có những điều không nói ra, chỉ ghi lại...
pn

Thứ Tư, tháng 10 07, 2015

Đời đáng chán



Đời đáng chán

Người đời thử ngẫm mà hay,
Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê!
Còn ai, ai tỉnh hay mê?
Những ai thiên cổ đi về những đâu?

Đời đáng chán? Hay không đáng chán?
Cất chén quỳnh, riêng hỏi bạn tri âm.
Giá khuynh thành nhất tiếu thiên kim,
Mắt xanh trắng đổi nhầm bao khách tục.

Giang hà nhật hạ nhân giai trọc
Thiên địa lô trung thục hữu tình.
Đón đưa ai gió lá chim cành!
Ấy nhân thế phù sinh là thế thế.

Khách phù thế chửa rất câu "phù thế",
Người phong lưu càng đượm vẻ phong lưu.
Bức khăn hồng nâng đỡ hạt châu,
Chuyện kim cổ một vài câu phải trái.

Châu Nam Hải thuyền chìm sông Thúy Ái
Sông Tiền Đường cỏ áy bến Ô Giang!
Ngẫm nhìn xưa ai tài hoa, ai tiết liệt, đài trang,
Cùng một giấc mơ màng trong vũ trụ.

Đời đáng chán biết thôi là đủ,
Sự chán đời xin nhủ lại tri âm.
Nên chăng nghĩ lại kẻo nhầm.

Tản Đà





---------------------------------

Thơ của Tản Đà có hai bài hay nhất là Đời đáng chán, Tống biệt. Đời đáng chán cho biết nhân sinh quan, không những cho thấy điều tác giả muốn nói lại còn hé mở cái căn bản tâm hồn mà chính tác giả cũng không ngờ.

XUẤT XỨ.- Bài này rút trong cuốn truyện Thề non nước diễn lời một người quan viên và một người cô đầu đàm luận.

CHỦ ĐÍCH.- Triết lý nhân sinh mộng ảo.

BỐ CỤC

Mưỡu đầu đưa triết lý bao quát.

Khổ đầu, khổ giữa: Lẽ đáng chán thứ nhất của cuộc đời thu hẹp trong phạm vi người đào nương qua lời người quan viên.

Khổ dôi 1 và 2: Lẽ thứ hai về sự đáng chán của cuộc đời, man mác ra khắp nhân loại qua lời người đào nương.

Khổ xếp: Chiết trung.

PHÂN TÍCH Ý TƯỞNG

Người đời thử ngẫm mà hay
Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê!

Trăm năm là ngắn: Đối với nhãn quang của chúng ta thì đài nhưng với nhãn quang xa rộng thì như chớp mắt.

Đời là chớp mắt nhưng một ngày hóa dài vì một ngày ưu tư bằng một thế kỷ.

Kim Trọng tương tư:

Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!

Ngũ Tử Tư nghĩ một đêm bạc cả đầu, chỉ một đêm đã sống nửa thế kỷ.

Một triết gia viết hàng chục cuốn sách là Bergson phân biệt hai thứ thời gian:

Thời gian vật lý là đồng đều, 1 giờ là 1 giờ.

Thời gian tâm lý thì phức tạp, một giờ của người này có thể là một đời của người kia, khoảnh khắc hóa ra một thiên cổ.

Tản Đà đã đưa ra hai điều:

Trăm năm là ngân
Một ngày dài ghê!

Tuy hai nhưng đúc lại chỉ có một là lẽ nhân sinh mộng ảo, ảnh hưởng của Lão Trang và Phật Giáo.

Sang đến bài hát nói chính thức, tác giả quảng diễn những điều đã gói ghém trong bốn câu mưỡu dưới hình thức đối thoại giữa quan viên và đào nương. Hai người cùng đưa ra một lẽ nhưng quan viên trong phạm vi hẹp và đào nương mở rộng đào sâu.

Khổ đầu.- Hai mệnh đề trong câu đầu láy đi láy lại để cho ta biết vấn đề thắc mắc đáng quan trọng.

Lời "riêng hỏi bạn tri âm" chứng tỏ biệt nhỡn của người hỏi đối với người nghe là bởi vì trong nhà hát bấy giờ có nhiều quan viên và nhiều đào nương nhưng mà chỉ hỏi một người. Không những cho biết biệt nhỡn đối với người nghe mà cả tầm mức, giá trị của câu chuyện. Nếu là câu chuyện tầm thường thì quan viên có thể nói với bất cứ ai nhưng đây không phải là điều phù phiếm, ăn chơi mà liên quan đến thân phận con người muôn thuở. Nhưng trong câu hỏi đã có tiếng trả lời, quan viên đặt vấn đề và giải: nếu đào nương không nhận thấy đời đáng chán thì xem ngay thân thế của mình, sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành, nụ cười đáng giá ngàn vàng, có con mắt tinh đời đáng lẽ không lầm mà phải ở vào tình thế như lầm, vì phải tiếp phàm phu tục tử.

Khổ giữa.- Nghĩa sát của mấy câu "thơ": Sông kia mỗi ngày một xuống, người ta tất cả đều nhơ bẩn lả bởi vì trong cái lò lớn của trời đất mấy ai là kẻ có tình. Người quan viên tiếp lời bằng hai câu này là muốn cho người đào nương biết rằng thân phận của nàng ở trong một định lệ chứ không phải là một sự ngẫu nhiên.

Con người sống trong vòng nắn đúc của tạo hóa, mà vũ trụ theo thời gian suy hoại như sông kia dần mất chiều sâu, thì con người sao thoát khỏi điều nhơ bẩn; mà tất cả như thế thì đào nương nhất định phải gặp toàn hạng chẳng ra gì.

Đón đưa ai gió lá chim cành!
Ấy nhân thế phù sinh là thế thế.

Không nói thêm một điều gì cả mà chỉ nhắc nhủ người đào nương nên nghĩ lại, xét lại thân phận mình để suy ra thân phận của loài người.

Gió lá chim cành: Xưa kia nàng Tiết Đào nổi tiếng thơ hay từ nhỏ và lại nhan sắc, một lần làm thơ có những câu:

Chi nghinh nam bắc điểu
Diệp tống vãng lai phong.

- cành đón chim nam bắc, lá tiễn gió qua lại - quả nhiên đời nàng về sau chẳng ra gì. Lời này thành điển để chỉ người thiếu nữ không chính đính hay cảnh lầu xanh. Người đào nương phải tiếp đón mọi hạng người, con người ta sống kiếp nổi trôi, vô thường là thế đấy - hai câu cuối cùng của quan viên vừa tổng kết những điều đã nói vừa phục sẵn những điều mà người đào nương sẽ nói.

Khổ dôi 1.- Khách phù thế là người sống cuộc đời trôi nổi mà cũng là người nhận thức được cái lẽ nổi trôi hay vô thường ở trên cõi đời này, đó là người quan viên.

Phong lưu - Nghĩa gốc là người dư tiền và ăn chơi thanh lịch. Ở đây phong lưu có những nghĩa như sau: thanh lịch, đẹp đẽ, duyên dáng, khả ái. Người đào nương thanh lịch khả ái nọ càng thêm bội phần khả ái bởi vì nàng đã khóc.

Sau khi đã nghe những lời nói trên mà mặt nàng cứ trơ trơ không mảy may rung động thì là người vô ý thức nhưng ở đây lại khóc chứng tỏ rằng nàng là người giàu cảm xúc, có trí tưệ.

Chuyện kim cổ một vài câu phải trái

Bấy giờ nàng đem chuyện xưa nay ra để phân biệt giả chân tức là làm sáng tỏ.

Khổ dôi 2.- Châu Nam Hải lấy điển nàng Mỵ Châu lộ bí mật nỏ thần cho Trọng Thủy bị An Dương chém chết, máu rơi xuống nước để con trai ăn vào sinh ngọc.

Thuyền chìm sông Thúy Ái lấy điển Phan Thị Thuấn vợ ông Ngô Cảnh Hoàn khi nhà Tây Sơn thất bại, bà đánh chìm thuyền trên sông Thúy Ái để chết theo chồng.

Sông Tiền Đường lấy điển nàng Tây Thi giúp Câu Tiễn mê hoặc vua Phù Sai, sau khi thành công Tây Thi bị vợ Câu Tiễn sai người dìm chết ở sông Tiền Đường. Chính tác giả đã giải điển này như vậy ở một bài bình kèm theo.

Bến Ô Giang lấy điển nàng Ngu Cơ vợ Hạng Vũ tự sát khi thấy chồng mạt lộ, về sau trên Ô Giang nơi Hạng Vũ hết đời mọc lên một thứ cỏ thơm gọi là Ngu mỹ nhân.

Tây Thi là người tài hoa.

Phan Thị Thuấn, Ngu Cơ tiết liệt.

Mỵ Châu là đài trang.

Đài trang là bệ gương trang điểm dùng để chỉ người đàn bà sang trọng.

Sau khi kể bốn điển đưa ra bốn mỹ nhân rồi đi đến kết thúc, coi những nàng đó là những bóng hình trong giấc chiêm bao.

Một thi sĩ Pháp ở thế kỷ 15 là Francois Villon viết trong bài Ballade des dames du temps jadis(Cổ mỹ nhân ca) có kể đến những bậc như Hélène (không phải trong thần thoại Hy Lạp) tài hoa đến nỗi một nhà tu kiêm triết gia thời trung cổ phải mê mệt.

Còn liệt nữ như Jeanne d'Arc. Và cứ sau mỗi đoạn lại điệp khúc:

Mais où sont les neiges d'antant?

Nhưng mà còn đâu những áng tuyết xưa - vì những mỹ nhân như tuyết đẹp chóng tan.

Khổ xếp.- Có điểm đặt biệt là đã nói đời đáng chán thì kết phải bảo nên chán đời nhưng ở đây lại không nên chán. Khổ này phân tích không đủ mà phải chuyển qua phần giải thích. Tại sao tác giả nói vậy? Tản Đà viết bài này sau những cuộc thất bại liên tiếp của mọi phong trào cách mạng.

Trong cuốn Triết Sử của Paul Janet có ghi sự trạng là vua Alexandre chết đi để lại một đám người Hy Lạp hoang mang ngơ ngác, không biết sống cho ai, sống để làm gì, chỉ có một cách là sống cho mình với tâm trạng lo lắng, chán chường và thèm hưởng thụ.

Tâm trạng của người Hy Lạp sau cái chết của anh hùng là tâm trạng của Tản Đà và người Việt Nam lúc bấy giờ. Tản Đà thấy đời đáng chán mà không nên chán là bởi vì mệt mỏi, chán chường nhưng không thoát khỏi tinh thần hưởng thụ.


PHÂN TÍCH NGHỆ THUẬT

- Cách cấu tứ.

Tác giả diễn một triết lý dưới hình thức duyên dáng là cuộc đối thoại giữa một quan viên với một đào nương.

Muốn thấy rõ điều này chúng ta nên so sánh với những bài đoản thi triết lý của những đạo sĩ Lý Trần hay đoạn triết lý Cung Oán kéo dài và độc thoại.

Tác giả đã diễn triết lý theo đường lối vòng đồng tâm. Người quan viên nói lẽ đáng chán của cuộc đời trong phạm vi hẹp, người đào nương mở rộng đúng như lời bình của Tản Đà: "Vì thân thế người bình khang mà man mác đến cả thân thế mọi người khác".

Ba câu của khổ xếp lơ lửng không dứt khoát, hỏng về phương diện luận lý nhưng thành công về phương diện gợi cảm mà chủ đích của tác giả là gợi cảm. Tản Đà đã tự bình: "Lấy nghị luận làm kết nhẹ nhàng, lỏng lẻo, lời hết mà vị có thừa".

- Cách dùng chữ đặt câu.

Hai mệnh đề:

Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê!

Có bề ngoài nghịch lý nhưng đã phơi bày được chỗ sâu sắc của tư tưởng. Ba tiếng ai láy đi láy lại với hai tiếng tỉnh mê mượn của đạo Phật, đạo Lão khiến ta phải giật mình xét lại thái độ của mình trước thân phận của con người.

- Thiên cổ là tếng chỉ sự chết dưới hình thức huyền ảo và gợi cảm.

- Hai tiếng đáng chán láy đi láy lại, gợi cái phong thái ngang tàng mà cũng niềm thắc mắc của người tài tử.

- Riêng hỏi ghi vô hạn ân tình, bạn tri âm nghe ấm áp, nhân thế và thế thế láy đi láy lại với phép chơi chữ dùng cùng âm khác nghĩa đã nhấn mạnh, đã nhắc nhủ.

- Khách phù thế đối với người phong lưu khiến ta thấy sự cân xứng giữa đôi bạn.

- Nâng đỡ hạt châu hai lần mỹ từ, thật là đài các thật là thanh lịch.

- Bốn điển Nam Hải, Thúy Ái, Tiền Đường, Ô Giang gợi được nhiều sự kiện lịch sử trong một ít lời và gợi được sự rung cảm nằm sẵn trong tiềm thức của người đọc đã mấy ngàn năm quan với điển cố Trưng Hoa và tất nhiên không lạ gì sử Việt.

- Biết thôi là đủ, ghi nỗi cảm thông với niềm mệt mỏi, xin nhủ lại, nên chăng nghĩ lại rõ ra giọng liễu yếu đào tơ khẽ khàng thưa thốt, kết tinh mọi tâm tình trong toàn khúc.


KẾT.- Tư tưởng dồi đào, nghệ thuật phong phú, chữ dùng đài các, tế nhị. Bài này có thể coi là một trong những bài thơ toàn bích của văn học Việt nam.


Thạch Trung Giả
(Văn Học Phân Tích Toàn Thư)
(Nxb Lá Bối, 1973)