, mua nhà, sắm sửa đủ mọi tiện nghi. Ông nói tiếp:

“Chịu cày là sẽ có hết. Muốn mua gì thì sẽ được mua thiếu. Vấn đề là có thời gian để hưởng thụ những tiện nghi đó hay không.” Với ông thì tất nhiên là không.

Tiệm giặt của ông ở một khu khá sầm uất. Ông vừa để máy giặt, máy sấy cho khách sử dụng, vừa nhận đồ dry-clean.[2] Khách tự giặt sấy lấy đồ của mình, trả tiền bằng đồng xu nhét vào khe cho máy tự động chạy. Tiệm lúc nào cũng đông khách. Công việc của ông là sửa chữa máy hư, đổi tiền giấy thành tiền xu cho khách, dọn dẹp vệ sinh, nhận đồ giặt thuê cho những ai yêu cầu, nhận và trả đồ sau khi đã giặt xong cho khách. Tất bật. Công việc làm mãi tạo cho ông một kỹ năng rất tuyệt, như một nghệ sĩ siêu hạng, trong việc lượng định số tiền xu bằng trọng lượng của chúng. Ông có thể lấy số tiền xu thật chính xác để đổi cho khách mà không cần đếm. Đưa cho ông 2 tờ bạc, một tờ $10 và một tờ $5, ông chỉ cần thò tay vào cái chậu đựng tiền xu, bốc một nạm, lắc lắc tay để cân nhắc trọng lượng, rồi thả số đồng xu trong tay ra cái đĩa. Có khi ông phải bốc hai lần vì số xu nhiều quá, bốc một lần không giữ được hết trong tay. Nhưng thế nào đi nữa, một lần hay hai lần, thì khi khách đếm lại cũng đúng ngay chóc 60 đồng 25 xu. Ông chỉ cười cười, ánh mắt có chút tự hào lẫn giễu cợt trước sự thán phục của những người khách.

Cha tôi kể, trong ngày đầu tiên ông và mẹ tôi đặt chân đến Mỹ sau gần 2 năm sống trong hoàn cảnh thiếu thốn ở trại tị nạn Mã Lai, hai ông bà được ông Xuân bảo trợ về sống chung. Ông Xuân nhờ vợ trông tiệm giùm, rồi chở cha mẹ tôi đi chơi, chuyến đi đầu tiên tiếp xúc với đời sống ở Mỹ.

Ông Xuân chở họ đến khu thương xá Eden ở Virginia. Ông mời hai người ăn trưa. Ngỡ rằng ông sẽ cho ăn một bữa thức ăn Mỹ, nhưng không, ông lại đưa họ vào tiệm phở Hoà. Thời đó, thương hiệu phở Hòa có chi nhánh ở nhiều tiểu bang trên nước Mỹ, đây là tiệm phở lớn nhất trong vùng.

Sau khi kéo ghế, ông Xuân lấy thực đơn, hỏi hai người thích ăn món gì. Cha mẹ tôi ngại ngùng, chưa kịp trả lời thì ông bảo ăn phở nhé, phở ở đây được lắm. Ông gọi người bồi bàn lại, bảo làm 3 tô: 2 tô đặc biệt và 1 tô nhỏ, cha mẹ tôi ái ngại nhìn nhau, ngầm nghĩ rằng 2 tô đặc biệt là dành cho 2 người đàn ông, còn phần mẹ tôi là tô nhỏ. Khi bồi khệ nệ mang cái mâm ra, ông bảo anh bồi 2 tô đặc biệt là của cha mẹ tôi, còn ông thì tô nhỏ. Trước mặt cha mẹ tôi là 2 cái tô to khổng lồ, to bằng chậu nuôi cá, ông bà chưa từng thấy cái tô phở nào kinh khủng như thế, ngồn ngộn những thịt là thịt, đủ thứ thịt: gầu, gân, tái, nạm, bò viên, chừng như nguyên cả con bò trong tô, chỉ nhìn thôi cũng đủ sảng hồn, họ nghĩ rằng có lẽ ông Xuân gọi nhầm. Kế bên là đĩa rau thơm, giá. Trên đĩa có đúng 3 nhánh rau quế, mỗi nhánh chừng 7 lá rau, đúng 3 lá ngò gai, những lát chanh vàng tươi, và ớt xanh xắt lát. Có vẻ như mọi thứ rau đều được tính toán kỹ lưỡng để chia đều đủ cho 3 tô phở. Mọi thứ rau đều có kích thước to quá khổ nếu so với những thứ đồng chủng ở Việt Nam trong ký ức của cha mẹ tôi. Lá rau quế to bằng 3 ngón tay, gấp 3 lần thứ rau cùng chủng loại ở Việt Nam. Cọng rau ngò gai cũng vậy, bản to dầy và cứng như một lưỡi kiếm thép.

Ông Xuân ép họ ăn, không cho thoái thác. Ông bảo, cứ ăn đi, ông sẽ cho họ biết lý do vì sao họ phải ăn tô phở to như vậy. Tất nhiên, làm sao cha mẹ tôi ăn hết tô. Với cái bao tử đã quen với những khẩu phần rất giới hạn của những ngày sống ở Việt Nam và trong trại tị nạn thì tô phở này chẳng những là một sự thừa mứa vô hạn ở phần dung lượng, mà còn như một sự trêu ngươi ở mặt tâm lý.

Ông Xuân bảo:

“Tôi muốn cho hai vị thấy sự hùng mạnh và dư thừa của nước Mỹ là như thế nào. Hai vị ăn được chừng nào thì ăn, không hết thì bỏ, không ai phàn nàn chút gì đâu. Đây là ‘tô phở tự do’. Sau này hai vị sẽ quen đi, không còn thấy lạ nữa, nhưng sẽ nhớ mãi bữa ăn đầu tiên trên quê hương mới này. Chúng ta đang sống trong cường quốc số 1 trên thế giới, và quý vị sớm muộn gì cũng sẽ là thành phần của đất nước này. Nó đặc biệt và đáng tự hào lắm đấy!”

Lời tiên đoán của ông Xuân chỉ đúng có hơn một nửa, chỉ có mẹ tôi trở thành một thành phần toàn vẹn của nước Mỹ, còn cha tôi thì, theo nhận định được cho là đã cân đo chính xác của ông, chỉ trở thành ¼ người Mỹ.

Đây là bài học đầu tiên cho cha mẹ tôi, mở ra cho ông bà khái niệm hùng cường của quê hương mới mà họ đã đánh đổi bằng cuộc cá cược sinh mệnh của mình trong những lần tù tội, những chuyến vượt biên trên biển. Bài học “tô phở tự do” này, với mẹ tôi thì bà đã quên đi rồi, bà có khả năng quên thật nhanh những điều gì bà thấy không cần lưu giữ, nhưng với cha tôi thì được ông tâm đắc lắm. Tôi biết, thỉnh thoảng sau này cha tôi thường mời những người thân quen của ông đi ăn phở khi họ vừa đặt chân lên nước Mỹ. Tôi không biết ông có áp dụng bài học này với họ hay không, nhưng không ít lần tôi được nghe ông kể lại chuyện “tô phở tự do” trong nhiều dịp khác nhau.

“Hồi đó, cái hồi mà tôi mới tới Mỹ, thì tô phở không phải chỉ là tô phở, mà nó là cái chậu nuôi cá, ngoài ra nó còn biểu trưng cho sự hùng cường và tự do. Ừ, hùng cường nằm ở chỗ thừa mứa. Còn tự do ở chỗ ăn không hết là bỏ, hổng có tiếc à nghen...”

Câu chuyện luôn luôn được cha tôi bắt đầu một cách đơn giản nhưng chân thành như vậy. Mọi giá trị đều quy thành thực phẩm.

*
Cha mẹ tôi được ông Xuân cho trú ngụ tại nhà ông trong thời gian đầu đến Mỹ. Một tuần sau, cha tôi tìm mọi cách để xin việc, rồi được nhận vào làm cho tiệm ăn nhỏ trong vùng, với mức lương tối thiểu và được giữ số tiền tip [3] mà khách tặng. Một gia đình người Mỹ, mà chủ nhà là cựu chiến binh tham gia chiến tranh Việt Nam, mời ông về sống với họ, cho ông ở miễn phí một căn phòng trong nhà, còn mẹ tôi thì vẫn ở tạm chỗ cũ.

Cầm được những đồng tiền đầu tiên do sức lao động của mình trên xứ người (lúc đó, cha mẹ tôi vẫn còn gọi Mỹ là xứ người để phân biệt với Việt Nam — nơi họ vừa liều mạng ra đi — là xứ mình, là quê hương) cha tôi cảm động lắm. Những khoản tiền tip 25 xu, 50 xu sẽ là chìa khoá mở cho ông cánh cửa vào một tương lai mới. Ông làm việc thật chăm chỉ, nhưng vẫn không có kết quả như mong muốn vì ông chưa thể giao tiếp được bằng tiếng Anh.

Công việc đầu tiên trong ngày là đến cửa tiệm vào 5:00 AM. Ông thức dậy lúc 4:00 AM, làm vệ sinh, mặc áo quần rồi đi bộ đến tiệm, cách nhà chừng 2 cây số. Trời mùa Đông xứ Bắc Mỹ lạnh buốt, tuyết rơi mù trời. Có sáng ông đến nhưng chưa có ai mở cửa tiệm để vào. Ngoài trời gió lồng lộng, phất phới tuyết. Lạnh quá, chịu không nổi, ông chui vào cái trạm điện thoại công cộng ngoài bãi đậu xe để trú. Trạm chừng một mét vuông, có vách che kín 3 phía, chừa lại một phía. Ông đứng quay mặt vào trong, chống hai tay lên ngăn để điện thoại và cuốn niên giám, chìa lưng ra ngoài, đếm từng giây, mong tay quản lý đến để được vào trong.

Ngày thứ Ba, thứ Năm, được chia phải làm ca tối, ông đi về lủi thủi trên đường vắng, bóng ngã mờ mờ dưới ánh đèn đường, cố gắng giữ ấm, đến nhà đã hơn 10:00 PM, mọi người đã ngủ. Ông lui cui lục tủ lạnh, tìm cho mình bữa ăn vội, có gì ăn nấy.

Đêm đó, bụng đói meo, về phòng thay đồ ra, ông không dám gây tiếng động, không bật đèn sáng. Vào bếp, lấy mấy khoanh bánh mỳ, ông tìm thức ăn nhưng không thấy món gì hấp dẫn ngoài phô-mai và bơ, những thứ ông chưa ăn quen. Ông lục ngăn tủ bên dưới thì thấy một thùng đựng nhiều món đồ hộp. Ông chọn đại một lon, không kịp đọc để hiểu là món gì, khui ra, thấy như thịt nấu với đậu, trút vào tô, rắc thêm tiêu, thơm phức, ngon quá. Ném cái lon rỗng vào thùng rác, mở thêm lon bia, ông ung dung, sung sướng ngồi thưởng thức bữa tối.

Sáng hôm sau, người chủ nhà kéo ông ra hỏi tối qua đã ăn gì. Ông bảo ăn bánh mỳ và với thịt hộp. Ông kia đưa cái lon rỗng ra hỏi có phải thức ăn trong lon này không. Ông gật đầu.

“Anh phải xem kỹ trước khi ăn, thứ này không phải là thức ăn dành cho anh!”

Cha tôi tái mặt vì ngượng, và lo. Ông nghĩ rằng mình đã ăn một món ăn quý, hay đắt tiền, mà lẽ ra không nên dùng.

“Không dành cho tôi? Tôi... không hiểu, thưa ông. Ô, tôi hiểu rồi. Tôi xin lỗi. Tôi đã không biết. Tôi sẽ không làm như vậy nữa. Không bao giờ làm như vậy nữa...”

Ông chủ nhà nói thật chậm, nhả từng tiếng một.

“Thứ - thực - phẩm - này - không - phải - là - thức - ăn - của - anh. Nó - không - phải - là - thức - ăn - dành - cho - người - ta. Nó - là - thức - ăn - dành - cho -Billy.”

“Billy? Billy là cái gì? Ai là Billy? Tôi xin lỗi, tôi không hiểu. Xin vui lòng chờ tôi một chút nhé. Tôi cần cuốn tự điển.”

Thằng bé con chủ nhà đứng bên, chỉ tay ra góc vườn, ở đó có cái nhà nhỏ như nhà cho trẻ con chơi, trên cửa có sơn chữ Billy màu đỏ sáng. Ông chủ nhà tinh ý, nhã nhặn vỗ vai cha tôi chúc một ngày tốt lành rồi cáo từ, đưa thằng nhóc con đi học.

Cha tôi vào phòng, lục trong va-li ra cuốn tự điển Anh-Việt Việt-Anh mang ra tra nghĩa. Ông cầm cái lon không lên, tra từng chữ, lúc này ông mới để ý trên nhãn lon có vẽ hình đầu một con chó xù. Ông đỏ rần mặt và quỵ xuống khi hiểu ra lon thức ăn ấy quả thật không dành cho mình, nếu mình là một Con Người.

Khi còn ở trong nước, thì một thằng tù không được nhìn nhận là một con người, gã là một con thú bị khước từ và săn đuổi.

Khi ở trại tị nạn, con thú khốn khổ đó đang trong quá trình nhận lại, ý thức lại, cái nhân phẩm mà gã ngỡ rằng đã mất, để trở lại thành một con người.

Còn lúc này, gã đến được quốc gia chấp nhận thân phận tị nạn của gã. Gã đang rị mọ, va vấp, học từng chút một cung cách của đời sống văn minh, và hiểu rằng mình vẫn chưa là một con người hoàn chỉnh trong nhận thức của đồng loại.

Một cảm giác đau buồn, nhục nhã ghê gớm xâm chiếm trọn vẹn tâm hồn ông. Ông không khóc được, chỉ muốn gào thét lên đau đớn.

Làm sao ông tin được rằng con chó trong nhà lại có cái tên Billy hoa mỹ như vậy?

Làm sao ông tin được rằng con chó Billy ấy được thưởng thức thứ thực phẩm ngon tuyệt, thứ của ngon vật lạ đối với ông?

Làm sao ông hiểu được người ta có thể ân cần trọng thị đến khẩu vị của chó Billy một cách tinh tế như vậy?

Bất giác, ông nhận ra thêm một điều rằng, con chó Billy có khả năng giao tiếp giỏi hơn mình, dường như nó hiểu hết những gì chủ nó nói, và ngược lại, chủ nó cũng hiểu nó lắm; còn ông, lúc này đây ông hoàn toàn chưa có khả năng đó, và cũng có thể chẳng bao giờ ông thủ đắc được cái khả năng giao tiếp đó. Ông cay đắng, chẳng lẽ là mình sẽ là một thằng người chậm lụt và trì độn mãi mãi sao?

Ở chỗ làm, ông không hiểu sao bọn đồng nghiệp lại cười phá lên khi nói đùa gì đó với nhau, ông ngờ rằng chúng ám chỉ điều gì về ông. Ông không hiểu, thậm chí ngay cả khi chúng nói với ông. Và ngược lại, chúng cũng không hiểu những gì ông muốn nói. Ngôn ngữ của ông không phải là thứ tiếng Anh cần thiết trong giao tiếp, nó bất lực hơn tiếng chó sủa. Nó bất lực hơn tiếng sủa của con Billy.

Bất lực và tuyệt vọng!

Cha tôi cầm cái lon vào nhà vệ sinh, ông rửa sạch thức ăn còn bám trên lon, gói nó lại bằng miếng giấy báo, rồi cất vào va-li. Tuần sau, tìm được phòng cho thuê có chủ là người Hoa, ông cám ơn gia đình chủ nhà và dọn ra.

Cái lon vẫn theo ông suốt bao nhiêu năm, như một vật kỷ niệm. Nó chưa rỉ sét và ông không dùng nó để chứa đựng thứ gì; nhưng thật ra, nó chứa một thứ vô hình mà có trọng lượng thật nặng nề, một thứ trừu tượng, một cảm xúc xám xịt: nó chứa một vết thương.

Một vết thương chẳng bao giờ lành, chẳng bao giờ lên da non, chẳng bao giờ thành sẹo.

Những lúc tâm hồn ông trở trời — ông gọi đó là những lúc “tâm hồn cục cựa” — nỗi bi phẫn trong con người mẫn cảm của ông dấy lên, thì vết thương ấy lên cơn sưng tấy, đau ngứa, xốn xang, một cách rất cụ thể, mà ông không thể xoa chạm vào, hay quơ tay gãi.

Lúc đó, ông chỉ nốc rượu cho say mèm, rồi nằm rũ rượi.


_________________________

[1]Trích facebook của blogger Quang Văn Vương
[2] dry-clean: giặt bằng cách hấp tẩy
[3]tiền tip: tiền bo





13.


Chuyện này ở thiên niên kỷ trước.

Vào năm 17 tuổi, so với bọn cùng lứa tuổi thì tôi vẫn là một đứa nhỏ con, vóc dáng hơi nhỉnh hơn bọn trẻ gốc Việt, nhưng so với bọn da trắng, da đen, thì tôi vẫn nhỏ hơn chúng.

Tôi có khá nhiều bạn. Tôi dễ dàng kết bạn với bọn cùng lứa. Tôi không có thành kiến. Tôi nghĩ rằng mình sẽ kết bạn với mọi người, bất kể chủng tộc, màu da, trình độ, giàu nghèo, giới tính, tín ngưỡng... Tuy vậy, sau cùng những đứa chơi thân với tôi lại là bọn nhóc tì gốc Việt, nới ra một chút là bọn tóc đen cùng gốc Á như Hàn và Trung. Những đặc điểm giống nhau về chủng tộc kéo chúng tôi lại với nhau. Bốn đứa thân nhất với tôi có hai đứa gốc Việt, một đứa gốc Hoa & Việt, một đứa gốc Hàn. Long và Hải theo gia đình qua Mỹ theo diện HO, cha là quân nhân của miền Nam. Chúng mới đến đất nước này chỉ được vài năm nên chưa quen thuộc với đời sống Mỹ lắm, tiếng Anh cũng chưa giỏi. Thằng gốc Hoa & Việt, từng ở Chợ Lớn, tên Morris, là thằng lớn nhất trong bọn, nó 19 tuổi, một thằng chuyên bày trò quậy. Thằng gốc Hàn còn lại, tên Lee, õng ẹo như con gái, là gốc di dân đời thứ hai trên đất Mỹ, như tôi.

Trừ Lee ra, 4 thằng đứa chúng tôi đều có thể nói tiếng Việt với nhau, chúng tôi dùng tiếng Việt trộn với tiếng Anh. Tôi thấy Long và Hải linh hoạt hơn trong những khi trò chuyện về những đề tài có liên quan đến Việt Nam, tôi học được nhiều điều từ chúng.

Morris có tiếng là dân chơi. Bố mẹ nó vượt biên sau chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc. Nó nói cha nó cho rằng gia đình nó là “nạn kiều” nên khác với dân vượt biên khác, nhưng nó không thể giải thích khác như thế nào. Nó có một khẩu súng lục mua được ở đâu đó, thỉnh thoảng mang đi chơi hù bọn nhóc, và chiếc xe Nissan đời cũ nhưng khá tốt. Cha nó có tiệm tạp hoá và trạm xăng, nó làm bán thời gian ở đó. Với những ưu thế như vóc dáng to hơn, rủng rẻng xu hào hơn, chịu chơi hơn, có xe chở cả bọn đi chơi, nó nghiễm nhiên được cả bọn cho làm xếp sòng. Thỉnh thoảng, nó chở cả đám vào rừng cho bắn súng. Nó còn lên mặt dạy dỗ chúng tôi những kinh nghiệm chơi bời gái gú, nhưng tôi không tin những gì nó ba hoa lắm.

“Ê, tao vừa quất em Joyce, tao đưa nó về nhà, gọi pizza, uống bia, rồi vui vẻ với nhau cho tới khuya.” Nó phà khói thuốc vào mặt bọn tôi.

“Ừm, mày có xài condom không?” Hải hỏi.

“Tất nhiên là có rồi. Tao đâu đã sẵn sàng làm bố. Và tụi mày không hiểu rằng tao là người văn minh à?”

“Tao không tin.” Lee nói.

“Vì sao mày không tin? Mày nói vậy là sỉ nhục tao đấy.”

“Vì con Joyce bồ với thằng Frank. Mày nói tới tai thằng đó là rắc rối to. Nó gấu lắm.”

Quả thật con Joyce và thằng Frank là bồ của nhau.

“Thôi đi, đừng hù tao. Tao đá đít bất cứ thằng nào, và quất bất cứ con nào, nếu tao muốn.”

Chúng tôi đang tán dóc ở bãi đậu xe ngoài siêu thị Safeway.

Như mọi buổi chiều mùa hè, chúng tôi chưa nghĩ ra trò gì cho buổi tối. Tối thứ Sáu, bãi đậu xe của tiệm gái múa cột nằm xéo phía đối diện đang đông dần. Phải 4 năm nữa tôi mới đủ tuổi để bước vào đó. Tấm bảng quảng cáo bằng đèn màu bên ngoài tiệm vừa bật sáng, trưng hình 2 em uốn éo múa theo nhịp nhạc. Dưới tấm bảng đó có một bảng nhỏ hơn, ghi dòng chữ: “Ở đây, bạn có thể vui vẻ với 99 em tuyệt đẹp, và 1 em vừa xấu vừa già khú đế!” Bọn này thiệt biết cà rỡn.

Các ông chú của tôi thỉnh thoảng vào đó vui chơi với đám bạn của họ. Cha nội nào đi xong về cũng “nổ văng miểng” như mình là dân chơi sành điệu, nhưng tôi biết tỏng là không phải như vậy. Mấy cha nội bảo rằng mấy vụ chơi bời này ở Mỹ tuy chuyên nghiệp hơn nhiều nhưng không “đã” bằng ở Sài Gòn. Chơi ở Sài Gòn mới tới bến, mới “mát trời ông địa”, các ông ấy nói vậy. Tôi rành mấy cha nội này quá. Vào đó, mỗi mạng kêu một chai bia rồi ngồi yên ngóc cổ xem mấy em múa, đầu lắc lư theo nhạc, lâu lâu nhét vào quần xịp em vài tờ bạc lẻ là đủ thấy mình bảnh lắm, thấy mình hết là dân chơi cò ba cẳng còn dính phèn ở xứ nhà quê, mà đã là lên hạng đẳng cấp dân chơi quốc tế. Chú Hùng bảo: “Mấy chả làm như là dân cậu. Nhưng lỡ có em nào nhảy vào lòng mời chơi một màn table dance [1] thì xanh xám mặt mày, thiệt là oải!”

Tôi biết không phải vì nhát gái hay cả quỷnh mà họ yếu cơ như vậy, nhưng có lẽ vì cái mặc cảm về ngôn ngữ và thể hình thấp bé của dân Á Đông làm cho họ giảm đi ít nhiều sự tự tin. Họ không vượt qua được nỗi mặc cảm của một gã nhập cư đến đây từ một nước nhược tiểu. Thế hệ của tôi thì khác. Đầu đen, da màu, nhỏ con thì đã sao? Những điều đó chỉ là sự khác biệt chứ không phải sự thua kém.

Có bữa, một ông tưởng bở như mình còn ở Sài Gòn, ngỡ mình là khách hàng, mà khách hàng là Thượng Đế. Khi con nhỏ thơm phức đến mời chả chơi một bài, rồi nhảy vào lòng chả, uốn éo vuốt ve, thì cha nội sờ mó hơi quá tay, nó xáng cho chả một bạt tai rồi kêu bọn bảo vệ nắm cổ tống ra ngoài. Tất nhiên, nó tịch thu chiến lợi phẩm, nhét luôn tờ 20 đô-la vào quần xịp, chứ không trả lại. Cả bọn trở tay không kịp, đành chịu nhục, lủi thủi ra về. Về thôi, chứ không lẽ vác súng vào chơi lại, mà có chơi ngầu thì cũng không chơi lại chúng – bọn mặt rô chuyên nghiệp.

Bọn nhóc tì chúng tôi chỉ có thể ngồi đây mà ngóng qua trầm trồ khi thấy các em múp rụp đi làm. Morris nói nó thấy có mấy em là dân Á Đông, nhưng không biết là gốc gì. Gì thì gì, chúng tôi vẫn khoái em út cùng chủng tộc hơn. Thử nghĩ mà xem, nhỏ con như thằng Hải thì làm sao trông ngon lành bên một em da đen hay da trắng cao hơn nó cả cái đầu? Tuy vậy, tôi vẫn xạo với mọi người rằng mình sẽ nếm các em thuộc đủ các chủng tộc trước khi quyết định lấy vợ.

Chiếc xe cảnh sát tuần tra vù tới lúc nào cả bọn không kịp nhận ra. Một tay cảnh sát bước tới.

“Ê, mấy cậu nhóc! Giờ này chưa về à? Có tiệc tùng gì không? Xe của ai đây?”

“Chào xếp, xe của tôi. Không có tiệc tùng gì cả. Chỉ ngồi hóng mát chút thôi rồi về ngay mà.” Morris đáp.

“Tốt lắm. Đừng quậy nhé. Có rượu bia gì trong xe không?”

“Không, làm gì có. Chúng tôi chưa đủ tuổi để mua.”

“Ok, ngoan nhé. Chúc vui.”

“Ok, chúc xếp một đêm bình an, không phải rút súng ra với ai.”

Tay cảnh sát ngó Morris ra cái điều tao biết mày nói xỏ, nhưng rồi lên xe vù đi.

Bọn tôi nể Morris qua những màn như thế này lắm. Tôi biết nó có mang theo khẩu súng và giấu đâu đó trong xe. Tay cảnh sát mà nổi chứng đòi xét xe thì nó kẹt to.

“Vù thôi. Đứng đây hết trò gì vui rồi. Chúng quay lại thì phiền.” Lee nói.

“Vù đi đâu?” Long hỏi.

“Về nhà tao bơi nhé?” Morris đề nghị.

“Không, hồ nhà mày bẩn lắm. Xác lá đầy. Tao cá là mày chưa vớt lá và cho chlorine vào.” Tôi nói.

“Hay đi phòng tập thể dục?” Long rụt rè.

“Không, tao nghĩ ra trò này rồi, vui lắm.” Morris nói.

“Trò gì?”

“Đi xem phim.”

“Có phim gì đáng xem đâu? Mà giờ này phải mua giá vé buổi tối, đắt lắm, phí tiền.”

“Ghé Blockbuster [2] thuê phim về xem à? Chán chết.”

“Vậy tan hàng nhé?”

Cả bọn đều tỏ vẻ tiếc vì chẳng đứa nào có trò gì vui ở nhà.

“Tao nói rồi, đi xem phim!” Morris lặp lại.

“Phim gì?” Long hỏi.

“Phim ở Eva’s.”

Lee, “Eva’s là ở đâu?”

“Bọn mày con nít quá nên không biết Eva’s là phải! Mỗi thằng đưa 10 tì đây, rồi theo tao! Tao sẽ dạy vỡ lòng cho bọn mày về chim cò các cái.”

Tôi nhớ ra rồi. Eva’s là một cái rạp tồi tàn chuyên chiếu phim XXX gần khu Chinatown, có đôi lần tôi chạy ngang đó. Nhưng những thứ rạp như vậy thì bọn nhóc như bọn tôi không được vào, vì nó cũng cấm trẻ dưới 21 tuổi như cấm vào tiệm rượu vậy, đó là những món dành cho bọn người lớn.

“Làm sao vào được?” Tôi hỏi.

“Chuyện đó của tao. Chìa tiền ra đi.” Morris đáp.

Hải nói: “Thôi, tao bỏ cuộc. Tao về đây.” Nói xong, nó dợm bước đi.

Tôi biết nó không có tiền hoặc có mà tiếc tiền. 10 tì với một thằng nhóc như nó là khá to. Cha mẹ nó làm hết hơi trong xưởng lắp ráp điện tử với mức lương chỉ chừng 7 tì một giờ là cùng.

Morris nói “Khoan đi, tao bao mày.”

“Cám ơn. Mày không phải làm vậy đâu.” Hải nói.

“Nhảm. Tao bao mày.” Morris khẳng định.

Hải đứng tần ngần.

Trừ Hải, tất cả chúng tôi móc túi lấy tiền trao cho Morris. Trước khi ra xa lộ, nó tấp xe vào tiệm KFC, mua một hộp gà hot wings [3] và mỗi đứa một ly nước ngọt to tổ bố. Chúng tôi đớp luôn trên xe.

“Ê, ăn uống cẩn thận, đừng làm bẩn xe, tao mới dọn đấy!”

Tôi đã nói rồi, Morris là thằng bảnh. Nó luôn chơi đẹp với anh em.

*
Trời lắc rắc mưa. Morris đậu xe ở một góc đường vắng, cách rạp một dãy phố, rồi chúng tôi tà tà đi tới. Tấm bảng nhỏ được treo ngang tầm mắt, vẽ một trái táo đỏ dưới chữ EVA’S bằng đèn bóng chớp tắt. Dãy phố này có vài tiệm bán đồ chơi tình dục nằm cạnh nhau.

Eva’s là dạng rạp chiếu liên tục chứ không theo xuất, hết phim này là đến phim khác, chỉ phải mua vé một lần là có thể ngồi cho tới khi bảo vệ vào đuổi. Cũng đúng thôi, phim sex thì đâu cần xem từ đầu, nhảy vào bất cứ đoạn nào cũng vậy.

Vắng hoe. Đèn vàng mờ, những tấm bích chương quảng cáo phim đính quanh tường. Một tay mặt mái, mang kính cận, ngồi sau quầy vé trong buồng kính, gã đang chúi đầu đọc thứ gì đấy đặt trên quầy.

Morris ra hiệu cho chúng tôi dừng lại bên ngoài hành lang rồi một mình nó tiến tới. Tôi tò mò bước theo nó.

“Chào, cho tôi 5 vé.”

“Chắc tớ không bán vé cho mấy cậu được quá. Không lẽ tớ phải kiểm tra ID [4] từng đứa, mà chắc chắn bọn cậu không đủ tuổi rồi.”

“Cho tôi 5 vé.” Morris lập lại, chuồi 2 tờ 20 đô vào. “Anh giữ lấy tiền thừa.” Trên tấm bảng ghi giá chỉ 6 đô / một vé.

“Ồ, anh bạn trẻ khá lắm. Có lẽ tớ đổi ý. Ok, vé đây. Vào lối kia.” Gã chỉ tay vào cái ngách cuối hành lang. Gã nói thêm, giọng ân cần dặn dò.

“Tự chọn chỗ ngồi. Đừng vào phòng vệ sinh một mình, tớ dặn rồi đấy. Nếu có gì bất thường thì mấy cậu la lớn lên nhé. Sẽ có người vào giải quyết.”

“Cám ơn.”

“À, này. Cầm theo mấy cái bọc nôn, nhỡ có khi các cậu cần.” Gã chuồi ra mấy cái bọc nylon.

“Cám ơn.”

“Tớ thích cậu rồi đó. Tớ là Wagner.”

“Cám ơn.”

“Bảo trọng.”

“Cám ơn.”

“Cậu không thể nói gì khác hơn ‘cám ơn’ à?”

“Cám ơn và Fuck you!”

“Ê, nhóc. Tao không gây gổ nhé.”

Morris mặt lạnh, tỉnh rụi nhặt mớ vé cho vào túi áo khoác, vẫy tay với bọn tôi, ra dấu đi vào.

Thảm đỏ, cũ và bẩn. Tường gỗ dán đầy vết ố. Không có ai soát vé. Không có quầy bán bắp rang. Không có quầy bán cà-phê, nước ngọt, kẹo mút. Không có kệ để những tấm quảng cáo nội dung phim đang chiếu hay phim mới. Trên tường trước cửa vào có treo cái hộp bán condom tự động bằng tiền xu nhét qua khe. Mấy thằng tôi dừng lại xem. Bao có nhiều loại hiệu, đủ loại chức năng, có gai và không có gai, có dầu bôi trơn, đủ màu và đủ mùi: cam, chanh, dâu, bạc hà, oải hương... Nói chung là phong phú hơn hàng bày ở các tiệm tạp hoá hay trong rổ cho không đặt ở cửa của các phòng An sinh & Xã hội mà bọn tôi thường thấy.
Gớm nhất là cái mùi. Không biết nên gọi nó là mùi gì cho đúng. Thoang thoảng trong không khí, tanh tanh, lợm giọng. Tôi cá là cái mùi khốn kiếp này sẽ bám lên áo quần và da mình cả tuần.

Morris đẩy cửa, vén tấm màn nhung đỏ, bước vào trước, tôi bước ngay sau lưng nó, rồi ba thằng kia cũng vào theo. Phải mất một lúc để làm quen với ánh sáng mờ mờ trên màn ảnh và âm thanh nổi đang dội ầm ầm.

Tôi nhìn quanh. Rạp nhỏ, chừng 100 ghế. Chừng 20 người xem ngồi rải rác khắp phòng, hầu hết ngồi một mình. Tôi nghĩ nhiều phần chắc họ là khách quen. Có nhiều người ngủ gà gật, mặc kệ ánh sáng và âm thanh điên rồ quanh mình. Có vài cặp ngồi với nhau, nhưng tôi không nhận ra họ là cặp nam & nữ, hay chỉ hai thằng đực rựa. Morris lôi cả bọn đến một dãy ghế hàng giữa. Tới lúc này tôi mới nhìn lên màn ảnh.

Tôi chưa trải nghiệm tình dục thật, nhưng đã từng xem phim sex nhiều lần. Chuyện sex với tôi không lạ. Nhưng lúc này nhìn lên màn ảnh rộng, tôi choáng. Hiệu ứng của nó hoàn toàn khác với xem trên ti-vi hay loại phim chiếu lên tường bằng máy chiếu cỡ nhỏ. Không cần đến phim 3D cũng đủ làm tôi muốn phát khùng.

Hai bộ phận sinh dục khổng lồ, được quay cận cảnh, đầy tràn cả màn ảnh, chi li đến từng chi tiết nhỏ. Những sợi lông đen, lông nâu, quấn vào nhau, rối tung, ướt nhẹp như những sợi thừng. Hai vật thể đỏ au, cọ xát, mơn trớn, va đập vào nhau liên hồi trong tiếng rên siết cực khoái được khuếch đại thành những tiếng thét sấm động đến buốt óc.

Không phải hai con người đang làm tình, mà đó là hai vị thần khổng lồ của thời hoang sơ mông muội đang xoay trở làm tình dưới làn nước phun xối xả trong bồn tắm.

Tôi nghe tiếng nôn ọe, nhìn sang ghế bên, thấy Hải đang gục mặt vào cái túi nôn. Nó đang trút tất cả gà chiên và nước ngọt trong bao tử ra cái túi, dậy mùi thối hoăng.

Chỉ xem 10 phút là quá đủ, thần kinh tôi chỉ chịu được đến thế. Tôi không thể xem tiếp. Bụng dợn lên cơn buồn nôn, tôi cố kềm lại, nhưng luôn thủ sẵn cái túi để phòng ngừa. Có lẽ mấy thằng kia cũng vậy.

Tôi nhắm mắt lại. Tuy vậy, những hình ảnh vẫn hiện ra trong đầu rõ mồn một vì hiệu ứng của âm thanh kích động trí tưởng tượng.

Soooaaap... soooaaaaap... soooaaaaap...

Tuy nhắm mắt, tôi vẫn hình dung thấy cái dương vật đen, săn chắc, hung hãn lao vào cái lỗ trống hun hút dưới những múi thịt đỏ hoét. Không phải là miệng âm hộ, mà nó trông giống như một đoá hoa ăn thịt dị thường trong các phim khoa học viễn tưởng.

Một ý nghĩ nảy ra trong đầu tôi. Với hiệu ứng hình ảnh và âm thanh này thì khán giả hoàn toàn bị triệt tiêu hết mọi ham muốn, hoàn toàn không thể nào hứng tình nổi. Tôi còn e rằng nếu mang những tên tôi phạm hiếp dâm vào đây xem mỗi ngày, trong suốt một tháng, thì chẳng mấy chốc có thể thả chúng ra ngoài xã hội mà không phải lo lắng gì. Chúng sẽ liệt dương hết. Vậy mà lát nữa tôi sẽ thấy tôi lầm.

Ánh lửa loé lên ở phía cánh gà bên phải, cách chúng tôi hai hàng ghế. Mẹ kiếp, chúng hút thuốc lá trong rạp. Không phải thuốc lá. Tôi ngửi thấy mùi khét nồng của cần sa. Mùi này thì tôi biết. Bọn nhóc hay hút lén lút. Tôi có thử đôi lần. Không khoái lắm, thậm chí còn bị nôn thốc tháo và mệt ngầy ngật vì say thuốc chứ không thấy phê lâng lâng như chúng tả.

“Ê, dụi ngay. Không được hút trong này.” Một tay bảo vệ từ đâu hiện ra.

“Ok, ok. Chỉ làm một hơi thôi mà.”

“Đụ má, dụi! Không tao tống cổ ra ngoài ngay!”

“Vâng, thưa ngài.”

Tay bảo vệ bỏ đi.

Hải nói: “Tao muốn vào toilet để vất cái túi nôn. Mày đi với tao nhé?”

“Để đó đi, lát nữa ra thì cầm theo vất thùng rác bên ngoài cũng được.” Long nói.

Cửa rạp hé mở. Tôi thấy mọi cái đầu quay lại nhìn. Dường như mọi người đều quay đầu nhìn khi có ai bước vào. Quay nhìn như ai cũng đang chờ một điều gì khác thường sẽ xảy ra.

Hai dáng người nắm tay nhau, lần mò đi vào tìm ghế.

Gã trai cao lớn, quần jeans áo da, găng tay da, đầu đội cái mũ cao bồi rộng vành. Em đi với gã cũng mặc đồ jeans nguyên bộ, cũng mũ cao bồi, giày ủng cao. Chúng có vẻ không phải dân thành phố. Có vẻ là dân redneck. [5]

Gã lôi đứa con gái đến hàng ghế trước mặt chúng tôi hai dãy, ấn cô ngồi xuống. Chúng có vẻ đang xỉn. Tôi không nhắm mắt nữa nhưng không xem phim. Tôi nhìn chúng. Gã trai bỏ cái mũ ra. Con nhỏ làm theo. Gã quàng tay qua vai nó, hai cái đầu kề sát lại nhau.

Morris khều chúng tôi. “Ê, chúng mày. Đừng xem phim nữa. Xem chúng kìa.”

“Oh yeah, monkey see monkey do.” [6] Lee nói.

Thật ra chúng tôi không thấy gì cả ngoài hai cái đầu nhô lên sau lưng ghế, nhưng chừng đó cũng đủ rồi, hãy dành phần còn lại cho trí tưởng tượng. Thử nghĩ xem, đưa một em vào rạp Eva’s giờ này, thì còn việc gì khác để làm chứ? Tôi tự hỏi tại sao chúng không đưa nhau vào khách sạn hay một chỗ nào khác tiện nghi hơn nhỉ? Thậm chí, ở băng sau xe, ở một công viên, bãi đậu xe, bãi biển, hay ngay cả cái lề đường mà Morris đậu, cũng tốt hơn là đưa nhau vào đây. Chắc hai đứa này khùng rồi. Chúng nói to với nhau, như gào lên để không bị âm thanh của phim át tiếng, đủ to để chúng tôi nghe, tiếng được tiếng mất.

“Đừng sờ em!”

“Thôi nào!”

“Em nói rồi, đừng chạm vào em.”

“Sao vậy?”

“Không phải ở đây, không phải lúc này!”

“Thế vào đây làm gì?”

“Xem phim!”

Em này bảnh, tôi bật cười. Hahaha, vào đây xem phim.

“Hay ho gì mà xem. Anh có thể làm tốt hơn chúng.”

“Không tốt. Anh thiếu óc sáng tạo.”

“Đéo là đéo, chứ sáng tạo cái khỉ gì!”

“Tự đéo anh đi!”

“Thôi mà, cưng!”

Con nhỏ im, không nói gì nữa, cũng không nhìn lên màn ảnh, có vẻ như nó chúi đầu vào ngực thằng kia. Có vẻ như chúng đang sờ mó âu yếm nhau nhiệt tình.

Long thì thầm, “Xem kìa!” Nó chỉ về phía trái. Tôi nhìn theo tay nó, mấy bóng người đang lui cui di chuyển về phía hai nhân vật của chúng tôi.

Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy... Bảy đứa cả thảy.

Bảy bóng người từ từ tiến đến, đến thật sát, rồi chọn chỗ ngồi quanh hai đứa kia. Chỉ cách chừng vài ghế trống. Chúng lặng lẽ đến ngồi quanh như những khán giả lịch lãm ngồi xem một màn xiếc; không, một màn ca nhạc kịch mùi mẫn.

Hai đứa kia ngưng cãi nhau. Tôi không chú tâm lắng nghe được nữa. Tôi tưởng tượng những chiếc áo jeans, quần jeans, từ từ được cởi ra, hai thân thể đang quấn vào nhau, sau cái nền của một cuộc làm tình khác đang diễn ra trên màn ảnh. Những bộ phận sinh dục. Khổng lồ và nhỏ bé. Nhoà hiện. Ảo thực.

Tay. Lưỡi. Vú. Bàn chân. Đầu buồi. Lông. Nước dãi. Mông. Xương sườn. Ngón chân. Răng. Lóng tay. Tinh khí...

Những bóng ma, tiến sát chúng hơn, châu đầu lại.

Soooaaap... soooaaaaap... soooaaaaap...

Morris đứng dậy để nhìn cho rõ. Hải đứng dậy. Long đứng dậy.

“Chúng mày ngó cái chó gì vậy?” Gã đàn ông thét lên.

Ánh đèn pin lia quét từ phía sau.

Đèn bật sáng.

...


_________________________
 
[1] table dance: tiết mục múa tại bàn. Vũ nữ phục vụ cho riêng một khách,múa trọn một bài hát dài chừng 5 phút. Khách trả tiền riêng ngay lúc đó.
[2] Blockbuster: tên của một công ty lớn có nhiều cửa tiệm ở các địa phương, chuyên cho thuê phim. Ngoài Mỹ, Blockbuster có mở chi nhánh ở một số nước khác trên thế giới.
[3] hot wings: món cánh, đùi gà chiên, tẩm gia vị cay.
[4] ID ( identification card): Thẻ căn cước để xác nhận nhân thân. Ở Mỹ, người ta thường dùng bằng lái xe.
[5]redneck: hàm ý là người Mỹ da trắng nhà quê.
[6] “Oh yeah, monkey see monkey do”: khỉ ngó sao làm vậy.




14.

1970. Thị trấn miền Đông.

Đây là năm trung học đầu tiên của Lễ. Trường này là trường trung học công lập duy nhất của thị trấn. Khi còn ở cấp tiểu học thì con gái học ở trường Nữ tiểu học, còn con trai thì học trường Nam tiểu học, hai trường riêng biệt, nằm cách nhau khá xa, chừng 2 cây số. Học sinh, bất kẻ nam hay nữ, nếu thi đậu đệ thất thì vào trường công; nếu thi rớt thì hoặc bỏ học, hoặc vào trường Bồ Đề, là một trường tư.

Theo nội quy của nhà trường, con gái phải mặc áo dài trắng, hoặc xanh nhạt; con trai thì sơ-mi trắng, quần tây xanh. Lễ chưa từng có chiếc áo dài nào. Mẹ mua vải, đặt chị Cúc gần nhà may cho Lễ hai áo, một trắng một xanh, hai quần, một đen một trắng, và mua thêm một đôi guốc sơn đen có chấm hoa.

Nhà Lễ có 4 người. Cha của Lễ là ông Kỳ, mẹ là bà Thoa, Lễ là con gái đầu, có một em trai là Thảnh. Ông Kỳ được mua một căn nhà nhỏ trong khu cư xá dành cho công chức. Ông bà cùng đi dạy, cho tới khi chiến tranh lan rộng, ông bị động viên vào lính đã 3 năm. Lễ biết ông mong sớm đến ngày được xuất ngũ, làm quân nhân biệt phái, trở về với công việc gõ đầu trẻ. Dạo này ông thường đi hành quân, ít khi ở hậu cứ, ở nhà chỉ có 3 mẹ con với nhau.

Vào Nam lập nghiệp, nhà Lễ không có bà con nào gần, ngoại trừ gia đình cậu Khương. Ông là anh em bạn dì của mẹ, cũng là bạn thuở thiếu thời của cha Lễ, cùng bỏ quê miền Trung vào đây. Con của cậu, Bửu và Hồng, anh em sanh đôi, một trai một gái, lớn hơn Lễ ba tuổi và học cùng trường. Mấy anh em lớn lên cùng nhau, chơi chung thân thiết như anh em ruột. Nhà cậu Khương ở gần khu gia binh, không xa nhà Lễ, cách chừng trăm mét, qua con dốc, bên kia con đường đất xẻ đôi cánh rừng cây cao-su, cành cây hai bên đường choàng qua, đan vào nhau, thành cái vòm sâu hun hút. Nhà Lễ nằm trong khu cư xá dành cho công chức, gọi là cư xá 60 căn, đối diện với đồn lính An ninh Quân đội.

Cu Thảnh khóc suốt đêm, người ta bảo rằng nó vẫn khóc dạ đề tuy đã 3 tuổi, nhưng mỗi khi cha về thì nó lại không khóc. Họ bày cho mẹ lấy cái áo cũ của cha, phải là áo bẩn có mùi mồ hôi của ông, cho nó ôm mỗi đêm thì sẽ hết khóc. Tuần trước cha về, mẹ kể lại cho cha nghe, rồi chừa lại một cái áo thun còn bết bùn của ông khi mang đồ ra giặt. Hai hôm sau cha lại đi trận. Mẹ bỏ hành lý vào ba-lô, thay cho ông áo mới, giữ cái áo bẩn lại.

Giường đôi, 3 mẹ con nằm với nhau, Thảnh nằm giữa, Lễ một bên, mẹ một bên; cha về thì ông ngủ trên chiếc ghế bố đặt ở phòng ngoài. Mẹ lấy cái áo bẩn ra, cuộn lại, nhét vào lòng Thảnh; cái áo bốc mùi khét nồng, mùi mồ hôi và nắng gió, vậy mà một lát sau nó nín khóc, ôm bình sữa mút, rồi ngủ. Lễ thấy không chỉ thằng Thảnh thôi, mà cả mẹ và mình cũng nghiện mùi cái áo. Mẹ len lén lấy áo khỏi tay Thảnh khi nó đã ngủ, úp áo lên mặt hít hà, rồi Lễ nghe mẹ khóc thút thít nho nhỏ. Những đêm vắng cha, Lễ cũng không ngủ được, muốn mò qua ôm mẹ.

Lễ nằm trên giường nhìn qua cửa sổ, một trái hoả châu bay chầm chậm trên bầu trời, toả ánh sáng soi khắp vùng, soi rõ đám cây lá và những mái tôle của trại gia binh. Dưới cánh dù nhờ nhờ trắng, nó trôi từ từ rồi rơi xuống, tắt ngấm, để lại một vệt khói trắng mờ, tan dần. Trước khi ánh sáng của trái hoả châu này tắt, thì một trái khác được bắn lên thay. Lễ băn khoăn không biết họ có bắn hoả châu suốt đêm hay chỉ bắn qua nửa khuya tới khi Lễ ngủ, lúc mọi người yên tâm sẽ không có cuộc tấn công hay pháo kích nào, thì ngưng. Có lần cha nói, khi trái châu chưa tắt thì hãy mở ra rồi cài lại chiếc cúc áo cuối cùng 10 lần, trong lúc làm như vậy thì ước điều mà mình mong mỏi nhất, điều ước đó sẽ thành sự thật, vì trên bầu trời khuya thì hoả châu cũng không khác với ngôi sao băng, chỉ tắt chậm hơn thôi. Lễ làm theo nhiều lần, lần nào cũng kịp cởi ra cài lại nút áo 10 lần trước khi hoả châu tắt, và chỉ ước có một điều. Lễ ước hết chiến tranh, ước hoà bình, để mọi người được bình an. Bình an có nghĩa là còn sống, không chết vì bom đạn. Từ khi hiểu được đôi điều, Lễ chưa từng thấy hoà bình. Cảnh đất nước thanh bình là những gì xa xôi và xưa cũ lắm, được mô tả trong sách tập đọc và những bài hát mà mẹ thường hát.

Chủ nhật, mẹ đưa 2 đứa đi nhà thờ. Mẹ bảo Lễ mặc áo dài xanh, tròng lên cổ một xâu chuỗi nhỏ làm bằng những hạt thuỷ tinh xanh lục, có chiếc thánh giá gỗ. Mẹ rất sốt sắng việc đạo. Khi rảnh là mẹ cầu nguyện và đọc kinh. Năm nay Lễ bắt đầu tham gia ca đoàn của nhà thờ. Mỗi chiều có buổi tập hát ở nhà thờ, chị Hồng chở Lễ cùng đi bằng xe đạp mini. Mẹ nói, cái gác chuông của nhà thờ này là do cha và cậu Khương, và một số thanh niên, giúp cha Luông — vị linh mục sở tại — dựng lên vào đầu năm 60, khi hai gia đình vào lập nghiệp ở thị trấn miền Đông này.

*
Chiều hôm qua người ta chở xác cậu Khương về bằng xe lam.

Cả xóm đã nghe tin ông bị Việt Cộng phục kích bắn chết hồi sáng, khi trên đường đi làm trên quận. Mợ Viên, vợ ông, tất tả chạy đi tìm chồng từ lúc trưa.

Cậu Khương là trung sĩ Địa phương quân, nhưng chỉ làm văn phòng trong thị trấn. Ông đi làm bằng chiếc xe mô-bi-lết. Người ta nói ông bị giăng dây hay quăng móc câu cho ngã. Thay vì bắt ông đi thì họ xử tử tại chỗ. Họ lấy đi khẩu súng lục, ví tiền, và đốt rụi chiếc xe máy của ông.

Mẹ đã đi dạy về rồi nhưng bà tất tả sang thăm và xem có thể giúp được gì cho đám tang. Lễ cũng đi học về, định đi theo nhưng bà không cho, bảo ở nhà trông em. Lễ thắt thỏm dắt Thảnh ra đường trước nhà đứng ngóng.

Bụi đỏ bốc mù lên tàn cây, những trái điệp đong đưa theo gió. Một con lốc từ từ dấy lên ở cuối con đường đất. Ban đầu chỉ có vài cọng rác xoay xoay bay, càng lúc càng nhanh, rồi lớn dần, cao dần, mù mịt như một cột bụi khổng lồ từ từ di chuyển ra hướng sân bóng, rồi dừng lại, hồi lâu mới tan. Có người xúi bọn nhóc rằng, nếu cầm một con dao phay và ôm chiếc nón lá để ngửa, xông vào giữa con lốc, chém một nhát, thì sẽ lấy ra được đầy một nón sóng sánh máu.

Tiếng máy xe nổ phành phạch từ xa vọng lại. Chiếc xe lam lừ đừ bò lên con dốc rồi dừng lại bên cây mít trước sân nhà. Đám đông túa ra, bu theo xe. Lễ cũng na thằng Thảnh chạy đến, cố len vào xem.

Xác cậu Khương được bó trong chiếu cói. Đầu cậu thò ra ngoài, tóc bệt máu che mặt, nghoẻo sang một bên, lắc lư theo nhịp bước của hai người lính khiêng ông từ xe lam xuống. Mẹ Lễ dìu mợ Viên đang khóc ngất, xỉu lên xỉu xuống. Lễ cố tìm xem Hồng ở đâu nhưng không thấy. Bửu đứng giữ cánh cổng gỗ, anh không khóc, mặt đanh lại, một tay thả xuôi hai bên hông, bàn tay gồng lên, nắm lại thành nắm đấm nhỏ.

Người ta để cậu Khương nằm trên ghế bố. Phải nhét bông gòn vào đầu cậu cho đầy, vì phần sau đầu bị bắn vỡ mất một miếng lớn, óc đổ hết ra ngoài. Sau lưng áo lính có dấu một bàn chân trần in hằn lên, hiện rõ những ngón bết bùn đỏ đã khô.

Tối đó, cả xóm tụ đến nhà đọc kinh. Chị em Lễ cũng được mẹ chít lên đầu chiếc khăn tang bằng vải xô trắng. Lễ đứng ngoài sân ngó vào. Chiếc quan tài choán hết căn phòng khách nhỏ đã dọn trống bộ bàn ghế gỗ. Con chó Ky rên ư ử, thấy mọi người không để ý lại tìm cách len vào nằm dưới quan tài chủ, ngước đầu ngó lên. Cậu Khương trong di ảnh là tấm hình được cắt ra từ hình cưới, nhìn Lễ chăm chăm, ánh mắt ông buồn quá đỗi. Lễ không thể nhìn lâu, không cầm lòng được, Lễ khóc.

Buổi cầu kinh vừa chấm dứt thì có tiếng còi hụ báo giới nghiêm, mọi người quày quả ra về. Con tắc kè trên cây cột gỗ trong góc nhà kêu lên mấy tiếng như lời tiễn khách.

Đám tang cậu, cha không về được. Cha về sau đó một tuần khi mọi chuyện tang ma đã xong, rồi cha lại về vào dịp làm đám cúng 49 ngày.

Con chó Ky nằm xoãi chân trước hiên, đứng dậy vẫy đuôi mừng cha. Chủ qua đời, nó bỏ ăn, gầy rộc, chỉ còn dúm lông xơ xác. Đêm đêm, trong tiếng đạn nổ ì oàng từ xa vọng về, Lễ nghe tiếng nó tru từng tràng dài. Cha phải can thiệp khi những người lính trong trại đòi bắn nó, vì họ không chịu nổi những tràng âm thanh thê thiết rợn người của con chó nhớ chủ.

Bửu đã bỏ học ngay sau đám tang, anh đang học đệ tam. Bửu gầy rạc, để tóc hippie dài chấm vai, đi lang thang những đâu không ai biết, chiều tối mới về. Mợ Viên sang nhờ cha nói chuyện với anh, nhưng không kết quả. Bửu không bày tỏ điều gì, chỉ đứng khoanh tay im lặng, nước mắt lưng tròng.

Hai người phụ nữ, mợ và chị Hồng, xoay xở lo lắng tìm phương cách tiếp tục đời sống. Hồi nào tời giờ mợ Viên chưa từng đi làm, chỉ ở nhà nội trợ. Trước đây, cả nhà sống nhờ vào tiền lương của cậu. Giờ, với số tiền tử không được bao nhiêu, hao cạn đi rất nhanh. Ở đây không thể buôn bán được gì vì là trại gia binh, toàn là gia đình quân nhân nghèo, thậm chí nheo nhóc, bất an. Phía bên nhà Lễ là khu cư xá dành cho công chức, cũng nghèo không kém. Khá nhất trong giai đoạn này là những nghề có dính líu đến chiến tranh, đến quân đội Mỹ, như thầu đổ rác hay làm việc trong các căn cứ Mỹ.

Mợ Viên chỉ mời gia đình Lễ và ông Kiên, ông Hà, ông Thái — ba người bạn thân của cậu và cha Lễ; họ đều làm bên an ninh quân đội. Mâm cúng đơn sơ, vài đĩa thức ăn và đồ nhắm mà cậu thích khi còn sống.

Nhang tàn, bốn người đàn ông ngồi vào bàn, đầu bàn để một chiếc ghế trống và chén đũa dành cho người đã khuất. Mợ Viên, mẹ, Lễ và Hồng bưng dọn và tiếp thức ăn. Cha Lễ mang qua chai rượu, ông rót ra ly nhỏ cho mọi người và cái ly trước chiếc ghế trống dành cho cậu.

“Anh Khương linh thiêng thì về chứng giám, uống với chúng tôi chén rượu.”

Ông đứng lên, nhấc cái ly nhỏ dành cho bạn, rồi rưới rượu trong ly vào bát hương.

“Phần ông đó. Dô đi, Khương...!” Ông Hà nói.

Mọi người cạn ly.

Hồng bưng lên hai đĩa thức ăn mới.

“Sao không để cúng mà giờ mới dọn ra, cháu?” Ông Kiên hỏi.

“Dạ, đây không phải món nấu nên không cúng ạ.”

“Món gì mà không mang cúng vậy?”

“Dạ, thịt hộp. Ngày xưa, cha con thích lắm.”

“À, đúng rồi. Chả khoái món thịt ba lát [1] này lắm. Nhớ, những lần hành quân chả đều nhét theo khẩu phần thứ này.” Ông Thái nói.

Mọi câu chuyện đều nói về người đã khuất, những thói quen, những kỷ niệm khi ông còn sống.

“Thằng Bửu đâu? Ngồi vào đây, giờ mày là đàn ông duy nhất trong nhà, thay mặt cho cha mày tiếp rượu cho mấy bác. Nếu mày ngại thì ngồi ghế này, tao ngồi ghế cha mày.” Ông Hà bảo Bửu, rồi đứng lên nhường ghế.

Bửu khép nép ngồi kế bên cha của Lễ.

“Uống đi mày... Anh Kỳ cứ để cho nó uống.” Ông Thái nói với cha, rồi rót rượu cho Bửu. Anh dốc ly rượu vào cổ, ho sặc sụa.

“Mày biết thằng nào giết cha mày chưa?” Ông Hà nói.

“Dạ, chưa...”

“Hai năm nữa, đủ lớn, tao sẽ cho mày biết.” Ông Kiên nói.

“Dạ... Sao bác không cho cháu biết bây giờ?”

“Mày chưa đủ lớn để trả thù.”

“Cháu lớn rồi.”

Ông Kiên lấy khẩu súng ngắn dắt sau lưng ra, dằn lên bàn.

“Chúng nó giết mày mất. Yên trí đi, bác sẽ giúp mày khi tới lúc, tao sẽ bắn nó nát óc như nó bắn cha mày, tao thề!”

Cha Lễ nói: “Thôi, lúc khác sẽ nói chuyện đó. Anh Kiên cất súng đi.”

“Các anh ơi, đừng nói chuyện đó bây giờ. Rồi sau này con sẽ biết, Bửu ơi!” Mợ Viên khóc, khẩn khoản.
 
Bửu say, sau hai ly, ra sau nhà ói thốc tháo.

Chai rượu cạn nhanh. Hết rượu, đến bia Con Cọp.

Buổi tiệc tàn. Lễ phụ dọn, lẫn trong mớ vỏ chai bia là những vỏ lon thịt hộp.

*
Bửu bỏ hai cái vỏ đạn người ta nhặt được bên xác cậu Khương vào cái hộp thiếc nhỏ đựng kẹo ho, rồi đặt lên tủ thờ. Cha Lễ phải khuyên rằng giữ cái hộp ở chỗ lúc nào cũng thấy sờ sờ như vậy là không nên, vì sẽ làm cho không khí trong nhà thêm nặng nề, thì Bửu mới nghe lời, mang cất đi.

Cái chết của cậu Khương làm mọi chuyện trở nên bất thường. Con Ky bắt đầu hoá dại, ban đêm xông vào sân nhà hàng xóm, phá tung chuồng rồi cắn giết gà họ nuôi, tha đi. Ban ngày nó đuổi cắn bọn trẻ trong xóm đi học ngang nhà. Hàng xóm ngày nào cũng đến nhà than phiền. Bửu lôi nó về, cột lại đánh nhưng nó lại cắn đứt dây, sổng chạy.

Lễ qua nhà tìm Hồng, không gặp. Khi quay ra, Lễ nhìn phía cuối vườn, Bửu đâm con Ky bằng lưỡi lê. Lễ đứng chết sững. Con chó hộc lên, giãy giụa, máu bắn ra thành vòi. Bửu vật nó xuống, một tay siết cổ, tay kia rút lê ra đâm tiếp. Bửu đâm điên cuồng. Máu chó ướt nhầy nhụa khắp mặt, bê bết tóc Bửu, văng tung toé khắp nơi.

Con chó co giật, lịm dần, nấc lên một cái cuối cùng rồi nằm im.

Bửu dừng, buông tay, lưỡi lê còn cắm trên ngực con Ky. Bửu đứng lên, ngó Lễ, mắt dài dại. “Lễ, đi về đi!”

“Sao anh giết nó?”

“Phải giết! Tao không giết thì người ta cũng giết.”

“Anh ác!”

“Em không hiểu đâu...”

“Anh ác lắm! Giờ thì làm sao đây?”

“Anh sẽ lo. Này, Lễ... không được nói lại với ai nhé.”

Lễ bước lùi ra sân, vừa chạy vừa khóc.

Bửu dọn dẹp sạch dấu máu, bỏ xác vào bao tải mang đi chôn ngoài suối. Bửu không nói lại với ai chuyện giết con Ky. Lễ cũng không nói. Mọi người nghĩ rằng nó lên cơn dại rồi bỏ nhà đi mất, hay đã bị những nhà bị trộm gà giết. Thỉnh thoảng mơ hồ giữa khuya, Lễ nghe có tiếng rên ư ử của con chó khóc chủ. Nhắm mắt, Lễ lại thấy cảnh nó nằm dưới quan tài cậu Khương ngước nhìn lên.

Một hôm, Lễ ngủ dậy, thấy trên bắp chân có dấu tím bầm to bằng nửa bàn tay, rõ ràng như dấu răng. Lễ sợ quá, bọn trẻ nói rằng đó là dấu ma cắn. Lễ nghĩ, con Ky đã thành ma, ma chó, nó về cắn Lễ vì đã không cứu nó.

Sang năm, Bửu đi học trường Quốc gia Nghĩa tử ở Sài Gòn, rồi nghe đâu đã đăng lính cho dù chưa đủ tuổi. Bửu đi Biệt động quân, đi biệt không về, thậm chí không cả viết thư cho mẹ.

Mợ Viên ít khi về nhà, có khi cả tháng Lễ mới thấy mợ về một hai hôm, lui cui dọn dẹp, rồi lại đi. Mợ nói với mẹ Lễ rằng mợ đi buôn hàng PX [2] ở căn cứ Long Bình. Hồng cũng đi. Hồng bỏ học trường công, vào học nội trú ở một trường dòng ở gần Biên Hoà. Hồng không mang chiếc xe mini theo, vì ở nội trú trong trường suốt, không sử dụng xe, chị mang qua tặng Lễ.

Căn nhà khoá cửa. Mợ Viên có giao cho mẹ Lễ chìa khoá nhờ thỉnh thoảng ghé qua trông chừng. Cái hàng rào gỗ mục rã, ngã dụi xuống. Cây mít trước sân bị trốc gốc sau một đêm mưa, mẹ Lễ thuê người cưa nhỏ, dọn lại một đống chất ngoài sân. Khoảnh vườn bỏ hoang, cỏ dại mọc um tùm, chỉ còn lại rải rác những bụi chuối già xơ xác. Có khi chuối chín rục buồng nhưng không ai lội vào chặt vì ngại lội vào vườn đầy cỏ dại và cây mắc cở nhiều gai. Chiều tối, dơi bay về từng đàn, tranh ăn xao xác.

Bẵng một thời gian khá lâu, cả hơn 2 năm, một hôm Bửu về. Không có chìa khoá, Bửu đạp bung cửa để vào.

Bửu đen thui, mặt già chát như thứ trái chín héo, cao và gầy, tóc ngắn sát da đầu như cạo trọc, bộ áo quần rằn ri rộng thùng thình, thắt lưng đeo hai trái lựu đạn lủng lẳng. Cánh tay trái bị thương, treo qua vai bằng một dải băng, trên bả vai hiện màu mực tàu xăm hai chữ “...oán trả!”, hai chữ cuối của hình xăm.

Qua nhà, chào mẹ Lễ xong, Bửu không ở lại ăn cơm, nói rằng con vừa ăn ngoài quán, không đói. Lát sau, mẹ bảo Lễ mang cà-mèn cơm qua cho Bửu.

Bửu ngồi một mình ngoài sân. Mấy vỏ chai bia 33 lùn nằm la liệt ở chân ghế xích-đu. Lễ bày cơm ra mâm, mang ra sân đặt lên 2 chiếc ghế nối lại làm cái bàn tạm.

“Anh Bửu ơi, sao ngó Bửu dữ tợn quá à...”

“Ừa, già đi thì vậy đó.”

“Tay Bửu còn đau không? Có bị nặng lắm không?”

“Bớt nhiều rồi. Chỉ bị miểng pháo, ở phần thịt thôi. Cũng may.”

“Sao Bửu không về thăm nhà? Đám giỗ cậu cũng không chịu về. Không nhớ mợ với Hồng sao?”

“Nhớ. Nhưng về thì buồn lắm, Lễ à...”

“Bửu đóng ở đâu, đi trận khổ không?”

“Nhiều nơi. Chỗ này chỗ nọ. Ra tới miền Trung luôn, kể hổng hết chuyện đâu. Hồi này thì ở Tây Ninh.”

“Đi trận khổ không Bửu? Rồi sẽ ra sao đây?” Lễ hỏi lại.

“Đụ má. Chết thì hết khổ!”

“Bửu đừng chửi thề với em.”

“Ừa, tại anh quen miệng.”

“Lễ có cầu nguyện cho Bửu... Mấy bạn trong trường cùng thỉnh thoảng cũng nhắc đến Bửu.”

“Họ nhắc anh làm gì ha? Lễ nhớ, chứ Chúa hổng nhớ anh đâu.”

“Bửu muốn nói hay nhắn gì, với ai không?”

“Không. Anh không nói được đâu.”

“Nói đi... Không sao đâu. Mình là anh em hoài hoài mà.”

“Ừa...”

“Ừa, sao?”

“Ở ngoài chợ người ta đồn má anh đi làm sở Mỹ. Có không Lễ?”

“Em không biết chuyện người lớn...”

“Em phải biết chứ. Đừng...” Bửu ngưng một thoáng rồi nói nhanh, nói như khóc, “Đụ má! Buồn quá, Lễ ơi...”

Một con rắn mối bò ra từ đống gỗ mục. Bửu với tay nhặt chiếc giày sô ném. Không trúng. Chiếc giày văng lên hất đổ mâm cơm.

Bửu đi. Ít lâu sau, mợ Viên về, sang lại căn nhà với giá rẻ bèo. Mẹ Lễ và mợ nói chuyện với nhau cho tới khuya. Lâu lâu mẹ nhận được thư và trao đổi vài lá thư với mợ, rồi bặt tin. Người ta nói mợ vô Long Bình làm sở Mỹ, còn chị Hồng cũng bỏ trường nội trú, vô Sài Gòn bán bar. [3]

Cha nói với mẹ, mấy ông An ninh Quân đội cho Bửu biết mấy người giết cậu Khương là cán bộ đang hoạt động trong vùng. Họ nghi ngờ một người quen đã điềm chỉ cho Việt Cộng phục kích ông. Người đó nằm vùng, làm kinh tài, mua gạo và thuốc men đưa vào mật khu, nhưng họ chưa có đủ chứng cứ để bắt. Bây giờ thì không cần nữa, Bửu đã lo chuyện đó xong rồi. Lễ nhớ lại cảnh Bửu chùi hai tay bết máu vào áo hôm Bửu giết con Ky.

Chiến tranh ngày càng lan rộng khốc liệt. Nhiều người bỏ thị trấn dời qua vùng khác tránh bom đạn, nhưng hầu như không còn nơi nào an toàn. Cha được giải ngũ, quyết định bán nhà vào Sài Gòn làm lại từ đầu, cũng bằng nghề dạy học.

1975, cuộc chiến chấm dứt. Thị trấn là nơi diễn ra trận đánh dữ dội nhất, là cơn giãy giụa, hấp hối sau cùng của con vật chiến tranh. Thị trấn thành bình địa. Khu chợ và những dãy nhà chung quanh chỉ còn gạch ngói ngổn ngang. Vậy mà kỳ lạ, ngôi nhà thờ không đổ. Tháp chuông là vật thể duy nhất còn đứng trơ trọi, lỗ chỗ dấu đạn. Thánh giá trên cao gãy gập, bay mất một bên tay, trơ giàn khung sắt trĩu xuống. Chúa đang cúi xuống. Cúi xuống niềm tin và hi vọng rách rưới của con người. Hoà bình.

Hoà bình mà sao tan nát, phân tán hơn cả khi còn chiến tranh!

Thỉnh thoảng có tin mơ hồ về mợ Viên, Hồng và Bửu, nhưng không thể biết họ chính xác đang ở đâu, chỉ nghe phong thanh nơi này nơi khác. Chẳng bao giờ Lễ gặp lại ai trong gia đình cậu.

“Mợ ơi, Bửu ơi, Hồng ơi, ở đâu? Còn sống không?”


_________________________

[1]thịt ba lát: một loại đồ hộp, thịt heo, trong khẩu phần của lính.
[2]hàng PX: các loại nhu yếu phẩm được bán cho lính Mỹ với giá rẻ.
[3] bar: quán rượu



14.

Đối diện trường trung học công lập, cách một con đường, là bệnh viện tỉnh. Một dãy nhà thấp san sát nhau, được quét vôi màu xanh dương, là phòng khám; ngang hông là khu sản, cách chừng 30 mét phía sau lưng là nhà xác. Thị trấn không có bệnh viện quân đội nên thương binh đều được chở về đây sơ cứu trước khi chuyển sang bệnh viện quân đội ở tỉnh, còn tử sĩ thì chở thẳng vào nhà xác.

Lễ đã nhiều lần chứng kiến cảnh vợ con lính đến chờ tin và nhận xác chồng, xác cha, sau những cuộc hành quân. Có những lần xe xác về vào đúng giờ ra chơi, nghe tiếng còi xe cứu thương ré lên, cả trường đổ xô ra đứng sau hàng rào nhìn qua bệnh viện. Vợ con lính đứng lô nhô phía bên kia. Nhiều người tấm tức khóc. Ai cũng lộ vẻ mệt mỏi và lo lắng. Có nhiều bà dắt theo lủ khủ một bầy con, đứa bồng, đứa đứng lòng thòng bê bết mũi dãi.

Chiều nào xe xác về cũng vậy. Hai chiếc GMC phủ bạt từ từ chạy đến, dừng lại trước thanh chắn cổng. Người cảnh sát gác cổng luống cuống, loay hoay mở thanh chắn. Hình như vào những lúc ấy ông ta cũng xúc động khác với lúc bình thường. Máu từ trên thùng xe nhỏ giọt xuống hai bên hông xe thành những vệt đỏ bầm, chuyển dần sang màu nâu, thấm nhanh xuống mặt đất. Đám thân nhân ùa vào cổng, mặc cho người cảnh sát xua tay ngăn giữ. Xe chạy vào khu nhà xác. Vài người lính nhảy xuống, bắt đầu chuyển những gói poncho [1] bọc xác người vào bên trong. Đám đông đổ xô lại lao nhao tìm xác người thân, tới lúc này tiếng than khóc mới vỡ oà ra.

Thường thì tin người thân tử trận đến trước khi gia đình nhận được giấy báo tử. Lễ cố tìm xem có ai quen trong đám người không, rồi tự hỏi có bao giờ mẹ con mình sẽ chen chân với họ. Lễ tưởng tượng nếu mẹ đi nhận xác cha thì bà sẽ như thế nào. Nếu họ mang xác cha về thì nhà mình sẽ phải làm những thủ tục gì, chôn ông ở đâu? Có nên chôn ông ở nghĩa trang dưới chân đồi, kế bên cậu Khương cho ông có bạn? Cái nghĩa trang này mở lớn thật nhanh. Những ngôi mộ còn tươi màu đất mới mọc lên san sát giống những chân nấm kỳ dị sau mưa. Chúng chỉ là những nấm đất với tấm bảng gỗ sơn danh tính người chết cắm ở một đầu, bia mộ chưa kịp dựng.

Bạn của cha chết nhiều, khắp mọi mặt trận, tuần nào cũng có tin về. Có người vừa ghé nhà chơi, xuống bếp phụ mẹ làm gà, làm lươn, nấu đồ nhậu trong tuần trước, tuần này đã có tin tử trận. Bàn nhậu và chiếu bạc xì-phé của cha liên tục mất dần những tay chơi.

Chú Song, chết.

Chú Quyền, chết.

Chú Lương, chết.

Chú Bảo, nghe nói đã cưa chân. Chân nào vậy?

Những ông lính trẻ măng, thường là những người vừa ra khỏi quân trường, được điều về đơn vị của cha. Họ vừa xoa đầu, lì-xì cho chị em Lễ hôm mồng hai tết, thì chưa hết tháng giêng họ đã không còn nguyên vẹn thân thể. Người mang được xác về. Người nằm lại, phân huỷ, tàn rữa, ở một cánh rừng hay chân đồi nào đó. Người nằm viện chờ được cắt bỏ một phần thân thể.

Bạn của cha có cả những người lính Mỹ, số phận của họ cũng không khác. Ông thiếu tá tuyên úy Samson đi phép về Mỹ, khi trở qua mang đến tặng mẹ một chiếc dù hoa và chị em Lễ mấy hộp kẹo có in hình Giáng Sinh. Ông từng chở chị em Lễ vào căn cứ trong thị trấn cho nha sĩ khám răng. Trực thăng của ông trúng đạn đâm vào chân núi Chứa Chan, nổ tan tành. Ông có kịp hiểu nghĩa của Chứa Chan, tên của nơi mà mình sẽ rời bỏ trần thế?

Cha nói, “Chứa Chan là chán chưa. Giờ, chắc ổng chán rồi, nên đi!”

“Hey, Samson, rest in peace!” [2]

*
Chiến tranh có nhiều gương mặt khác, không chỉ là gương mặt của bom đạn. Thỉnh thoảng, Lễ thấy người ta áp giải những người tình nghi hay cán bộ Việt cộng về đồn An ninh Quân đội ở trước mặt nhà. Những người đàn ông hai tay bị trói thúc ké sau lưng, mắt bịt kín. Mẹ nói họ bị giam ở đó để điều tra trước khi chuyển đi nơi khác.

Đồn An ninh là mục tiêu thường xuyên bị tấn công. Ông thiếu tá Hà là đồn trưởng. Ông là người thứ ba, được điều về đây sau hai người tiền nhiệm bị giết. Xe jeep [3] của người đồn trưởng trước ông bị trúng một quả đạn ở chân đèo Mẹ Bồng Con, chết cả hai vợ chồng. Đầu ông Hà được bên kia treo giá cả chục lượng vàng.

Cha mẹ Lễ than thầm rằng đã họ sai lầm khi chọn nhầm ngôi nhà ở vị trí này, vô tình dễ trở nên nạn nhân của đạn lạc.

Không chỉ là nỗi lo đạn lạc. Nhiều hôm Lễ nghe tiếng rú thét từ sau hàng thép gai trong đồn. Ban đầu Lễ tưởng mình nghe nhầm, có lẽ là tiếng của một loài thú nào đó, nhưng sau Lễ biết là không phải tiếng thú, mà là tiếng người — những tiếng thét đau đớn lướt trên đầu vạt cỏ lau trắng ngọn, vọng sang. Khoảng cách không đủ xa để không phải nghe tiếng người nương theo gió. Người ta đang tra tấn tù nhân. Nếu cha có ở nhà, ông sẽ đưa cả nhà đi đâu đó, cho tới khi nghĩ rằng cuộc thẩm vấn đã kết thúc thì mới về. Sự im lặng sau đó thật nặng nề. Khí quyển quánh lại ngột ngạt. Lễ có cảm giác như mình đang chờ một tiếng thét khác cất tiếp lên, như một lưỡi dao chém xuống, xé rách sự tĩnh lặng.

Mặt mẹ tái đi, nhợt nhạt. Mỗi khi xúc động môi mẹ giật nhè nhẹ. Mẹ quỳ xuống trước tượng Chúa treo trên vách. Chúa chịu được sự đau đớn của chính mình, nhưng Chúa có chịu được những tiếng thét đau đớn của con người không? Riêng mẹ thì không. Mẹ chịu không nổi thứ hình phạt dành cho người khác như thế này.

“Giê-su lòng lành, xin tha cho linh hồn con yếu đuối! Xin đừng bắt con phải chịu hình phạt này, Chúa ơi!”

*
Trước cổng đồn có một cây phượng lớn, hoa đỏ rực rỡ. Kế gốc phượng là lô-cốt xây bằng bê-tông và đá tảng; những lỗ châu mai được đặt súng trung liên hườm sẵn. Lô-cốt đầy vết đạn sứt sẹo.

Trong những năm qua, Lễ chứng kiến 4 người lính bị giết trong lô-cốt này trong nhiều cuộc tấn công. Có người bị bắn tỉa từ bên kia rừng cao-su khi đang ăn cơm. Tay bắn tỉa thiện xạ. Chỉ một phát một. Thần chết tình cờ đi ngang, hất đổ cái cà-mèn, tiện tay phạt ngang xé toang cổ anh lính. Có lần đặc công cắt dây thép gai, bò vào đến tận nơi thả lựu đạn vào lỗ châu mai. Có lần B40 thổi bay mất một góc lô-cốt, những thanh sắt cháy cong queo, bao cát sụp xuống lấp mất lối vào. Khi moi được ra, cái xác không còn nguyên vẹn, chốc chốc những người đang đào bới lại đưa ra được một phần thân thể, một cẳng tay hay khúc chân tươm tước, thịt róc tận xương, không khác những miếng thịt được bày trên sạp thịt trong chợ. Những người lính nhặt xác mặt đỏ gay, đưa chai rượu trắng lên miệng nốc rồi phun ra phì phì cho át mùi tử khí.

Ngày nào những người lính gác lô-cốt cũng thắp hương cúng, cầu sao hôm đó được bình an qua phiên gác; chân hương cắm chi chít trên bao cát chống đạn trông như một ngôi miếu nhỏ bên đường.

*
Ông Hà sang nhà, nhỏ nhẹ điều đình với cha mẹ Lễ, xin cho lính sang dẹp trống khoảnh vườn để Vi-xi [4] không lợi dụng làm chỗ ẩn núp. Cha Lễ đồng ý. Mẹ tiếc công lao trồng các loại cây ăn trái đã đến kỳ thu hoạch. Lính dùng dao rựa đốn sạch cây ăn trái rồi xịt thuốc diệt cỏ. Khi vét con mương cho thông đường nước thải, họ moi lên nhiều xương người nằm bên dưới. Không biết là xương của ai, chết khi nào, ai chôn. Những mảnh xương đen bủn, rã mục. Không phải xương chỉ của một người. Những gì còn lại của con người là như thế đó sao?

Người ta đoán đó là xương của những người phu đồn điền cao-su làm cho Tây, chết từ mấy chục năm trước. Họ dồn hết mớ xương vào một cái quách nhỏ, mang ra nghĩa địa chôn. Ông Hà bảo vong hồn những người chết đã đi cả đoàn về báo mộng với ông, lạnh lẽo và rách rưới; họ trách ông sao phá dỡ nhà của họ, làm họ đói lạnh quá, không còn nơi cư ngụ. Ông sợ, bày mâm cúng ma.

Những đêm mưa dầm, từ trong nhà nhìn ra thửa vườn, Lễ thường thấy những đốm lân tinh lập loè di chuyển thật nhanh trên vạt cỏ ướt. Lễ sợ rúm người, nhưng có một lực hút kỳ lạ cứ khiến Lễ phải đau đáu nhìn hoài, mắt dính chặt vào những đốm sáng ẩn hiện không dứt dưới bầu trời lằng ngoằng những ánh chớp, nỗi ám ảnh như một thứ cơn nghiện.

*
Cô Quyên bé xíu, chỉ nhỉnh hơn các nữ sinh một chút. Nếu cô không mặc áo dài màu, mà mặc áo dài trắng hoặc xanh thì chắc không ai nghĩ rằng cô là giáo sư trung học, họ sẽ lầm cô với một nữ sinh đệ nhị, đệ nhất. Cô chỉ mới ra trường sư phạm đầu năm nay và được phái về dạy ở thị trấn này. Cô thuê nhà trong khu cư xá, gần nhà Lễ, ở chung cùng hai cô giáo khác. Có hôm cô rủ mấy đứa học trò nữ, có Lễ nữa, về nhà đi chợ, dạy các em nấu bún thang.

Cô dạy cho lớp hát những bài dân ca hay nhạc thiếu nhi cùng lúc với những bài hát lạ không có trong chương trình. Những bài phản chiến. Từ hồi năm rồi, cha và mấy người bạn của ông cũng thích nghe những bài này qua máy đĩa hơn là những bài nhạc về yêu đương do mấy cô Thanh Thúy hay Phương Dung hát mà trước đây họ thường nghe. Giọng cô ca sĩ buồn rũ rượi. Dường như bài mà mọi người thích nhất là bài “Gia tài của mẹ”. [5] Lễ cũng muốn khóc khi nghe:

“... hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ
Để lại cho con
Gia tài của mẹ
Là nước Việt buồn...”[5]

Cô Quyên không hát hay như ca sĩ Khánh Ly. Cô hát mộc, không có dàn nhạc đệm theo, nhưng nghe buồn thê thiết. Những ca từ mang hình ảnh chiến tranh lập đi lập lại trong đầu Lễ không nguôi dứt, gắn liền với thực tại tàn khốc.

“Đại bác đêm đêm dội về thành phố...”[5]

Lễ ít nghe được tiếng đại bác. Thường thì tiếng bom dội rền từ ngoài núi. Nhưng hầu như đêm nào cũng nghe tiếng pháo kích sau hồi còi báo động. Nhà có hai cái hầm trú. Một hầm nổi ở dưới bếp, được chất bao cát và thanh sắt chung quanh. Và một hầm chìm được đào sau hè. Khi có pháo kích, hầm nào gần thì tiện chân xuống ngay hầm đó.

“... người chết hai lần / thịt da nát tan...”[5]

Lễ tận mắt thấy người chết một lần, là chết như cậu Khương. Như thế nào là chết hai lần?

Lễ thấy chiếc xe tăng gầm rú bò qua con đường đất, kéo theo sau 3 cái xác gần như trần truồng, dây thừng cột vào cổ tay, lê lết. Lễ nghĩ rằng người ta cần phải dừng xe lại ngay, vì những cánh tay sắp đứt rời ra khỏi thân người rồi. Nhưng xe vẫn chạy. Mấy con chó chạy theo xa xa sủa vu vơ.

Lễ thấy những xác của khách đi xe đò bị mìn, nằm đắp chiếu bên đường, cạnh chiếc xe lật ngang, cháy trơ khung.

Lễ thấy buổi trưa nắng đổ lửa, người ta chất xác lên xe bò, ông già cầm roi quất con bò như điên, vừa quất vừa hò, con bò lồng lên nhưng trì lại, không chịu bước. Nó hiểu gì mà không chịu đi?

“Nội chiến từng ngày là sao, cô?” Lễ hỏi.

Cô Quyên khựng lại giây lát, đắn đo tìm lời.

“Nội là bên trong, là ở trong. Chiến là chiến tranh. Nội chiến là cuộc chiến tranh xảy ra trong một đất nước, hai bên đánh nhau là người cùng trong một đất nước với nhau. Cuộc chiến tranh hiện nay là một cuộc nội chiến. Ông nhạc sĩ muốn nói vậy.”

“Còn mấy ông Mỹ cũng qua xứ mình bắn nhau thì sao cô?” Thằng ngồi sau Lễ hỏi.

“Họ là người ngoài. Với họ, không phải là nội chiến.”

“Vậy hổng phải là quốc gia mình đánh Cộng nô như người ta nói, hả cô?” Một đứa hỏi.

“Cô không thể trả lời cho mấy em được trong lúc này. Các em, và mỗi người, sẽ có câu trả lời cho chính mình khi đủ lớn khôn để suy xét chín chắn về nó.”

“Việt cộng quăng lựu đạn giết hại dân lành, hả cô? Như quăng lựu đạn ở quán Bảy Nọc làm 3 người chết tháng trước, hả cô?”

“Cô không biết. Các em có thích tập hát bài này không? Nếu thích, chúng ta tiếp tục. Nếu không, mình sẽ tập bài khác.”

“Bài này nghe buồn quá à, cô. Nghe mà muốn khóc!” Một đứa nói.

“Vậy tập bài khác nhé. Bài ‘anh em ta / cùng mẹ cha...’ [6] nhé?”

“Dạ, thích.” Cả lớp đồng thanh đáp.

*
Trống vào lớp vang lên. Còn hai giờ cuối của buổi chiều là môn văn học của cô Quyên.

Khi nghe những tiếng nổ đầu tiên thì Lễ không tin, vì không thể ngờ rằng lại có cuộc pháo kích vào buổi chiều như thế này. Cát đá bay rào rào trên mái ngói. Một trái đạn nổ ngay ngoài cổng trường. Cô Quyên xua cả lớp nằm xuống đất. Bọn con gái lúc đầu e ngại vì vướng víu áo dài, nhưng khi đạn nổ nhiều thì sợ phát khóc, nằm lăn cả ra, mặc kệ lấm lem. Lễ bắt chước bạn, lấy cặp da che lên đầu. Mùi thuốc súng cháy khét lẹt trong không khí. Tiếng nổ dồn dập, tức ngực. Còi báo động rú lên từng hồi trong tiếng đủ loại súng bắn trả rộ lên.

Không phải chỉ là pháo kích thôi, mà là một cuộc tấn công vào nhiều nơi trong thị trấn rồi. Qua cửa sổ lớp, Lễ thấy khói đen bốc cao ở hướng khu nhà Lễ. Có cháy nhà. Chắc họ đánh vào đồn An ninh. Lễ điếng hồn, giờ này mẹ và Thảnh đang ở nhà. Mẹ ơi, không biết có sao không. Có kịp xuống hầm trú không. Tiếng súng lạ nổ từng tràng một, áp đảo. Lễ biết đó là tiếng A-ka, cha có bày cho Lễ phân biệt các tiếng súng. Tiếng A-ka chát chúa, dữ dằn hơn.

Con Kim nằm kề bên, níu chặt lấy vai Lễ.

Kim nói, “Lễ ơi, tao muốn chạy về nhà quá... Mày đi với tao nghen?” Nhà nó trong khu gia binh, cùng hướng về nhà Lễ. Từ trường, nếu chạy thật nhanh một hơi về nhà, không thẳng theo đường lộ mà men theo bìa rừng cao-su, bọc qua vạt cỏ lau, thì mất chừng 15 phút.

“Tao cũng muốn lắm. Nhưng không được đâu. Trúng đạn chết.”

“Ba má tao không có nhà. Chỉ có hai đứa em tao thôi. Làm sao bây giờ?”

“Tao đâu biết...”

“Tao về đây...” Kim bật dậy, tay ôm cặp, chạy lúp xúp ra cửa lớp.

“Kiiiiimmm... Kiiimmmm!” Cô Quyên lao theo nó.

Lễ thấy hai người chạy băng qua được nửa sân trường thì Kim ngã, cô Quyên bắt kịp, nằm xoài lên người Kim. Cô lôi được tay Kim, kéo nó chạy ngược vào dãy lớp. Vạt áo dài vướng dây kẽm gai Kim rách toang. Cả hai thầy trò lấm lem bụi đỏ. Kim vùng vằng khóc, giọng nó khản đặc. Cả đám con gái khóc theo, đứa gào lên, đứa rấm rức. Lễ lẩm nhẩm đọc kinh.

Tiếng súng lơi dần rồi dứt hẳn. Chắc họ đã rút. Những cây phượng ngoài sân trường bị trúng đạn, cành lá rơi lả tả đầy đất.

Thầy giám thị đi kiểm tra từng lớp. Không ai bị thương, chỉ vài người té ngã trầy trụa. Tan học sớm nhưng thầy cô chưa cho học sinh tự về, chỉ cho những đứa có cha mẹ đến đón. Không có kim chỉ, cô Quyên lấy kim băng cài lại áo rách cho Kim rồi dắt một bầy về cùng đường. Chị Hồng lấy xe mini chở Lễ, chạy loạng choạng tránh chướng ngại vật là cành cây, gạch ngói đầy trên đường.

Kim không đi học. Hôm sau, hôm sau nữa, hôm sau nữa, vẫn không thấy nó. Khi nó đến trường, vành khăn tang trên đầu, vạt áo dài vá víu nhăn nhúm, xấu xí.

“Nếu hôm đó tao về nhà kịp thì...” Kim không khóc, mắt đỏ ngầu nhưng ráo hoảnh. Nó mất giọng, tiếng nói lào khào.

Nhà nó trúng pháo, cháy.

Một đứa em nó trúng miểng đạn, chết.

“Tao ghét cô Quyên...” Kim nói.

Lễ không nghĩ như nó. Lễ nghĩ, nếu Kim về nhà kịp thì chắc nó cũng chết chung với em nó.

Nếu hai chị em chết cùng lúc thì có chôn chung một huyệt không?

*
Lớp có ba dãy bàn. Nhìn từ trên bục giảng xuống thì dãy bên trái là con trai, dãy bên phải là con gái, còn dãy giữa nửa trên con gái, nửa dưới con trai. Lễ ngồi bìa bàn thứ hai của dãy giữa, kế bên dãy con trai.

Quýt ngồi song song với Lễ, cách một lối đi. Quýt học dốt, rất dốt, không bao giờ được điểm nào khá, chỉ điểm trung bình và tệ, luôn đứng đội sổ ở mỗi cuối tháng. Không hiểu sao nó lại lọt được vào lớp đệ thất 1 này, vốn là lớp khó nhất trong sáu lớp cùng cấp của trường, là lớp có 50 học sinh thi đậu vào trường công lập, những đứa có điểm thi cao nhất trong toàn vùng. Nhà Quýt chắc là nghèo, nhìn kiểu nó mặc đồ là biết, áo quần rộng thùng thình, quần dài phải xắn gấu lên, như mặc đồ khín. Có nhiều hôm Lễ thấy nó bới cơm theo trong lon sữa gui-gô, [7] lầm lũi mang ra ăn ở góc sân. Tính Quýt cộc. Nó lầm lì móc com-pa ra đâm thủng tay thằng Triều khi bị thằng to con này bắt nạt. Từ đó, mọi đứa trong trường đều gờm tuy rằng nó không tỏ ra là dân du côn.

Một hôm, trong giờ ra chơi, thầy giám thị vào lớp dắt tay Quýt, bảo ôm theo cặp-táp, đưa lên văn phòng hiệu trưởng. Vừa ra khỏi cửa lớp thì Quýt vùng chạy. Hai người đàn ông xuất hiện thật nhanh. Một người đá vào chân Quýt làm nó ngã sóng soài. Người kia móc còng ra còng tay nó lại. Cả lớp chạy ra xem.

“Ê, ê... Chuyện gì vậy Quýt?” Có đứa hỏi khi họ dắt nó đi ngang.

“Nói với má tao là tao bị bắt.”

“Sao vậy?”

Quýt không đáp.

Người mật vụ lôi ra trong cái cặp giả da căng phồng của Quýt ra nhiều cuộn giấy in. Truyền đơn của Việt cộng. Họ đưa Quýt ra xe, chở đi mất. Người ta nói rằng, giờ mới biết cha nó tập kết ra Bắc, anh nó bị trực thăng bắn chết trong núi.

Có ai ghé nhà để báo cho má nó biết không?

*
Buổi học môn văn bắt đầu bình thường sau phần điểm danh. Cô Quyên trả lại bài luận của tuần trước. Hôm nay có buổi thuyết trình của một nhóm năm đứa trong lớp. Mấy đứa đang nắn nót viết nhan đề của bài thuyết trình về một tác phẩm của Tự lực Văn đoàn lên bảng đen, “Anh phải sống”.

Bốn người cảnh sát đến. Họ đứng ngoài cửa lớp với ông giám thị. Ông giám thị ra hiệu mời, cô Quyên bước ra. Sau khi trao đổi vài lời, cô trở vào. Cô nói, giọng nghẹn ngào.

“Các em giữ trật tự. Cô rất tiếc không thể tiếp tục buổi học hôm nay cùng các em. Sẽ có giáo sư khác thay thế cô. Cô rất thương lớp này. Mong rằng chúng ta sẽ gặp lại và tiếp tục học với nhau sớm. Còn nếu không, cô chúc các em may mắn. Cô chào các em.”

Nói xong, cô cầm giỏ bước ra cửa. Một người cảnh sát cầm lấy cái giỏ giật nhẹ. Cô buông tay. Họ đi ra cổng trường.

Cả lớp lao nhao. “Cô Quyên bị bắt!”

Có đứa trong bọn con gái bắt đầu sụt sịt khóc.

“Sao cô bị bắt vậy?”

Một đứa nào đó ra vẻ rành rẽ, “Chắc cổ là Việt cộng.”

...

*
2012, Lễ sống ở tiểu bang Maryland.

Tất cả mọi người đều đã lần lượt biến mất như họ chưa từng có mặt trên đời sống này. Đầu tiên là cậu Khương. Rồi con Ky. Rồi mợ Viên. Rồi Hồng. Rồi Bửu.

Rồi ông Kỳ, cha của Lễ. Ông đi cải tạo. Khi ông về thì Lễ đã vượt biên khỏi Việt Nam, Lễ đang ở trại tị nạn. Ông bất bình thường, không chịu đi kinh tế mới với vợ dù nhà bị lấy. Mỗi tối ông mang mùng mền ra xa cảng miền Tây ngủ, không chịu ngủ ở nhà. Ông sợ, sợ bị bắt lại trước mặt vợ con. Một buổi sáng nọ người ta thấy ông chết dưới bệ quầy vé.

Rồi bà Thoa, mẹ của Lễ, bà cũng qua đời ở vùng kinh tế mới, sau khi chồng chết một năm, hai tháng trước khi Lễ qua tới Mỹ.

Rồi Thảnh. Thằng em của những đêm khóc dạ đề ngằn ngặt như con mèo yếu. Thảnh lớn lên, không vào được đại học, đi bộ đội, chết trận ở Campuchia, không còn xác mang về. Bạn Thảnh nói đêm đó nó lãnh nguyên một trái B40 trong một cái sóc bỏ hoang gần Siem Riep, sáng ra hốt lại được lưng một ba-lô. Bọn nó muốn đào ngũ, trốn sang Thái Lan, vì không chịu nổi chiến dịch mùa khô, nhưng chưa kịp thực hiện. Thảnh là vong hồn hay tìm về với Lễ nhất. Ngoài việc xin lễ ở nhà thờ, mỗi năm Lễ đều làm đám giỗ cho em.

Rồi cô giáo Quyên. Biết bao nhiêu gương mặt và số phận lướt qua trong ký ức của Lễ rồi biến mất không dấu vết, nhưng với cô Quyên, dù chỉ trong thoáng chốc, Lễ vẫn nhớ đến giọng hát rười rượi buồn và vóc dáng nhỏ nhắn của cô. Cô còn sống không?

Rồi Kim...

Rồi Quýt...

Lễ không gặp lại Quýt cho mãi tới gần cuối năm 75, khi Lễ về lại thị trấn lần cuối.

Lần đó, Lễ gặp một thằng Quýt khác. Đeo băng đỏ, choàng khăn rằn, mang dép râu, khoác A-ka, đội trưởng du kích. Người ta nói Quýt chuyên xử lính nguỵ mà họ bắt được, những người không chịu ra trình diện. Xử gọn gàng, rồi chôn dọc suối.

Lễ là người duy nhất còn sống trong câu chuyện này, là người duy nhất còn lại trong gia tộc.

Mọi người lần lượt biến mất, họ chỉ còn hiện hữu trong ký ức của Lễ.

Lễ có một khả năng đặc biệt khác thường: bà có thể khóa chặt lại những ngăn ký ức — những điều mà bà không muốn nhớ — cho tới khi tự bà mở ra, để kể câu chuyện đời mình với con trai.

Lễ là Lillian, là mẹ của tôi.

Lễ còn kể với tôi nhiều câu chuyện về đời bà và những người trong gia đình nữa, nhưng tôi ngờ rằng tôi sẽ không viết chúng lại. Lý do là vì dường như trừ Lễ ra, thì những cuộc đời này, những câu chuyện này, có thể khác nhau về tình tiết, nhưng đều có một kết cục tệ hại giống nhau.

Tôi còn những câu chuyện của ông tôi, của cha tôi, của bạn bè tôi, và của tôi. Tôi còn có cuộc đời của tôi để sống. Tôi còn có thì hiện tại và thì tương lai. Tôi còn có những câu chuyện ở bên kia đại dương, của và ở nước Mỹ, phần kia của đời sống tôi.

Lễ đưa tôi đi du lịch đến Siem Riep, nhưng làm sao tìm ra cái sóc mà Thảnh chết ở đó. Nhìn những đứa Tây trạc tuổi Thảnh hồi đó, và tuổi tôi bây giờ, ngồi uống rượu, hút shisha [8] bên hiên những khách sạn, tôi nhắc với Lễ rằng đây đã là một thời đại khác.

Viết đến đây tôi tò mò mở dụng cụ đếm chữ của chương trình word mà tôi đang dùng để viết văn bản. Trong hơn 4,200 chữ của phần hai của chương 14 này, có 17 chữ “xác” và 23 chữ “chết”.

Những con số chẳng thể nói lên điều gì. Bấy nhiêu năm chiến tranh chỉ còn lại những hình ảnh lộn xộn trong ký ức mẹ tôi khi bà muốn nhớ và những con chữ mà tôi vừa gõ xuống.

Hãy tắt laptop rồi uống một lon bia.


_________________________
 
[1]poncho: áo mưa tròng đầu của lính.
[2]“Hey, Samson, rest in peace!”: “Ê, Samson, đời đời yên nghỉ nhé!”
[3]Xe jeep: xe jíp
[4]Vi-xi: VC = Việt cộng. Cách gọi tắt “Việt cộng” của lính Mỹ.
[5]Những ca khúc và ca từ trong tập Ca khúc da vàng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
[6]Ca từ trong bài “Một mẹ trăm con”, dân ca Jarai, do nhạc sĩ Phạm Duy sưu tập và soạn lời Việt.
[7]gui-gô: Guigoz, một loại sữa bột của Pháp. Lon đựng sữa bằng nhôm thường được dùng để bới cơm.
[8]shisha: loại thuốc làm bằng hương liệu, hút bằng bình của Trung Đông. Rất phổ biến ở các khu du lịch.



15.

Tôi lang thang vui chơi với Cathy thêm vài ngày nữa rồi cô về Mỹ. Trong thời gian ngắn ngủi, Cathy truyền đạt lại cho tôi những kinh nghiệm và kỹ năng để sống còn ở Sài Gòn. Tôi đưa Cathy ra phi trường, cô cho tôi địa chỉ e-mail, số phôn ở Mỹ để liên lạc, nhưng cả hai đều hiểu rằng có lẽ trong suốt phần đời còn lại chúng tôi sẽ không gặp lại nhau thêm lần nào nữa. Cathy đi, mang theo những câu chuyện về loài komodo và vị cứt khỉ ở xứ Ấn Độ. Tôi mua lại chiếc xe gắn máy hiệu Wave của cô, chiếc xe cũ nhưng chạy rất tốt. Cô đã đưa tôi ra ngoại ô, huyện Bình Chánh, giúp tôi thuê căn hộ trên tầng 14 của một chung cư nằm trên con đường xẻ dọc thành phố, con đường mang tên một ông tổng bí thư đảng hay chủ tịch nước gì đó, ông Nguyễn Văn Linh.

Ở tầng thứ 14, nghĩa là luôn ở trong tầm chân của Thượng Đế. Tôi cảm thấy mình gần với Thượng Đế hơn 7 tỉ người còn lại. Tôi tưởng tượng có đêm nào đó, trong cơn bực bội, Thượng Đế sẽ co chân tung một đá, tôi bay vèo qua một thiên hà nào khác.

Căn hộ được trang bị khá tốt, hầu như có đủ tiện nghi để ở thoải mái. Có internet, ti-vi cable, microwave, tủ lạnh, máy giặt và, quan trọng nhất, giá thuê khá rẻ nếu so với những nơi khác trong trung tâm. Ở tầng trệt có bàn trực của nhân viên bảo vệ. Ngoại trừ cư dân trong chung cư, ai vào cũng phải trình giấy tờ để họ ghi vào sổ lưu trước khi bước vào thang máy.

Đứng trên ban-công nhìn ra có thể thấy khu Chợ Lớn xa xa trong làn khói đục. Không phải là sương khói tự nhiên, mà là khói xe và bụi. Trong những chiều mưa, làn nước mỏng kéo lướt thướt từng đợt qua những cao ốc, nhà cửa lúp xúp, con kênh cạn, và những đám ruộng xanh.

Tôi sợ chiều cao. Chưa bao giờ tôi dám trèo cây hay leo thang cao quá 3 mét. Ở trên cao, nhìn xuống là chân tôi bắt đầu run. Mỗi khi máy bay bắt đầu tăng tốc độ trên đường băng để cất cánh, tôi luôn kinh hãi đến tê liệt đầu óc. Hình ảnh của những vụ tai nạn hiện ra mồn một trong đầu tôi khi máy bay đang cố lấy thăng bằng trên bầu trời cao. Tôi thấy mình trong dãy xác chết cháy đen được sắp thành hàng trên mặt đất. Tôi từng lên những toà nhà cao chọc trời, nhưng đây là lần đầu tiên tôi sống ở một nơi cao như vậy.

Tôi là người đầu tiên thuê căn hộ, cũng là người đầu tiên đến ở trên tầng lầu này. Suốt dãy nhà chưa có ai ở, được chia ra thành những căn hộ cửa đóng im lìm như dãy phòng bệnh viện. Tầng 14 chưa phải là tầng cao nhất, trên nó còn một tầng nữa. Thật ra, đây chỉ là tầng 13, nhưng có lẽ vì tránh con số 13 xui xẻo nên người ta bỏ con số đi, mà tính từ tầng 12 lên thẳng tầng 14 luôn, biến nó thành tầng 14 trước khi lên tầng 15.

Chung cư khá mới, chỉ chừng 5 năm tuổi. Hệ thống thang máy được cho là rất tốt nhưng tôi vẫn không an tâm. Thang máy có 3 ngăn. Một ngăn bên phải khá rộng được dùng để vận chuyển vật nặng, hai ngăn kế bên được dành cho cư dân đi người không. Ngày đầu tiên đến đây, bước vào một trong hai ngăn thang máy, ngăn đầu cùng bên trái, tôi đã nghe những tiếng động khác thường khi nó di chuyển lên cao. Tiếng cạch cạch vang lên mồn một mỗi khi thang lên được 1 tầng. Tôi sợ điếng người, hình dung ra cảnh ngăn thang máy bị hỏng, rơi tự do xuống đất, vỡ tan tành. Từ đó, tôi tránh bước vào ngăn bên trái đó, tôi chịu khó chờ tới lượt của ngăn còn lại bên phải thì mới bước vào.

Tôi đến siêu thị mua các loại thực phẩm ăn liền, những thứ không cần phải nấu nướng, về chất đầy tủ lạnh; tôi mua thêm 1 thùng bia, 2 chai Rhum nội địa, 1 chai Whiskey và 1 chai Vodka. Tôi chọn siêu thị Giant ở vùng Phú Mỹ Hưng để đi chợ, chỉ vì thấy nó quen thuộc hơn những siêu thị khác. Giant là một công ty Mỹ, mở chi nhánh đầu tiên ở Việt Nam.

Tôi nhẩm tính số tiền hiện có, yên trí rằng có thể sống lè phè trong ½ năm mà không phải lo gì. Mẹ tôi trấn an qua điện thoại rằng bà sẽ gởi tiền cho tôi bất cứ khi nào cần. Mẹ tôi luôn chứng tỏ là một bà mẹ tốt những khi cần thiết.

Trong buổi sáng thứ hai sau khi dọn đến, tôi bắt đầu gõ chương đầu cuốn tiểu thuyết, nhưng sau khi viết được vài trang thì tôi không còn thấy nó là một cuốn tiểu thuyết như đã dự định, mà nó là những ghi chép rời rạc bất chợt hiện ra trong đầu. Những dữ kiện có vẻ như vô lý. Và vô ích.

*
Ở đây, vào mùa nóng, tôi phải tắm năm bảy lần mỗi ngày. Thật ra chỉ đứng dưới vòi sen cho nước rào rào xối xuống, làm dịu đi làn da và những lỗ chân lông. Tình cờ tôi phát hiện ra một thứ khoái cảm lạ đời. Nóng quá chịu không nổi, tôi quyết định cạo trọc đầu. Trọc láng.

Một hôm, vừa ở ngoài về, tôi rửa mặt rồi lấy nước đá chườm lên đầu, mát lạnh sung sướng. Làn da đầu được cái lạnh tê từ khăn toả ra, vuốt ve những sợi thần kinh, sướng khoái vô cùng; tôi đê mê, chìm luôn vào giấc ngủ.

Tôi mua một tá khăn lông nhỏ, loại có khổ lớn chừng cuốn sách, nhúng sũng nước từng chiếc, xếp lại làm tư, bỏ vào bao ny-lon rồi cho vào ngăn đá tủ lạnh. Mỗi khi đi đâu ngoài nắng nóng về, tôi lấy một chiếc ra phủ lên cái đầu trọc, một chiếc khác úp lên mặt.

Tôi ngủ trễ, thường phải sau 12 giờ khuya, nhưng thức khá sớm, khoảng 5 giờ là đã thức, nhưng không dậy ngay. Tôi nằm trong bóng tối lắng nghe tiếng động chung quanh. Rõ nhất là tiếng phản lực bay ngang để đáp xuống phi trường ở phía bên kia của thành phố. Thú vị là trong những ngày mưa, tôi thích tiếng mưa dội lên mặt cửa kính mờ mờ hơi nước. Từ trên giường nhìn ra, có thể thấy con trăng lơ lửng trên bầu trời, có khi tưởng chừng như nó ngang với tầm cao của căn phòng.

Những con chim không biết từ đâu bay về, chúng đậu lại trên lan-can, gại mỏ vào cửa kính, ngó tôi. Tôi không biết chúng là loại chim gì, chỉ thấy chúng thân thiện và không sợ người lắm.

Chiều nọ, một con dơi nhỏ bay vào phòng, loạng choạng, chấp chới, rồi va vào tường, rơi xuống, nằm im một lúc lâu. Tôi ngồi xuống quan sát, băn khoăn: nó chết rồi hay chỉ bất tỉnh? Tôi bọc nó lại bằng miếng giẻ lau, nhỏ nước lên người nó, nhưng không thấy dấu hiệu của sự sống. Tôi nghĩ đến việc phải bỏ xác nó vào túi rác. Tôi mang con dơi ra ban-công, đặt lên gờ tường.

Đêm đó, tôi đi uống rượu ở trung tâm Sài Gòn. Say và khuya. Ngại đường xa, tôi không về. Tôi ghé lại khách sạn quen thuê phòng. Cởi đồ, mở máy lạnh, không ngủ được, nằm chờ sáng.

Con dơi hiện ra, bay trong đầu tôi. Tôi nằm ngửa mặt, nhìn. Nó bay thật nhanh dưới ánh đèn trắng, vùn vụt, khi sắp va vào tường thì nó ngoặc cánh, đổi hướng. Cách nó bay như một cái máy được định vị và thiết lập chương trình, tỉ mỉ và chính xác.

Giờ này, địa cầu vắng ngắt. Địa cầu chỉ còn hai sinh vật. Một con dơi bay, và một con người nằm chờ sáng. Tôi biết, nó chính là con dơi trên gờ tường. Và tôi, là một sinh vật nằm chờ sáng trong bộ não bé xíu của nó.

*
Dần dà, tôi quen với cái cảm giác sống trên cao, không còn thấy sợ như lúc đầu nữa, nhưng nhiều khi đứng ở ban-công thì tôi lại thấy một lực hút mãnh liệt, kéo tôi lao ra ngoài, thả tôi rơi tự do xuống mặt đất bên dưới. Thứ lực hút như một nỗi cám dỗ mông muội. Tôi nhớ đến những đốm lân tinh trong khu vườn thời thơ ấu của mẹ tôi.

Tôi tập cho mình một thói quen. Sau khi thức giấc, tôi nằm yên chừng 10 phút rồi bật dậy làm vệ sinh. Xong, mặc quần sọt, áo thun, xỏ đôi tennis shoes, mở nhạc từ Iphone, nhét tai nghe, rồi xuống đường đi bộ.

Tôi đi dọc theo con đường nằm men theo bờ lạch. Bông súng tươi hồng trồi lên mặt nước lềnh bềnh bèo rác. Loại hoa này mọc hoang, có những đoạn chúng bùng lên tràn lan. Tôi bỏ túi con dao nhỏ. Khi bắt gặp những đoá súng nằm gần bờ thì chồm ra cắt. Hôm nào cũng mang về được vài bông. Tôi cắm hoa vào chiếc bình sứ Nhật, đặt ở một góc phòng khách. Vài hôm sau hoa tàn, cánh rơi ra khỏi cuống. Tôi lười không buồn quét dọn. Dần dà dưới đất thành một tấm thảm, đầy cánh hoa dày. Có cánh đã khô, có cánh đang héo. Không khí trong nhà quánh lại, luôn có mùi ngòn ngọt. Thứ mùi thơm của sự úng rữa.

Một sáng nọ, trong khi đang lom khom vươn tay với tới một bông súng dưới ao, sát bên hàng rào, tôi nghe tiếng ong bay vù vù bên tai. Chưa kịp tránh, đầu tôi đau nhói lên như điện giật. Tôi bị 3 mũi chích của thứ ong to bằng ngón tay, màu vàng. Tôi quơ tay chộp được một con, vò nát. Xác ong tươm ra một thứ chất nhựa dẻo, dinh dính bụi phấn.

Một mũi ong chích ngay giữa đỉnh đầu, một mũi bên màng tang phải, và một mũi sau gáy. Cơn đau nhanh, choáng, như điện giật làm tôi quỵ xuống. Tôi buông tay ôm đầu, con dao rơi tõm xuống ao nước. Tôi cố ngồi yên một lúc, định thần. Chóng mặt quá, mong có ai đi ngang để nhờ giúp nhưng không có ai cả. Tôi gắng gượng đứng dậy, loạng choạng từng bước, lê về nhà. Soi gương, thấy đầu đang sưng 3 mẫn đỏ tấy, tôi lấy khăn lạnh chườm lên rồi uống thuốc giảm đau. Tôi gọi phôn cho anh bạn là bác sĩ. Hắn bảo phải đi bệnh viện ngay, tôi ừ, nhưng lại nằm lỳ vì không thể chạy xe gắn máy mà cũng không muốn gọi taxi, cũng không biết có bệnh viện nào ở gần đây để đi, và nhất là ngại chuyện phải làm thủ tục nhập viện nhiêu khê.

Tôi nằm với cơn sốt hầm hập. Nằm trong phòng ngủ, mở máy lạnh ở độ thấp nhất mà không thấy lạnh. Tôi không gọi phôn, không liên lạc với ai, cũng không e-mail cho mẹ. Tôi không muốn ai nhìn thấy mình trong tình huống tệ hại như thế này. Tôi ăn tạm bánh mỳ lát và phô-mai và xì-dầu. Nằm vùi chán, khi hơi tỉnh thì tôi đi loanh quanh trong nhà. Xả nước đầy bồn tắm, tôi leo vào nằm, ngủ lơ mơ chừng dăm phút. Mở ti-vi lên nhưng không xem, chỉ cho có tiếng động. Tôi uống 3 liều thuốc giảm đau và 1 liều thuốc an thần vào buổi tối. Cơn đau từ từ giảm.

Đầu tôi làm việc như một thứ máy được lập trình, chạy không ngừng. Nghĩ hết chuyện này đến chuyện khác, tôi bắt đầu lảm nhảm nói ra bất cứ ý nghĩ nào hiện ra trong đầu.

Buổi sáng ngày thứ 4, tôi đứng ngoài ban-công. Nắng chập chờn nhảy múa trong cơn hoa mắt, tôi tưởng như đang nhìn vào một ống kính vạn hoa. Bỗng nhiên, tôi nhận ra mình đang làm một điều kỳ dị: tôi đang gào. Tôi đang chửi rủa, gào thét những điều gì đó vô nghĩa. Vào khoảng không. Tôi đang lảm nhảm gì vậy? Tôi khóc tức tưởi.

Tôi trở vào phòng ngủ. Tấm ga trắng một tuần chưa thay, bốc mùi mồ hôi, bẩn mắt. Tôi giật mạnh, lôi nó ra khỏi nệm. Cuộn lại. Bước trở ra ban-công. Tôi vung tay ném.

Tấm ga bung xoè ra thành một vệt trắng. Bay theo gió, sáng lên trong nắng, nổi bật in lên nền trời xanh. Bốc lên cao. Lượn lờ. Chao qua, chao lại. Bay xa. Qua con đường đắp dở dang. Qua những chiếc xe xúc, xe cẩu. Qua công trường. Trên rặng cây. Lượn lờ. Qua con lạch. Qua vạt ruộng xăm xắp nước. Hạ thấp dần, thấp dần. Nhỏ lại còn một vệt trắng bé xíu. Rơi xuống. Mất hút.

Ngay lúc đó, một cơn bão dấy lên vần vũ trên bầu trời. Những bông tuyết chấp chới. Tôi lái chiếc Ford màu trắng sữa, lái bạt mạng trên xa lộ vòng đai từ Virginia về Maryland. Những bảng chỉ đường thoắt hiện ra dưới cầu. Đường trơn. Bánh xe ma-sát mặt đường thật nhẹ. Nhấn còi. Giảm ga. Tăng ga. Lên cầu. Mở quạt nước. Mở máy sưởi. Mở nhạc. Bật đèn hiệu. Rẽ trái. Rẽ phải. Vượt đèn vàng. Thắng...!

Vùn vụt. Loạng choạng. Va đập.

Tôi là con dơi. Nằm, thoi thóp, ở gờ tường.


Thận Nhiên
tienve.org