có những điều không nói ra, chỉ ghi lại...
pn

Thứ Tư, tháng 4 29, 2015

Cõi Đá Vàng


coi-da-vang

Dâng Tốn, tác-phẩm đầu tiên của Sâm.
Cuộc đời này không dung những kẻ thương yêu nhau.
Em đã tìm thấy Anh trong 
Cõi Đá Vàng.

THANH SÂM



Chương 1

Trần thả ngòi bút trên trang giấy chi chít những dòng chữ, trận đánh cuối mùa chiến dịch Đông Xuân với những hình ảnh sống động độc đáo nhất được chàng trần thuật lại trên mười trang giấy bằng một giọng văn thâm trầm sắc sảo. Chàng đứng dậy vuôn vai, sự mệt nhọc xâm chiếm cơ thể, chàng bước tới đẩy liếp cửa ra sân, mảnh trăng khuyết còn lơ lửng góc trời, ánh sáng mờ đục bàng bạc khắp nơi, Trần mỉm cười với trăng, nghĩ bâng quơ: “Ờ, thế mà tưởng là đã lặn rồi chứ.”

Khí núi mát lạnh làm chàng tỉnh táo, người cảm thấy nhẹ nhàng, chàng bách bộ quanh sân, tận hưởng phút giao hòa của Trời Đất bên triền đồi núi này, một chút kinh ngạc thích thú thoáng hiện trong mắt chàng. “Thế ra trời sắp sáng chứ không phải là nửa đêm, ánh sáng này pha lẫn bình minh chứ không phải là ánh trăng khuya, ra mình đã thức trắng đêm nay, đã viết triền miên như vô cùng tận, vậy mà vẫn không kịp, không đủ, không hề đủ. Cuộc sống quả là kỳ diệu, ta mãi mãi ngạc nhiên mà vẫn không vơi những chuyện lạ, ta nghĩ hoài về nó mà không hề mãn ý, ta sẽ sống hoài những đêm tràn đầy như đêm nay, mười năm, hai mươi năm, một trăm, một ngàn năm sau nữa, có lẽ cũng không hề đủ.

Có tiếng động trong nhà, tiếng chân người di chuyển xuống bếp, Trần nghĩ chắc chị Hiếu đã dậy lo buổi sáng cho hai con nhỏ của chị, khuôn mặt người đàn bà không nhan sắc, buồn bã với những nét mờ nhạt hiện ra trong trí chàng.

Ừ, kể cả người đàn bà này nữa, và hai đứa con của chị ta, sự hiện diện của họ trong vùng đồi núi miền chiến khu này cũng thật lạ lùng. Chồng chị đã chết ở Huế trong những ngày đầu tiếng súng nổ giữa quân Pháp và những người kháng chiến, người ta thấy sự có mặt của chị và hai con nhỏ như một ngẫu nhiên từ khi chiến khu này thành lập. Chị dựng căn nhà nhỏ này ở đây buôn bán ngược xuôi về đồng bằng, có khi vào tận thành phố Huế là nơi đang thuộc chủ quyền của người Pháp để mua hàng hóa thuốc men về bán cho những người kháng chiến. Chị còn nhận công tác liên lạc với những cơ sở bí mật của kháng chiến ở nội thành, nhờ đó chị có đủ mọi giấy tờ cần thiết để ra vào đất địch dễ dàng. Hai đứa con chị còn nhỏ chừng năm sáu tuổi, thơ thẩn ở nhà chơi với nhau suốt ngày chờ mẹ về mỗi buổi chiều.

Ngày cơ quan của chàng về trú tại vùng này, người ta chia ra từng nhóm hai ba người đến ở trọ các nhà dân chúng. Trần là chủ nhiệm tờ báo của quân đội kháng chiến, chàng được chỉ định đến ở nhà của chị Hiếu vì căn nhà của chị khang trang, biệt lập bên một triền núi, rất thuận tiện cho sự viết lách cùng mọi hoạt động biên tập của nhóm chàng. Chàng thấy đời sống của chị Hiếu và hai con chị ở miền chiến khu đầy bất trắc này thật phi lý, cuộc chiến giành lại quê hương này cần những người trẻ tuổi và không bận bịu như chàng, chị Hiếu chỉ là một người đàn bà buôn bán nuôi con qua ngày, lo cho hai đứa con cho đến khôn lớn cũng đủ cơ cực rồi, chị đâu cần có mặt nơi đây để chịu đựng lam sơn chướng khí, những chuyến đi mua hàng gian nan nguy hiểm, ngang qua đồn bót của Tây, những chuyến trèo đèo vượt suối, bọc hàng nặng trĩu trên vai, quá sức của một người đàn bà yếu đuối. Trần nhớ khuôn mặt xanh xao của chị mỗi chiều tối mang cây đèn thắp sáng đặt trên bàn viết của chàng, khuôn mặt còn in nét nhọc nhằn cam khổ như dấu hiệu hẩm hiu của người đàn bà không nhan sắc, không được che chở trong cuộc đời. Điều bất hạnh nhất cho chị là đôi mắt lé quá nặng nề của chị, nó làm biến đổi hẳn nét mặt lẽ ra cũng không đến nỗi nào. Hồi mới đến Trần không dám nhìn thẳng vào mắt chị mỗi khi có điều cần hỏi, Trần sợ chị ngượng nhưng lâu dần vẻ hiền hòa dịu dàng của chị, nét buồn rầu cam phận như cái bóng nhạt nhòa khiến chàng không nghĩ gì nữa. Có lần chàng hỏi chị sao không đưa những đứa bé về xuôi sống một cuộc đời dễ chịu bình yên hơn, chàng nói rằng không ai trách cứ gì chị khi chị cũng đã hiến cho Tổ quốc người chồng thân yêu của chị, không ai đòi hỏi sự góp phần của người đàn bà yếu đuối phải cưu mang hai đứa trẻ mồ côi. Chị cười buồn nói:

“Chỗ của mẹ con tôi là ở đây chú ạ, có lần tôi cũng nghĩ như chú nhưng tôi không thể bỏ lỡ dịp cho các con tôi được trông thấy và lớn lên trong cuộc kháng chiến này.”

Câu nói khiến Trần bàng hoàng nhìn kỹ chị, nét mặt của người đàn bà ngoài ba mươi tuổi dầu dãi nắng mưa vẫn bình dị yên tĩnh. Trần kinh ngạc quay đi, cảm thấy giận mình vô cớ.

Trong buổi tranh tối tranh sáng mà sa mù bắt đầu rơi dày trên thung lũng đó đây, Trần bỗng nhớ lại niềm kinh ngạc đó, chàng vẫn chưa hết lạ lùng, làm sao có thể ngờ được một người đàn bà như vậy lại có thể nói được một câu như thế. Chị ấy có biết mình đã nói gì chăng, chị ấy có biết bằng câu nói ấy chị đã tuyên đọc một thông điệp cho cả một thế hệ sắp tới trên quê hương này? Cái gì sẽ xảy đến sau khi thông điệp được ban ra? Sự sống hay sự chết? Có lẽ không cần thiết, điều quan hệ là nó đã là một thông điệp.

Một cánh chim nhỏ lướt qua không gian mất hút sau đám mù xa, những ngôi sao thưa thớt nhạt dần, vài đóm lửa lập lòe bên kia thung lũng, tự đó tỏa lên một làn khói mỏng manh tha thướt như xiêm y của người con gái liêu trai, làn sương khói cứ bay lên, bay lên mãi để ngừng lại trên ngọn đồi xa, ở đó đã có một vài tia hồng yếu ớt.

Trần bỗng rùng mình, chàng vụt quay về phía ngõ, đi lên hướng ngọn đồi.

“Tôi đã sống hai mươi ba năm, mỗi ngày đến với tôi như thể lần đầu tiên tôi nhìn thấy, nhớ ngày nào bước chân hai mươi đi trên thành phố cũ, thành phố có một giòng sông, không, có mấy giòng sông, nhưng có hề gì, một giòng sông là đủ rồi, tất cả mọi giòng sông đều chỉ là một, đều chỉ từ nguồn suối đổ về và đều cùng đi ra biển cả.

Còn nhớ những buổi mai đợi đò qua bến Phu Văn Lâu chuyến sớm, tại sao lại phải chuyến đò thật sớm nhỉ, quả thật tôi không có việc gì phải dậy thật sớm để đến kịp chuyến đò ngang ấy cả, nếu không vì một chiếc nón bài thơ nghiêng nghiêng e ấp, che giấu một đôi mắt u uẩn tuyệt vời, tà áo lụa óng ả như đôi cánh bướm bay, mái tóc buông lơi trên vai gầy thơ dại, cảnh tượng sông nước ban mai, những tia nắng đầu tiên ấm áp trên đôi môi hồng, nét cười đằm thắm.

Tuổi hai mươi của tôi trôi qua như thế, như trong nôi hồng, uể oải nhịp bình yên, một tuổi trẻ nâng niu vàng óng, một giấc mơ chợt thấy mình hóa thành thi sĩ, tôi đã viết một bài thơ hay nhiều bài thơ, không còn nhớ rõ, những bài thơ cho nàng, chưa một lần biết tên, chưa một lời thăm hỏi, những bài thơ cho giòng sông, cho thành phố tôi yêu.

Bây giờ tất cả đã xa rồi. Tôi hai mươi ba tuổi, tôi nhìn lại chàng trai hai mươi ngày đó với cái nhìn khoan dung của người anh phong trần sương gió, tôi ngoái lại giòng sông, thành phố cũ trong viễn vọng ưu ái xót xa.

Bây giờ tôi ở đây, giữa miền đồi núi này, bỏ lại sau lưng thành phố thân yêu dưới gót xâm lăng của giặc Pháp, tôi đã ra đi, một sớm một chiều không còn nhớ rõ. Ở đây tôi hiện hữu giữa một không khí nồng say, giấc mơ của tôi còn đó, thế hệ của tôi đang có diễm phúc ôm tròn lý tưởng trong tay, lý tưởng sống chết giành lại đất đai quê hương này. Những kẻ ôm mộng xâm lăng phải mở mắt ra, phải hiểu rằng có tôi trong cuộc chiến, có tôi trong triệu triệu tuổi trẻ sẵn sàng chết cho xứ sở đau thương này.”

Trần dừng lại trên ngọn đồi, chàng lặng người trong một hạnh phúc vô biên, chàng muốn thét lên một tiếng, tim run run trong khoái cảm tràn ngập, buổi mai mà khí trời trong như được lọc từ lớp bụi vàng ở xa kia, rõ ràng trời đất chuyển mình, nghe như trong mạch đất tiếng rào rào của muôn ngàn côn trùng đang muốn chui lên góp mặt, tiếng chim đột ngột trỗi lên lảnh lót trong rừng xa, giòng suối dưới chân đồi róc rách như nguồn ân tình vô tận.

Trần chợt nghĩ đến Huỳnh, người bạn văn thân thiết nhất của chàng và thầm tiếc không có bạn ở đây với mình bây giờ, chàng chậc lưỡi, ừ nếu có hắn thì mới thật là tuyệt, cả hai đứa sẽ làm đủ mọi chuyện điên khùng vì nỗi vui được chia sớt, hai đứa sẽ chạy nhảy, sẽ vật nhau cho đến mệt nhoài, thơ sẽ được ngâm vang lên, và một ngày sẽ bắt đầu như ngày hội.

Chàng ngẫm nghĩ về Huỳnh trong khi trở gót quay trở lại nhà, cái thằng ở bẩn thật hết chỗ chê, và tính nết khó chịu đến không ai chịu nổi, Huỳnh luôn luôn mang một tâm trạng dằn vặt, ray rứt buồn phiền, hắn lầm lì cay đắng với cả mọi người, thế nhưng mỗi khi hai đứa gặp nhau, có dịp công tác hoặc đi chơi chỉ riêng hai thằng với nhau thì hắn như biến thành một người khác, hắn ngoan ngoãn như trẻ thơ, nụ cười chiếu sáng khuôn mặt xanh xao bẩn thỉu lởm chởm những râu và tóc, hắn lặng yên nghe Trần kể lể một cách nồng nàn về đời sống và bất chợt đôi lúc hắn cũng lây cơn cuồng say tuổi trẻ của Trần. Hắn bảo Trần: “Hãy cứ được như thế, và mong mày đừng khốn khổ như tao.”

Có một lần Trần gặp Huỳnh trong mùa chiến dịch ở đồng bằng, Trần vồ lấy bạn, buổi chiều xuân khí trời êm ả, hai đứa ngồi dưới gốc một cây bàng chơ vơ giữa cánh đồng lúa xanh ngăn ngắt, Trần nói với bạn:

– Cái vụ một vị linh mục bị tụi Tây bắn chết hôm qua dưới bến sông phía sau nhà thờ đó, bảo rằng chúng thấy màu áo đen tưởng đâu là du kích, cái bác chủ nhà tao ở nhân đi thăm ruộng có tạt lại xem, về bác ấy kể lại như thế này: “Tây nó bắn cái đạn chi mà lạ thiệt, vết đạn khi vô nơi ngực nó nhỏ bằng đồng xu, vậy mà trổ ra sau lưng nó to bằng dĩa thịt bò, tội nghiệp ông cha bị bắn chết nằm cả đêm lạnh lẽo dưới bến, đêm qua mưa nhỏ mà mưa cả đêm, xác ông cha bị ướt đầm xanh ngắt;” rồi bác ấy lại còn nói thế này: “Trời đất chi lạ thiệt, mưa một đêm mà sáng ni cây cối trút lá non ra hết, lúa mạ năm ni chắc được mùa, không biết Tây nó có để yên cho mình gặt hái không đây.”

Trần xuýt xoa với bạn:

– Lạ thật mày ạ, chiến tranh và mùa xuân đến thật bất ngờ và đầy thú vị trên môi một người dân quê chất phác, mày thấy không?

Huỳnh lặng yên, ngả người nằm dài trên cỏ, vắt tay lên trán nhìn trời, giây lâu mới nói:

– Điều làm tao nghĩ là cái chết của mình sau này có được như vị linh mục kia không, một phát đạn, nằm xuống, hồn còn đầy cảm tạ ơn Chúa, mưa xuân bay phơi phới trên mình, không ray rứt, không hận thù.

Trần hiểu ý bạn, lòng chàng hơi se sắt, chàng cũng đã cảm thấy một sự gì bất ổn trong cuộc sống và lý tưởng chàng đang đeo đuổi, nhưng chàng chưa biết rõ được là cái gì. Huỳnh biết rõ điều đó hơn chàng nhưng giữa họ vấn đề chưa hề được đề cập tới, có lẽ vì cuộc sống này còn quá mới mẻ, vùng ánh sáng này còn quá thanh tân. Trần vẫn mến trọng tư tưởng thâm sâu của bạn, cả những nỗi phiền muộn u uất của bạn, Trần hiểu Huỳnh đã dành những phút giây nhẹ nhàng thanh thản nhất, dễ chịu nhất mỗi khi có chàng. Huỳnh lớn hơn chàng vài tuổi, một tâm hồn sống động, bén nhạy đến tột cùng, Huỳnh vẫn nói với chàng mỗi khi nghe chàng bày tỏ những tư tưởng đam mê sôi nổi của chàng:

– Hãy cứ được như thế, và đừng khốn khổ như tao.




Chương 2

Nắng đã chan hòa khắp nơi khi Trần về đến nhà. Quý, chú bé mười ba tuổi ở chung với chàng với nhiệm vụ liên lạc viên, cười hỏi chàng:

– Anh đi đâu sớm thế?

– Anh vừa đi lên đồi về.

– Cả đêm qua em thức giấc lần nào cũng thấy anh còn ngồi viết, vậy mà sáng nay anh đã lang thang thật sớm, anh tài thật.

– Em cũng tài thật, – Trần cười âu yếm nhìn Quý – có những đêm anh trông thấy em ngủ mà anh thèm. Hồi ở tuổi em anh cũng ngủ được như thế, bây giờ mới biết hồi đó mình tài.

Quý thích chí cười to: “Vậy là anh em mình đều tài hả anh?”

Chú bé vụt chạy đi, một lát mang lên một đĩa khoai luộc nóng hổi:

– Mình ăn sáng đi anh, khoai chị Hiếu nấu hộ đấy. Chị ấy đi rồi.

Nhìn đĩa khoai bốc khói Trần cảm thấy mình đói ngấu, Quý bóc vỏ một củ đưa cho chàng, chàng cắn một miếng, nhai thong thả, ngẫm nghĩ, khoai lang được nấu với nước dưa cải, ăn có vị đậm, bùi và ngọt lịm, chàng bảo Quý:

– Em gói mang theo vài củ nhé, chốc anh em mình vào tỉnh một chút rồi đi luôn đến chiều, anh không muốn phải buổi trưa đi tìm cái ăn, để thì giờ anh nghỉ một lát, còn thật nhiều việc phải làm.

Vừa ở ban chỉ huy trở ra, Quý đón chàng, với vẻ mặt hiếu kỳ:

– Còn sớm mà anh, anh em mình hãy đi xem xử tử Việt gian cái đã rồi hẳn đi nghe anh.

Trần hỏi: “Xử tử Việt gian? Việt gian nào? Ở đâu?”

– Phía bên kia cánh rừng gần ty Công an Tỉnh ấy mà, cũng ở ngay trên con đường mình sắp đi qua đây thôi. Em thấy người ta vừa giải mụ ấy đi ngang qua đây trong khi em chờ anh ngoài này, hoài của, người trông khá đẹp, vậy mà làm gián điệp cho Tây, gớm thật.

– Một người đàn bà à?

– Vâng, một mụ đàn bà, trẻ lắm anh ạ, em hỏi thằng Sinh liên lạc bên công an thì nó bảo rằng ta bắt được mụ ấy ở Kim Luông chiều hôm kia, mụ ấy lấy Tây anh ạ, nghe đâu thằng Tây chồng của mụ ấy là quan tư quan năm gì đó ở Huế, khi bị bắt mụ ấy khai là về Kim Luông thăm nhà và giỗ mẹ. Thằng Sinh nó bảo lấy chồng Tây là Việt gian chính cống rồi, ngữ ấy còn giả vờ đi vớ vẩn để lấy tin tức của ta mà cung cấp cho Tây chứ đã đi lấy Tây thì còn biết cha ông gì nữa mà về thăm. Nó nói bên công an quyết định sáng nay mang ra xử bắn cho rảnh, kẻo lỡ có máy bay bắn, mụ thoát được lại chỉ điểm cơ sở mình cho giặc thì khốn. Cuộc xử chỉ có mấy người bên công an chứng kiến thôi, thằng Sinh nó bảo muốn xem thì anh em mình cứ lại, quen cả mà.

Trần lẩm bẩm: “Lấy Tây, làm Việt gian, hừ.”

Chàng bước đi, vừa suy nghĩ. Quý bước theo, kèo nài: “Mình đến xem thử, anh nhé, em chưa hề xem xử tử Việt gian.”

Trần bảo muốn xem thì xem, trong khi mặt cúi xuống, chàng lầm lì bước, chàng không lạ gì những chuyện như thế, xảy ra hằng ngày như cơm bữa, giữa một không khí chiến tranh còn mới mẻ, người ta không thể phân biệt nổi ai thù ai bạn, người ta chém giết nhau hằng ngày, say cuồng trong sự chém giết, chỉ cần một danh từ, Việt gian, thế là đủ rồi, những lập luận buộc tội rất mơ hồ, nhiều khi thậm vô lý, và không cần bằng cớ. Những thù oán, tỵ hiềm riêng tư cũng dựa vào đó để thanh toán nhau nhân buổi loạn ly này. Trong những làng mạc, sau những lũy tre, đời sống thật vô cùng bấp bênh, sau một đêm đen, người ta thấy đó đây vài xác chết được gắn lên một bản án viết tay lem luốc, vài cái đầu lâu treo lủng lẳng trên những ngọn tre.

Còn có bao nhiêu vấn đề cần nghĩ tới, còn có bao gập ghềnh khó khăn khống chế con đường đi tới ngày mai. Từ lâu nay chàng chỉ nhìn mọi sự việc một cách phiến diện, chàng cho rằng thế tất không thể nào tránh được những điều ghê tởm đó trong bất cứ cuộc chiến nào, vả chăng chàng chỉ là một quân nhân nghệ sĩ, những hình ảnh, chất liệu của chàng rút tỉa từ những chiến dịch đáng say mê, mặt đối mặt quân thù thực sự là giặc Pháp xâm lăng, những ngày theo đoàn quân di chuyển trong bùn lầy mưa gió, những đêm nằm trong những hầm công sự ngập nước rét run nghe ngóng từng tiếng động tĩnh bước chân của địch, những cuộc chạm trán gay go với tử thần. Cuộc sống cơ cực đói khát gian lao trên rừng, dưới ruộng, ngoài cát biển chỉ rèn luyện cho chàng thêm cứng cỏi, thêm phong phú cho tâm hồn đầy biến động và gió bão của chàng.

Bây giờ, trên đường đi của chàng, chàng sắp xem một cuộc xử tử Việt gian. Việt gian, tiếng để chỉ một kẻ thù từ trong da trong thịt, để xem một người đàn bà có cái tội là đã lấy Tây, mà lấy Tây tức là không nghĩ gì đến cha ông tức là phản quốc, giản dị là như thế trên môi Quý hồn nhiên kể lại, mà sao chàng bỗng thấy bước chân nặng nhọc, một áng mây đen vô hình phủ trùm lên buổi sáng thắm tươi rực rỡ này. Chàng đã từng thấy bao nhiêu là xác chết trên bãi chiến trường, xác chết của bạn, của thù, chàng đã sờ mó, bồng ẵm, vuốt mắt cho họ, lòng chàng buồn bã, ngao ngán, tràn ngập cảm thương số phận con người, cả thù lẫn bạn; chàng không hề sợ hãi, chàng rút tỉa trên khuôn mặt của những xác chết, hình ảnh trung thực của cuộc đời. Có lần chàng ngắm khuôn mặt của một anh em đồng đội nằm chết bên một xác địch quân, chàng bỗng ngạc nhiên khám phá ra những nét phản ứng trong cái chết giống hệt nhau trên hai khuôn mặt da trắng, da vàng, chàng đã tìm được sự đồng nhất tuyệt đối trong cõi chết giữa hai con người khác màu da mà khi sống đã là kẻ thù. Họ nằm đó, sóng sượt bên nhau, hai nét mặt cùng có vẻ ngỡ ngàng, dò hỏi; nét bi thống trên hai gương mặt như muốn nhắn nhủ một điều bí ẩn nào cho người sống, một niềm câm lặng không kịp truyền lại, ngàn đời mang đi. Cái chết, do đó, chàng thấy thân thuộc, luyến lưu, không có gì ghê tởm.

Nhưng giờ đây trên đường đi, chàng sắp chứng kiến một cái chết, nếu những cái chết đều giống nhau thì tại sao lòng chàng trĩu nặng, chàng có thể bỏ đi để không nhìn thấy, song le tự đáy tâm hồn có một tiếng nói nghiêm trang cất lên:

“Mày không được hèn nhát, đã có gì đủ để chứng tỏ con người của mày đâu; sự dũng cảm quên mình trước súng đạn, những đói khát gian lao nguy hiểm mà mày thường tự hào, có thấm gì đâu? Mày không thể viện dẫn những cái đó ra để lẩn trốn điều mày phải thấy được. Mày phải nhìn tận mắt những vấn đề mày cho là không phải của mày, rồi mày sẽ thấy, nếu mày không muốn thấy mày chỉ là một thằng hèn, một thằng khoác lác.”

Trần theo Quý rẽ ngang một con đường tắt dẫn vào khu rừng già cách chừng một dặm. Đi hết lối mòn giữa bãi tranh hai người bắt đầu dẫm chân lên con đường vào rừng rợp bóng cây im mát, càng vào sâu càng âm u như ngày đã về chiều; chân chàng dẫm trên nền đất ẩm, hai bên rìa đường phủ dày một thứ rêu xanh mướt, loài rêu đó còn bám đầy trên những thân cây hai bên đường, những thân cây xù xì cao vút, tỏa rộng những vòm lá che khuất mảnh trời xanh bên trên, giữ một bóng im thăm thẳm cho rừng, để nuôi nấng những rong rêu ẩm mốc, những loại côn trùng không tên tuổi, những con vắt hút máu người tròn trĩnh.

Quý đi bên cạnh chàng, nó hơi e ngại thấy chàng có vẻ lầm lì yên lặng, chợt nó thấy một con vắt nhảy bám vào cổ áo Trần, nó vội lấy tay gạt xuống đất. Trần như sực tỉnh quay nhìn bảo: “Thiếu chút nữa thì nó chui vào cổ anh rồi,” Quý được khuyến khích bởi vẻ dịu dàng bất chợt của Trần, nó kể tiếp:

– Anh ạ, thằng Sinh nó còn kể rằng ông Bé ở bên ty Công an vừa khoe với nó ba mũi tên tẩm thuốc độc của người thiểu số, nghe đâu loại thuốc độc ấy người thiểu số họ chế bằng một thứ nhựa cây gì, chất độc mạnh lắm, chỉ cần bắn một mũi là cọp hay voi gì cũng lăn ra ngay, ông Bé xin được ba mũi tên thích lắm mà chưa có dịp bắn được con thú gì để thử, cho nên bữa nay ông ấy lãnh phần xử Việt gian để bắn thử mũi tên tẩm độc xem có hiệu nghiệm không, em có thấy ông ấy có cái nỏ mọi lên nước màu mun đen bóng đẹp lắm, thằng Sinh nó còn bảo…

Một tiếng thét lồng lộng nổi lên xuyên ngang sự u tịch của khu rừng, đập vào thái dương của Trần và Quý, hai người cùng khựng lại, không ai bảo ai họ cùng đi nhanh về phía có tiếng thét, cùng lúc ấy tiếng kêu lại nổi lên thất thanh:

– Cứu tôi với, trời ơi, cứu tôi với.

Tiếp theo là tiếng rên rỉ tuyệt vọng, tiếng của một người con gái. Trần vạch lá, bước vào một khoảng trống, từ hướng chàng đến, chàng có thể nhìn suốt được quang cảnh lúc đó. Người con gái bị trói quặt vào một thân cây, chiếc áo cánh trắng bị xé toạc để lộ từ ngực suốt xuống bụng, hai mũi tên ghim sâu vào bộ ngực căng phồng trắng muốt, khoảng da nơi mũi tên cắm vào loang ra một vòng tròn xanh thẫm, những thớ thịt rung lên từng hồi cùng tiếng kêu cứu không dứt của người con gái, miệng nàng đã sủi bọt, hai mắt bị bịt kín bằng một mảnh vải đen, tóc tai rũ rượi, nàng cố vặn người vùng vẫy một cách tuyệt vọng.

Vút, một mũi tên thứ ba bay đến cắm phập vào ngực bên trái của nạn nhân, tiếng kêu cứu lại nổi lên nhưng lần này yếu ớt hơn, rền rĩ ai oán không dứt. Một tiếng nói bực tức ra lệnh:

– Làm mụ ấy im đi cho rồi.

Một người xăm xăm bước tới, kê súng lục kề thái dương nạn nhân bấm cò, tiếng nổ giòn khô khan, nạn nhân gục xuống, một cái giật nhẹ toàn thân rồi bất động, tiếng kêu tắt hẳn.

Mọi việc xảy ra như chớp nhoáng, Trần đứng sững cảm thấy gần như tê liệt. Một người đàn ông đứng tuổi nước da mai mái, nét mặt cằn cỗi lạnh lùng, tay xách chiếc nỏ của người miền núi, tiến về phía nạn nhân theo sau là một đám đông độ mươi người, người đứng tuổi cúi xuống xác chết, bây giờ đã được mở trói đặt nằm dài trên đất, người ấy đưa tay nhổ một mũi tên trên ngực nạn nhân, một giòng máu đen ứa ra từ vết thương đen sẫm chảy dài dọc theo vết trũng giữa ngực, vòng theo đường tròn dưới vú trắng ngời như một con rắn nhỏ đang bò đi. Trong đám đông một vài người bất giác lùi lại, người đàn ông đứng tuổi đứng thẳng người, thản nhiên nhíu mày xem xét mũi tên:

– Quái lạ, tụi nó đã cam đoan với tao là thứ tên này độc lắm, chỉ một mũi là chết ngay tức khắc, vậy mà bắn luôn cả ba mũi con mụ vẫn gào thét luôn miệng, thật vô lý. Để tao mang vào hỏi lại mấy thằng thiểu số này mới được. Tao phải đổi cho chúng nó cả gùi gạo và muối nữa chứ phải ít đâu.

Có tiếng xuýt xoa: “Anh bắn cừ quá, ba phát chẳng chệch phát nào.”

Câu nói rơi vào khoảng không, một sự yên lặng nặng nề bao trùm tất cả. Người đứng tuổi hất hàm:

– Thôi coi chôn nó đi, còn về làm chuyện khác.

Y quay lưng đi thẳng, những người khác một số đi theo y, một số đứng lại bàn tán rải rác quanh xác chết. Trần chậm chậm bước lại gần, người ta đã nhổ hai mũi tên còn lại trên ngực người chết, kéo áo phủ lại phần thân thể lõa lồ và tháo miếng vải đen bịt mắt ra. Hai mắt người chết mở to, vẻ kinh hoàng đau đớn đến cùng cực, nước mắt còn hoen ố trên làn da mặt trắng xanh, miệng há ra giữa một tiếng kêu bị tắt nghẹn, bọt trắng xóa pha lẫn máu đùn ra hai bên mép, tóc hai bên thái dương bết máu rối bời. Người con gái còn trẻ lắm, độ mười tám hai mươi là cùng. Trần cúi xuống, trong một cử chỉ gần như vô thức chàng đưa tay lên vuốt mắt kẻ xấu số, đôi mắt theo tay chàng khép kín, Trần bỗng thấy tim mình thắt lại, ruột gan cồn cào như lửa đốt, chàng đứng lên quay gót bỏ đi nhanh như chạy trốn khỏi nơi đó.

Ra đến đường rừng, nghe tiếng chân phía sau, chàng quay lại, Quý đang lủi thủi theo sau chàng, thấy chàng quay lại nó ngẩng lên ngó chàng bằng đôi mắt mất thần, mặt xanh ngắt như tàu lá. Trần chợt nghĩ mình đã quên mất sự có mặt của Quý bên cạnh mình như đã lâu lắm rồi. Đột nhiên một sự tức giận không kìm hãm được nổi lên cuồn cuộn đốt cháy tâm can chàng. Chàng trút lên đầu Quý, giọng đay nghiến:

– Đã được xem rồi đó, chú hài lòng chưa? Đã được thấy người ta xử tử Việt gian, thấy nó chết ra sao rồi đó, chú đã sướng bụng chưa?

Quý đưa hai tay về phía chàng trong một cử chỉ khẩn thiết, mắt nó lộ vẻ hoảng hốt, nó mở miệng định nói một điều gì đó, bỗng nó ôm bụng cúi gập người lại, nôn mửa thốc tháo. Trần đỡ Quý ngồi xuống bên vệ đường, lấy dầu xoa cho nó, Quý thở dốc, thỉnh thoảng nấc lên, ậm oẹ mặc dầu không nôn ra được gì nữa. Trần ngồi bên Quý, mắt chàng nhìn quanh lạc lõng, tâm hồn mỏi mệt trống rỗng, khu rừng thâm u như một đền đài thăm thẳm. Có một sự gì đó khiến chàng thấy rằng từ buổi sáng hôm nay mọi sự đều đổi khác, ý nghĩa của cuộc sống không còn như xưa nữa, không còn gì giản dị nữa, Trần rùng mình nhớ câu nói của bạn: “Hãy cứ được như thế, và đừng khốn khổ như tao.”

Trần thầm nói với bạn: “Tao đang khốn khổ đây, nhưng chưa được như mày, tao đang cần được khốn khổ như mày, mày hơn tao nhiều quá, làm sao tao biết đến mọi cớ sự này nếu chính mắt tao không nhìn thấy. Mày có lý khi những nỗi u uất của mày không hề bày tỏ, làm sao có thể hiểu được những điều này nếu không nhìn tận mắt, dù nhìn thấy chỉ để mà khốn khổ mà thôi.”

Quý đã tỉnh táo lại dần, Trần hỏi đã đi được chưa, nó gật đầu buồn bã, nó hỏi Trần:

– Anh giận em phải không?

Trần lắc đầu: “Không em ạ, – chàng nghe tiếng mình dịu lại – anh còn cám ơn em mới phải, thôi anh em mình đi kẻo trưa quá rồi.”




Chương 3

Chiến dịch bao giờ cũng mang bộ mặt mới mẻ của nó, những tin tức đi về nóng hổi, những giai thoại về mỗi trận đánh, về mỗi đơn vị, về mỗi cá nhân được truyền đi với cả nhiệt tình nồng nàn, kháng chiến mang một sắc thái đam mê đến cùng độ.

Trong các làng mạc những đoàn quân trẩy về trú đóng, thôn trang rộn ràng trong cơn sốt ngầm. Các em bé mười hai mười ba tuổi được cắt cho việc trèo lên những cây cao canh phòng giặc đến, có một em ở thôn nọ ngồi vắt vẻo trên cành cây ngâm thơ Tố Hữu:

“Riêng phong xa loáng bạc ngất ngây say
Hoa đào bay trước ngõ, hoa đào bay,
Và xuân ấy năm nghìn quân của Mã
Đánh tan quân của Nhật một sư đoàn.”

Hình ảnh oai hùng của người họ Mã đánh tan quân xâm lược giành lại đất đai quê hương là ước mơ mà em bé muốn trở thành ngày mai, em say mê trong mộng tưởng đến nỗi quân Pháp đến gần lúc nào em không hay biết. Khi giặc rút đi sau một trận đụng độ với quân kháng chiến, tiếp theo khủng bố đốt phá tơi bời, người ta tìm thấy thi thể em bé nằm dưới gốc cây, nét mặt bình yên như trong giấc ngủ, vầng trán thanh tĩnh thơ ngây, giấc mơ của em đã thành tựu hoàn toàn.

Cũng một đêm giá lạnh trong mùa chiến dịch, người mẹ già sống cô đơn trên một cồn cát ven sông, nửa đêm bà thức giấc vì tiếng súng nổ từng hồi về phía đồn Tây ở làng dưới. Khi tiếng súng đã dứt hẳn, bà vẫn còn thao thức không ngủ lại được, bỗng bà nghe tiếng đập cửa dồn dập, bà vội trở dậy mở hé tấm liếp, dưới ánh sáng lờ mờ của sao đêm một bóng người lảo đảo ngã gục trên thềm cửa, tâm thần hoảng hốt, bà cúi xuống đỡ người bị nạn, bà nhận ra vóc dáng đứa con trai của bà đã rời bỏ bà ra đi cả năm trường. Lòng bà rộn ràng mừng tủi lo âu, với sức già nua, bà vực đứa con vào nhà đặt nằm lên giường của nó. Đã từ lâu bà lủi thủi một mình, nhớ con quay quắt, nhiều đêm nghe tiếng lau lách bên sông xào xạc, bà ngỡ tiếng con về, vội dậy mở cửa ra sân chỉ thấy bốn bề vắng ngắt, sông nước mênh mang, người mẹ già đứng đó chảy ròng nước mắt, đôi mắt già ngày thêm mờ yếu theo đứa con đi biền biệt.

Bây giờ nó đã về đây, nó đã trở lại trong cánh tay ôm ấp của bà, nó đang mê man, chắc nó bị thương đâu đó trong thân thể, bà run rẩy thắp lên ngọn đèn dầu lù mù, đây rồi, vết thương trên vai máu chảy thấm ướt cả vạt áo này đúng là màu áo con bà mặc ngày ra đi; bà vội đi lấy một nắm thuốc lá, vạch áo rịt lên vết thương, đoạn bà xé một miếng vải buộc lại vết thương đã cầm máu, người con trai đã thở điều hòa. Người mẹ quỳ bên giường con cầu khẩn Trời Phật cho đến khi trời sáng, bà van nài đấng thiêng liêng che chở cho con bà, nó tìm về với bà trong cơn nguy khốn của nó, máu của nó chảy nhiều quá khiến nó kiệt sức, trong giây phút thập tử nhất sinh đứa con nào cũng biết đường nẻo đưa nó về với mẹ, con bà không thể chết, nó đã về được với bà, nó không bao giờ chết nữa.

Trời đã sáng, người mẹ già ngừng cầu nguyện, nhìn đứa con đang mê man trên giường, bà cố tự trấn tĩnh mình: “Rồi con tôi sẽ tỉnh dậy, máu đã hết chảy rồi, nó đã đi qua bao nhiêu đường đất trong khi máu chảy mãi từ vết thương quái ác, nó mệt quá đấy mà, nó cần phải ngủ. Nhưng các bạn đồng đội của nó đâu, sao bỏ con tôi một mình về đây với vết thương như thế này, sao áo quần con bẩn thỉu quá đi thôi, ừ mà con lê lết suốt đêm còn gì, cái đó không sao, mẹ đã may hai bộ đồ mới cho con, luôn cả áo ngự hàn, mẹ không biết con ở đâu mà gởi, ồ sao con để râu tóc ra nhiều quá vậy, che lấp cả mặt mày, mà mặt mũi con lem luốc quá chừng, để mẹ đi lấy khăn lau cho con.”

Người mẹ đứng dậy, đi giặt một tấm khăn ướt đem lại lau mặt cho con trai; bà nâng niu nhẹ nhàng lau sạch những vết bùn đất lẫn vết máu bết trên mặt con. Bây giờ mặt người con trai đã sáng sủa sạch sẽ hơn, bỗng người mẹ dừng tay, hai mắt kém cỏi của bà chú mục nhìn kỹ, những tia nắng mai rực rỡ bên ngoài tỏa ánh sáng trong trẻo khắp gian nhà nhỏ chiếu sáng rõ ràng khuôn mặt người con trai, người mẹ lùi lại, nét mặt già nua hằn lên đau khổ và tức giận, ánh sáng ban ngày cho bà thấy người nằm trên giường không phải là con trai của bà. Đó chỉ là một người lạ, một người lạ hoắc, thế mà cả đêm bà phải nhọc nhằn cực khổ vì y, thế mà cả đêm bà mừng tưởng con bà đã trở về, bà đã tưởng được ôm trong tay đứa con của bà sau bao nhiêu tháng ngày mong nhớ, bao nhiêu đêm khắc khoải cô đơn. Thế mà chỉ đến với bà một người lạ, rõ ràng y đã lừa bà, y đã làm cho bà lo lắng thức trắng đêm; như thế này thật quá lắm rồi, phải gọi y dậy mới được, phải tống y ra khỏi nhà ngay, y đang bị thương ư, đâu phải lỗi tại bà, đâu phải chuyện của bà, y phải biết rõ nơi nào y có thể tìm đến khi y bị thương chứ, tại sao y lại đến đây, tại sao y làm bà tưởng con bà trở lại?

Suốt cả đêm bà vất vả cực nhọc, bà mừng vui và đau khổ, bà đã khóc và đã cười, bà đã hôn y biết bao nhiêu bận bất kể người y hôi hám bẩn thỉu, và bây giờ đây trước mặt bà chỉ là một kẻ lạ hoắc vô duyên. Bà giận dữ bước tới, phải lôi y dậy bảo y ra khỏi nhà.

Người lạ bỗng cựa mình, một thoáng nhăn đau đớn trên gương mặt xanh xao; mắt vẫn nhắm nghiền, y cất tiếng gọi:

– Mẹ ơi!

Tiếng gọi làm người mẹ già đứng sững, nét mặt bà dịu lại. Mẹ ơi, đó chính là âm thanh quen thuộc của con bà, sao người này cũng có thể gọi tiếng đó với đủ vẻ yêu dấu thiết tha như vậy, tiếng gọi mẹ làm đôi má nhăn nheo của bà hồng lại, làm dậy lên nguồn sữa trong đôi vú khô héo già nua. Người lạ liếm đôi môi khô khốc, giọng yếu hơn:

– Mẹ ơi!

Bất giác người mẹ nghiêng mình cúi xuống, bằng một giọng nhẹ nhàng bà khẽ đáp:

– Mẹ đây, con đã tỉnh đấy à?

Trần đã tìm ra Huỳnh trong căn nhà nhỏ ven sông đó một ngày mùa xuân, một tuần sau cái đêm mà Huỳnh ngã quỵ trước thềm cửa của người mẹ già. Lúc ấy Huỳnh đang lên cơn sốt vì vết thương bị làm độc, bà cụ không thể đi vào trong làng tìm thầy thuốc được vì người ta đang đánh nhau về phía đó; tuy bà chăm sóc cho Huỳnh rất tận tâm nhưng vết thương không được chữa trị, không có thuốc men nên càng ngày càng loét ra, sưng tấy làm cho anh đau đớn vô cùng. Cơn sốt hành hạ anh suốt ngày đêm, tuy nhiên người mẹ thấy anh không bao giờ rên rỉ hay than vãn điều gì. Anh đón nhận những cử chỉ săn sóc của bà với một vẻ cảm kích sâu xa. Những lúc tỉnh táo, anh nằm lắng tai nghe bà nói chuyện, nét mặt điềm tĩnh thoải mái, nhưng càng ngày bà nhận thấy anh càng yếu dần đi.

Buổi chiều bà ra sông giặt áo cho Huỳnh bỗng thấy một chiếc thuyền nhỏ trên có ba người đàn ông trai trẻ tạt lại gần, họ cập vào bờ, nhảy lên bãi cát. Người cao gầy mặc bộ áo quần màu nâu dặn dò một chú bé trạc mười lăm tuổi:

– Anh đợi em ở đây, em vào làng cố tìm cho kỹ, hỏi dò xem có ai biết tin gì về anh ấy không, phải thận trong khi đến những xóm sát đồn đấy nhé.

Chú bé vâng dạ rồi đi thẳng lên con đường băng qua cánh đồng vào làng. Người mặc áo nâu đứng nhìn theo, tư lự một lát. Bà cụ giặt xong rũ áo vắt kiệt nước rồi thong thả đi lên. Người áo nâu đến gần bà lễ phép:

– Xin cụ cho chúng cháu vào ngồi nghỉ trong nhà một chốc được không? Chúng cháu đợi em bé đi vào làng trở ra.

Bà cụ gật đầu: “Được, các cậu cứ vào.” Bà đi trước hai người theo sau, chiều xuống nhá nhem, căn nhà tranh tối tranh sáng, bà cụ mời hai người ngồi nơi chiếc phản kê giữa nhà, rồi đi xuống bếp đun nước mời khách. Hai người cám ơn, họ ngồi xuống tấm phản, nói với nhau một vài câu bâng quơ. Có tiếng người hỏi từ chiếc giường kê ở chái bên làm người áo nâu quay phắt lại:

– Trần đó phải không?

Trần, vì người áo nâu là Trần, trông thấy một người nằm trên giường râu tóc che gần kín mặt. Vô cùng xúc động, Trần bước tới:

– Huỳnh, tao đi tìm mày, tao đang đi tìm mày.

Trần chụp lấy bạn, vết thương bị động khiến Huỳnh khẽ nhăn mặt, đau đớn. Trần kêu lên:

– Mày bị thương ở đâu?

Huỳnh yên lặng chỉ vết thương, hai người bạn nhìn nhau, cố nén cảm xúc.

– Tao tưởng không còn gặp mày nữa, Huỳnh nói.

Trần lắc đầu: “Tao thì chắc chắn là gặp lại mày, tao nhất quyết đi tìm mày. Từ ba hôm nay tao đi quanh hết vùng này, chiều nay tao ghé vào bờ cát này để cho Quý vào làng hỏi thăm tin tức của mày, không ngờ mày lại nằm ngay đây. Chắc chặp tối Quý nó mới trở lại, cũng còn kịp chán, lát tối mình đi thì vừa.”

Trần quay lại nói với người kia nãy giờ vui vẻ đứng nhìn hai người mừng gặp nhau:

– Đây là người mà tôi nhờ chú đưa đi tìm mấy hôm nay, chú xuống thuyền sắp đặt cho tôi một chỗ nằm cho êm để chốc đưa anh ấy về.

Người kia vâng dạ rồi đi ra ngoài. Bà cụ bưng hai bát nước chè lên trông thấy Trần và Huỳnh đang trò chuyện, Huỳnh nói với bà:

– Mẹ, đây là Trần bạn con đi tìm con mấy hôm nay đấy mẹ ạ.

Bà cụ chép miệng: “Hèn chi khi nãy thấy cậu ấy dặn dò em bé đi vào làng tôi đã hơi ngờ ngợ.”

Trần lại gần bà: “Thật là may cho Huỳnh được cụ cứu mạng che chở cho trong cơn hoạn nạn như thế này, chúng cháu không biết lấy gì đền đáp công ơn ấy, Huỳnh và cháu chỉ xin ghi lòng tạc dạ mà thôi. Hiện giờ Huỳnh yếu quá, cháu xin phép cụ cho cháu đưa Huỳnh đi ngay tối nay cho kịp chữa chạy vết thương, Huỳnh lành mạnh rồi anh em cháu sẽ xin trở lại đây thăm cụ.”

Bà cụ chợt thấy lòng nhói đau: “Vâng, thì cũng phải vậy chứ biết sao, anh ấy càng ngày càng yếu làm tôi lo lắm, mà trong kia còn đánh nhau rộn ràng quá, tôi không biết cầu cứu vào đâu cả. Thế đi ngay tối nay à?”

– Vâng, thưa cụ, chúng cháu còn chờ em bé vào trong kia ra là đi ngay cho kịp kẻo khuya.

– Thế để tôi đi thổi cơm ăn đã rồi hãy đi.

Bà cụ nói xong tất tả đi xuống bếp ngay không để cho Trần kịp nói gì cả. Đến bếp bà đứng yên một lát để mặc hai giòng nước mắt chảy dài trên đôi má nhăn nheo, bà cố nén tiếng nấc trong khi lấy gạo vào rá đem vo: “Nó cũng lại đi nữa rồi.”

Trần nói với Huỳnh: “Bà cụ nom tội quá, làm sao mày lết được từ đồn làng Hạ đến tận đây vậy?”

– Tao đi theo quan sát trận đánh đồn đêm ấy, súng đang nổ thì tao thấy nhói một cái bên vai trái, tao ngất đi, đến khi tỉnh lại thì tiếng súng đã im, chung quanh vắng ngắt không còn thấy ai nữa, tao độ chừng bộ đội mình đã rút đi, tao gắng đứng dậy đi, tao chả biết đi đâu nữa, máu chảy mãi ướt lạnh một bên ngực áo, thỉnh thoảng tao bị té vì bước hụt xuống ruộng, tao lại ngất đi rồi lại tỉnh rồi lại đi, cho đến lần ngất đi sau cùng, tỉnh dậy mở mắt ra thì thấy nằm ở đây, tao trông thấy bà cụ cúi xuống nhìn tao và nói: “Mẹ đây, con đã tỉnh đấy ư?” Tao gọi luôn cụ bằng mẹ từ khi đó. Bà cụ sống ở đây một mình, có bà con trong làng mời cụ vào tá túc trong đó mà cụ từ chối, sợ thằng con trở về bất ngờ không gặp cụ. Thằng con một của cụ đi cũng hơn một năm rồi. Ai ngờ cái đứa tìm đến lại là tao, sống dở chết dở, chán thật. Làm sao mày biết tin tao mất tích mà đi tìm?

– Tao về dưới này được hai ngày, tao đến đơn vị tìm mày mới biết mày bị coi như mất tích trong trận đánh đồn ở làng Hạ. Tao suýt đánh thằng Trương trưởng phòng chính trị một trận. Khi tao hỏi có cho đi tìm kiếm mày không thì nó bảo rằng tìm kiếm làm gì vô ích, rằng mày không bị thương hay chết chóc gì đâu, nó bảo mày nhân lộn xộn theo giặc luôn rồi. Tao bảo nó nếu tao đi tìm ra được mày thì sao, nó nhún vai bỏ đi, tao giận tràn hông, muốn đánh cho nó bể mặt, nhưng tao đi tìm mày trước đã, tao biết mày đang lâm nguy, chuyến này về nó biết tay tao.

Huỳnh nhếch mép cười: “Chuyện đó tao không lạ, mày đừng gây sự với nó làm chi, nó là đảng viên, cũng như mày vậy, tao chỉ là một kẻ ở ngoài, một quần chúng, không nên rắc rối với nó vì tao, nên yên lặng là hơn hết.”

Trần đi đi lại lại, đầu hơi cúi, đôi mày nhíu lại, bực tức:

– Ở trong và ở ngoài, hừ, lúc này tao khổ tâm vì nhiều thứ quá, có nhiều điều tao cần nói với mày, vì thế tao đi tìm mày mới biết mày lâm nạn, thế mà lũ chó chết nó cứ bình chân như vại, đánh giặc đâu chưa thấy đã thấy hủy hoại nhau từ trong da trong thịt. Thôi bây giờ lo về vết thương của mày cái đã, mày thấy trong người ra sao?

– Yếu lắm, nhưng chắc không đến nỗi nào.

– Hãy cứ về bên kia sông cái đã, rồi liệu sau, mày yếu quá như thế này chắc không thể đưa về trạm cứu thương ngay được, tao có nhà người cô ở thôn Nhất, sẽ đưa mày về đó gởi tạm mày lại đó đêm nay đã. Mai sẽ đi gọi y sĩ đến xem cho mày.

Quý đã trở lại, từ ngoài sông nó đã nghe người kia cho biết đã tìm được Huỳnh, nó chạy vào, sung sướng la to lên:

– Anh Huỳnh, thế mà em đi tìm anh muốn chết, em đi tuốt xuống mấy nhà gần sát đồn, các chị trong làng cũng đi hỏi hộ em mà không ai thấy cái ông râu ria thật nhiều đâu cả. Có một chị nghịch ngợm lắm, hỏi em rằng ông ấy để râu làm gì mà lắm thế, và đi đánh giặc chứ có phải đi cút bắt đâu mà lại để người ta đi tìm, lại còn hỏi anh trẻ hay già nữa.

Trần và Huỳnh cùng cười, trong chốc lát họ vui lây tiếng nói trẻ thơ, Trần hỏi:

– Thế em bảo sao?

– Em bảo rằng anh để râu nhiều cho dễ nhận trong những trường hợp cần phải đi tìm như thế này, và rằng đi đánh giặc cũng giống như chơi trò cút bắt cho nên phải đi tìm, sau hết em bảo anh trẻ và đẹp trai lắm cho nên không dám trốn vào cái làng có con gái đông và nghịch như thế này, vậy em xin chào các chị để đi tìm nơi khác vậy. Các bà ấy la lên và nhét cho em một túi đầy nhóc đồ ăn đây này.

Quý đến gần Huỳnh đưa tay sờ lên mặt anh:

– Anh bị thương có đau lắm không anh, nom anh hốc hác quá.

– Không, anh không sao cả, gặp lại em là mừng rồi.

Bà cụ đã dọn cơm lên chiếc phản giữa nhà, bà bảo ba người Trần, Quý, và người đưa thuyền cứ ăn rồi còn đi, còn bà mang cháo đến cho Huỳnh, bà múc từng thìa cháo đổ cho Huỳnh, Huỳnh ăn vài thìa rồi bảo:

– Thôi con ăn vừa rồi, mẹ dẹp đi, rồi đến đây với con, con sắp đi rồi.

Người mẹ già mếu máo: “Anh nhớ nhắn tin về cho tôi biết nhé, một đứa kia nó chẳng tin tức gì rồi.”

Huỳnh vỗ về bà cụ, anh cố giấu nỗi xa xót trong lòng:

– Xin mẹ đừng buồn, con sẽ về thăm mẹ, con sẽ hỏi tin tức anh ấy cho mẹ.

Chiếc thuyền nhỏ rời bờ cát trôi đi xa dần. Người mẹ già đứng lại trơ trọi bên sông, gió thổi bốn bề không đủ khô giòng nước mắt đơn côi. Từ đó, đêm đêm nghe tiếng súng nổ vu vơ là bà hồi hộp, thức trắng đêm nghe ngóng, đợi chờ.




Chương 4

Quá nửa đêm Trần mới đưa Huỳnh về đến nhà người cô của chàng ở thôn Nhất, một vùng tương đối yên tĩnh. Ở đây căn nhà ngói ba gian còn đứng vững giữa vườn cam và nhãn rộng rãi xanh um. Sau khi thưa chuyện với cô chàng và được bà bằng lòng, Trần đưa Huỳnh vào một căn phòng trên gian nhà thờ lớn.

Với sự phụ giúp của người lão bộc, việc đầu tiên là Trần cởi bỏ lớp vải buộc vết thương của Huỳnh ra, lau rửa bằng thuốc sát trùng, băng bó lại, đoạn chàng lau mình cho Huỳnh bằng nước ấm, chàng gượng nhẹ nâng niu thân thể gầy nhom mòn mỏi của Huỳnh như săn sóc con trẻ.

Huỳnh để mặc cho bạn làm, mắt nhắm nghiền, càu nhàu:

– Giờ này mà không để cho tao ngủ, mai hãy làm mấy cái trò này có được không, mày không thể bắt tao lây cái tật sạch sẽ của mày được đâu.

Trần buồn cười, trêu bạn:

– Lan của mày mà trông thấy mày bây giờ thì phải biết, cứ gọi là phát sốt phát rét lên, trông đẹp trai lắm đấy.

Huỳnh lẩm bẩm: “Lan, Lan mày tưởng thế chứ Lan ở ngay bên tao từ hôm tao bị thương cho đến nay, nhờ Lan mà hôm nay mày mới tìm được tao đấy, nếu không có Lan thì bây giờ chỉ còn nắm đất.”

– Ghê thế kia à.

Trần mặc quần áo sạch cho bạn xong, đỡ bạn nằm xuống:

– Cứ cho là như thế đi, mày sống cũng chỉ nhờ ảo tưởng mà thôi, có phải không, mày muốn nói như thế chứ gì, thằng này hỏng.

Huỳnh nói, giọng chìm dần trong mệt nhọc và ngái ngủ:

– Đó là giấc mơ tuyệt vời, tao chỉ còn chừng ấy, chỉ còn có thế thôi, mày đi ngủ đi, gắng tìm một giấc mơ, không giống của tao, dĩ nhiên là vậy.

Trần cẩn thận đắp chăn kín cổ bạn, chàng cũng đã thấm mệt, chàng lại nằm trên một cái trường kỷ kê gần đó, trước khi đi vào giấc ngủ, chàng nói, không cần biết Huỳnh có nghe thấy hay không:

– Giấc mơ của tao bắt đầu từ lâu lắm, và chỉ tàn cuộc khi nào tao chết đi.

Những ngày sau đó Huỳnh sốt liên miên, yếu đến nỗi không thể chịu đựng nổi một cuộc di chuyển nào khác được nữa. Trần báo cho cơ quan của Huỳnh biết đã tìm thấy Huỳnh. Người ta nhận thấy tình trạng sức khỏe của Huỳnh không thể đưa đến trạm quân y trên núi được nên họ đồng ý để Huỳnh nằm lại nhà người cô của Trần, nhờ trạm y tế của địa phương đến giúp đỡ.

Cũng may vết thương của Huỳnh không bị trúng xương, chỉ bị mất nhiều máu và làm độc cho nên khi được thuốc men băng bó hàng ngày thì dần dần kín miệng trông thấy.

Người cô của Trần trạc năm mươi tuổi, chồng của bà hiện là chủ tịch một đoàn thể kháng chiến, ông ở trên vùng núi, ít khi về. Bà có một người con gái mười tám tuổi đã chết năm ngoái sau một trận đau xoàng, bây giờ bà sống với bé Tâm, đứa con trai lên mười tuổi và một lão bộc. Thỉnh thoảng bà đi vào thành phố Huế để trông nom một vài bất động sản của bà ở đó, trong những dịp ấy bà có thể mua những thuốc men cần thiết để chữa cho Huỳnh cùng những vật dụng để dùng trong ngôi nhà thờ ở miền quê của bà. Người trong vùng vẫn gọi bà là bà Thị, đó không phải là cái tên, mà là do cái hàm thị độc, một phẩm hàm của vua trong triều đình trước cách mạng ban cho chồng bà. Cuộc cách mạng kháng chiến bùng nổ, cáo chung một chế độ quân chủ đã tồn tại từ mấy ngàn năm trên xứ sở này, người chồng tóc đã điểm hoa râm của bà đã mang chiếc hộp bằng gỗ quý sơn son thiếp vàng đựng sắc chỉ phẩm trật vua ban ra đốt sạch.

Đã quá nửa đời người, bị choáng ngợp bởi tình yêu Tổ quốc, ông Thị vẫn còn đủ nhiệt tình để lao mình vào một cuộc thử thách mới mẻ.

Bà Thị người đầy đặn, khuôn mặt tròn phúc hậu, nét mặt rất ít vết nhăn, cho thấy một thời tuổi trẻ xuân sắc đằm thắm, cái nhìn hiền từ, tiếng nói rõ ràng thong thả, bà săn sóc Huỳnh với một sự tận tâm hiếm có, dần dần những cơn sốt của Huỳnh cách khoảng rồi dứt hẳn. Với một gia đình quạnh hiu như thế, sự có mặt của một kẻ ốm đau như Huỳnh cũng không đến nỗi thừa, sự bận rộn vì anh cũng là niềm vui cho họ.

Cả bà Thị lẫn người đầy tớ già đều tìm được ở Huỳnh một người bạn thích hợp để giãi bày những phiền muộn lo âu của họ, riêng đối với chú bé Tâm thì Huỳnh là một mẫu người lý tưởng, nó mê man nghe chàng kể chuyện đánh vào đồn giặc, nó chiêm ngưỡng vết thương của chàng như một chiến tích lừng lẫy vô song.

Bà Thị những lúc rảnh rỗi thường lên thăm Huỳnh và nói chuyện với anh, bà thường tỏ vẻ thương tiếc đứa con của bà, bà than thở:

– Nó thuần hậu nhút nhát quá, thế mà Trời không cho sống, có lẽ tại nó đẹp quá, ai cũng trầm trồ khen ngợi, phải chi nó còn sống thì tôi không đến nỗi cô đơn như thế này, có đứa con gái lớn nó bầu bạn với mình, chia sẻ ngọt bùi cay đắng với mình. Anh nghĩ, nó có đau ốm gì đâu, buổi tối nó kêu chóng mặt đi nằm, tôi lấy dầu xoa cho nó, vừa quay lại thì thấy nó mê man rồi đi luôn, người còn mềm dịu nóng hổi, từ hồi đó đến giờ tôi chẳng ra làm sao cả anh ạ, khi cười khi khóc như con mẹ điên, nếu điên hẳn được thì cũng đỡ khốn khổ.

Bà nghẹn ngào một lát, rồi tiếp:

– Nó đậu trung học rồi nhất định ở nhà trông nom ruộng vườn nhà cửa với mẹ, bây giờ thì chỉ một mình tôi lo liệu, ông nhà tôi thì đi như thế, cháu Tâm còn bé quá, nhiều lúc tôi không còn thiết gì nữa.

Huỳnh nói một vài câu an ủi bà Thị, anh nói đến cái vòng tiếp nối của sự sống và sự chết, cho đến một lúc nào đó, trong ý muốn làm dịu đi sự đau khổ của người mẹ mất con, anh bỗng thấy lời nói của anh đượm đầy tính chất tôn giáo, một điều anh không dự trù trước. Anh tự chế diễu mình và ngừng lại. Nhưng anh ngạc nhiên thấy bà Thị cũng tỏ ra thanh thỏa, có lẽ bà đã có người để giãi bày nỗi khổ.

Bà nói qua chuyện ruộng đất: “Vì chỉ có một mình nên mấy chục mẫu ruộng tôi cho làm rẻ hết cả. Thời buổi khó khăn giặc giã nên những vụ mùa người ta chẳng nạp đủ số, thôi thì cũng châm chước đi cho bà con họ nhờ. Trời, Đất này biết ai còn ai mất mà tính chuyện thiệt hơn, có phải không anh, anh nghĩ bao lâu nữa thì có thể yên giặc được?”

Huỳnh gật đầu tán thành: “Bác nghĩ vậy là phải lắm. Có lẽ chuyện giặc giã này không lâu đâu thưa bác; vả chăng khi chiến tranh chấm dứt nước mình độc lập rồi, thì sẽ có những phương pháp canh tân xứ sở, công việc đồng áng sẽ được cải tiến giản tiện hơn, đời sống sẽ thanh bình, chủ quyền người Pháp không còn đè nặng lên số phận chúng ta nữa, xin bác hãy tin rằng mọi khó khăn sẽ qua mau.”

Một lần nữa Huỳnh lại ngừng lại vì buồn cười thấy mình đã nói như một cán bộ tuyên truyền, nhưng chàng cũng yên tâm thấy bà Thị có vẻ tin tưởng một cách nghiêm trang vô cùng.

Hai hôm sau khi đưa Huỳnh về gởi gắm ở nhà bà Thị, Trần phải trở lại với công việc của chàng, chàng phải trở lên núi và hẹn sẽ trở lại rất chóng. Trong thời gian này, thỉnh thoảng các bạn hữu nghe tin Huỳnh bị thương tìm đến thăm, do đó anh được biết những tin tức bên ngoài.

Chiến dịch Đông Xuân đã hạ màn, kháng chiến đã thu được những thắng lợi đáng kể, tinh thần bộ đội cũng như của dân chúng lên rất cao, các đơn vị được lệnh rút về những khu an toàn để chấn chỉnh và học tập chuẩn bị cho những chiến dịch sắp tới.

Người ta áp dẫn về từng đoàn tù binh Pháp, người lính kháng chiến Việt Nam đi bên cạnh tù binh Pháp trông như người tí hon đi bên cạnh ông khổng lồ; ông khổng lồ hồng hào khỏe mạnh no đủ, còn người tí hon gầy guộc xanh xao mét máu thiếu ăn thiếu uống, vậy mà trong một kích quang nào đó của lịch sử, người tí hon đã chế ngự được ông khổng lồ phải cúi đầu đi theo mệnh lệnh của mình.

Người ta kể chuyện trong một trận đánh dài cả ngày đêm ở một vùng đầm lầy, quân kháng chiến bắt được một sĩ quan cao cấp của địch, khi bị bắt tên sĩ quan này rất hung hăng mạt sát quân kháng chiến không tiếc lời và tỏ vẻ khinh bỉ không thèm trả lời những câu hỏi của họ. Vì trận chiến đang tiếp diễn quá gần nên người ta giao viên sĩ quan địch cho một người lính giải về bộ chỉ huy ở cách một ngày đường đi xuyên qua một khu rừng nhỏ. Người lính Việt vẻ người lam lũ cực khổ, áo quần xốc xếch, tồi tàn. Viên tù binh sĩ quan địch lặng yên để người lính giải đi, trên đường đi thỉnh thoảng viên sĩ quan tù binh hỏi người lính một câu, người lính mỉm cười hiền từ lắc đầu tỏ vẻ không hiểu, ra dấu bảo hãy tiếp tục đi. Quá trưa, người lính ra hiệu cho viên sĩ quan tù binh dừng lại để ăn trưa, họ ngồi ở hai gốc cây đối diện nhau, người lính lấy trong bọc ra một nắm cơm gạo đỏ được vắt lại thật cứng, và một gói nhỏ muối vừng. Anh bẻ đôi cho người tù binh một nửa, viên sĩ quan tù binh nhận lấy nửa vắt cơm cho vào miệng nhai ngon lành mặc dầu miếng cơm nhạt nhẽo và muối vừng thì mặn chát khó nuốt trôi. Y nhìn người lính mỉm cười, tỏ dấu thân thiện. Người lính cũng cười lại dễ dãi. Y rút trong túi ra một cái đồng hồ quả quýt bằng vàng đưa cao lên cho người lính thấy, y cầm chiếc giây cũng bằng vàng đu đưa chiếc đồng hồ quý giá xinh đẹp lấp lánh dưới ánh nắng, y ra hiệu hỏi người lính có thích không, người lính cười gật đầu, nét mặt y bỗng rạng rỡ, y vội rút cái ví sau túi quần ra, y lôi ra một xấp bạc dầy cộm, y giơ lên cùng với chiếc đồng hồ ra hiệu cho người lính rằng của anh ta đấy, nếu anh muốn. Người lính cười thông cảm, ra dấu bảo người tù binh hãy ăn cho hết vắt cơm đi đã. Viên sĩ quan tù binh vui vẻ nghe theo, y mang để chiếc đồng hồ vàng và xấp bạc trước mặt người lính, rồi tiếp tục cầm miếng cơm đưa lên miệng nhai lòng đầy hy vọng. Ăn xong, người lính rót nước trong chiếc bi-đông mang theo bên người cho người tù binh uống, xong anh tự rót cho mình uống. Đoạn, anh đứng dậy, cúi nhặt chiếc đồng hồ và xấp bạc, anh quấn hai cái lại với nhau bằng chiếc dây vàng của chiếc đồng hồ. Anh nhìn người tù binh, khẽ hất hàm ra hiệu, rồi bằng một cử chỉ thật nhanh và bất ngờ anh tung hai vật đó về phía viên sĩ quan địch, với phản ứng tự nhiên y đưa tay lên đón bắt, vẻ mặt ngơ ngác không hiểu. Người lính vẻ mặt nghiêm trang, hất mũi súng về phía trước, ra hiệu bảo y đi. Viên sĩ quan tù binh chợt hiểu, y cúi gầm mặt, thất thểu bước đi theo mệnh lệnh của người lính Việt, y không còn dám coi thường những con người nhỏ bé nghèo nàn này nữa. Ở họ, có một hào quang rực rỡ gấp triệu lần chiếc đồng hồ quý giá của y. Từ khi y đến xứ sở này, lần đầu tiên hôm nay y có ý tưởng tự hào đã được đối đầu với một kẻ địch như vậy.

Câu chuyện xoay quanh về thời cuộc như thế trong buổi chiều tháng tư năm 1950 trong vườn nhà bà Thị.

Huỳnh nằm trên chiếc ghế dựa đặt ngoài vườn, dưới những tàng cây xanh tốt, những chùm nhãn được người ta bọc kín trong những bẹ cau, đong đưa như những cái đầu trong những ngày hội giả trang. Một số bạn hữu ngồi rải rác quanh anh, vết thương của anh đã rất khả quan, anh đang trong thời kỳ chờ đợi bình phục; những người đến thăm anh chiều nay có Lương, người bạn văn của anh; Lương ở làng Đại, bên kia sông về miền dưới, đã có vợ con. Trước kháng chiến Lương đã đậu tú tài, xong anh bỏ về làng cất một cái chòi ngoài bờ lác nuôi vịt, trong khi các bạn đồng khoa với anh mãi lặn lội với công danh, anh về làng ở lì trên chòi nuôi vịt nghiên cứu một số sách vở tư tưởng Đông Tây, và biên khảo một số khảo luận về triết học. Kháng chiến bùng nổ, trước sự lạnh nhạt của lớp người lãnh đạo kháng chiến địa phương, người ta kết luận một cách giản dị rằng một người trí thức, một điền chủ trẻ tuổi không thể thích hợp với cuộc sống đấu tranh gian khổ được. Không để tâm đến vẻ miệt thị của những người có uy quyền kháng chiến địa phương, Lương vẫn ở lại quê làng, nhận một trách nhiệm nhỏ nhoi là trông coi trường tiểu học của xã. Lương đặt hết tâm hồn vào việc dạy dỗ như một thầy giáo làng tận tâm nhất, anh hiền lành cần mẫn, không bận tâm đến chính trị. Anh không trở lại thành phố là vì nơi đó còn có chủ quyền của người Pháp, hiện đang là kẻ thù cướp nước của dân tộc anh, anh ở lại miền kháng chiến là để được thấy mình thênh thang trên quê hương, như trước kia anh đã từng thênh thang không chịu bận bịu với lợi danh, vui thú làm một người chăn vịt.

Ngoài Lương ra còn có Hoàng, Bửu, Hồ, Phong, những người này ở cùng đơn vị với Huỳnh, họ vừa rời bỏ ghế nhà trường, bỏ thành phố Huế thơ mộng và bình yên của họ để gia nhập cuộc sống gian nan lửa đạn này. Họ còn quá trẻ, tuổi chừng mười tám hai mươi. Chiều nay họ lãnh phận sự đến thôn này gánh số gạo dự trữ ở đây về cho cơ quan, nhân đó họ tạt vào đây thăm Huỳnh, kể cho anh nghe tin tức cơ quan, những câu chuyện về chiến dịch. Họ đặt những gánh gạo trước hàng ba, ra sau vườn với Huỳnh. Ở đơn vị, họ chuyên về những công tác nghiên cứu huấn luyện và văn nghệ. Trong những đêm liên hoan trước ngày xuất quân, để kích động tinh thần bộ đội, họ hợp lại thành ban nhạc bộ bốn rất xôm trò. Tuy nhiên hàng ngày người ta vẫn giao cho họ đủ mọi việc nặng nhọc, đi gánh gạo, đi vác đạn, làm những công việc tạp dịch như những lao công. Người ta nói cho họ biết rằng ngoài nhiệm vụ chống Pháp họ còn phải học tập làm những công tác lao công để có thể hòa mình với giai cấp nông dân vì xã hội ngày mai sẽ được lãnh đạo bởi giai cấp nông dân. Hoàng, Bửu, Hồ, Phong còn rất trẻ, dễ vui đời, họ rời bỏ gia đình êm ấm của họ để ra đi với lòng hiếu đời mãnh liệt, họ không cần biết những cách nói đó mang một ý nghĩa thực tiễn nào trong đời sống. Họ đã đến đây và họ vui lòng làm tất cả những gì người ta bảo họ làm.

Vậy, cho nên chiều nay những thư sinh mặt trắng đó sẽ gánh gạo qua đây và ghé lại ngồi trong khu vườn này với Huỳnh và Lương.

Người lão bộc từ hiên trước đi ra sau, ngang qua bọn họ, lão hếch mũi đánh hơi bốn phía, mặt mũi nhăn nhó:

– Quái lạ, không biết mùi phân người ở đâu mà thối quá, cả nhà đều thối, bà bảo tôi đi tìm xem thối ở đâu mà chả thấy gì hết.

Cả bọn bốn người Hoàng, Bửu, Hồ, Phong, nhìn nhau tinh quái, đoạn cười ầm cả lên, Hoàng nín cười gọi lão bộc:

– Không phải phân người đâu bác ơi, mùi hôi thối là từ nơi mấy gánh gạo của tụi cháu để trước nhà xông ra đó. Chả là lúa người ta phải đem chôn xuống đất sợ giặc đi lùng đốt phá hay bắt dân khuân vác mang đi cho chăng. Lúa chôn lâu ngày bị ẩm, đào lên nó có mùi nặng nề như vậy đó, xay ra thành gạo nó bị bở nát, nấu ra cơm nó cứ nhoèn nhoẹt lạt nhách, thế mà tụi cháu ăn gạo đó tháng này sang tháng khác đó, bác ạ.

Người tớ già lắc đầu: “Cầm hèn chi tôi đi tìm mãi chẳng thấy gì cả, đời thủa nhà ai đến bạc đầu tôi mới thấy gạo mà hôi thối như phân người lần này là một đấy, tội nghiệp, như vậy thì ăn làm sao, nấu ra cơm cũng thối như vậy rồi làm sao ăn?”

– Cũng quen đi bác ạ, được cái nấu ra khi còn nóng thì nó thối kinh khủng, nhưng để nguội cho bay hơi đi thì cũng nuốt được vậy.

Hồ xen vào: “Ăn riết cũng thấy ngon bác ạ, bây giờ miệng lưỡi chúng cháu quen rồi, chừ ai cho ăn gạo tám thơm, gạo nhe vàng cũng không biết ăn nữa.”

Cả bọn cười vang, Huỳnh cũng cười theo, một nét rạng rỡ vui tươi trên khuôn mặt xanh lướt của anh. Người tớ già ngồi xổm trên hàng hiên, đưa tay lấy điếu thuốc lá giắt trên mang tai xuống, vê lại:

– Thời buổi chi khổ thiệt, cả đời tui theo hầu ông Thị đi khắp cả, có lần đi vào trong xứ Mán xứ Mường mà chưa khi mô phải ăn thứ gì hôi thối cả. Tội cho mấy cậu thiệt.

Lão lại lắc đầu, quẹt diêm châm điếu thuốc.

Bửu trẻ nhất trong bọn, làm bộ xịu mặt:

– Tội thiệt đó bác ạ, hôm nọ mẹ cháu ở trong Huế ra thăm cháu, bà bới ra nào là bồ câu tiềm hột sen, nào bánh nậm chả tôm, nào gà quay nào bánh hạnh nhân, bà bày la liệt, tụi cháu mấy thằng cứ đứng nhìn ngẩn tò te, mẹ cháu thúc giục bảo ăn đi, tụi cháu lắc đầu đi thụt lùi…

Lão bộc trợn mắt: “Sao vậy?”

– Ấy mẹ cháu cũng ngạc nhiên hỏi tụi cháu làm sao vậy, tụi cháu phải nói thiệt là tụi cháu quên mất, lâu ngày quá không nhớ phải ăn mấy thứ đó như thế nào, nên không dám ăn sợ đau bụng. Mẹ cháu mới hỏi thế thì các con ăn được những gì, cháu bèn kể ra, cơm gạo thối này, muối vừng thật mặn này, nước ruốc này, thế là mẹ cháu ôm mặt khóc ròng, chả hiểu tại sao cả.

Cả bọn lại phá lên cười, ông lão trách móc:

– Thế mà cũng cười được, các cậu thật vô tình, đó là bà mẹ cậu thương các cậu ăn uống cực khổ quá nên bà khóc đấy, có thế mà không hiểu lại cứ vui cười, rõ thật khổ.

Tất cả lại cười to hơn, ông lão cũng dễ dãi cười theo, lão đứng dậy: “Bà có nấu bắp ở trong nhà, bắp non vừa hái sau nương, bà dặn coi chín thì đem mời các cậu xơi, để tôi đi xem đã.”

Ông lão dợm bước đi, bỗng ngập ngừng dừng lại, phân vân nhìn bọn Hoàng:

– Thế, thế các cậu có xơi bắp được không?

Hoàng vẫy tay ra hiệu cho cả bọn không được cười nhiều, chàng cố nín, làm mặt nghiêm trang, trả lời:

– Chúng cháu chưa chắc lắm, nhưng xin bác cứ mang ra. Chúng cháu sẽ cố gắng làm vui lòng bà nhà và bác.

Lão bộc vừa đi khuất sau tường nhà là cả bọn cười ồn ào, sảng khoái.

Huỳnh lắc đầu nhìn Lương:

– Có mấy ông tướng này trong cơ quan cũng đỡ ngột ngạt lắm anh ạ, cái gì mấy tướng ấy cũng thấy vui được, đùa cả ngày, mình chỉ mong được như thế, mà không được, đành vậy chứ sao.

Lương vui vẻ nhìn bọn Hoàng:

– Chủ nhật các cậu gắng qua nhà tôi chơi, có lứa gà tơ tốt lắm, nếu các cậu thấy cần phải tập lại thói quen, còn không thì nhà cũng có khoai lang trắng ngon lắm, lại có cả nước ruốc nữa.

Cả bọn nhao nhao:

– Thôi, thôi, anh cứ cho tụi em ăn gà đi cũng được, còn nước ruốc anh để bao giờ tụi em chết thì nấu cúng cho tụi em, như vậy linh hồn tụi em sẽ linh thiêng hơn.

– Nó nói phét đó anh, làm gì có linh hồn mà linh thiêng với chả linh thiêng, nhất là cái mặt thịt của nó nữa.

– Còn cái mặt sữa của mày thì sau chết linh thiêng lắm chắc.

– Mày duy tâm rồi đấy nhé, tối nay tao họp kiểm thảo đừng có cãi, học tập tư tưởng Mác-Lê lão Trương có dạy chúng ta rằng thì là không có linh hồn, không có thánh thần gì ráo trọi, rằng chủ nghĩa chúng ta là duy vật, nói nôm na là con người chúng ta ví như cái đèn dầu, thân xác là cái đèn, tinh thần là ngọn lửa, dầu là món ăn, hễ dầu cạn thì ngọn lửa cũng tắt, do đó sau đời sống không còn có gì nữa, đứa nào tin tưởng có linh hồn là đứa ấy theo chủ nghĩa duy tâm, là chủ nghĩa của bọn phong kiến đế quốc, bọn thầy tu phản động, là lũ ăn hại đái nát, là gì nữa nhỉ, là Việt gian phản quốc, là…

Hồ năn nỉ Bửu:

– Thôi cho tao xin, mày khép cái mồm mày lại cho tao nhờ, khổ lỗ tai quá, bắp sắp mang ra rồi đó kìa, hãy để cái mồm cho sạch sẽ mà ăn bắp chứ.

Bửu vẫn thao thao nói, mặt mũi tỉnh bơ:

– Duy vật biện chứng cho ta thấy rằng chỉ có thân xác là đáng kể, ngoài ra là đồ rác rưới, là đồ bỏ đi, đồ không ra gì vân vân, do đó chúng ta phải có bổn phận giữ gìn thân xác để phục vụ cho nhân dân cho kháng chiến, cho Tổ quốc. Đảng ta đã dạy thế, lão Trương thay mặt Đảng dạy dỗ anh em ta phải nghe theo như thế. Ví dụ như bây giờ chúng ta ăn bắp, không phải là chúng ta ăn bắp cho chúng ta, đó là cách nói của tụi ngu si tham ăn tục uống như thằng Hồ chẳng hạn, mà là chúng ta sắp phải làm một nhiệm vụ thiêng liêng để phục vụ cho thân xác chúng ta, không phải là chúng ta ăn bắp cho thích khẩu chúng ta mà chúng ta phải đổ dầu cho cái đèn, cho nó khỏi cạn, vì dầu cạn thì ngọn lửa tắt, ngọn lửa tắt tức là chúng ta chết, chúng ta chết thì lấy ai phục vụ cho nhân dân, cho vô sản, lấy ai gánh gạo, vác đồ, lấy ai lo cho Tổ quốc. Vì thế cho nên chốc nữa đây chúng ta phải buộc lòng ăn bắp, chúng ta phải hy sinh vậy, phải nhai những hạt bắp non mềm như sữa, phải chịu khó hít cái chất nước béo bùi trong cái cùi của nó trôi êm đềm qua cuống họng để làm tròn bổn phận của chúng ta đối với thân xác, tức là đối với nhân dân, đối với thế giới vô sản cộng đồng vĩ đại ngày mai, còn về chuyện linh hồn thì…

Lão bộc mang rổ bắp ra, khói bốc lên nghi ngút, mùi thơm nồng ngọt tỏa ra trong vườn chiều, Phong càu nhàu:

– Cái thằng nói dai như giẻ rách, mày còn chán thì giờ để nghe lão Trương dạy mày, cái thằng mặt chuột ấy, hôm nay hứng gì mà mày đọc kỹ thế.

– Ôi nhân dân nuôi ta ngày hai bữa cơm gạo thối chỉ để dạy cho ta thấm nhuần lý thuyết của chủ nghĩa Mác-xít mà thôi, nếu ta không thuộc nằm lòng thì chẳng hóa ra ta bất nghĩa lắm sao!

Mọi người cười vang thích thú.

Khi bọn Hoàng ra về, họ mang theo không khí vui vẻ nhộn nhịp, tiếng cười nói của họ xa dần để lại Lương và Huỳnh ngồi yên lặng trong bóng chiều. Huỳnh ngả đầu trên lưng ghế dựa, nhắm mắt lại, buổi chiều thật đầy đủ và êm ái. Trong đời anh rất hiếm khi anh được sống những giây phút như thế này. Anh nghe mùi khói nấu cơm chiều lan tỏa trong không gian, vị nồng ngọt của mùi khói rơm rạ thấm vào cổ họng. Có tiếng đàn bà hò ru con vời vợi bên hàng xóm cách khoảng vườn bên kia, tiếng trâu nghé ngọ lẫn tiếng người gọi nhau ơi ới vang vọng từ cánh đồng xa, tiếng gà eo éo ở thôn trên, tất cả âm thanh uể oải, quyến rũ của chiều quê đi dần vào tâm hồn anh, anh nhắm mắt, thấy rõ hơn bao giờ hết bên mình có Lương, người bạn có một tấm lòng rất quý báu, đơn sơ, trung hậu, buổi chiều đẹp và người bạn hiền hợp lại thành một niềm an ủi vuốt ve như khuôn mặt của mẹ hiền cúi xuống làm lòng anh rưng rưng. Có tiếng Lương nói:

– Bọn Hoàng trẻ quá, nhưng họ không vô tư đâu.

Huỳnh gật đầu:

– Làm sao mà vô tư cho được với thực trạng này; nhưng họ vẫn vui được, đó là điều mới đáng kể.




Chương 5

Trong thời kỳ này khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam từ Bắc chí Nam, ngay trên những đô thị mà chủ quyền còn thuộc về người Pháp, lòng người đều hướng về những lớp người đi kháng chiến, gia đình nào cũng có người hoặc trai hoặc gái ra đi.

Riêng vùng đất dọc theo dải núi Trường Sơn là cái lưng eo của nước Việt Nam này cũng vậy, từ thành thị cho đến thôn quê người ta có danh từ “ra khu” hoặc “trên đó” để chỉ nơi chốn của những người thân yêu của họ đã rời bỏ họ mà ra đi.

Đối với những người mẹ, những người vợ, những người yêu thì nơi chốn đó đã trở thành đất thánh mà những cuộc viếng thăm như những chuyến hành hương, đầy đủ lòng sùng mộ bát ngát yêu thương.

Đêm đêm những đoàn quân âm thầm chuyển động xuyên qua những cánh đồng lầy đầy đỉa đói, hay qua những khu rừng thú dữ nổi tiếng, họ vẫn đi mãi, những nét mặt trẻ trung đầy tin tưởng bước đi cho giấc mơ vàng son thấy ở cuối đường, cho một tương lai chào đón, ngày chiến thắng vẻ vang của một dân tộc nhược tiểu, ngày ngoại nhân không còn làm mưa làm gió trên đất nước của họ nữa.

Hiện tại họ chịu đựng một cách anh dũng những gian lao nguy hiểm. những bệnh phù thủng vì thiếu ăn thiếu uống, những cơn sốt rét rút tỉa dần sinh lực của họ, những vết thương không đủ phương tiện thuốc men cứu chữa. Áo quần của họ rách nát vì lăn lóc đường trường, mùa hạ nắng rát, mùa đông không đủ ấm, họ không nề hà những nỗi khổ cực ấy, họ cho đó là chuyện tất nhiên, ai cũng hiểu rằng giá của sự vinh quang rất đắt, cho nên người ta không phàn nàn gì cả.

Mọi tầng lớp, kẻ sang người hèn, người thành thị hoặc dân quê, người trí thức cho đến kẻ thất học đều vui lòng có mặt từ đầu cuộc chiến. Tất cả người Việt Nam, cả những người tham dự trực tiếp hay gián tiếp, hay không tham dự gì cả, đều có quyền hãnh diện vì cuộc kháng chiến này. Tổ quốc không của riêng ai cả. Ngàn năm trước, ngàn năm sau không ai có thể chối bỏ hay tước đoạt tình yêu quê hương với những đau khổ hay vinh quang của nó.

Người ta có thể nói khí thế của những thời bình Nguyên phạt Tống đã trỗi dậy mãnh liệt trong tâm can toàn dân Việt lúc bấy giờ. Nếu mục đích chỉ giản dị là đánh đuổi ngoại bang giành lại chủ quyền cho dân tộc thì với thế nước này lòng dân ấy không bao lâu cuộc chiến sẽ kết thúc và đời sống sẽ trở lại với thời thanh bình tươi đẹp thuở xưa.

Nhưng song song với những khó khăn gian khổ của chiến tranh mà mọi người đều tự hào đã khắc phục được dễ dàng, ai nấy đều lần lượt thấy mình đang đứng trước một thành lũy trùng điệp những chướng ngại vô hình làm tê cóng những tâm hồn sôi bỏng nhất, làm đông đặc mọi ý chí hướng về tương lai.

Đó là sự va chạm về ý thức giữa những người Cộng sản và những người không Cộng sản, mở ra đủ mọi vấn đề tư tưởng và hành động quyết định sự sống còn của đất nước.

Cuộc khởi nghĩa mùa thu năm 1945, trong cái vận may hay rủi nào đó của nước Việt Nam, đảng Cộng sản cuối cùng đã nắm được chính quyền, lãnh tụ của đảng là ông Nguyễn-Ái-Quốc đã trở thành Hồ-Chí-Minh, chủ tịch của chế độ dân chủ cộng hòa đầu tiên trên xứ sở này.

Dù sao đi nữa, đảng Cộng sản đã có cái may mắn được thừa hưởng công lao xương máu của những phong trào chống Pháp, từ phong trào Cần Vương đến Đông

Kinh Nghĩa Thục, từ phong trào Duy Tân đến Quốc Dân Đảng trong suốt tám mươi năm đau khổ của dân tộc Việt Nam.

Cho đến năm 1947, khi tiếng súng mở màn cuộc chiến tranh với người Pháp bùng nổ trên khắp đất nước, thì đảng Cộng sản đã nghiễm nhiên đóng vai trò lãnh đạo cuộc kháng chiến.

Đối với những người đi kháng chiến, hầu hết họ đi không vì tham vọng cá nhân, không bận tâm đến chính trị, không có ý thức gì về đảng phái với những tranh chấp thủ đoạn xấu xa dơ bẩn của nó. Trong những thời kỳ kháng chiến còn trong vòng bí mật, người ta dành những tình cảm giống nhau đối với người Quốc Dân Đảng cũng như người Cộng sản, người ta ngưỡng mộ những người này vì sứ mạng nguy nan của họ, tựu trung người ta yêu mến và tôn sùng tất cả những ai xả thân cho Tổ quốc.

Do đó, người ta không phiền hà gì khi đến đây bỗng nhiên thấy mình phải ở dưới sự lãnh đạo của người Cộng sản; có những người hăng say gia nhập đảng, coi đó như một vinh dự lớn lao để được sự hỗ trợ cho nhiệm vụ cứu nước của mình. Những người khác và là đa số nghĩ rằng lòng yêu nước đã khiến họ có mặt nơi đây, điều đó biện minh cho tất cả, vấn đề đảng phái không thích hợp với họ, vả chăng quê hương là của tất cả mọi người, tuy nhiên họ vẫn vui lòng chấp nhận sự điều khiển của các cấp lãnh đạo hầu hết là đảng viên Cộng sản.

Nhưng dần dần mọi sự không trôi chảy xuôi giòng như người ta tưởng, khi chính quyền kháng chiến đã có cơ sở ở khắp mọi nơi, khi bộ đội Vệ Quốc đoàn đã lớn mạnh, đã đủ sức mở những chiến dịch làm cho địch quân kinh hồn bạt vía, khi mà mọi người đều có thể thấy ngày chiến thắng không còn bao xa nữa, thì trong đời sống kháng chiến đã phân chia rõ rệt hai giai cấp, giai cấp đảng viên thống trị và giai cấp quần chúng bị trị.

Lịch sử sẽ lãnh phần xét đoán về những sự kiện này, đối với lớp người mà Tổ quốc chỉ là môi trường của tham vọng, đó là điểm đen của lịch sử, đó là đêm tối trùm lấp cả nguồn ánh sáng lẽ ra phải muôn phần rực rỡ uy nghi. Nguồn ánh sáng đó là tấm lòng của hàng triệu người Việt Nam đã hiện diện trong những giây phút này với niềm thanh thản vô tư, là cả một thế hệ đã tưởng được ôm tròn lý tưởng cao cả nhất và cũng giản dị nhất là được sống chết cho quê hương. Người kháng chiến ra đi chỉ mơ ước niềm vui của một dân tộc được phục hồi danh dự. Riêng cho bản thân họ, họ không nghĩ đến những ân sủng hiển hách nào, nỗi vui của họ là niềm rung động thầm lặng của người Á đông; hoài vọng thiết tha một ngày thanh bình được trở về trên quê hương yêu dấu, ở đó có mẹ già, có vợ dại, con thơ và tiếp tục sống cuộc đời êm ả trước kia sau lũy tre xanh. Có một bài hát đương thời rất được yêu chuộng nói lên ước vọng đơn sơ của người Việt Nam đi kháng chiến chống thực dân, hình ảnh ngày trở về của họ sau chiến tranh:

“Ngày trở về, anh bước lê trên quãng đường đê đến bên lũy tre, nắng vàng hoe, vườn dâu trước hè chờ đón người về. Mẹ lần mò ra trước sân, nắm áo người xưa ngỡ trong giấc mơ, tiếc rằng ta đôi mắt đã lòa vì quá đợi chờ…”

Không có kèn trống rộn ràng, không có huy chương sáng chói, không có đón rước tưng bừng. Chỉ có một đường đê, một lũy tre, một vườn dâu, một mẹ già đã mù lòa vì mòn mỏi trông con.

Đó là ngày về của người kháng chiến Việt Nam, một thoáng hiu hắt ngậm ngùi, hình ảnh đơn sơ như nét chấm phá của bức tranh thủy mạc, lòng người Việt vẫn ôn nhu thâm trầm từ ngàn xưa cho đến ngàn sau.

Do đó, họ không sá chi những chuyện hơn thua giữa những người cùng chiến tuyến, cùng có một kẻ thù chung.

Do đó, họ xiết bao kinh ngạc và cảm thấy bị hụt hẫng khi thấy chính quyền kháng chiến do người Cộng sản lãnh đạo có thái độ lãnh đạm loại bỏ hay hững hờ với sự cộng tác nhiệt thành của lớp người bị họ phân loại là thành phần tiểu tư sản, địa chủ hoặc phú nông, đó là lớp người đông đảo đã góp khả năng đáng kể về tinh thần lẫn vật chất để đưa cuộc kháng chiến đến mức trưởng thành như ngày nay.

Vì vậy sự đè nặng của giai cấp đảng viên trên giai cấp quần chúng ngày một ngột ngạt khó thở. Nhưng người Việt vốn đã nhẫn nại, trong những bước gieo neo này họ lại càng thêm nhẫn nại. Người ta quay lưng với họ, họ thì không thể quay lưng với Tổ quốc được.

Ngày nào gót giày đinh của quân Pháp còn giày xéo qua xóm làng của họ, đốt phá nhà cửa, bắn giết người vô tội, hãm hiếp đàn bà con gái của họ, thì chỗ của họ chỉ có thể là ở góc rừng này, bụi chuối kia, đầm lầy nọ, cho dù hiện giờ họ còn phải còng lưng mang thêm gánh nặng nhục nhằn của sự bạc đãi, hắt hủi, rẻ rúng, bỏ rơi một cách phũ phàng.

Tâm trạng này được thể hiện trong hai câu thơ của Huỳnh:

“Con chim nào dại bay về tổ,
Khi cả rừng xanh loạn chiến trường…”

Tâm trạng đó tạo nên sự điềm tĩnh của Huỳnh khi anh bị thương, bị thất lạc trong trận đánh đồn làng Hạ, cấp chỉ huy của anh đã bỏ rơi không thèm tìm kiếm lại còn quyết đoán là anh đã đi theo giặc. Huỳnh đã nói với Trần:

– Chuyện đó tao không lạ, mày đừng gây sự với nó làm chi, nó là đảng viên, cũng như mày vậy, tao chỉ là một kẻ ở ngoài, một quần chúng, không nên rắc rối với nó vì tao, yên lặng là hơn hết.

Trần là đảng viên, Huỳnh là một quần chúng, điều lạ lùng là họ trở thành bạn thân, họ gần gũi nhau trước hết trong địa hạt văn nghệ mà hai người đều là thi sĩ, họ mến phục thi văn của nhau, giữa họ có những điểm tương đồng về tâm hồn, về đời sống, vì vậy mặc những dị biệt chắn ngang đời sống của họ, họ vẫn yêu mến và cảm phục lẫn nhau vô cùng.

Hơn nửa tháng sau ngày đưa Huỳnh đến gởi gắm ở nhà bà Thị, Trần mới trở lại thăm Huỳnh.

Lúc đó vào khoảng tám giờ tối, Huỳnh đang nằm xem bộ Đông Chu Liệt Quốc tìm được trong tủ sách của gia đình này, Trần bước vào như một cơn gió.

– Tao gắng thu xếp để về với mày ít nhất là một ngày, vậy mà sáng mai tao phải đi thật sớm. Vết thương mày ra sao?

Huỳnh ngồi dậy, ánh mắt anh tỏ rõ sự hài lòng được trông thấy bạn:

– Tao sắp trở về đơn vị rồi mày ạ, xem đây. Huỳnh vạch áo để lộ cho Trần thấy những vết thương đã đâm da non.

Trần lắc đầu cương quyết:

– Mày chưa đi đâu được, mày đã mất rất nhiều máu, còn lâu lắm mày mới lại sức nổi, tao đã dàn xếp với cơ quan cho mày rồi, mày phải tịnh dưỡng ít ra là hai tháng.

– Không cần thiết như thế đâu, tao cần phải trở lại công việc, những ngày phải nằm tao cảm thấy tù hãm! Còn mày, mày đã làm gì lâu nay? Có việc gì gấp mà mai phải đi sớm vậy?

Trần lôi trong xắc ra một lô những hộp thuốc bổ:

– Tao gởi chị Hiếu đi Huế mua cho mày mấy hộp thuốc bổ máu với lại bổ đủ thứ nữa đây, chị Hiếu gởi cho mày bịch thuốc lá, mấy hộp sữa, khăn mặt, với lại bàn chải, thuốc đánh răng. Chả là mấy lúc mày lên trên tao, chị ấy thấy mày ở bẩn

quá mà gì, còn đây là gói kẹo chanh Quý nó gởi cho mày, mẹ nó vừa mới lên thăm mang lên cho nó.

Huỳnh sực nhớ: “Quý đâu, Quý ở đâu, sao nó không đi với mày?”

– Nó buồn lắm vì không được đi theo tao về thăm mày, nó phải ở lại cơ quan, lần này tao có đi công tác đâu mà nó đi theo. – Trần mỉm cười chua chát – Mai sớm tao phải về phân khu, có lệnh ở Mặt trận bộ gọi tao về vì Đảng thấy có một cái gì trục trặc trong bộ óc tao cần phải chỉnh đốn lại, cái đó đang ở trong này đây này.

Trần chĩa ngón tay trỏ làm một cử chỉ ngoáy vào thái dương, nhìn bạn, đôi mắt sáng ngời một vẻ kỳ quái. Lúc bấy giờ Huỳnh mới kịp nhìn kỹ nét mặt của Trần. Mới có hơn nửa tháng mà gặp lại trông Trần gầy tóp hẳn đi, lưỡng quyền nhô lên trông thấy, da mặt Trần vốn trắng trẻo bây giờ xanh xao và hơi tái, miệng chàng thường ngày tươi, môi đỏ và mướt như môi con gái giờ đây nhợt nhạt phảng phất một nét chua cay nơi khoé miệng. Đôi mắt đen láy của chàng thường rất trong sáng vui vẻ dưới ánh nến, đêm nay ánh lên một tia lửa khác thường, như bị nung nấu bởi một ý nghĩ gì thật ghê gớm, thật khích động.

Trần đứng trước mặt Huỳnh, thân hình gầy và cao lớn thẳng tắp, đôi mắt quắc lên nhìn Huỳnh chằm chặp.

Huỳnh điềm đạm đưa tay kéo Trần ngồi xuống:

– Có chuyện gì đó? Hãy ngồi xuống đây đã; được rồi, như thế đó; khoan, hãy gượm, còn cả đêm dài để mày kể cho tao nghe. Tao nghĩ mày chưa ăn uống gì cả, trông mặt mũi bơ phờ thế kia, mày lại cũng chưa chào hỏi bác Thị gì cả. Chúng mình đi xuống nhà ngang cho mày chào bác và kiếm cái gì cho mày ăn. Bác ấy nhắc mày luôn đấy, bác thật tốt, tao chóng lành mạnh là nhờ bác ấy, à có tiếng guốc của bác ấy đi lên, chắc bác ấy nghe tiếng mày rồi, đấy tao nói có sai đâu.

Thưa bác, Trần nó mới về đó bác ạ, gớm trông ông ấy mệt dài người ra chắc ông ấy đói lắm đó bác.

Bà Thị tỏ vẻ mừng vui, bà hỏi han Trần:

– Con đi đường yên ổn chứ? Nghỉ tí cho khỏe rồi bảo dọn cơm ăn, đường sá có dễ đi không con?

– Thưa cô cũng vậy thôi, con phải chờ chạng vạng tối mới đi được qua các đồn bót, nên mới đến nhà vào giờ này đấy chứ, vì sáng mai sáu giờ con đã phải đi cho đến trạm liên lạc.

Bà Thị than thở: “Chả biết đi làm nên vương nên tướng gì mà bao giờ cũng thấy vất vả, mới về ngồi chưa ấm chỗ đã nói chuyện đi, ông Thị nhà này cũng vậy, lâu lắm mới thoáng về, về đến nhà là y như rằng một chân bước vào, hai chân bước ra, rồi lại đi biền biệt.”

Trần đứng dậy đến soạn đồ trong xắc vừa nói:

– Con vừa gặp dượng hôm nọ bên tỉnh, dượng vẫn mạnh, có lẽ dượng cũng sắp về thăm nhà đấy. Con về thấy Huỳnh đã khá con mừng lắm. Cô lo cho nó quá như thế này đến khi lành mạnh nó cũng dông mất mặt, cả năm chưa chắc nó đã trở lại thăm cô được lấy một lần, thì cũng như dượng và cháu ấy thôi, đàn ông con trai chúng cháu bây giờ bạc bẽo như nhau cả cô ạ.

Chàng cầm một cái khăn tắm đi đến bên cô, ôm vài bà, giọng mơn trớn:

– Chỉ tội cho cô ngồi ở nhà mãi thương và lo cho những kẻ vô tích sự như chúng cháu mà thôi, cô nhỉ?

Bà Thị cố giấu cảm động, cười mắng yêu cháu:

– Thôi đừng nịnh, bây giờ con đi tắm đấy à?

– Vâng, con đi tắm một lát, người con đầy bụi, cô bảo sắp cơm để sẵn đấy cho con nhé.

Trần quay sang Huỳnh: “Tao đi tắm cái đã, chờ tao một tí, đừng ngủ quên, tao cần nói chuyện với mày đêm nay.” Huỳnh mỉm cười yên lặng. Trần xách khăn đi thẳng ra ngoài, bà Thị nói vói theo:

– Mới đi về mệt không nên tắm lâu con nhé, liệu phiên phiến mà vào ăn cơm.

Bà quay lại Huỳnh lắc đầu:

– Trong tất cả các cháu của tôi, nó là đứa có tình nhất đấy anh ạ, tôi thương nó nhất. Bà chị dâu của tôi là mẹ nó ở trong Huế cứ mỗi lần tôi vào là hỏi nó rồi khóc, chị ấy già yếu lắm rồi, không đi ra ngoài này mà thăm nó được, cụ cứ lo chết không thấy lại mặt nó. Tôi an ủi cụ mãi, bảo là có tôi trông chừng nó ở ngoài này, không sao đâu. Chị ấy cứ than thở không biết bây giờ con ra sao, có cực khổ lắm không, có đau ốm không, rằng có sao đi nữa thì cũng chỉ một mình, không thể có cụ một bên. Mà cũng thật vậy anh ạ, đó với đây ngó thì không xa mà trắc trở nhiều bề. E phải chờ đến khi nước nhà độc lập mọi người mới thấy được mặt nhau anh Huỳnh nhỉ?

Huỳnh khẽ gật đầu:

– Vâng, có lẽ rồi cũng phải vậy chứ sao thưa bác.

Bà Thị kể lể: “Anh chị tôi chỉ có nó là con trai, chị nó đã đi lấy chồng, cũng nên danh phận với người ta. Anh tôi mất lâu rồi, chị ấy xin mấy đứa cháu ngoại lớn về ở với chị cho vui nhà, cho đỡ vắng vẻ, anh tính, cả tòa nhà rộng mênh mông bà cụ vô ra có một mình, cụ ước ao cưới vợ cho con trai, để có cháu nội cho đầy nhà đầy sân, mà nó thì đi như vậy biết bao giờ về, ấy thế mà cụ đã lo chọn con dâu rồi đấy.”

Chợt nhớ ra, bà quay đi, vội vàng: “Ấy quên, tôi đi lo cơm cho nó chứ.”

Còn lại một mình, Huỳnh ngả người xuống giường, anh nghe tiếng giội nước ào ạt của Trần từ ngoài giếng, nhớ lại nét mặt xanh xao, giọng nói cay đắng của bạn khi nãy, có một cái gì như một cơn gió lạnh lướt qua, một điều gì bất ổn như tiếng giông nổi dậy xa xa sau giấc ngủ buổi chiều, khiến anh cảm thấy tâm trí bàng hoàng.

Cho đến bây giờ Trần đã được cuộc đời đãi ngộ xứng đáng, chàng đi vào đời sống kháng chiến này như một đứa con cưng, mọi cánh tay đều đưa ra chào đón nồng nhiệt, con đường chàng đi thênh thang, tuổi trẻ làm cho chàng dễ dàng vui sướng, nắng mưa dãi dầu gian lao nguy hiểm là men say của cuộc đời dậy lên mùi mật ong ngây ngất.

Những nơi chàng bước chân qua, tất cả mọi thứ, đời sống, con người, loài vật, côn trùng, cỏ cây, cho chí những sự việc nhỏ nhoi tầm thường nhất cũng gây cho Trần những khích động không lường được, tất cả mọi thứ dưới mắt Trần đều mang một sắc thái riêng biệt, lạ lùng, mới mẻ, đáng say mê.

Chàng gia nhập đảng Cộng sản với tất cả tấm lòng nhiệt thành đam mê lý tưởng, một lý tưởng chân xác vươn đến sự toàn bích của loài người. Lý tưởng đó mở ra cho chàng thấy một tương lai huy hoàng, ở đó con người không còn đói khổ, không còn những kiếp sống đọa đầy. Ở đó con người thảnh thơi cả tâm hồn lẫn thể xác, tự do như gió bay khắp đất trời, ở đó mọi người thương yêu nhau, tôn trọng lẫn nhau. Trí tưởng tượng phong phú của Trần với tâm hồn nghệ sĩ thoát thai từ đất trời của một kinh đô hoang tàn nếp cũ, vẫn còn đầy ắp trong hồn chàng, điệu ca Nam Ai não nuột trên giòng sông thắp nến nửa khuya, vẫn còn phảng phất trong hơi thu, bóng người xưa trên tòa thành cổ, mùi xạ hương xống áo giai nhân quấn quýt trong bóng rồng bay nếp hoàng bào của đấng quân vương thi sĩ.

Kinh thành Huế mà ở đó Trần đã được sinh ra và lớn lên đầy rẫy những truyền tích hoang đường lãng mạn kiêu sa, đầy những bóng ma vương giả, dĩ vãng vất vưởng trên đầu mỗi ngọn cây, mỗi bức tường xám sậm, trong những đền đài lăng miếu rêu phong.

Khi Trần ra đi chàng mang theo tất cả những hình ảnh đó, chàng ôm đồm một cách tham lam gắn chặt trong tim trong máu. Trong cuộc đuổi bắt tương lai hiện giờ, chàng những toan tính nối liền tình xưa, khơi thông nguồn lưu luyến tình sau, cũng bởi hồn chàng quá trẻ trung thuần khiết, tình yêu con người trên quê hương chàng sau trước khôn cùng. Tuy bề ngoài Huỳnh đối với bạn thật trầm tĩnh, lối cư xử mạnh mẽ cứng cỏi của tình bạn trai nhưng trong thâm tâm Huỳnh vẫn dành cho Trần một tình cảm nâng niu gìn giữ, Huỳnh muốn cho những ảo tưởng tuyệt vời của tuổi trẻ giữ cho bạn anh nghị lực cần thiết để vượt qua bước khó khăn này. Anh càng thương yêu lo lắng cho bạn nhiều hơn nữa khi anh nhìn lại tâm trạng rách nát của mình. Còn có gì nữa đâu, đến đây anh đã trắng tay rồi, nào chí bình sinh, nào tiền đồ dân tộc, giơ tay lên mà đếm, biết khóc cười chưa được ba mươi năm, cuộc sống này anh trót nhìn quá rõ, trót biết quá nhiều, biết để ê chề đau đớn, thấy mình vô duyên như một gái điếm về chiều. Anh còn có mặt nơi đây chỉ do chút lòng kiêu hãnh với chính mình, những cuộc xông pha nguy hiểm không còn mang ý nghĩa tốt đẹp của phụng sự, dâng hiến nữa, mà là một chứng tỏ với chính mình để thấy mình hiện hữu, để xoa dịu đau thương chất ngất.

Và còn có một tình yêu, một khuôn mặt đằm đằm ân sủng vẫn hiện về trong những giấc mơ như một loài hoa quý, loài hoa mang tên của nàng, loài hoa mang tên Lan. Lan đó, Lan từ thuở nào xa lắc, mới đó mà như đã ngàn năm, Lan mà đôi mắt mở rộng đăm đăm nhìn Huỳnh, đôi mắt dõi theo Huỳnh trong những năm tháng phiêu bồng, mải miết đi tìm những cái hư phù ảo ảnh, nước mắt nào xưa như những giọt sương mai, tưới lên tâm hồn dày dạn đắng cay này. Giờ đây, giữa cuộc đời đen bạc, giữa cơn sốt đêm trường chỉ còn vị mặn chát của nước mắt người yêu lần hẹn gặp cuối cùng. Gần hai năm nay Huỳnh không được tin tức gì về nàng nữa, chỉ nghe phong phanh nàng đã theo gia đình đi về miền Bắc xa xôi. Khoảng không gian vọng tưởng càng thêm rộng lớn mơ hồ, có lúc anh tưởng như đã quên mất nàng; thời gian trôi qua với những chán chường ghê tởm lũ mặt người giả nhân giả nghĩa chia chác quyền lợi đảng phái, cá nhân trên xác mỏi mòn của người mẹ quê hương, nỗi quằn quại đớn đau không lối thoát trước thực tại phũ phàng.

Giờ đây Huỳnh chỉ còn cưu mang một thân thế phù du đâm đầu vào lửa bỏng rát, thấy rõ hố sâu dưới chân mình ngàn vạn xác thiêu thân mà không thể nào lùi bước, còn mong gì gặp lại một đôi mắt, một khung trời. Dần dần hình ảnh nàng chỉ còn thoáng hiện trong những cơn mê héo úa của tâm hồn, chỉ còn đôi mắt chong chong phủ mấy tầng sương khói, chắp cho hồn anh đôi cánh mỏng manh, một thoáng quên đời. Anh đâm ra tin rằng Lan không hề có thật. Những ngày êm đềm xưa kia cũng không hề có thật.

Tất cả chỉ là giấc mơ. Những gì đẹp đẽ trong đời chỉ có thể có trong giấc mơ mà thôi.

Cả mẹ già mà ba năm nay anh bỏ quên trong nhà nhỏ ở khu xóm ngoại ô của một thành phố miền biển cũng vậy. Người mẹ suốt đời chiu chắt cho bầy con không hề biết sướng vui là gì.

Anh lớn lên mang thân thể trẻ trung rời bỏ căn nhà của mẹ, một mình đuổi theo những đám mây ngũ sắc cuối trời, đi qua những đoạn đường giông bão, cuộc đời cho anh vị đam mê hung hãn cũng như rứt đi của anh từng miếng tim gan, cho tới khi gót rỗ phong trần, những đêm mưa nằm ở góc rừng heo hút đưa tay lên vuốt mặt cày lõm nếp đau thương, mái tóc chưa quá ba mươi đã điểm nhiều sợi trắng, mẹ bây giờ gặp lại con nào biết là ai.

Đứa con đã trở thành kẻ lạ, lạ với chính mình, lạ với quê hương xứ sở, lạ với người mẹ thân yêu.

Bây giờ chỉ còn lại cơn mơ, Huỳnh đã tìm về mẹ trong cơn mơ để thấy lại:

“Hỡi mẹ mà đi học.
Con tỉ tê áo lành
Giọt tủi thầm rơi trên bậc cửa,
Mẹ cười vui vẻ hẹn sang năm…”

Nghĩ đến mẹ Huỳnh bỗng cảm thấy bứt rứt xốn xang. Mẹ, hỡi mẹ yêu dấu, nơi xa kia mẹ nghĩ gì về con trai mẹ? Mẹ hãnh diện vì có con ra đi cứu nước ư? Con biết nói sao cùng mẹ, biết nói sao cho mẹ hiểu.

Huỳnh nhổm dậy, anh quơ tay như gạt đi một vật gì vô hình trước mặt, anh châm một điếu thuốc, rít một hơi dài, thở khói ra cuồn cuộn, mắt anh đỏ ngầu dữ tợn, anh vụt quăng điếu thuốc xuống đất, đứng dậy lấy chân dí lên một cách hằn học.

Có tiếng guốc mộc của Trần đi lên, nét mặt Huỳnh dịu lại, anh vẫn đứng yên, quay về phía cửa chờ đợi.

Trần bước vào, tươi sáng trẻ trung:

– Hương hoa cau ngoài giếng thật tuyệt vời mày ạ, nhất là vào giờ này, không hiểu tại sao chỉ bên bờ giếng hương hoa cau mới thật thanh khiết dịu dàng, có lúc như có, có lúc như không, khiến mình phải khát khao tìm kiếm, tao tưởng như đang được tắm nước giếng có tẩm hương hoa vậy. Khi nào tao chết chỉ mong được người ta tắm rửa xác mình bằng nước giếng có mùi thơm hoa cau mà thôi.

Huỳnh vẫn đứng yên chỗ cũ:

– Ý kiến hay đấy.

Trần lấy trong xắc ra chiếc lược chải sợi tóc ướt xõa xuống trán:

– Tao chắc linh hồn mình khi ấy sẽ nhẹ lâng lâng.

Huỳnh mỉm cười nghĩ đến bọn Hoàng, Bửu, Hồ, Phong nghịch ngợm cãi vã nhau về chuyện linh hồn hôm nọ.

Anh giục Trần: “Thôi đi ăn đi kẻo bác Thị đợi mày dưới nhà.”




Chương 6

Sắp sang tháng năm nên trời khá oi bức, Trần tắt đèn để ngỏ cửa sổ, đoạn trở lại chiếc trường kỷ kê gần cái sập của Huỳnh nằm, chàng ngả người gối đầu lên chiếc gối vuông bằng mây đã cũ, lên nước vàng óng, thân thể chàng được nghỉ ngơi sau một chuyến đường dài giãn ra trong một sự mệt mỏi êm dịu. Chàng nói với Huỳnh, giọng mơ hồ:

– Lúc nãy ăn cơm cô tao bảo mẹ tao đòi cưới vợ cho tao, thật buồn cười mà cũng tội cho cụ quá, các cụ không hề ý thức được hoàn cảnh không phải lúc nào cũng giống lúc nào. Chắc mẹ tao coi như là tao đang đi chơi quanh quẩn đâu đó, gọi về lấy vợ lúc nào thì gọi đó chắc.

– Cho là như vậy cũng được đi, như thế càng đỡ khổ cho cụ, nhưng cưới ai mới được chứ, ai mà dám liều mạng chịu lấy những thằng lêu bêu như lũ mình, vả lại biết mặt biết mũi đâu mà tính chuyện như thiệt vậy?

– Ấy thế mà cụ ngắm rồi đấy, cô bé ấy chẳng xa lạ gì, đó là Thương, gọi anh rể tao bằng cậu ruột, cha của Thương mất sớm, mẹ bỏ đi lấy chồng nên gởi Thương cho anh chị tao nuôi từ nhỏ. Anh rể tao làm chánh án ở Huế, anh chị vẫn ở với mẹ tao, cho nên Thương sống trong gia đình tao từ bảy tám tuổi đến bây giờ, anh chị tao đổi đi vẫn gởi Thương và đứa cháu gái lớn ở lại với mẹ tao cho cụ khỏi đơn chiếc, và chúng nó cũng tiếp tục sự học không phải đổi trường, cả hai, Thương và Thể My cháu tao đều học trường Đồng Khánh.

Huỳnh chép miệng: “À, thế thì cũng không có gì rắc rối, cụ tính thế thì đâu vào đấy đấy chứ, thế giữa mày với Thương ra sao?”

– Ra sao thế quái nào được, nó lớn hơn Thể My con anh chị tao độ hai ba tuổi gì đó, hồi ở nhà nó cũng gọi tao bằng cậu, ngày tao đi nó mới mười ba, mười bốn tuổi gì đó, hồi đó tao còn bận bịu chạy theo nàng của tao mà lỵ.

– Thế nàng của mày bây giờ ở đâu mày biết không? Có liên lạc được không?

– Làm sao mà biết được nàng ở đâu mà liên lạc với chẳng liên lạc, cả tên em là gì tao cũng không biết nữa là.

– Chuyện của mày nghe lẩm cẩm bỏ mẹ.

– Thật đấy mày ạ, tao gặp em trên một chuyến đò ngang qua Phu Văn Lâu, tao thấy mắt em buồn quá, tóc em dài quá, áo em trắng quá, thế là tao đâm ra cảm, thế là tao âm thầm đưa đón em thật siêng năng cần mẫn suốt mấy tháng trời, cho đến khi em mất hút, tao ngơ ngẩn một hồi, rồi rộn ràng theo chuyện thời cuộc, chuyện chiến tranh tao quên khuấy đi mất. Thế nhưng từ khi ra ngoài này thỉnh thoảng lại thấy nhớ em thật nhiều, mày nghĩ có lạ không?

Tiếng Huỳnh cười khẽ trong bóng tối:

– Mày thì có cái gì mà không lạ. Thôi hãy nói tao nghe ngày mai mày về Mặt trận bộ có việc gì mà trông bộ dạng mày khiếp thế?

Trần trở nghiêng mình về phía Huỳnh, tiếng chiếc gối mây kêu cót két:

– À còn chuyện đó, trên ấy họ muốn gọi mình về nói chuyện cho vui đó thôi.

Giọng Trần trở nên chua chát:

– Đảng nhận thấy đầu óc tao gần đây đâm ra lệch lạc nên gọi về cạo gọt cho nó bớt u mê đi, mấy thằng ở tỉnh nó bảo tao nghệ sĩ lông bông lâu quá rồi cần phải cho tao vào khuôn vào phép thì vừa.

– Láo thế, chuyện xảy ra thế nào?

– Lần trước tao đi tìm mày để nói chuyện đó với mày nhưng mày bị thương, không thể nói chuyện với mày lúc đó được. Tao trở lại trên đó, khi ngang qua cánh rừng chỗ nàng bị hành quyết, tao không cưỡng lại được ý muốn tạt vào thăm mộ nàng, tao thấy…

Huỳnh điềm tĩnh ngắt lời Trần:

– Hãy kể lại từ đầu.

– Ừ nhỉ, Trần bật cười, chuyện như thế này…

Bằng một giọng đều đều, Trần kể lại chuyện người con gái bị giết hôm nào trong khu rừng già. Kể xong, chàng nằm lặng yên một lúc lâu, Huỳnh cũng nín lặng như anh chờ đợi Trần nói thêm điều gì. Sau cùng Huỳnh cất tiếng hỏi:

– Chỉ thế thôi ư?

Trần vùng dậy:

– Này, tao nói thật, không phải là từ trước tao không hề biết đến những chuyện tương tự như vậy, có những sự thật tồi tệ hơn nữa, người ta có thể giết lầm, giết oan, thủ tiêu hàng loạt người vô tội, tao vẫn biết là không thể tránh được, chiến tranh mà, nhưng chuyện này đặt tao trước một vấn đề khác.

– Và vấn đề khác đó đã làm cho mày la hoảng lên, phải không?

– La hoảng à, cũng gần như thế, để tao nói hết, buổi chiều hôm ấy đi công tác về ngang qua đó, tao cảm thấy có một sức thu hút khiến tao phải ghé lại. Họ chôn nàng ngay dưới gốc cây chỗ nàng bị hành quyết, tao đến, buổi chiều còn nắng, cái mộ được bóng cây che rợp, đất ẩm ướt xông lên mùi nồng ngai ngái, một chiếc nón trắng lăn lóc ở bụi cây gần đó, tao nhặt lên xem, đó là một cái nón bài thơ cột dải lụa màu hồng. Tao đặt cái nón ngay ngắn trên nấm mộ rồi quay đi.

Tao không dám nhìn lại, tao có cảm tưởng như có một đôi mắt sợ hãi tuyệt vọng đang ngó theo tao…

Huỳnh cười chế diễu Trần với một giọng thân ái:

– Mày kể cứ như đi thăm mộ người yêu ấy thôi.

– Đêm hôm đó tao thức trắng đêm, tao viết một bài tường thuật về cuộc hành quyết với những chi tiết của nó, tao tả rất rõ ràng về những mũi tên tẩm độc, tao gài nó vào câu chuyện bên lề chiến dịch. Mày cứ tin đi, tao quyết làm cho tất cả đều phải nổi da gà.

Tiếng Huỳnh thở hắt ra:

– Và việc phải đến đã đến, phải không mày?

– Ừ, đúng thế, bài tường thuật đã gây xôn xao kinh khủng, một sự xáo trộn tâm lý chưa từng thấy, nhất là bọn trẻ, chúng nó đi tìm, viết thư cho tao, một thằng Vệ Quốc quân cho tao biết rằng nó đã nghẹt thở, muốn ngất đi khi đọc bài tường thuật, tất cả đều chú ý tới mũi tên tẩm thuốc độc, có đứa lại viết cho tao một cái thư dài phân tích tỉ mỉ về chất độc trên những mũi tên, thằng đó nó lại còn nói thêm rằng nó hiểu biết khá nhiều về những loại thuốc độc của người miền núi dùng để tẩm vào nhưng mũi tên để giết thú rừng. Đích thị là điều tao muốn nói đó.

– Tao biết, và tao cũng nghĩ rằng sau đó người ta cũng có nhiều chuyện muốn nói với mày?

– Dĩ nhiên, tao đã biết trước, đâu phải tao không lường được những việc tao làm, tao chỉ chờ có thế, tao cần có cơ hội để đặt lại vấn đề với Đảng; chúng ta không chiến đấu hăng say trong khi những vấn đề nhân bản không được tôn trọng. Tổ quốc cũng chỉ hình thành bởi con người mà thôi. Phần tao, ngay sau khi chứng kiến chuyện đó, tao biết rõ một điều là tao có thể phủ nhận tất cả để chỉ giữ lại có con người mà thôi.

– Thế Đảng có đồng ý với mày không? – giọng Huỳnh êm ái kéo dài.

Trần nghiến răng, chàng đứng dậy đi lại dằn dọc trong căn phòng:

– Tao biết mày đã nghĩ gì, đúng như mày nghĩ đó, Đảng bộ họp, mấy thằng ủy viên bên tỉnh chúng nó tấn công tao, chúng nó nêu vấn đề lập trường, chúng nó bảo tao càng ngày càng đi xa lập trường của Đảng, tao nói một cách rõ ràng rằng tôi là một đảng viên và tôi luôn luôn làm mọi cách để phụng sự Đảng, Đảng vĩ đại và sáng suốt đã trưởng thành trong đấu tranh gian khổ của toàn dân, cho nên mọi hành động bưng bít không dám sửa chữa những sai lầm đều không xứng đáng với sứ mạng cao cả của Đảng. Tôi là người cầm viết, tôi biết rõ trọng trách của tôi, trọng trách của tôi là nói lên sự thật, là làm sáng tỏ những gì mà những người khác không thể nói hoặc không dám nói.

Huỳnh nói giọng phiền muộn:

– Mày đã nói như thế à, như thế là sự việc trở nên trầm trọng rồi đấy.

Trần phẫn nộ: “Còn hơn là trầm trọng nữa, thằng Việt Dũng tỉnh ủy viên mày biết mà, cái thằng mặt mũi lạnh tanh bao giờ cũng có vẻ quan trọng lắm đó, cái thằng có qua họp với trung đoàn luôn hồi phối hợp trong chiến dịch đó mày nhớ không?”

– Nhớ. Cái thằng mà tụi nó kể chuyện hắn đã bỏ lắc con vợ của hắn vì mụ ta cứ lải nhải kêu tên cúng cơm của hắn là anh Rớt hoài thay vì gọi tên Việt Dũng đó chứ gì.

Trần cười: “Ừ đấy đấy, mày cũng có nghe chuyện đó à?”

– Gì mà chả nghe, mỗi lần họp giờ nghỉ trưa là tụi nó làm như giặc, có chuyện gì mà tụi nó không khui ra đâu, tao còn biết mẹ nó đẻ rớt nó ngoài chuồng bò không kịp chạy vào nhà nên đặt luôn cho nó là thằng Rớt, nghe nói từ khi trở thành đồng chí Việt Dũng nó ghét cay ghét đắng những ai gọi nó là thằng Rớt.

– Đấy chính nó, nhưng đừng coi thường nó là thằng Rớt đấy nhé, thằng đó nó có thể rất hữu ích hoặc rất nguy hiểm cho cách mạng. Bắt đầu nó ca tụng tao, nó bảo rằng từ tước đến nay đồng chí Trần đã làm cho chúng ta hãnh diện vì tài năng và tinh thần phục vụ của đồng chí, có thể nói rằng những chiến sĩ của ta đã vô cùng phấn khởi, vô cùng hăng say phần lớn là do những diễn tiến của thời cuộc với những tin tức của các chiến dịch thật chính xác và kịp thời phản ảnh trên tờ báo Quân Đội do đồng chí Trần điều khiển, tờ báo đã chứng tỏ một cách vẻ vang nỗ lực của quân dân ta. Ai cũng công nhận đồng chí Trần được coi như nổi bật về cả hai phương diện, người chiến sĩ và người nghệ sĩ, với cây bút mà đồng chí ấy sử dụng mỗi chữ như mỗi viên đạn bắn trúng đích vào đầu quân địch, đồng chí đã gây nên một tiếng tăm và ảnh hưởng tốt đẹp trong hàng ngũ bộ đội của ta. Do đó chúng ta không thể phủ nhận thiện chí của đồng chí Trần, ngay trong việc này cũng vậy, nếu việc làm này của đồng chí vô tình đã gây hoang mang cho tinh thần chiến sĩ, gây tổn thương cho uy tín của cấp lãnh đạo của ta, thì tôi nghĩ rằng đồng chí ấy rất đủ can đảm để sửa đổi lại mọi sự việc này. Ai cũng có thể rơi vào những lỗi lầm đáng tiếc có thể đưa đến hành động phản cách mạng mà không tự biết. Tôi xin đề nghị Đảng nhân dịp này dành cho đồng chí Trần một thời gian để phản tỉnh lại thái độ và tư tưởng. Tôi tin rằng đồng chí sẽ chiến thắng bản thân một cách anh dũng như đồng chí đã từng chứng tỏ với Đảng và các chiến sĩ của ta vậy.

Trần ngừng một lát rồi nói tiếp:

– Mày thấy không, rất khéo léo và thần tình, nó đã dùng những lời lẽ rất kêu để quật ngược lại tao, và lật ngược vấn đề.

Huỳnh lẩm bẩm như nói một mình:

– Phải nói rằng mẹ nó đẻ ra thằng Rớt nhưng chỉ có Đảng mới tạo ra đồng chí Việt Dũng với giọng lưỡi đó, cứ kể thì cũng ghê gớm thật, điều tai hại là mọi người không ý thức được sự nguy hiểm đó. Rồi sao nữa mày nói tiếp đi.

– Tao vẫn tiếp tục trình bày quan điểm của tao. – Trần cao giọng, rõ ràng khúc chiết như chàng đang có sẵn trước mặt một đám cử tọa đang chăm chú nghe chàng. – Tao nói rằng chính những mũi tên tẩm thuốc độc đã phản cách mạng, nếu tôi không nêu lên để chận đứng những gì tương tự tức là tôi đã thỏa hiệp với những mũi tên tẩm thuốc độc để làm thui chột cách mạng; chất độc sẽ thấm và loang dần, sẽ làm hoen ố mọi ý nghĩa thiêng liêng của cuộc chiến đấu của quân dân ta. Những mũi tên tẩm độc sẽ đi xuyên qua chính nghĩa của Đảng ta, một chính nghĩa bảo vệ cho những con người cùng khốn nhất. Chúng ta có Đảng như có mẹ hiền, vì Đảng mà chúng ta biết yêu thương nhau mà tôn trọng con người. Vì Đảng chúng ta sống chết cho quê hương và quảng đại quần chúng trông cậy vào ta.

Tôi hiểu rằng trong hoàn cảnh chiến tranh ta có thể thông qua một số vấn đề không phải là không quan hệ vì nó chà đạp lên số phận của con người, những con người trên xứ sở này vốn đã khốn khổ từ lâu. Điều cụ thể là ta không thể xác nhận tội trạng của cô gái đã bị công an ta hành quyết trong khi cô ta chỉ có một tội là đã lấy Tây và đã về quê giỗ mẹ để phải sa vào bàn tay bắt bớ của ta trong tình trạng chiến tranh này. Ta không có bằng chứng nào để quyết đoán rằng cô ta làm chỉ điểm cho Pháp hay không, nhưng ta vẫn phải sát hại cô ta để đề phòng căn cứ của ta khỏi bị lộ. Đó là việc làm cho tất cả chúng ta đều phải đau lòng, nhưng để bảo toàn cách mạng, qui luật của chiến tranh khiến cho ta đành phải giết lầm hơn là tha lầm, chúng ta đành phải hy sinh một mạng người có thể là vô tội, tôi biết điều đó và điều tôi muốn nói không phải là chuyện cô ta bị giết hay không. Điều tôi muốn nói là chúng ta không thể dung túng hành động của người sử dụng mũi tên tẩm độc, hành động đó chối bỏ con người kể cả nạn nhân và kẻ làm việc đó. Người ta không thể dùng con người để thí nghiệm phản ứng của những mũi tên tẩm độc mà người thiểu số chỉ dùng để bắn thú dữ trong trường hợp tự vệ. Giết một con người không thể xem như giết một con thú hoang, chúng ta đã tự hào là những kẻ tiền phong, có phải thế không, vậy các đồng chí nghĩ sao về hành động phi nhân này?

Trong bản tường thuật, tôi chỉ làm đúng nhiệm vụ của một người ghi lại mẩu tin với những chi tiết xác thực mà thôi, hôm nay trong nội bộ của chúng ta, tôi mới phân tách cặn kẽ ý nghĩ của tôi đối với việc này. Với lý tưởng cao cả mà chúng ta đang theo đuổi, với lòng kỳ vọng của mọi tầng lớp quân dân đang hướng về chúng ta, tôi xin Đảng ra lệnh nghiêm ngặt chặn đứng những hành động tương tự, đồng thời áp dụng biện pháp kỷ luật tối đa đối với kẻ đã sử dụng mạng người như một con vật để thí nghiệm trò chơi của mình. Điều này khiến ta liên tưởng đến các trò chơi của bọn vua chúa trong các thời đại đế quốc xa xưa, những trò giác đấu, hoặc xua người đến trước hàm sư tử, hoặc róc mía trên đầu tội nhân, đó là những hiện tượng biểu lộ cho những thời đại sắp suy tàn, báo trước sự sụp đổ không phương cứu chữa. Con đường chúng ta đi hôm nay muôn người như một, thế hệ chúng ta trẻ trung thuần khiết để xây dựng xã hội chủ nghĩa ngày mai, chúng ta cần đủ sức mạnh dời non lấp biển, cần phải quét sạch rác rưới trên con đường chúng ta đi, ta không thể dung dưỡng những phần tử bệnh hoạn bám đầy tàn tích dã man độc ác của thời phong kiến đã qua, bởi vì chúng ta là những con người tiến bộ, chúng ta đang gánh chịu một trách nhiệm nặng nề đối với đời sống hiện tại và những thế hệ trong tương lai.

Điếu thuốc của Huỳnh chợt lòe lên sáng rực, trong bóng tối mờ mờ của căn phòng, anh cất tiếng điềm đạm:

– Khá đấy, ít nhất cũng phải nói ra như thế, đó mới thật là những lời đích đáng, dù là có phải nói với một bức tường.

Trần buồn rầu:

– Mày vừa nói đến một bức tường hả, đúng vậy, không có hình ảnh nào xác thực hơn, tao đã nói những lời lẽ tha thiết ấy với một bức tường bít kín, không có một cửa nẻo nào có thể mở ra. Mày biết chính thằng Trương đấy, nó bảo là mày trốn theo Tây trong khi mày bị thất lạc vì mày bị thương đó, nó vẫn còn cay cú với tao, mặc dầu khi tìm ra mày rồi tao không thèm đá động gì đến chuyện cũ nữa.

– Thằng Trương hả, quả thật tao không thích mày đụng độ với thằng đó, nó nguy hiểm và thủ đoạn lắm, nó đúng là loại người điển hình biết khai thác tận cùng lý thuyết của chủ nghĩa Mác-xít để biến chế ra những sản phẩm tội lỗi của mọi người, ở khắp mọi nơi, trong cái óc tưởng tượng phong phú của nó. Anh em trong cơ quan vừa khinh, vừa sợ nó, nó biết thừa điều đó và tao có cảm tưởng nó thích thú như vậy. Phần tao thì thây kệ, không đả động giao thiệp gì với nó ngoài công việc, phần hành của tao lại khá tế nhị, nó không xía vô được nên nó chưa có dịp kiếm chuyện với tao, nhưng tao biết nó còn chờ cơ hội. Tao thì chẳng nói làm gì, nhưng tao e rằng thằng đó nhảy vào vòng để hạ mày thì mày sẽ phải gặp nhiều thứ bực mình nữa chứ không phải chơi đâu. Nó rất được tín nhiệm, ảnh hưởng của nó đối với cấp trên rất đáng kể, mày không lạ gì chuyện đó.

– Thà mọi sự đã xảy ra y như mày vừa nói. Đảng bộ đã biểu quyết tán thành đề nghị của nó và bây giờ cái thằng tao phải lên đường đi dự lớp chỉnh huấn ở phân khu đây. Ôi tao thương hại tất cả mọi người, tất cả các đồng chí, và lo buồn cho đại cuộc. Tao thấy rõ rằng cả hội nghị không phải không ai ý thức được vấn đề, khi tao nói xong tao cảm thấy một không khí xao động, rất nhiều khuôn mặt biểu đồng tình hướng về tao, tao biết rõ những khuôn mặt ấy, những khuôn mặt đồng chí gắn bó dãi nắng dầm sương gian lao cơ cực có nhau, một vài người giơ tay định nói nhưng thằng Trương đứng phắt dậy, nó không đứng tại chỗ, nó vòng ra khỏi hàng ghế đi ngay lên bàn chủ tịch. Nó chống tay lên bàn chồm người tới trước, cái mặt chuột của nó có vẻ gì khủng khiếp thật, nó đảo mắt đe dọa nhìn quanh cử tọa một lượt rồi với một vẻ nghiêm trọng nó cất tiếng: “Tôi xin lỗi đã giành quyền nói trước bởi vì tôi nhận thấy ảnh hưởng của những lời lẽ vừa rồi của đồng chí Trần đã có thể làm xúc động tất cả chúng ta kể cả tôi trong đó. Nhưng một điều mà chúng ta không thể quên được là chúng ta là những chiến sĩ tiền phong lãnh đạo cuộc chiến tranh cách mạng này. Đảng đã giao phó cho ta trách nhiệm đó và chúng ta không hề dám xao lãng. Trọng tâm của chúng ta trong giai đoạn này là hun đúc ngọn lửa căm hờn để tiêu diệt kẻ thù chung. Kẻ thù chung không phải chỉ là quân giặc xâm lăng hay những tên bán nước hại dân mà thôi. Sự chiến đấu gay go cam khổ nhất của chúng ta là khắc phục những ủy mị ươn hèn, sản phẩm của giai cấp tiểu tư sản còn ăn sâu, bám chặt vào tim óc của chúng ta: đó mới là kẻ thù đáng sợ nhất, nó làm cho chúng ta đi lạc lối, nó đẻ ra những căn bệnh tự mãn, tự cao, ru chúng ta ngủ yên trong một số kiến thức hẹp hòi, những tư tưởng mà chúng ta yên chí là thật cao siêu thật ra chỉ một cái vỏ trống rỗng hào nhoáng không ích lợi gì cho cuộc cách mạng hùng tráng này. Chính những tư tưởng ấy đã nảy sinh ra những hành động đi ngược lại quyền lợi chung, làm chậm đà tiến hóa của cách mạng. Chính kẻ thù trong bản thân đó đã làm cho đồng chí Trần của chúng ta đặt vấn đề một cách sai lạc. Chúng ta không lạ gì điều này, vì tuy là một đảng viên ưu tú nhiệt thành, đồng chí Trần đã xuất thân từ một dòng dõi thế gia ở đất thần kinh, gia đình của đồng chí hiện còn ở đó, tôi cũng còn biết rằng đó là một gia đình rất thủ cựu, đồng chí hiện còn anh em là những thành phần trí thức được ưu đãi trong ngụy quyền. Do đó, ta không lấy làm lạ tại sao một chiến sĩ đã không quản vào sinh ra tử, đã từng phụng sự cách mạng một cách hăng say, đã gây được tiếng tăm tốt đẹp cho thành tích tranh đấu của mình, lại có thể phạm vào một sai lầm đáng tiếc là đi bênh vực và thương yêu kẻ thù, thay vì phải đào sâu, khai thác đến tận cùng ngọn lửa căm hờn cần thiết cho cách mạng. Chính ngọn lửa căm hờn đó đã chứng tỏ hành động của người sử dụng những mũi tên tẩm độc trong vụ xử tử tên Việt gian nữ gián điệp vừa rồi. Với cái nhìn lãng mạn của một văn nghệ sĩ mang nặng tính chất tiểu tư sản, đồng chí Trần đã khai triển sự việc đó với khía cạnh bất nhẫn của một trò chơi của thời vua chúa bạo tàn. Hiện tại chúng ta đang sống trong thực trạng của một cuộc chiến tranh dầu sôi lửa bỏng, nhân dân ta đang rên siết dưới gót sắt và bom đạn của thực dân ngày đêm không ngớt trút xuống làng mạc quê hương ta, mà những tên chỉ điểm là kẻ thù khiến cho ta căm hận nhất, chúng ta có thể xẻo từng miếng thịt, lóc từng miếng da của chúng nó để vá lên những nhà cửa bị đốt cháy, những thôn xóm điêu tàn, những xác thường dân chồng chất. Nói chi đến những mũi tên tẩm độc, nó chỉ biểu hiệu cho một nỗi căm hờn cao độ của một chiến sĩ yêu nước đối với kẻ thù, người chiến sĩ ấy đã từng đau đớn vô cùng với những vết thương tàn phá trên quê hương. Chúng ta không những phải nuôi dưỡng sự căm hờn đó mà còn phải học tập thêm để biết căm hờn kẻ thù hơn nữa, nếu không chúng ta sẽ dễ dàng phạm vào lỗi nương tay với kẻ thù để chúng nó có thể ngóc dậy quật ngã chúng ta, cách mạng sẽ tan rã, và chính chúng ta cũng không còn tồn tại nữa.”

Trần ngừng lại, thở một hơi dài, rồi tiếp:

– Đó, đại khái những điều nó nói là như vậy, đó không phải là một lý luận vững chãi gì, nhưng rõ ràng là tao thấy mọi người đều co rúm lại. Ai nấy đều sợ những ngôn từ nào yêu thương kẻ thù, nào nuôi dưỡng căm hờn, nào phản cách mạng, và nhất là nó lôi hoàn cảnh gia đình tao hiện ở trong thành phố địch ra làm thằng nào cũng nhụt hết, thằng nào lại không có ít nhất một vài người thân thuộc còn ở trong vùng địch. Thế là sau đó tất cả đều răm rắp tán thành đồng chí Trương. Nhìn những bộ mặt e dè thận trọng của chúng nó tao chán nản vô cùng không còn muốn nói thêm gì nữa.

Ba hôm sau có lệnh gọi tao về phân khu để dự lớp chỉnh huấn, tao phải có mặt ngay ngày mốt để kịp khai mạc lớp mới này. Tao thu xếp công việc, định về thăm mày trước khi đi, tao đi từ trưa đến tối, lạ là tao không hề thấy đói, từ mấy hôm nay người tao nó cứ ngầy ngà ngầy ngật, tao không biết mình ra làm sao nữa. Có lẽ thời gian học lớp chỉnh huấn này cũng cần thiết cho tao, tao vẫn còn hy vọng, ở phân khu có nhiều người lỗi lạc và hiểu biết. Tao nghĩ chưa đến nỗi nào, với những đồng chí cao niên, nhiều tuổi Đảng, đã sáng chói từ thời kỳ cách mạng còn trong vòng bí mật, chắc quan niệm của họ thoát hơn, gần với con người hơn vì họ đã nếm trải nhiều. Với những người này tao hy vọng sẽ có một hậu thuẫn làm rung chuyển tận gốc bức tường của những thằng Trương, thằng Việt Dũng. Hừ, chính chúng nó với giọng lưỡi của chúng nó mới thật là tai họa cho đất nước này.

Huỳnh búng điếu thuốc xuống nền nhà, ánh lửa lóe ra một vệt dài rồi nằm im lìm trên nền gạch, một chấm đỏ ngái ngủ, buồn tênh, anh nói giọng dịu dàng êm ái như một lời dỗ dành:

– Mày mệt lắm rồi đó, hãy nghỉ đi một chút.

– Ngủ gì nữa, gần sáng rồi.

Như đáp lời Trần, tiếng vỗ cánh phành phạch ở mé vườn sau tiếp theo một tiếng gáy vang chững chạc của con gà trống đầu đàn, liền đó tiếng gà xa gần đua nhau cất tiếng. Bóng tối vẫn im lìm. Một con dơi chao cánh trong vườn đêm va vào thành cửa sổ kêu xoạc rồi mất hút. Tiếng mối kẽo kẹt đâu đó trong gian nhà thờ vắng lặng.

Huỳnh châm một điếu thuốc khác, anh hỏi Trần:

– Mày không hút thuốc à?

– Từ sáng qua tao chỉ hút một điếu khi ngồi trong trạm chờ qua quốc lộ, nhưng miệng tao nó nhạt nhẽo khó chịu quá, hút thuốc nó có vị đắng ngắt nên tao không hút.

– Mày cần phải uống một viên thuốc ngừa cảm.

– Tao sẽ uống.

– Mày nhớ cô gái mù trong Symphonie Pastorale không?

– Nhớ, rồi sao?

– Tao nhớ tao xem chuyện đó hồi tao mười bốn mười lăm tuổi gì đó, tao còn nhớ tao đã run cả người khi cô gái hỏi vị mục sư: “Hãy nói về giòng sông và những cái hoa, hãy nói về ánh sáng và màu sắc…” Tao bị choáng ngợp gần như muốn lịm đi với ý nghĩ trong cái màn cố định của bóng tối âm u kéo dài từ thuở sơ sinh, óc tưởng tượng của người con gái mù đã thấy những cái đó ra thế nào mà thần thái của nàng bỗng trở nên phiêu nhiên biến động dị thường. Tao cứ thắc mắc mãi không biết màu xanh của nàng thấy ra sao, nó có giống chút nào với màu xanh mà mắt con người thường nhìn thấy hay không, và cái hoa của nàng như thế nào, tao nghĩ là nó không mang một hình dáng nào của tất cả các loại hoa trên đời này cả, tất cả những hình ảnh đó phải đạt đến mức siêu phàm diễm tuyệt mới có thể có ma lực biến đổi một đứa bé đần độn mù lòa, một đống giẻ rách trở thành một giai nhân khả ái tuyệt vời như vậy. Vì thế tao áy náy và run sợ hẳn hòi khi xem đến đoạn người ta đem nàng đi chữa mắt để lấy lại thị giác cho nàng. Tao nghĩ đến cái lúc mắt nàng đã trông thấy mọi sự, nàng sẽ ra sao khi thấy màu xanh, những cái hoa, giòng sông, những đám mây đều không giống như nàng mơ tưởng khi còn mù lòa.

Ngày ấy tao còn nhỏ, tao chưa nghĩ gì về tình yêu, nên tao cho rằng nàng bị hủy diệt chính vì cái thế giới thần tiên lộng lẫy của nàng không còn nữa, thị giác đã đặt nàng trước những sự vật nghèo nàn quá đỗi, nàng chết vì thế chứ không phải vì vị mục sư với mối tình lỉnh kỉnh của ông ta.

Cho đến bây giờ khi cuộc đời mình đã chai sạn, nhớ lại chuyện đó tao cũng vẫn thấy hồi đó mình đã hiểu cô gái mù tội nghiệp đó hơn cả người viết truyện nữa, mày có nghĩ như thế không?

Trần hiểu ý bạn, lòng chàng rung động một mối cảm kích sâu xa, chàng cười nhẹ trong bóng tối:

– Trong hai đứa mình, mày muốn nói mày hay tao, ai là người mù của André Gide?

– Tao không biết, có lẽ cả hai, như vậy tốt hơn.




Chương 7

Dãy nhà sàn chênh vênh trên một triền núi khuất lấp những tàng cây rậm lá, bóng im che rợp cả trong những ngày đẹp trời nhất. Phía dưới có một con đường dốc thẳng đứng cheo leo dẫn xuống suối. Vào mùa mưa con đường trơn như mỡ, đi sẩy chân là có thể mất mạng như không. Mỗi buổi sáng Trần và các bạn cùng lớp chỉnh huấn phải dậy thật sớm mò mẫm xuống suối rửa mặt, phải vất vả lắm mới xuống được bờ suối nhưng khi đã đứng bên giòng suối rồi, bao giờ Trần cũng cảm thấy một nỗi yên hòa thư thái làm dịu lại tấm lòng se sắt của chàng trong những ngày ở đây.

Khí rừng u uất lẩn quất ven rừng hai bên bờ, hơi lam mờ đục tỏa dần xuống khe trũng, dàn trải ra khi gặp giòng suối trong veo nhìn suốt được những phiến đá xanh rêu giữa lòng suối. Ở đây ngẩng nhìn lên cao thấy trời xanh từng dải mây trắng bay đi, giây phút ngắn ngủi này gợi lại cho chàng giòng sông buổi sáng và hình ảnh người yêu trên chuyến đò ngang trên sông Hương năm nào. Những ngày ở rừng núi phân khu này hình ảnh đó trở về sâu đậm hơn bao giờ hết, vuốt ve tâm hồn rạn nứt đau thương của chàng.

“Thế mà anh chưa hề biết tên em, nếu biết được tên em nhỉ, anh sẽ gọi hoài không dứt, tiếng gọi trong tâm hồn anh sẽ vang vọng đến em dù em ở phương trời nào, ngàn trùng xa cách. Nhưng có lẽ không có tên nào xứng đáng hiển hiện được hình ảnh em nổi bật trên sông dài, nhịp cầu xa, tòa thành cổ mù sương sau lưng em, hình ảnh đầu tiên đi vào hồn anh, đôi mắt tuyệt vời, tia nhìn xuyên qua hồn người thấm thía như một nỗi xót xa, giòng tóc xõa trên sông dài, tà áo trắng dưới nắng mai. Ngày đi anh mang theo hình ảnh em trên bước đam mê lý tưởng, có ngờ đâu bây giờ em là tất cả, là tình yêu giòng sông xưa, tình yêu thành phố cũ, em là quê hương của tuổi trẻ vàng son. Quê hương bây giờ mịt mù hư ảo, chỉ còn dạt lại bóng áo dài tóc xõa của em, xa xôi vô cùng và cô đơn biết bao.

Chỉ mới ba năm thôi mà anh đã già rồi em ạ, anh không còn xứng đáng với em nữa, phút giây mơ tưởng về em là một ân huệ cuối cùng mà anh tự dành lấy cho riêng anh, như kẻ lưu đày mở một nẻo trời cho hồn mình tìm lại quê hương yêu dấu…”

Có người vỗ vai chàng: “Chưa tỉnh ngủ hay sao mà có vẻ bần thần vậy, hay vẫn còn bàng hoàng vì bản tự thú của đồng chí Lưu hôm qua?”

Không quay lại Trần cũng biết đó là Thủy, người bạn đồng chí cùng học khóa chỉnh huấn với chàng. Thủy là người rất dễ mến, Thủy quý chàng và gần gũi chàng nhất trong những ngày ở đây.

Trần hỏi lại:

– Thế anh nghĩ thế nào về hiện tượng của Lưu đêm qua?

Thủy chợt lạnh lùng quay đi, tỏ vẻ không muốn nhớ lại:

– Thì như anh thấy đó.

Trần cũng yên lặng, chàng dõi mắt nhìn theo một sợi rong vàng duỗi dài nổi trôi vương theo giòng nước chảy xiết, nó múa lượn nhịp nhàng, có lúc trườn mình tới trước, có lúc lùi lại như để lấy đà phóng tới, nó bảo chàng bằng một thứ giọng du dương bất tuyệt: “Này tên đãng tử mặt trắng kia, cớ chi mà u sầu, hãy xem ta đây, ta muốn đi muốn vươn tới trước, nếu ta tự do ta sẽ để giòng nước cuốn ta theo, nhưng hòn đá nhẵn thín phủ đầy rêu xanh trơn tuột này nó cầm giữ ta lại, mặc, ta cứ tỏ cho nó biết là ta muốn đi, hãy xem đây, tay ta vươn dài vẫy gọi, đàng trước kia là tương lai bí nhiệm, có tất cả những điều ta say mê ao ước, cái hòn đá ngốc nghếch lầm lì này lại cố giữ ta lại giữa những khe trũng ẩm thấp đen tối, ngày đêm nó không ngớt thì thầm với ta rằng nó giữ gìn đời sống cho ta, dù thế ta vẫn biết đằng trước kia có những gì, ở đó là lẽ sống, có trời cao sông rộng, có biển cả bao la, vậy mà ta vẫn còn mãi ở đây. Ta sẽ vẫy gọi không ngừng, ta vẫy gọi mãi mãi bởi vì đàng trước kia là ngày mai, nếu ta không đến được với nó thì nó sẽ đến với ta, bởi vì cánh tay ta mời gọi, cánh tay ta vươn mãi tới thiên thu.”

Trần đắm mình trong suy tưởng những lời nói của sợi rong vàng, bấy lâu nay chàng đã nhập cuộc, chàng đã nhận chịu bao nhiêu thử thách đắng cay, chàng đi ngang qua tất cả với nụ cười hờ hững thách đố trên môi. Chàng nhớ rõ trước kia chàng không hề biết ưu phiền, trước kia sức chàng bạt ngàn xô núi, vầng trán rộng trẻ trung của chàng lồng lộng gió đại dương bát ngát, vậy thì tại sao, tại sao bây giờ chàng ngồi đây, ưu tư tìm về một tà áo trắng người yêu như một cứu cánh, như tìm về một bóng mát lãng quên, như một Phạm Thái ngày xưa bỏ quên đời trong hồ rượu, chí lớn trong đời không bằng đôi mắt giai nhân. Tại sao giờ đây cánh tay chàng muốn buông xuôi rời rã, miệng chàng đắng ngắt vị phong trần, vầng trán rừng rực lửa địa ngục điêu linh.

Chàng cúi xuống, soi mình trên giòng suối, mặt nước phản chiếu một hình bóng xô lệch không ngừng biến đổi, khi kéo dài ra khi thu nhỏ lại, cái hình thù biến động quái đản ấy rung rinh trên nền trời xanh thẳm bình thản, hững hờ sau lưng nó. Bất giác chàng đưa tay lên vuốt mặt, chàng nhận thấy da mặt chàng khô nóng, chàng nhìn lại bàn tay, những đường gân xanh nổi lên chằng chịt, chàng ve vuốt những đường gân xanh đó, có cảm giác như đang ve vuốt một con sâu đang ẩn náu trong da thịt gặm nhấm hình hài mình.

Trần hồi tưởng cái ngày chàng đặt chân lên rừng núi phân khu này, lòng chàng còn biết bao hy vọng, biết bao tin tưởng vào cuộc sống lý tưởng tốt đẹp này. Chàng đã gặp một số anh em đồng chí quen biết, họ mừng vui được gặp lại nhau, ôi những cái bắt tay đồng chí nó mạnh mẽ xiết bao, hùng tráng xiết bao; câu chuyện hàn huyên nhắc nhở những chiến dịch tưng bừng lửa đạn, ngùn ngụt đam mê, đêm đó cả bọn ngồi quanh bếp lửa, đêm tàn chuyện nở như bắp rang, Trần thấy lòng nhẹ nhàng, ngày hôm sau chàng sẽ vào gặp Hoàng Hà, một đồng chí cao cấp, chàng thấy vững bụng, chàng sẽ trình bày quan điểm của chàng và chàng tin rằng ông ta sẽ hiểu. Từ những niềm cảm thông sẽ nảy ra suối nguồn của chân lý, của sức mạnh bền bỉ vô cùng cần thiết cho cuộc chiến đấu cho Tổ quốc thân yêu.

Hoàng Hà là một người đứng tuổi, thân hình bé nhỏ, khuôn mặt dài, xương xương, nước da màu đất, vàng bệt, nét mặt thoạt nhìn mờ nhạt không có gì đặc biệt nhưng vì lăn lộn hoạt động cách mạng lâu năm và được giữ liên tiếp nhiều năm những chức vụ quan trọng, tư thế chỉ huy tạo cho ông ta một giọng nói đanh thép và cái nhìn lạnh như băng. Trần đã gặp ông ta trong vài cuộc họp do ông ta điều khiển trước đây. Trong giới kháng chiến người ta truyền rao những huyền thoại về Hoàng Hà trong thời kỳ bí mật chống Pháp, ông ta được mô tả như những nhân vật trong các truyện truyền kỳ khiến Trần thấy dĩ vãng sau lưng ông ta bao phủ một tấm màn huyền hoặc kỳ thú, mặc dầu trong những cuộc họp chàng không thấy có gì đặc biệt chứng tỏ tài năng trong những điều ông ta phát biểu.

Đây là lần đầu tiên Trần được Hoàng Hà chấp nhận gọi vào gặp riêng ông ta tại chỗ làm việc của ông trong một nhà sàn làm bằng tre.

Trần đi theo chú bé liên lạc đến căn nhà sàn đó, chàng mãi suy nghĩ đến những vấn đề cần phải nói đến nỗi khi ngẩng lên chàng đã thấy Hoàng Hà sừng sững trước mặt, chằm chặp nhìn chàng bằng cặp mắt băng giá. Chàng đứng nghiêm, thẳng người đưa tay chào ông ta theo lối quân nhân.

Hoàng Hà nhìn chàng từ đầu đến chân, lạnh lùng khẽ gật, đoạn ông ta xoay người một cách gọn gàng đi vòng lại ngồi xuống ghế trước bàn làm việc của ông, ông chỉ một chiếc ghế, hất hàm:

– Đồng chí ngồi xuống.

Trần ngồi xuống ghế yên lặng đăm đăm nhìn lại Hoàng Hà, chàng hiểu rằng Hoàng Hà đang sử dụng cái nhìn lạnh lùng như băng vào kẻ đối diện như một lối đòn cân não, Trần mơ màng thầm nghĩ không biết mình ở đâu đây, trước mặt mình là ai thế, là đồng chí ư? Sao lại nhìn mình như thế, sao cái nhìn làm Trần mơ hồ như đã thấy ở đâu rồi, ừ phải, Trần đã thấy cái nhìn đó một lần ở sở Mật thám Huế khi chúng nó bắt Trần trong số sinh viên bị tình nghi có liên quan đến một tổ chức trá hình. Đôi mắt viên mật thám Pháp khi thẩm vấn Trần cũng giá băng như vậy, đó là đôi mắt kẻ thù, có lẽ nào giờ đây Trần lại gặp ánh mắt đó trên cái nhìn của một đồng chí mà chàng đang đặt nhiều kỳ vọng. Liệu niềm cảm thông mà Trần mong mỏi được tỏ bày có làm tan rã được băng giá trên đôi mắt kia không?

Quả vậy, bằng cái nhìn đó Hoàng Hà tỏ rõ một ý muốn chế ngự Trần ngay trong phút đầu của câu chuyện. Ông ta biết rõ thành tích đáng kể và ảnh hưởng quan trọng của Trần trong bộ đội kháng chiến; dù sao sự tự tin của ông với những mệnh lệnh mà những đồng chí thuộc cấp đều răm rắp tuân theo khiến ông luôn luôn có một thái độ uy quyền và tin rằng kẻ đối diện phải khuất phục mình một cách dễ dàng. Nhưng khi bắt gặp đôi mắt Trần nhìn thẳng vào ông với vẻ như không trông thấy gì cả, đôi mắt chàng như đang theo dõi một ý tưởng nào đó, liên tục và mãnh liệt đến nỗi ông phải nghĩ rằng nếu ông ta không lên tiếng trước thì Trần sẽ tiếp tục lặng lẽ làm một cuộc đối thoại với chính mình mà không cần biết có ai trước mặt. Ý nghĩ đó làm Hoàng Hà nổi xung nhưng ông ráng dằn lại. Những năm lăn lóc hoạt động chính trị trong những thời kỳ căng thẳng nhất khiến ông trở thành một con người mềm dẻo tinh tế vô cùng.

Ông hạ tầm mắt xuống, giọng ông êm ái một cách không ngờ:

– Đồng chí Trần, đồng chí có hiểu rõ những việc mà đồng chí đã làm không?

Thái độ thay đổi đột ngột và câu hỏi bất ngờ làm Trần lúng túng trong một giây:

– Thưa đồng chí, tôi mong mỏi được gặp đồng chí để trình bày những sự việc mà tôi nghĩ rằng đồng chí đã biết qua nhưng chưa sáng tỏ được mọi vấn đề.

– Theo đồng chí, thế nào là một vấn đề được sáng tỏ? Hoàng Hà hỏi, vẫn giọng nói êm ru.

– Sự có mặt của tôi, cùng nhiệt tình của tôi đối với Đảng và Tổ quốc, còn nếu căn cứ vào báo cáo của Tỉnh bộ thì…

Hoàng Hà ngắt lời Trần, ông ta cúi nhìn tập tài liệu trước mặt, làm bộ hững hờ khéo léo che đậy một tia sáng rình rập vừa lóe lên trong mắt ông ta:

– Đồng chí có cho rằng Đảng có thể thiên vị và lầm lạc không?

Trần đáp không suy nghĩ, cảm thấy mình bị hụt hẫng:

– Tôi không bao giờ nghĩ như thế.

– Vậy thì việc Đảng đưa đồng chí về đây để chỉnh huấn, sửa đổi tư tưởng, hầu đi đúng con đường phục vụ cho nhân dân, việc đó có sai lầm không?

Trần nín lặng không đáp.

– Và luôn cả những nhận xét của Đảng, đồng chí có cho là không sáng suốt không?

– Đồng chí, xin hãy nghe tôi, tôi đã nguyện hiến thân tôi cho Đảng, tôi đặt trọn niềm tin vào Đảng, chính vì thế mà tôi không quản ngại tất cả những gì tôi đã làm; trên đường về đây tôi đã mong được gặp các đồng chí, mong được trình bày quan điểm của tôi với đồng chí về việc đó. Nó có một tầm quan trọng ảnh hưởng đến sự mất còn của chúng ta, tôi mong được đồng chí thông cảm và giúp đỡ cho tôi trong sứ mạng của một đảng viên, của một chiến sĩ…

– Cá nhân tôi không giúp gì cho đồng chí được, giọng Hoàng Hà chợt đanh lại, gọn và sắc. Đồng chí hãy nhớ kỹ điều này, với chủ nghĩa cao cả mà chúng ta đang theo đuổi, cá nhân không là cái gì cả, duy chỉ có cộng đồng mà thôi. Bánh xe vĩ đại sẽ nghiền nát tất cả mọi cá nhân dưới nó để làm nên lịch sử nhân loại cộng đồng. Chúng ta phải biết ơn Đảng đã cho chúng ta được sống trong những giây phút thần kỳ, không giống một thời đại nào, không giống một lịch sử nào khác, tự cổ chí kim. Chúng ta đang và sẽ tạo dựng một thế giới mới, chính chúng ta, những người Cộng sản sẽ khai nguyên những thế kỷ sắp tới, trong đó, toàn khối nhân loại chỉ là một, trong đó, đồng chí và tôi đều không đáng kể, những quan điểm riêng tư đều vô nghĩa, hèn mọn. Chúng ta đều phải quên mình để hiến dâng cho sự nghiệp vĩ đại của Đảng, phải tẩy rửa những yếu hèn tiểu tư sản, phong kiến đang bám chặt lấy đầu óc chúng ta. Chúng ta sẽ đau đớn, sẽ quằn quại rên siết để thực hiện một cuộc tái sinh, đó là cuộc tái sinh của Tổ quốc ta nói riêng và thế giới nhân loại ngày mai nói chung.

Hoàng Hà ngừng lại một giây, ông ta tự để mình lôi cuốn theo những lời nói thao thao bất tuyệt của ông, những lời nói có một ma thuật khiến đôi mắt ông quắc lên, long lanh chờn vờn như một lưỡi kiếm, ông gằn giọng, trở lại tư thế lạnh lùng đanh thép cố hữu:

– Tôi có nghe nhiều về đồng chí, đồng chí đã tỏ ra là một chiến sĩ dũng cảm, một văn nghệ sĩ có chân tài, chừng đó không đủ. Hãy can đảm tự xóa mình đi, hãy từ bỏ ảo tưởng xây dựng tiếng tăm và ảnh hưởng của cá nhân mình. Đảng không chấp nhận những ý thức đó. Tuy nhiên Đảng sẽ nâng đỡ đồng chí khỏi phạm vào những sai lầm tai hại tương tự như những điều đồng chí đã làm. Đồng chí sẽ được một cơ hội để tự cứu nếu không muốn rơi vào sự hủy diệt. Trong thời gian chỉnh huấn, đồng chí phải hết lòng đào sâu suy ngẫm, phải khẩn trương thành thực sửa mình, để tỏ lòng biết ơn Đảng đã tạo nên chúng ta, đừng bao giờ lãng quên điều đó. Khoá chỉnh huấn của đồng chí sẽ khai mạc trong vòng hai hôm nữa và sẽ kết thúc trong vòng một tháng, tôi mong rằng đó là thời gian thích đáng mà đồng chí có thể đạt được thắng lợi cho tư tưởng và bản thân mình để tạo nên sự nghiệp của một chiến sĩ Bôn-sơ-vích hiến dâng cho Đảng.

Hoàng Hà đứng dậy, ông giơ tay lên ra hiệu câu chuyện đã kết thúc. Trần cũng đứng lên, chàng đứng nghiêm thẳng người đưa tay chào vị chỉ huy cao cấp, rồi quay lưng bước thẳng ra cửa.

Ra đến bên ngoài Trần bước đi như một cái máy, lòng chàng buồn bã vô hạn. Chàng vừa gõ một cánh cửa, và cánh cửa đã đóng chặt, cánh cửa từ chối không chịu mở ra.

Sau những bức tường là những cánh cửa không chịu mở.




Chương 8

Có một cái gì đó, trong không gian và thời gian này, như một cơn vây khốn tâm thức của một thứ bệnh lý lạ lùng.

Có một ngẫu nhĩ nào đó, len vào những ngõ ngách vô thường đã tạo nên vĩnh cửu, và đồng thời mang lại cơn cuồng nộ phong ba nối liền vực sâu và đời sống.

Trần đã trải qua những cơn bão táp của tâm hồn trong suốt thời kỳ cùng anh em đồng chí học tập, thảo luận, tìm tòi mổ xẻ từng ni tấc cái hình hài dĩ vãng mang nặng di sản truyền thống chứa đựng bao nhiêu căn bệnh xấu xa của con người. Người ta thúc giục nó, dồn ép nó với những điều cám dỗ có khả năng thần bí như mụ phù thủy mặc áo thụng đen cưỡi cái chổi bay quanh khu rừng đen tối.

Trần chia sẻ cùng các bạn những ray rứt, dằn vặt, tự cấu xé mình, tự lột xác mình để khai sinh con người mới, để làu làu trong sạch xứng đáng với người chiến sĩ xã hội ngày mai.

Nhưng trái với các bạn của chàng, họ như bị thôi miên, tâm trí họ đờ đẫn như đang bị trong vòng hấp lực của một mê cung, càng ngày Trần càng kinh ngạc nhận thấy mình tỉnh táo một cách lạ lùng. Những điều tiếp nhận được càng khiến cho tinh thần chàng có những cảm ứng mới mẻ thì thân thể chàng cũng bị suy nhược dần đi.

Trong khi thân thể chàng bị ảnh hưởng của sự dồn ép thì tâm hồn chàng mở rộng một cuộc tao phùng của non cao và biển sâu, của yêu thương và thù hận, của thiện và ác, của hư và thực, và trên hết những cái đó là cơn tao ngộ của Con Người và Cuộc Đời.

Khi thấu triệt những điều đó, chàng chỉ còn lại một niềm đau, thương xót anh em đồng đội, đau xót bởi chính nỗi bất lực của mình.

Lần lượt, chàng chứng kiến các đồng chí của chàng sau khi tự đày đọa thân mình bằng những buổi moi óc nghiền ngẫm những tội lỗi tưởng tượng, sản phẩm của giáo điều, đã đua nhau làm bản tự thú, kiểm thảo, kể lể những điều vặt vãnh từ hồi còn bé dại, nào ăn cắp tiền của cha mẹ để đi đánh đáo, kết luận: ăn cắp và đánh bạc (đánh đáo là một hình thức đánh bạc) là ảnh hưởng thối nát của thực dân phong kiến thấm sâu vào máu; nào một hôm thấy một đứa con gái ngủ hớ hênh bỗng thấy lòng tà dâm nổi dậy, kết luận: tà dâm là tội lỗi của giai cấp tiểu tư sản chỉ muốn hưởng thụ; nào thuở nhỏ đã có lần đánh đập một đứa bé con nhà nghèo khổ ở bên cạnh nhà mình, kết luận: đó là ý thức ỷ mạnh hiếp yếu, ỷ giàu hiếp nghèo, căn bệnh của đế quốc tư bản.

Có trăm ngàn những lời tự thú ngây thơ tội nghiệp nọ trên những bàn tay cầm viết run rẩy sợ hãi của những chiến sĩ mà mới đây khi đối diện với địch quân, chính những bàn tay đó đã ghì chặt thép súng trên vai nhả từng tràng thịnh nộ chính khí vào quân cướp nước.

Lòng Trần thắt lại khi thấy hiện lên vẻ ngơ ngác, kinh hãi, đớn hèn trên khuôn mặt những đồng chí đã từng hiên ngang bao nhiêu, cương nghị bao nhiêu, dũng cảm bao nhiêu, trong cuộc chiến tranh đầy gian lao nguy hiểm mà họ đã hồn nhiên chấp nhận cho căn phần của họ.

Họ đã yếu hèn hẳn đi vì kinh hoảng trước mớ lý thuyết tự nó không chứa đựng gì nhiều nhưng những luận lý của cán bộ lãnh đạo chỉnh huấn đã phù phép cho nó trở thành bén ngót như những móng diều hâu sà xuống quắp lấy thân phận của họ. Cơn hôn mê biện chứng pháp làm cho họ lảo đảo, ngờ nghệch không còn nhớ mình là ai nữa, vội vàng chối bỏ chính mình.

Là lý tưởng đó ru? Có phải vì đó mà con người đã phải rời bỏ một giòng sông, xa lìa một thành phố, từ biệt một lũy tre làng, một cánh đồng vàng óng để ra đi, đến ngồi nơi xó rừng này, moi móc kể lể những điều lặt vặt, những chuyện ngồi lê đôi mách, tự dằn vặt mình, tự dìm sâu mình vào ác mộng?

Là lý tưởng đó ru? Khi những người con trai ngày nào ra đi đầu ngẩng cao lên đầy kiêu hãnh bởi Tổ quốc, kiêu hãnh bởi nòi giống, kiêu hãnh bởi chính con người tràn đầy sức sống của mình, giờ đây mặt cúi gầm ngượng ngùng đau khổ, ân hận đã trót mang trong mình giòng máu luân lưu của bao đời ông cha hủ lậu, phong kiến, thối nát, xấu xa.

Cái gì đã khiến cho con người vừa mới đây ra đi với một tấm lòng quả cảm, chính trực, không khuất phục trước kẻ thù, không sờn lòng trước gian nguy, mà giờ đây lại trở nên cuống quýt, khốn nạn tội nghiệp như những tên hề vô tài bất tướng, sử dụng những ngón nghề tiểu xảo để mong được yên thân, bịa đặt ra những tội lỗi tưởng tượng một cách vụng về để chứng tỏ lòng khẩn trương thành thực của mình.

Chỉ còn vài ngày nữa là bế mạc khóa chỉnh huấn này, do những hiện tượng đó người ta ghi nhận đã đạt được những thành công đáng kể. Nhưng mãi cho đến đêm qua sự thành công mới thật hoàn toàn vượt quá mức mong mỏi của cán bộ lãnh đạo. Sự tốt đẹp đó xuất hiện dưới hình thức của bản tự kiểm thảo được xem như điển hình của đồng chí Lưu về những tiết lộ ghê gớm của anh ta.

Lưu người gốc miền Nam Trung phần; khuôn mặt nhọn, xanh mét vì thiếu máu, đôi mắt mở to có vẻ sợ hãi tiều tụy, nụ cười gượng gạo trên đôi môi mỏng dúm dó, đôi lúc bất chợt mím lại khiến người đối diện áy náy tưởng mình có làm điều gì phật ý y, dáng người trung bình mảnh khảnh, gầy yếu. Y là một cán bộ đại đội, được xem như một đảng viên nhiều thiện chí, tận tụy với công việc của mình, điều đó được chứng tỏ ngay suốt khóa chỉnh huấn, y luôn luôn tỏ ra bận rộn, bề bộn với những mớ tài liệu học tập, và lăng xăng điếu đóm bên cạnh các cán bộ phụ trách huấn luyện cả ngày.

Từ ba hôm nay, cử chỉ của Lưu đã có vẻ khác thường. Y thờ thẫn, ít nói, có vẻ trầm ngâm suy nghĩ, y ghi chép liên miên, nét mặt có vẻ âm u ngay cả những khi ăn uống. Cho đến đêm qua giữa buổi họp kiểm thảo, bỗng nhiên y khóc rống lên, giọng y ồ ồ, y thở phì phò như tiếng nghẹt thở của một con heo bị cắt tiết, càng lúc y càng thét lên, rồi y rên rỉ xin được thú tội. Sự xung động đó thoạt tiên làm mọi người kinh ngạc, sau chuyển qua những cảm giác hỗn độn, vừa buồn cười khó chịu, vừa nôn nao bất ổn. Trần cũng cùng chung cảm giác đó, chàng cảm thấy mình là một chứng nhân khốn khổ, tai chàng lùng bùng, chàng muốn lẩn tránh nhưng không thể được, chàng vẫn phải ngồi đó, mắt mở to mà không nhìn thấy gì rõ rệt, chỉ loáng thoáng thấy một hình thù gầy gò vật vã rên siết, tai chàng mơ hồ nghe những lời thú tội, những tiếng nói đứt quãng, như từ dưới địa ngục vẳng lên.

Qua gương mặt kinh hoàng nhão nhoẹt đầy nước mắt và tiếng Lưu nghẹn ngào kể lể, Trần trông thấy y một mình đi trên con đường cheo leo quanh sườn núi, bên rìa là vực thẳm trùng điệp cây lá tối om, người y nóng nảy bồn chồn vì đã quá trưa mà chưa đến trạm nghỉ, chợt y thấy xuất hiện trên đường núi một nữ cán bộ mặc quần áo toàn đen; vai mang một túi vải đi ngược lại phía y. Khi đến gần y hỏi người nữ cán bộ đường đến trạm có còn xa không, cô gái trả lời nếu đi mau thì một giờ đồng hồ là đến nơi; y nhăn mặt xem lại đồng hồ; đã quá một giờ trưa, y nói với cô gái tôi mệt và đói qua, cô ta có vẻ thương hại nói trong xắc tôi có mang theo đồ ăn đi đường, nếu mệt anh ngồi nghỉ ăn một tí rồi tiếp tục đi. Lưu mừng rỡ nhận lời ngay, y cùng cô gái chọn một gốc cây to bóng mát rợp ngồi xuống, cô nữ cán bộ nhanh nhẹn lấy trong xắc ra một đòn bánh tét, tháo lớp dây lạt bó ở ngoài, lột lớp lá chuối bọc chiếc bánh và bắt đầu cắn một đầu dây lạt vào răng, tay cầm đầu kia thong thả quấn sợi dây quanh chiếc bánh nếp có nhân thịt mỡ và đậu xanh, xắt ra từng khoanh bánh một. Cô ta trạc ngoài hai mươi tuổi, nước da bánh mật, khuôn mặt bầu bĩnh, đôi mắt nhỏ và sắc, cái nhìn vui vẻ nồng nàn. Bất giác Lưu cảm thấy thèm thuồng, mùi thơm từ chiếc bánh bốc lên, môi người con gái hé ra phô bày hàm răng khỏe mạnh, trắng bóng cắn chặt sợi dây căng thẳng, thân thể cô gái tròn trĩnh đậm đà nhịp nhàng chuyển động dưới lớp áo quần vải đen, cảnh tượng ấy kích thích mãnh liệt trí tưởng tượng của y. Người y rạo rực, máu dồn ứ lên đầu khiến mắt y hoa lên, ngầu đỏ. Y nhìn chằm chặp người con gái không chớp mắt, y không gần đàn bà đã lâu lắm rồi và đây là một dịp hãn hữu y ngồi với một người con gái ở nơi vắng vẻ như thế này. Giờ này không thể có ai qua lại cả, trời âm u nóng bức, y cảm thấy sự thèm khát ghê gớm nổi dậy. Y nhích lại gần cô gái một chút. Thấy động, người con gái ngước mắt lên nhìn bắt gặp đôi mắt đỏ ngầu khác thường của y hau háu nhìn mình, như linh cảm một sự gì không hay, cô gái thảng thốt rú lên một tiếng, buông rơi khúc bánh. Tiếng rú của người con gái làm y bừng dậy một cảm giác rừng rú dã man, máu trong cơ thể y rần rật bốc lên làm mờ tất cả mọi vật trước mắt. Y chồm tới lao mình vào người con gái. Cô ta chống cự dữ dội, cào cấu cắn xé y. Máu nóng từ những chỗ bị cô ta cấu xé tuôn ra khiến y càng hăng tiết, y đưa hai tay nắm chặt vai cô gái lắc thật mạnh khiến đầu cô gái bị đập vào gốc cây nhiều lượt cho đến lúc cô ta đuối sức dần, lả người nằm yên không cựa quậy nữa, để mặc cho y như con dã thú vồ ngấu nghiến con mồi của mình.

Cho đến khi y thấy mình ngồi dậy, chung quanh mọi sự ngổn ngang, người con gái lõa lồ nằm úp mặt xuống đất vùi đầu trong đống lá khô im lặng không nhúc nhích, những miếng bánh rơi vãi tứ tung dính đầy rác và bụi vì cuộc vật lộn, đồ vật trong cái xắc mở ngỏ của cô ta rơi vãi tung tóe: mấy cái bánh, một khúc thịt dồi, một con dao nhọn, vài quyển sách mang đề tựa “Nguyên lý chủ nghĩa Lê-nin” và “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” v.v.

Khu rừng hoàn toàn chìm đắm trong giấc ngủ trưa. Đột nhiên sự yên lặng nặng nề khiến y kinh hoảng, lượng máu vừa dâng lên trong người y như rút xuống dạt về nơi nào không biết. Người con gái cựa mình rên một tiếng nhỏ rồi nằm im, y cảm thấy run sợ, nếu việc này bị phát giác, ừ nếu việc ghê tởm này bị phát giác, người con gái sẽ không tha thứ cho y, cô ta sẽ không để yên, y không dám nghĩ thêm nữa, y sợ hãi đến điên cuồng, trí óc y đâm ra mê muội; y cúi xuống, mắt y đụng phải con dao, cầm chắc trên tay giơ cao lên với tất cả sức mạnh, y đâm thẳng xuống lưng người con gái; một tiếng thét rùng rợn rú lên, thân thể người con gái bật ra rướn lên rồi rơi sấp xuống, một cánh tay duỗi ra, những ngón tay co quắp quều quào níu lấy mặt đất. Y rút vội con dao ra, máu phún lên đầy mặt y nóng hổi tanh nồng, như say máu y tiếp tục đâm mãi cho đến khi cái xác nát nhừ không còn cựa quậy. Y buông con dao xuống đất; người y rời rã choáng váng; y ngồi dựa vào gốc cây thở dốc. Bộ quân phục xám trên mình y đầy máu, y cởi áo lau những vết máu bê bết lẫn mồ hồi trên mặt, y cảm thấy đói ngấu, y quơ vội khúc bánh đầy bụi và miếng thịt dồi cho vào miệng nuốt lấy nuốt để.

Những ngày sau đó, hình ảnh cô gái và xác chết đẫm máu của cô ta vẫn theo dõi ám ảnh y, cả khi ăn khi ngủ không lúc nào yên. Óc tưởng tượng của y vẽ ra những hình phạt khủng khiếp, y muốn rời bỏ kháng chiến, trở về đầu hàng giặc, xa lánh hẳn vùng đất này. Mấy lần y đi về hướng có đồn giặc, mang theo cả vũ khí cùng tài liệu kháng chiến, nhưng chưa có trường hợp thuận tiện nào để y có thể đi thoát.

Thú xong, Lưu lại khóc rống lên rồi ngã ra ngất lịm, mọi người, sau những giây phút lặng im nín thở theo dõi lời tự thú gây sự chú trọng đặc biệt đó, bây giờ lại xôn xao, kẻ thở phào bàn tán nho nhỏ, người lo cứu chữa vẩy nước lã vào mặt y. Y tỉnh lại, có vẻ bình tĩnh hơn, ngồi im lặng ủ rũ, đầu cúi gục xuống.

Bấy giờ đã vào khoảng ba giờ khuya, ngọn đèn dầu chập chờn leo lét tranh tối tranh sáng gây một quang cảnh ảm đạm.

Người cán bộ lãnh đạo chỉnh huấn chờ cho mọi người bớt xao động, cất tiếng nói:

– Các đồng chí, qua lời thú của đồng chí Lưu hôm nay, chúng ta thấy đồng chí Lưu đã phạm tội hiếp dâm, giết người và toan tính theo giặc, mang vũ khí và tài liệu cho giặc, coi như đồng chí ấy đã phạm tội phản quốc. Nhờ ơn Đảng soi sáng, đồng chí Lưu đã được chỉnh huấn, đã ý thức được rằng những tội ác đó không phải là do nơi đồng chí mà ra, chúng đã nảy sinh bởi giòng máu phong kiến thối nát của cha ông để lại, do sự hấp thụ nền giáo dục của thực dân đế quốc mà ra. Tính chất tiểu tư sản đã ăn sâu bám chặt vào xương tủy gây nên biết bao sự xấu xa ghê tởm. Ngày nay nhờ sự giáo dục kiên trì và lòng thương yêu của Đảng mà đồng chí Lưu đã tự banh da mở thịt phơi trần tất cả mọi sự xấu xa ghê tởm; từ nay đồng chí Lưu có thể yên ổn tinh thần bởi vì đồng chí đã tự nguyện lột xác, cái xác xấu xa giòi bọ của phong kiến thực dân đế quốc đã chết hẳn, từ nay đồng chí đã trở thành một con người mới, Đảng sẽ nâng đỡ dìu dắt cho con người mới tái sinh của đồng chí Lưu.

Người cán bộ ngưng một giây, đảo mắt nhìn khắp gian phòng hội:

– Đêm nay các đồng chí đã chứng kiến sự thành công to lớn của đồng chí Lưu, hơn một tháng nay các đồng chí đều đã tích cực học tập, biểu lộ thiện chí gội rửa tàn tích tiểu tư sản, phong kiến, nhưng đêm nay trường hợp đồng chí Lưu xem như điển hình cho khóa chỉnh huấn của chúng ta. Chỉ còn ba hôm nữa là bế mạc, tôi mong rằng sẽ còn có những đồng chí khác nêu thêm những thành tích tranh đấu bản thân vẻ vang hơn nữa. Đêm nay, thế là đủ. Tôi cho phép các đồng chí giải tán và chúc tranh đấu thắng lợi.

Mọi người lục tục đứng dậy giải tán, Trần cảm thấy ngây ngây ớn lạnh, khó chịu trong người. Ra đến ngoài, gió rừng đêm thổi tạt vào mặt không mang lại sự mát mẻ dễ chịu nào. Chàng phóng tầm mắt nhìn vào khoảng rừng tối câm trước mặt, tiếng chim từ quy từ đó đều đều vọng lại, âm điệu ảo não buồn tênh.

Trong đêm tối mịt mùng, tiếng chim rừng đêm như một chiếc cầu nối liền nỗi hoang vu trong cùng thẳm tâm hồn chàng.




Chương 9

Hai đứa bé con chị Hiếu đang chơi bên hè nhà, bé gái tên Hiền lên sáu tuổi và bé trai tên Hòa vừa lên bốn. Chúng nó đang đưa đám ma một con chim chết, con chim sẻ bé nhỏ mà chị Hiếu nhặt được, trong khi nó sợ hãi run rẩy nép sát vào bụi cây, gắng sức đập đôi cánh yếu đuối cố bay lên. Chắc chim mẹ khi chuyền cho con tập bay đã không lường được sức quá yếu của con chim bé nhỏ nhất trong bầy.

Được mẹ trao cho con chim, bé Hiền sung sướng lắm, bé nhặt một ít rơm cuộn lại như một cái tổ chim, bỏ vào trong một cái giỏ xách đã hư mà mẹ bé không dùng nữa. Hằng ngày bé nhai vài hột gạo, bé nhả thứ bột gạo được nhai nhuyễn sền sệt ra trên một chiếc lá, bé mớm cho chim con bằng một que tăm, con chim nhỏ há toác cái mỏ rộng toang hoác ra để nhận miếng mồi. Khi thấy cái diều bé nhỏ nơi ức còn thưa lông của chim đã căng tròn, bé nắn thấy lạo xạo những hạt gạo ở trong là bé biết chim đã no, bé bèn nhỏ cho chim vài giọt nước. Chim yên lặng ngoan ngoãn nằm trong ổ rơm của bé, cho đến khi đói chim lại bắt đầu kêu chiêm chiếp, bé lại phải sửa soạn cho chim ăn. Trông bé bận bịu lắm, cứ như là chim mẹ ấy thôi.

Bé Hòa cũng quanh quẩn đi xung quanh cái giỏ đựng chim, nhìn ngắm, hỏi vớ vẩn vài câu, bé hỏi:

– Hiền cho nó ăn gì thế?

– Cho nó ăn gạo.

– Cho ăn gạo nó đau bụng chết.

Hiền trợn mắt: “Ai bảo mày thế?”

– Bữa trước Hòa nhai gạo, mẹ mắng bảo con hư ăn gạo sống đau bụng chết.

Hiền chột dạ chạy đi tìm mẹ:

– Sao mẹ bảo con cho chim ăn gạo mà thằng Hòa nó nói mẹ bảo ăn gạo sống đau bụng?

Chị Hiếu cười: “Chim khác người khác chứ, con cứ cho chim ăn gạo, không sao đâu.”

Bé yên tâm trở lại với chim. Bé Hòa lại hỏi:

– Sao nó không bay được nhỉ?

– Nó còn nhỏ, rồi nó sẽ biết bay.

– Bao giờ nó biết bay?

– Vài hôm nữa.

– Rồi nó bay đi đâu nhỉ?

– Nó không bay đi đâu cả, nó ở lại đây với chúng mình.

– Sao Hiền biết?

– Vì nó thương mình, nó không bay đi xa mình được chứ sao.

– Sao Hiền biết nó thương mình, nó có nói gì được đâu?

– Biết chứ, tại tao nhai gạo cho nó ăn, gạo có nước bọt của tao trong đó, nó phải thương tao. Mày không thấy bác Duyên ở bên cạnh nhà mình nhai cơm cho thằng cu Tý con bác ăn đó à, thằng cu Tý nó ăn cơm của bác Duyên nhai có nước bọt của bác lẫn trong đó, nó thương bác lắm, lớn lên nó không đi đâu hết, nó ở nhà với bác ấy thôi, bác ấy bảo với tao như thế.

– Hòa cũng vậy, lớn lên Hòa ở với mẹ thôi, Hòa không đi đâu hết.

Bé Hiền trề môi: “Sao hôm nọ mày mới bảo lớn lên mày sẽ đi bộ đội, mày đánh thằng Tây, mày có nhớ mày bảo mẹ mua cho mày khẩu súng để đánh Tây nữa. Ừ mà cũng phải, chắc tại lúc nhỏ mẹ không nhai cơm cho mày ăn đó mà.”

– Thế còn Hiền thì sao?

Bé Hiền gật đầu bừa, ra vẻ quan trọng:

– Tao thì có ăn cơm mẹ nhai chứ sao không, lớn lên tao ở nhà với mẹ thôi, tao không đi lấy chồng đâu.

Bé Hòa trỏ con chim sẻ:

– Thế chim có đi lấy chồng không?

– Không đâu, đã bảo tao nhai gạo cho nó ăn rồi mà lỵ.

Mà chim quen dần với bé thật, vài hôm sau nó đã bay chuyền từ thành giường đến đậu trên vai bé, bé lấy làm thích thú lắm. Chim lại biết nghe tiếng huýt sáo gọi, mỗi lần bé huýt sáo là chim bay thẳng đến đậu ngay trên vai hoặc trên tay bé, bé lại càng quý chim vô cùng.

Một buổi sáng bé để chim đậu trên tay, ra đứng trước hiên chơi, trời đẹp quá, trong quá, xanh quá, chim cất tiếng kêu chiêm chiếp, thình lình chim bay bổng ra ngoài trời, chim bay lên thật cao, khuất hẳn sau vòm cây; bé chưng hửng, bé hốt hoảng, rồi bé buồn rầu, chim đã bỏ bé mà đi rồi.

Buổi trưa, bé nhớ chim quá, bé nằm trên giường để bên cạnh chiếc giỏ có cái ổ rơm của chim bỏ trống, bỗng bé nghe tiếng chiêm chiếp quen thuộc của chim lẫn với tiếng ríu rít của cả một bầy chim xôn xao quanh bụi tre sau nhà. Bé vội chạy ra, bé thấy trong bụi tre một bầy chim sẻ chíu chít bay vun vút qua lại như thoi. Lẫn trong tiếng chim ríu rít, bé vẫn nghe tiếng kêu quen thuộc của con chim nhỏ

của bé, tiếng kêu của nó bây giờ có vẻ buồn thảm tội nghiệp quá. Nhưng bé không thể phân biệt nổi nó là con nào ở trong bầy, bé vội huýt sáo nhưng bé không tin tưởng cho lắm. Đột nhiên, con chim nhỏ từ trong bầy xòe cánh bay thẳng đến đậu trên vai bé, bé tưởng như mình nằm mơ, bé mừng quá, cảm động quá, bé để chim lên bàn tay, vuốt ve, sao lông chim có vẻ xơ xác thế này, sao nó run rẩy thế này? Bé mang vào hỏi mẹ, mẹ bảo chim phải sống với người, có hơi người rồi, nó không thể trở lại bầy được nữa, lông nó xơ xác như thế vì nó bị bầy chim thấy có hơi lạ xúm lại mổ đánh nó đấy. Nghe thế bé lại càng thương cảm, bé bảo chim không cần ai hết, đã có bé đây, chim đừng dại bay về với chúng nó nữa nhé.

Chim không bay đi nữa, nhưng từ khi chim bị đồng loại đuổi đánh thì nó đâm ra ủ rũ, nó đứng im một chỗ, không nhảy nhót như trước kia nữa. Sáng hôm nay bé thức dậy chạy đến với chim thì nó đã chết, cánh xõa ra, lông xù lên, mắt nhắm nghiền. Bé khóc ròng, bé Hòa cũng bắt chước khóc theo, mẹ phải dỗ mãi.

Bây giờ hai đứa đang làm đám ma cho chim rất trọng thể, chúng bỏ chim vào một cái hộp, bé Hòa bảo bỏ vào cái hộp tối om om chim buồn chết, bé Hiền đồng ý, thế là chúng lấy cái ổ rơm chim thường nằm bỏ xác chim vào đó, chúng đào một cái lỗ sâu bên hè nhà, đặt ổ rơm có xác chim xuống đó, chúng hái những chiếc lá xanh đắp lên mình chim sau cùng chúng lấy đất đắp lại, bé Hiền bảo bé Hòa:

– Mày khóc đi.

Bé Hòa hỏi: “Sao lại khóc?”

– Làm đám ma thì phải khóc chứ, mày không thấy đám ma bác Dậu bị máy bay bắn chết hôm trước à, con Lê con bác ấy nó cứ nhìn đám ma nó cười bị thím Tèo mắng cho bảo con bất hiếu phải khóc đi chứ, bây giờ mày khóc đi.

Bé Hòa nghe lời chị, nó quạc mồm ra, giả vờ khóc: “A, a, a…”

Chợt hai đứa bé im bặt, quay nhìn ra sau, bé Hòa hoảng hốt khóc thét lên, gọi mẹ ầm ĩ. Một người đàn ông cao lớn, râu ria gần kín mặt, mặc quân phục màu xám tro đã hơi lem luốc, vai mang ba lô, đứng sừng sững ngay sau lưng chúng nó. Người ấy có vẻ đứng đó từ lâu, đang nhìn chúng nó chơi một cách chăm chú, khi thấy bé Hòa khóc thét lên còn bé Hiền đứng dậy có vẻ sợ sệt, người ấy vội vàng chìa tay ra:

– Suỵt, suỵt, coi kìa, chú đây mà.

Chị Hiếu nghe tiếng con khóc từ trong nhà chạy ra, bé Hòa vội vàng chạy đến ôm lấy mẹ, chỉ về phía người đàn ông, nước mắt vòng quanh: “Con sợ.”

Chị Hiếu nhìn người lạ, bỗng vui mừng kêu lên:

– Trời ơi chú Trần về đấy à, sao lại để râu ria khiếp thế cho cháu nhìn không ra.

Chị quay lại, vỗ về con:

– Chú Trần đấy mà, con hư quá không mừng chú mà còn làm mặt lạ, chú mới đi có hai tháng thôi mà.

Bé Hòa nín bặt, nhưng cứ đứng yên nhìn Trần không chớp, Hiền rụt rè đến cạnh Trần, nắm tay chàng:

– Chú Trần đây phải không?

Trần tụt quai ba lô, quăng xuống nền nhà, chàng ngồi bệt xuống hàng hiên, kéo bé Hiền ôm vào lòng:

– Thế bé không nhận ra chú ư? Không nhớ chú nữa ư?

Bé Hiền sờ tay lên mặt Trần:

– Lông gì trên mặt chú nhiều vậy?

Trần bật cười: “Râu của chú đấy.”

Bé Hòa sán đến gần, tò mò: “Râu chú kiếm ở đâu mà nhiều vậy?”

Trần làm bộ nghiêm trang giải thích:

– Râu của chú nó tự mọc ra đấy chứ có phải đi kiếm đâu, lớn lên rồi cháu cũng có như chú vậy.

Bé Hòa đưa bàn tay mũm mĩm lên xoa cằm mình, nó băn khoăn: “Bao giờ thì có hả chú?”

– Không lâu đâu cháu ạ, các cháu đang chơi gì thế?

Bé Hòa bi bô: “Hiền làm đám ma cho con chim sẻ đấy chú.”

Hiền liến thoắng tiếp theo:

– Nó vừa chết sáng nay chú ạ, mẹ bảo tại nó buồn quá nó chết.

– Làm sao mà nó buồn quá?

Hiền kể lại cho Trần nghe chuyện con chim sẻ, bé diễn tả bằng cả hai tay và hai con mắt tròn xoe của bé, Trần có vẻ chăm chú ngồi nghe. Kể xong bé nhìn Trần, bé thấy Trần có vẻ nghĩ ngợi gì, đôi mắt chàng như chìm hẳn đi, bé kéo tay Trần:

– Chim mà cũng biết buồn hả chú?

– Có chứ cháu, chim cũng như người vậy, cũng buồn lắm cháu ạ.

– Buồn thì buồn chứ sao lại chết hả chú?

– Chết chứ sao không, người buồn còn chết nữa, huống chi con chim nó bé thế nó chịu gì nổi.

Chị Hiếu nãy giờ yên lặng theo dõi câu chuyện của Trần và hai con, chị nhìn Trần đăm đăm, chị nhận thấy chàng gầy guộc và hốc hác hẳn đi, hai gò má của

chàng nhô lên cao và tái xanh dễ sợ, đôi mắt sáng rực, đôi mắt của người đang lên cơn sốt. Chị có nghe Quý kể qua về chuyện của Trần, việc chàng phải về phân khu để dự lớp chỉnh huấn, chị không hiểu rõ cho lắm, chỉ lờ mờ biết rằng Trần hiện đang gặp một sự khó khăn gì đó.

Chị buột miệng hỏi Trần: “Chú đang sốt phải không?”

Trần nhìn chị mỉm cười: “Chị thấy em có vẻ yếu đau lắm sao?”

Chị Hiếu bảo hai con: “Thôi các con đi chơi đi, chú mới về đang mệt, chú đang đau đó, đừng làm rầy chú để chú vào nhà nằm nghỉ.”

Chị xách chiếc ba lô của Trần lên đi vào nhà, vừa nói:

– Chỉ một việc các cháu nó nhìn chú không ra là đủ thấy ra sao rồi. Chú nên vào nhà nằm nghỉ ngay đi, không nên ở ngoài gió lâu.

Trần đi theo chị Hiếu vào nhà, chàng cười vang, giọng cười khô và sắc: “Những thằng như em mà còn sợ gió máy sao, chị không có ý xem em như bé Hòa đó chứ.”

Chị Hiếu dựng chiếc ba lô trên ghế cạnh bàn viết của Trần kê ở gian bên, chị lấy chiếc chiếu trải lên giường của Trần, đặt lên đó một chiếc gối, chị làm mọi việc đó rất nhanh chóng và vén khéo:

– Trời còn có khi mưa khi nắng huống chi là người, người thì có khi đau ốm, có khi lành mạnh, khi đau ốm thì phải lo chứ không nên coi thường chú ạ.

Thấy im lặng, chị quay lại thấy Trần đứng buông thõng tay, nhìn quanh nhà, vẻ mặt kỳ lạ ngẩn ngơ như chàng không nghe những lời chị vừa nói. Hiếu bỗng thấy lo ngại, chị bước đến bên Trần đánh bạo đưa tay lên sờ trán chàng, chị giật mình kêu lên:

– Chết thật, chú nóng như lửa như thế này. Chị kéo tay Trần về phía giường, Trần để yên cho chị kéo đi nét mặt hiền từ ngây ngô như một đứa trẻ. Chàng ngoan ngoãn để chị Hiếu đỡ chàng nằm xuống giường. Vừa nằm xuống, chàng liền nhắm nghiền hai mắt lại hoàn toàn mê man, hơi thở bỗng trở nên gấp rút và khó khăn.

Thấy thế chị Hiếu lại càng hoảng sợ, chị khẽ gọi: “Chú Trần, chú Trần.” Trần vẫn bằn bặt thiêm thiếp, Hiếu đứng thẳng dậy, lo ngại nhìn quanh lẩm bẩm: “Quý đâu rồi nhỉ?” Chị chợt nhớ ra đến chiều tối Quý mới đi công tác trở về. Chị muốn có người ngồi canh chừng Trần để chị đi hái một nắm lá xông. Phải làm cho cơn sốt hạ xuống đã. Chị cất tiếng gọi bé Hiền:

– Con mang em vào nhà chơi, để mẹ đi một tí mẹ về ngay nhé.

Bé Hiền vâng dạ, nó gọi bé Hòa vào, hai đứa bé dắt tay nhau đứng nhìn Trần ngơ ngác.




Chương 10

Trần mê man trên giường bệnh suốt nửa tháng trời, chị Hiếu và Quý thay nhau túc trực bên giường bệnh của chàng.

Từ buổi chàng trở về với cơn sốt đang hành hạ đục khoét cơ thể, chàng nằm xuống và như kẻ bị giáng một trận đòn chí tử, cơ hồ chàng không còn trở dậy được nữa. Chàng nói mê sảng từng cơn, người chàng rạc dần đi, hơi thở yếu ớt như muốn lịm dần.

Chị Hiếu và Quý đã có lần nhìn nhau khóc, tuy không nói ra nhưng hai người cùng sợ Trần chết.

Quý buồn thảm ra mặt, vì nó yêu mến Trần như một người anh ruột thịt, còn hơn thế nữa, Trần đối với nó như một thần tượng sáng chói, luôn luôn nó cảm thấy sung sướng, vinh dự, yên ổn khi được ở bên chàng bất cứ nơi nào. Hai tháng Trần đi vắng nó bơ vơ lạc lõng, nó vẫn làm việc, đi liên lạc từ cơ quan này qua cơ quan nọ, nhưng nó không thấy hứng khởi trong công việc, người nó rời rã bần thần mất hẳn tính tình liến thoắng hồn nhiên cố hữu. Khi Trần trở về, nó mừng rỡ vô cùng, nó săn sóc Trần không quản gì cả, nó đau đớn thấy bệnh chàng càng ngày càng trầm trọng.

Cũng như Quý, chị Hiếu cũng âm thầm lo lắng vô cùng, y sĩ của cơ quan đến thăm bệnh Trần mỗi ngày, chị nhìn thấy họ tiêm cho Trần những ống ký ninh ngày này qua ngày khác, họ không có chi hơn nữa, họ làm công việc trị liệu ấy một cách lầm lì bình thản. Chị Hiếu cũng có biết sơ qua về thuốc men và cách điều dưỡng bệnh nhân, cho nên trước bệnh trạng nặng nề của Trần, cách chữa bệnh đơn giản của họ khiến chị càng thêm lo lắng. Chị đã nài xin họ đừng đưa chàng vào bệnh xá của chiến khu.

Đó là những căn nhà dài làm bằng tre, hai đầu có hai cái cửa, suốt ở giữa một lối đi, hai bên là hai dãy sạp bằng tre dọc theo hết chiều dài của căn nhà. Bệnh nhân nằm la liệt trên đó, gió bốn bề lồng lộng thổi tới, qua lại trên những khuôn mặt bệnh nhân vàng bủng xanh xao, mình mẩy ghẻ lở đầy chí rận. Có những người lên cơn sốt đắp những chiếc chăn vá đụp, nằm co quắp rên hừ hừ, nắng từ trên mái lợp tranh thưa thớt chiếu xuống những chấm nắng loang lổ, thành những vệt tròn sáng trên những tấm chăn, những vệt nắng tròn sáng đó còn đậu trên mặt những người bệnh đang trong cơn mê man thoi thóp nữa. Mỗi ngày y sĩ đi trông qua một lần các bệnh nhân, phát cho họ những viên thuốc tròn màu trắng hoặc những viên tròn màu vàng, rất hiếm khi người ta hạ cố chích cho bệnh nhân một ống thuốc ký ninh, đó là một đặc ân. Trần là một đảng viên nên mới được hưởng sự đặc biệt có người đến tận cơ quan riêng mà tiêm thuốc như vậy. Chị Hiếu không lòng dạ nào để người ta đưa Trần vào nằm trong bệnh xá đó được. Ở cùng dưới một mái nhà gần hai năm nay chị cảm thấy một niềm kính mến lẫn quý trọng đối với Trần mặc dầu chàng kém hơn chị hàng mười tuổi. Chàng có một nhân cách cao nhã cách biệt hẳn với những người chung quanh, tuy nhiên phong thái chàng lại rất giản dị hòa hợp được với tất cả mọi người. Tuy sống cùng nhà nhưng rất ít khi họ gặp mặt nhau. Trần và Quý đi công tác luôn có khi đi hàng tháng, chị Hiếu thì bận công việc đi lại mua bán, chị cũng nhận vài công tác do một cơ quan của tỉnh giao phó, liên lạc về những tổ chức trong thành phố, nhận tin tức ở đó mang về chiến khu, những công tác của chị Hiếu không liên hệ gì đến cơ quan của Trần cả. Vì vậy mỗi khi gặp nhau ở nhà, họ chỉ thăm hỏi nhau những chuyện thông thường. Trần rất mến hai bé Hiền và Hòa, mỗi khi rỗi rảnh chàng thường gọi chúng nó lại chuyện trò và tỏ ra quan tâm chú ý đến những câu chuyện không đầu không đuôi của chúng một cách thích thú vô cùng.

Bây giờ là mùa mưa, nước dâng lên vài nơi làm trở ngại sự đi lại trong vùng núi, nên chị Hiếu tạm nghỉ mọi công việc, ở nhà trông nom săn sóc cho Trần.

Ban ngày có khi Trần tỉnh dậy, chàng mở mắt lờ đờ nhìn sửng vào khoảng không, chàng không nói năng với ai cả, dường như chàng không còn biết đến sự có mặt của chị Hiếu và Quý bên cạnh chàng nữa. Phải khó khăn lắm mới đổ cho chàng chút nước cháo. Những lúc Trần tỉnh, chị Hiếu giao cho Quý trông chừng để đi ra ngoài mua bán đôi chút. Nhưng khi cơn mê của chàng bắt đầu từ chiều tối cho đến gần sáng thì bao giờ chị cũng có mặt bên chàng.

Quý còn nhỏ tuổi ban đêm không thể thức được nên chỉ một mình chị thức đêm lo lắng cho Trần.

Hơn nửa tháng rồi bệnh Trần không hề thuyên giảm, lúc tỉnh lúc mê, người chàng nóng như lửa, những khi mê sảng, chàng nói mê luôn, trong cơn mê chàng trăn trở nói luôn miệng:

– Các cháu đắp mộ cho con chim se sẻ đấy à, phải đấy, tội nghiệp con chim nhỏ đáng thương, tôi cũng có một nấm mộ, cái mộ của con chim bé nhỏ vô tội bị đồng loại đánh đuổi, em, em ơi sao mắt em mở to thế, phải rồi em không muốn chết mà, em ơi em ơi, cỏ mọc xanh trên mồ em rồi đấy, mồ thì phải xanh chứ, xanh quá lá say đời, say đi em, say đi em…

Có khi chàng gọi mãi một người con gái nào đó mà có lẽ chàng không biết tên vì chị Hiếu nghe chàng nói lảm nhảm:

– Em, em, tên em là gì em có tên không em, giòng sông nắng sớm, đôi mắt, làn tóc xõa, tà áo trắng trong chiếc đò ngang, tên em đó phải không em. Anh cũng không có tên đâu em, có tên làm gì thêm khổ, thêm khổ, chúng mình không có tên chúng mình yêu nhau suốt đời, suốt đời…nghe em.

Những lúc Trần nói mê chị Hiếu sợ hãi cuống quýt, chị lo bệnh Trần mỗi lúc mỗi tăng, chị lay gọi cho Trần thức tỉnh, nhưng đêm nào cũng vậy, hết cơn mê sảng chàng lại bằn bặt thiếp đi cho đến gần sáng.

Một đêm, Trần có vẻ dễ chịu hơn, nhiệt độ của chàng thấp hơn mọi đêm, chàng nằm yên không dằn dọc nói mê nữa. Chị Hiếu cảm thấy yên lòng, chị ngồi trên một chiếc ghế nơi bàn viết của Trần, chị tựa tay gục đầu xuống bàn nhắm mắt lại một chút. Chị mất ngủ nhiều đêm rồi, chợt chị nghe tiếng Trần trở mình, chị ngồi thẳng dậy, quay lại phía Trần. Trần đang mở mắt, đăm đăm nhìn chị, đôi mắt chàng chiếu ra một tia sáng êm ái dịu dàng, ánh mắt êm như nhung, tiềm ẩn một vẻ buồn thảm thâm trầm khiến chị bỗng dưng xúc động vô cùng, nước mắt chị bỗng trào ra, chị không hiểu tại sao; cổ chị nghẹn ngào, chị trân trối nhìn Trần không biết làm sao cả. Mãi đến khi Trần cất tiếng hỏi:

– Sao chị khóc?

Chị giật mình, ngượng ngùng bối rối, đưa tay quệt nước mắt toan quay đi:

– Để tôi đi hâm cháo lại cho chú.

Chị đứng dậy, Trần gọi giật:

– Em không đói, chị ngồi xuống đó đã.

Cực chẳng đã, Hiếu lại ngồi xuống. Trần hỏi:

– Khuya rồi hở chị?

– Gần sáng rồi chú ạ.

– Gần sáng rồi? Sao chị không đi ngủ?

– Tôi ngồi canh chừng chú.

Trần cười khẽ: “Em làm sao mà phải canh chừng?”

– Chú mê man luôn, vật mình vật mẩy sợ lăn xuống đất thì không nên, nguy hiểm lắm, nên tôi phải thức để canh chừng.

– Thế à, em đau mấy ngày rồi chị?

– Hơn nửa tháng rồi chú ạ, từ khi chú về đến nhà cho đến bây giờ.

Trần như nói một mình: “Hơn nửa tháng, hơn nửa tháng, vậy đêm nào chị cũng thức như thế này à?”

– Vâng, có sao đâu chú, tôi thức quen rồi, thấy chú tỉnh tôi mừng quá, để tôi đi hâm cháo chú ăn một tí cho khỏe.

Chị đứng dậy, đi thẳng xuống bếp.

Trần nằm yên, nghe thân xác trống rỗng, trí não bềnh bồng, miệng đắng ngắt, chàng liếm môi, môi chàng khô khốc, hơi thở nóng âm ỉ. Chàng cố nghĩ một điều gì, cố nhớ một việc gì, không thể được, thôi vậy. Chàng nhắm mắt lại, thấy những sợi tơ trời trắng muốt bay lả tả, lướt thướt trôi qua trước mặt chàng; những sợi tơ quyện lại với nhau thành một đống chỉ rối, nhún nhảy nhịp nhàng, rồi chia ra những hình thù không rõ rệt, bay lơ lửng, có lúc chợt sáng lòe lên, rồi chìm đắm trong những màu sắc mờ ảo biến hóa khôn lường. Rồi thì tất cả những hình ảnh bỗng nhiên xoáy tròn như bị cuốn hút vào một cái vực hình trôn ốc sâu thăm thẳm, chúng xoay tít, những vòng sáng lóe lên rồi kéo dài ra, mất hút.

Trần thấy ngực nặng dần, nặng dần, cơn mê sắp úp chụp lấy chàng. Tiếng chị Hiếu văng vẳng bên tai: “Chú ngủ đấy à?”

Trần cố lên tiếng, cố trả lời chị, nhưng không thể được, những chiếc vòng mỗi lúc một xoay nhanh hơn, như chong chóng, rồi trở nên hỗn loạn, vỡ òa ra như thác đổ, ngọn thác trắng xóa giội xuống ngực chàng ào ạt. Trên đầu ngọn thác, tiếng gọi của chị Hiếu vẫn nghe văng vẳng. Trần cố thu hết tàn lực, hét lên một tiếng, mở bừng mắt ra, cả người chàng ướt đẫm mồ hôi, khuôn mặt chị Hiếu cúi xuống, đầy âu lo, thương cảm.

Nhìn thấy khuôn mặt Hiếu, Trần cảm thấy một niềm yên ổn vô cùng, vực thẳm đã lùi xa, ngọn thác trắng xóa giội xuống ngực chàng không còn nữa, chàng thở mạnh, thấy ngực nhẹ tênh, khuôn mặt người đàn bà cúi xuống như một hình ảnh cứu rỗi, bất giác chàng đưa tay ôm choàng lấy khuôn mặt ấy, ghì sát trên mặt đẫm ướt mồ hôi của chàng một lúc lâu.

Chị Hiếu run như chiếc lá, chị không thể chống cự, chị mê hoảng trong vòng tay nhanh và gọn của người con trai. Hiếu quỳ xuống bên giường, má chị áp sát bên má ướt đẫm của chàng, hơi nóng âm ỉ trong cơn sốt của người chàng thấm qua người Hiếu, trí óc chị mụ mẫm đi trong một thoáng hôn mê. Chợt vòng tay chàng nới lỏng, chàng buông Hiếu ra đột ngột, chị ngẩng mặt lên, thấy nước mắt lại trào ra, một lần nữa Hiếu không biết tại sao.

Hiếu chậm chạp đứng lên, cảm thấy hầu như không đứng vững, tim chị đập từng hồi, chị cố trấn tĩnh, đưa tay vuốt những sợi tóc dính bết mồ hôi của Trần trên má chị. Như một cái máy, Hiếu với lấy chiếc khăn ở đầu giường, quỳ xuống lau mồ hôi trên mặt, trên cổ Trần, nước mắt vẫn đầm đìa trên mặt Hiếu.

Trần nằm yên cho Hiếu lau mặt cho mình, khi Hiếu ngừng tay, định để chiếc khăn lại chỗ cũ, Trần giữ tay nàng lại, chàng giành chiếc khăn trên tay nàng, dịu dàng lau nước mắt cho nàng. Hiếu lặng người, im sửng nhìn Trần, mắt chàng nhìn nàng có một vẻ trìu mến, trẻ thơ gieo vào lòng Hiếu một nỗi hân hoan kỳ lạ nàng chưa từng biết đến bao giờ.

Hiếu nghe tiếng mình thì thầm, như tiếng một người nào khác: “Hãy gắng ăn một tí cháo nhé, tôi đã mang lên rồi.”




Chương 11

“Thật không còn gì để tiếc nuối nữa, mọi sự đã rõ ràng lắm rồi, anh Lương, em hiểu là anh biết rõ lắm, nhưng anh từ chối sự thật, anh từ chối ngay cả anh, mỗi ngày ở đây dài quá, vâng, dài quá anh ạ, em không chịu nổi nữa. Em muốn chúng ta mang các con đi, anh nghĩ xem, ở đây chúng ta không làm gì được nữa, chúng ta không có ích gì ở miền kháng chiến này nữa, họ đã tỏ cho chúng ta biết như vậy.

Hãy nói cho em biết, tại sao đây là quê hương, là chốn thân yêu quen thuộc của chúng ta từ trước, mà bây giờ chúng ta bỗng thấy lạc lõng xa lạ giữa nơi này? Tại sao những bà con thân thích hiền lành chất phác của chúng ta lúc trước bây giờ không còn ai như xưa nữa? Bây giờ mọi người đều trở nên tinh khôn quá, độc ác quá, họ nhìn nhau giữ miếng, thù hằn và nghi kỵ. Họ nói toàn những chữ mới và họ cho như vậy là tiến bộ, những ai còn như xưa đều bị bỏ rơi khinh rẻ. Thị như chúng ta đây vậy, tại sao, tại sao, anh hãy nói cho em nghe, tại sao anh im lặng, hễ mỗi lần em nhắc đến anh lại thở dài, có gì giữ chúng ta ở lại đây để chịu đựng cơ sự này?”

Lương thở dài, hai tay ôm đầu, cúi mặt, mỗi lời nói của Hà, vợ anh như xoáy vào da thịt anh, tê lạnh từng đốt xương, bải hoải cả tâm hồn; Hà đã nói đúng mọi nguồn cơn hiển nhiên như thế, Lương đã đòi hỏi nàng phải chịu đựng quá sức của nàng. Hà chỉ là một người đàn bà yếu đuối, nàng đã vui lòng nghe theo ý muốn của Lương ở lại miền quê này từ ngày chiến tranh bùng nổ.

Người vợ môi hồng mắt trong thăm thẳm của Lương ba năm về trước bây giờ khốn khổ quá đi rồi. Những lần ôm con chạy giặc, nàng gầy yếu tội nghiệp biết bao với đứa con nhỏ trên tay và bọc đồ trên vai, dưới làn mưa đạn rít lên từ những chiếc máy bay lồng lộn trên không, những chiếc xe Jeep của giặc đuổi theo hàng đoàn dân chúng chạy tán loạn trong những dải cát dài mênh mông; những bờ bụi khuất lấp che chở những thân phận người nhỏ nhoi và rẻ rúng vô cùng.

Khi những cánh quân của giặc đi qua, từng loạt đạn xé toang, mọi người nép sát mình vào đất, nín thở, sợ hãi cả tiếng tim đập thình thịch của mình, thời gian và cái chết chỉ trong gang tấc.

Những buổi chiều, khi tiếng súng đã xa dần rồi im hẳn, khi trên trời chỉ còn những cánh chim bé nhỏ bay về thay thế những chiếc máy bay mang theo hãi hùng chết chóc, từng đoàn người nhô ra từ những bụi rậm, những bờ lác, đi lang thang lếch thếch trở về xóm làng còn nghi ngút khói lửa.

Lương và vợ mỗi người bế một đứa con mặt mũi xám ngắt trên tay, những đôi mắt trẻ thơ ủ rũ, chúng không buồn khóc, linh tính thơ ngây cho chúng biết chúng đang sống giữa một miền mà trẻ con không được cả quyền khóc.

Lương vẫn phải đi dạy trường tiểu học của xã mỗi ngày, và các lớp bình dân học vụ mỗi đêm. Anh không còn biên khảo gì được nữa, những nguy nan thường trực, những công việc vặt vãnh choán hết cả thì giờ. Cả một thư viện của anh bây giờ cũng không còn lại gì cả, sách vở chôn giấu bị mục nát hết. Sau một trận lụt, Lương đào hầm sách lên phơi, anh lặng người đau đớn thấy bao nhiêu sách quý mà anh giữ gìn cẩn trọng trong bao nhiêu năm chỉ còn là một đống bùn nhão nhoẹt, lần đó anh không thiết ăn uống nói năng cả tháng liền.

Hà nhẫn nại sống bên chồng như một cái bóng, cô nữ sinh trường Jeanne d’Arc ngày nào đã yêu Lương, nàng về làm vợ Lương một cách hồn nhiên và tôn trọng tất cả mọi quyết định của chồng, cùng chịu đựng tính nết vui buồn của chồng một cách lặng lẽ giản dị, như là cuộc đời phải là vậy.

Ba năm ở quê làng với cuộc sống cơ cực, chạy giặc hàng ngày, vất vả với công việc đồng áng, trông coi ruộng nương vườn tược, nàng không hề hé môi than thở, nhưng càng ngày, lòng người thay đổi chung quanh đã khiến nàng đau khổ mệt mỏi đến cùng tận.

Dù nàng sống thêm một trăm năm nữa, nàng cũng không hiểu nổi những điều xảy ra trước mắt nàng. Chồng nàng không muốn rời quê hương đang kháng chiến chống xâm lăng; nàng đồng ý với chồng. Nhưng ba năm trời ở đây người ta đã tỏ cho vợ chồng nàng biết là họ không cần đến mình. Việc đi dạy của Lương như là một ân huệ mà họ ban phát cho chồng nàng. Dù cố làm ngơ, nàng cũng không thể không nhận thấy rằng người ta đã xem vợ chồng nàng là những kẻ sống thừa, không theo kịp đời sống tiến bộ.

Khi một người muốn xin một mồi lửa để hút thuốc, thay vì nói “cho tôi xin mồi lửa,” thì người ta nói “hãy ủng hộ cho tôi tí lửa,” và đó là cách nói của những người tiến bộ. Hà không bao giờ có thể nói như thế được, nàng chỉ có thể nói “cho tôi xin mồi lửa,” cách nói xưa như tổ tiên của nàng hằng nói, thế thôi.

Và như thế là không hợp thời, không hợp cảnh.

Cái cách người ta yêu thương nhau, kết hợp thành vợ thành chồng ở đây cũng làm Hà suy nghĩ và thấy xốn xang, nàng không hiểu sao người ta có thể cảm thấy hạnh phúc khi phải được sự đồng ý của đoàn thể mới được yêu nhau, đám cưới do sự cho phép của cấp lãnh đạo, được trang hoàng bằng bàn thờ Tổ quốc có treo ảnh Hồ chủ tịch, có cờ đỏ sao vàng và đồng chí chủ tịch xã làm chủ hôn. Hà nghĩ đến bàn thờ tổ tiên có trầm hương nghi ngút, lộng lẫy trang nghiêm trong ngày cưới của nàng, cùng họ hàng cha mẹ của hai gia đình trai gái, cảnh tượng đó làm cho Hà thấy tình yêu đượm vẻ thiêng liêng, về nguồn về cội.

Lại cái cách đau khổ của những người tiến bộ cũng làm cho Hà lạ lắm. Có một chị cán bộ phụ nữ huyện thường về đây họp phụ nữ xã, có chồng làm đại đội trưởng Vệ Quốc đoàn cũng về đây một lần với chị. Hà thấy họ đi với nhau, chị cán

bộ người thô kệch, búi tóc cao lên sau gáy, người chồng có vẻ thư sinh, dong dỏng cao nét mặt thanh tú, nghe đâu họ lấy nhau vì Đảng kết hợp. Tháng trước người chồng chết trong trận đánh ở gần Huế, tin chồng chết đến với chị cán bộ trong khi chị đang chủ tọa một cuộc họp phụ nữ xã, người ta gọi chị ra để báo tin. Chị nghe qua nét mặt không đổi sắc vẫn bình tĩnh trở vào tiếp tục chủ tọa cuộc họp, và tuyên bố rằng việc cá nhân không thể để ảnh hưởng đến việc đoàn thể được. Cái cách để tang chồng của chị cán bộ mới lạ hơn nữa: tóc chị từ trước vẫn búi cao lên bây giờ chị tuyên bố cắt tóc để tang chồng, chị cắt ngắn xõa ngang vai, nay nom chị đi đằng xa trông như một thiếu nữ không có dấu vết gì của một góa phụ hay một người đàn bà có chồng nữa. Hà thấy mọi người đều tỏ ra kính phục chị cán bộ ấy lắm, các bà các chị trong vùng này gần như sợ hãi nịnh nọt chị ta đủ điều.

Hà nói với Lương, giọng van lơn:

– Anh xem, làm sao em có thể hiểu được những điều đó. Sự tiến bộ đó quá với sức con người của em. Ở đây chúng ta lạc lõng quá, mọi người đều lạnh nhạt với mình, bà con làng nước ai có cảm tình với mình cũng không dám đến gần mình nữa, họ sợ liên lụy. Ngay giữa họ với nhau cũng không ai dám tin ai cả. Anh có nghe người ta nói đã đến lúc phải tiêu diệt địa chủ để chia ruộng đất cho bần cố nông đó không. Em tưởng đã đến lúc chúng mình phải rời khỏi nơi đây. Chúng mình trở về thành phố, con mình đã đến tuổi đi học, anh không làm việc cho Tây thì không có gì phải ân hận. Anh sẽ có thì giờ tiếp tục viết sách, anh nghĩ sao?

Lương suy nghĩ điều đó đã lâu lắm rồi, nhưng không bao giờ anh muốn đề cập đến. Những điều Hà nói như âm vang của tâm trí nhọc nhằn của anh. Mọi sự dàn trải ra đó, ai mà không thấy không biết, nhưng sự im lặng trong lúc này vẫn như một nơi ẩn náu cần thiết.

Đối với Lương thật khó xử vô cùng, vợ con anh thì không nói làm gì, chứ còn anh mà trở về thành phố là mang tiếng đầu hàng, là theo giặc, không thể biện minh gì hơn được, dù ở đây người ta không dung anh, anh không giúp gì cho kháng chiến như anh có thể mong muốn được cả. Anh ở vào tình trạng không lối thoát. Lương buồn bã cầm tay vợ, bàn tay đã chai cứng mỏi mòn, anh nhìn khuôn mặt héo hon của vợ, anh hỏi nàng bằng một giọng thương cảm:

– Hà, em nghĩ chúng mình có thể tạm xa nhau trong ít lâu được không?

Hà hốt hoảng, nàng trố mắt nhìn chồng:

– Anh bảo sao, xa nhau là thế nào?

– Em ạ, bây giờ chỉ còn có một cách, là em mang con về Huế ở với cha mẹ để phục hồi lại sức khỏe cho các con và cả cho em nữa, dạo này anh thấy em gầy yếu quá. Còn anh thì anh phải ở lại ngoài này, anh cũng biết những công việc mà anh em ở đây họ giao cho anh tuy tầm thường nhỏ nhoi thật đấy, nhưng đối với anh nó bao hàm thật nhiều ý nghĩa trong đời sống này.

Anh không thể chọn lựa, những điều em vừa nói không phải là anh không nghĩ đến, nhưng anh vẫn còn hy vọng, dù thật là mơ hồ, cả hy vọng cái gì anh cũng không biết rõ. Anh vẫn nghĩ rằng tình thế sẽ sáng sủa dần dần. Nhưng anh thấy em và các con đã kiệt sức, quả thật không khí chiến tranh không thể dung dưỡng đàn bà và trẻ con, em và các con không thể chờ đợi hơn nữa. Anh thì vẫn phải chờ đợi. Thế cho nên anh xin em mang con về trước với cha mẹ, đó là nơi trú ẩn cần thiết cho em và con trong lúc này.

Hà lắc đầu một cách cương quyết, nàng sờ vào khuôn mặt gầy và xương xẩu của chồng:

– Ồ, thật là quá sức, em không thể tưởng tượng được em có thể sống nơi nào mà thiếu vắng anh, anh nghĩ quẩn rồi, em cũng vậy. Thôi vậy, chúng ta không trở lại vấn đề này nữa. Cứ để đến đâu hay đấy.

Hà đã giữ lời, nàng câm nín không than thở nữa, nhưng số phận đã thay con người để làm công việc của nó. Bé Cao, đứa con trai lớn lên ba tuổi của họ càng ngày càng xuống sắc, da nó vàng úa dần dần, nó không chịu ăn uống gì cả, chỉ còn da bọc xương, các y sĩ trong vùng đều thất vọng vì họ quá nghèo nàn về phương tiện trị liệu. Cuối cùng họ đề nghị cấp giấy tờ cho Hà mang con vào thành phố Huế để chữa bệnh.

Có một cái gì trong thời chiến, khiến cho những người thương nhau khi chia tay đều có một cảm giác giá lạnh, in thể lần cuối họ còn nhìn thấy mặt nhau.

Hai vợ chồng Lương thức trắng đêm bên nhau trước ngày Hà mang hai con trở về thành phố Huế. Gần về sáng Hà cố nuốt tiếng nức nở không cho thoát ra khỏi cổ họng, nàng sợ tiếng khóc sáng nay như một âm vang cuối cùng, một điềm xui xẻo có thể khiến cho nàng không còn thấy lại khuôn mặt yêu dấu của chồng nữa. Lương cũng vậy, anh sợ tiếng khóc của vợ, anh trầm ngâm lặng lẽ hút thuốc trong bóng tối, anh biết mỗi lời nói, mỗi cử chỉ yêu thương trong giờ phút này đều khơi nguồn nước mắt buồn đau. Vợ chồng Lương đã hẹn với nhau đem con về Huế chữa bệnh sẽ trở lại trong vòng ba tháng nữa. Ba tháng có là bao so với cả một đời họ đã hứa cho nhau, và khoảng cách trên sông dài cũng chỉ mang ý nghĩa thời gian buổi sáng thuyền nhổ sào buổi chiều cập bến.

Nhưng trong không khí chiến tranh vây quanh này, cuộc chia ly mang một sắc thái như cả thiên thu.




Chương 12

Lương đứng lại một mình trên bến sông, chiếc thuyền mang vợ con anh trôi xa dần, khuất hẳn trong sương mù buổi sớm. Đôi mắt thất thần của Hà ngoái nhìn lại anh, bàn tay trẻ thơ sờ soạng trên mặt anh khi anh cúi xuống hôn con, đứa lớn xanh xao vàng vọt, đứa bé u ơ chưa biết gì, tất cả những hình ảnh đó khiến lòng anh quặn đau, anh cố gắng tự nhủ: “Ba tháng, ba tháng, cũng không lâu la gì.”

Lương cúi đầu quay gót bước đi, anh đi không biết đã bao lâu, dọc theo con đường ven sông cho đến khi nắng lên vàng mặt sóng, Lương sợ phải về thấy lại căn nhà vắng vẻ, chỉ còn những khuôn mặt phẳng lặng của những người đàn bà họ hàng giúp việc ở trong nhà.

Vào khoảng mười giờ, Lương nặng nhọc lê chân về đầu ngõ nhà anh. Từ cổng vào Lương chợt nghe một tiếng hát quen thuộc, tiếng hát của một người con gái, điệu hát buồn, xa vắng, thoảng nhẹ trong không khí tịch liêu:

“Lầu trai ấy, nắng đời vương tóc xanh,
Tháng ngày dần trôi nhanh
Khói rung đó đây, rồi say
U trầm trong bóng mây…
Nắng, nắng vàng, trùm không gian
Nhắc ta ngày xưa ấy…”

Tiếng hát êm đềm, cao vút nhưng rời rạc từng câu,cho Lương thấy người con gái đang vừa hát vừa nghĩ một điều gì đó. Thốt nhiên, Lương thấy lòng rộn lên một niềm yên ủi dịu dàng, dường như thực tại đã lùi xa. Lương nhắm mắt lại, tiếng hát mang anh về một thời xuân xanh vui sướng, một thời mà anh đã từng có tất cả, trời xanh, quê hương, bóng tre ngà, tiếng chim hót mùa xuân, những ước vọng đắm say, thảy thảy đều còn nguyên vẹn chưa hề có gì mất mát. Một thời nên thơ mà tiếng hát quen thuộc đã khơi dậy tất cả, từ mấy năm nay anh không nghe lại tiếng hát đó. Anh vụt la lên:

– Huyên, em đấy à?

Tiếng hát ngưng bặt, từ phía tiền đình ăn thông đến thư phòng của Lương, một thiếu nữ trạc mười sáu tuổi mặc chiếc áo dài màu nâu chạy ra thật vội vàng, nàng chạy về phía Lương, tóc nàng thật dài bay tạt về phía sau để lộ một khuôn mặt trắng xanh, đôi mắt đen láy trong sáng lạ thường, cái nhìn thẳng như đi sâu vào hồn người, sống mũi cao thanh tú nhưng có một tí gồ lên bướng bỉnh, đôi môi nhợt nhạt của chứng sốt rét nhưng nét cười thật tươi, chiếu sáng rực rỡ cả khuôn mặt gầy yếu của nàng. Nàng đưa hai tay về phía Lương:

– Anh, em chờ anh mãi, em đến chậm quá không gặp được chị và các cháu, em chạy ra bến nhưng không thấy ai cả.

Lương nhìn em, người em gái có họ với anh, nói trong mơ: “Thuyền đi từ sáng sớm kia em ạ, chị mang hai cháu về Huế chữa bệnh ba tháng nữa mới về trở lại.”

Anh nắm hai bàn tay nhỏ nhắn ấm áp của thiếu nữ:

– May quá lại gặp em về như thế này là anh mừng lắm. Em về từ bao giờ?

Huyên vui vẻ nắm tay anh đi vào nhà, giọng nói của nàng reo vui:

– Em về đến nhà tối hôm qua, em muốn sang đây ngay nhưng bận bịu với bên nhà mãi, sáng nay em mới qua thì thím Hai bảo anh đưa chị và hai cháu ra bến đò đi Huế, em chạy thẳng ra bến không thấy ai, em về nhà chờ mãi cứ tưởng anh không về trưa nay.” Vào đến thư phòng Huyên buông tay anh chạy lại bàn cầm lên một chiếc mũ lợp bằng lá tro, nàng mang đến đưa cho anh.

– Em mang về biếu anh chiếc mũ; bây giờ nó là mốt mới nhất của Liên khu Tư đấy anh ạ, em đã phải đội nó trên đầu, bên trong cái nón lá của em, suốt cả tháng trời đi trên núi từ ngoài Hà Tĩnh vào đây đó anh. Cả tháng trời mưa rừng ròng rã, may sao về đến đây nó hãy còn nguyên vẹn em mừng quá anh ạ.

Lương đón lấy cái mũ đội lên đầu, anh đến soi vào gương treo trên tường ngắm nghía, cảm động:

– Ừ, trông cũng hay thật đấy em ạ, mà cái công em mang nó đi cả tháng trời đường núi thật là khổ.

Lương giở cái mũ xuống, cầm trong tay nâng niu đoạn thận trọng để nó lên đầu tủ sách, anh kéo ghế ngồi đối diện với Huyên lúc ấy đang ngồi trên một chiếc ghế gần cửa sổ đưa mắt vui vẻ nhìn theo Lương. Lương nhìn em xót xa:

– Em gầy và xanh quá, em có bị đau không?

– Không anh ạ, chỉ tại cuộc hành trình vất vả quá, em đã đi dưới mưa tầm tã suốt tháng vì gặp mùa nước lũ ở trên núi, trước kia em chưa từng nghe ai nói đến bao giờ. Anh nghĩ xem cả đoàn người cùng lội qua suối, nước chỉ lên đến đầu gối thế mà trận mưa ập xuống chỉ phút trước phút sau những người đi trước đã qua được bờ bên kia, những người đi sau đành đứng lại nhìn giòng suối dâng cao lên cuồn cuộn như thác có thể trôi phăng cả một tòa nhà to lớn. Em đã gặp nhiều trường hợp thật nguy hiểm tưởng không về đến đây được. Dọc đường em có bị lên cơn sốt rét một vài lần, mà vẫn phải đi dưới mưa.

Huyên dừng lại, nàng mơ màng nhìn quanh phòng:

– Thật không ngờ bây giờ đã ngồi ở đây rồi, nàng lẩm bẩm nhắc lại, thật không thể ngờ được.

– Anh nghĩ lấy làm lạ sao em về nhà vào mùa này. Đây là mùa tựu trường mà, nếu em định về em phải về ngay từ đầu mùa hạ chứ?

Huyên quay lại: 

- Vâng, đáng lẽ em phải về từ đầu mùa hạ, nhưng em có định về đâu. Hồi đầu tháng năm em ra Thanh Hóa để thi vào trường Y sĩ, em đã phải đi gần nửa tháng trời cả đường thủy lẫn đường bộ mới ra đến nơi. Dọc đường em gặp nhiều chuyện gian nan vô cùng, nào máy bay bắn phá dọc quốc lộ, nào thiên hạ chém giết cướp bóc nhau, đi đến đâu em cũng nghe những vụ thanh toán nhau vì đảng phái, vì nghi kỵ, người ta nhìn thấy khuôn mặt kẻ thù ở khắp mọi nơi, nhưng cuối cùng em cũng đến nơi, em thi đậu cao và được nhận vào trường Y sĩ. Thế nhưng em lại phải rời bỏ nơi đó và cũng từ bỏ luôn ý định sẽ trở thành thầy thuốc.

– Vì sao vậy em?

– Vì em không phải là đảng viên, do đó có một vài vấn đề được đặt ra, em có thể vượt qua được nhưng em bỗng thấy chán nản vì thấy trước những ngày kế tiếp phải đương đầu với những điều vụn vặt gây cho mình những khó chịu liên miên như ở trường cũ em đã gặp, nếu mình cứ mãi mãi đứng ngoài.

– Anh nghĩ em còn trẻ quá, nhưng vấn đề đảng phái bây giờ cũng cần thiết cho sự cầu tiến lắm đấy, dù sao em cũng còn nhiều thì giờ lắm mà.

– Vâng, em biết thế, dù sao em cũng mừng rằng nhờ tuổi em còn ít nên vấn đề đó chưa trở nên quan trọng đối với em. Nhưng em biết trước rằng em không thích hợp với những vấn đề đảng phái, thế thôi.

Lương chăm chú nhìn em:

– Em thử nói anh nghe vì sao mà em nghĩ như vậy?

– Ở trường em có nhiều người bạn ở trong Đảng, có nhiều người rất tốt và rất lý tưởng. Nhưng em thấy họ dần dần trở nên giống nhau một cách phi lý. Họ rập nhau từ dáng điệu cho đến cách phát biểu tư tưởng, cứ như khuôn đúc. Những lập luận của họ dần dần trở nên khô khan, giáo điều và từ đó không bao giờ thay đổi. Em không muốn là một cái khuôn bởi vì Trời đã sinh ra mình để làm người. Một cái khuôn không thể là một con người, vậy không có lý gì một con người lại đi biến mình thành một cái khuôn. Những cái khuôn luôn luôn mang lại một hình thức toàn hảo nhưng nhàm chán và buồn tẻ.

– Dạo này em ăn nói có vẻ người lớn quá nhỉ, ở tuổi em bây giờ hồi trước anh còn chơi thả diều.

– Em vẫn còn chơi thả diều được mà anh, nhưng anh nghĩ xem, ở trường trung học chúng em phải học tập và nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lê hằng ngày, lại tối nào cũng phải sinh hoạt tập thể, học hành kiểm thảo liên miên, mỗi cuối tuần lại thay phiên nhau thuyết trình những đề tài biện chứng pháp, anh có thấy em ăn nói già dặn cũng không có gì lạ.

Huyên dừng lại, nhìn anh tỏ vẻ áy náy không yên:

– Thế còn anh, anh có gì đổi khác không anh? Anh vẫn còn là anh Lương của em ba năm trước đây chứ?

Lương phì cười:

– Thế cô trông anh ra cái gì nào? Để anh nói cho em yên trí, anh vẫn là anh, có nghĩa là anh có muốn khác đi cũng không được, không ai cho anh có quyền làm khác đi đâu.

Huyên cười thoải mái:

– Như thế mà hay đó anh ạ, nàng nói tiếp, chuyện em trở về đây không hẳn là vì như thế, giữa lúc em đang phân vân chưa biết quyết định bề nào vì em cũng tiếc một cơ hội học một nghề chuyên môn mà em yêu thích thì có tin trường Y sĩ nơi em định theo học sắp dời qua Vân Nam, một tỉnh ở địa đầu Trung Hoa, để tránh máy bay địch, để bảo toàn nhân mạng của trường. Nghe nói phải đi đến một vùng xứ sở khác, như vậy có nghĩa là phải đi qua cả mấy khu vùng Bắc Việt, để băng qua biên giới và sẽ phải sống nhiều năm ở một nơi xa hẳn quê hương, khi ấy tự nhiên em thấy nhớ làng vô hạn, từ ba năm ra học ở miền ngoài ấy chưa bao giờ em cảm thấy nhớ quê đến như thế. Có một mãnh lực thâm trầm thúc đẩy em phải trở về đây tức khắc, mặc dầu em vẫn biết rằng gia đình em không còn ở lại đây nữa. Thế là em bỏ hết, lúc bấy giờ vào giữa tháng sáu. Trên đường về cực khổ gian nan cũng nhiều, nhưng bây giờ em đã ngồi đây rồi, nhất là lúc này, gặp lại anh, lại ngồi trong phòng sách của anh em mình như những ngày xưa, em thấy như không có gì cực khổ đã đi qua trong đời mình cả.

Nàng nhìn quanh, vẻ xúc động:

– Như những ngày thanh bình mà bác và ba em còn sống, những ngày chủ nhật anh em mình ở Huế kéo nhau về đây và mọi người đang sửa soạn cho một ngày kỵ giỗ. Thật là tuyệt vời.

Huyên đứng dậy, vươn đôi vai bé nhỏ, phác một cử chỉ sung sướng, nàng vịn tay vào chấn song cửa sổ, nhìn ra ngoài, nàng nhắc lại: – Thật là tuyệt vời.

Lương ngồi yên, nhìn theo từng cử động của em, giọng anh trìu mến:

– Anh cũng có cảm tưởng y hệt như em vậy khi anh về từ ngoài ngõ, nghe tiếng em hát ở trong nhà. Thật vậy, lâu lắm anh hầu như quên mất trước kia chúng ta đã có những thời kỳ sung sướng như thế nào, khi nghe tiếng hát của em anh nhớ lại tất cả. Anh còn nhớ cái hôm em chạy qua rối rít gọi anh “Anh Lương, hãy qua xem em có con chim nghệ,” tiếng nghệ em kéo dài ra nhão nhoẹt, lúc ấy anh đứng sau vườn, nghe tiếng em anh buồn cười quá nhưng anh cứ đứng im không lên tiếng xem em làm gì nữa, chợt anh thấy em nín bặt, rón rén đi đến khóm hồng trước sân vuốt ve nâng niu một nụ hoa hồng mới nở thật đẹp, vừa hát nho nhỏ một mình. Khi ấy anh biết là em đã hoàn toàn quên mất cái chuyện đi tìm anh để khoe với anh con chim nghệ của em.

Huyên cười vang, tiếng cười của nàng thật vui:

– Ồ, giống như chuyện ông cọp đêm ba mươi ấy anh nhỉ?

– Ông cọp đêm ba mươi như thế nào?

– Anh không nhớ à, hồi nhỏ nhà hay kể chuyện cọp đi trên núi chứ ở dưới ruộng mình nói động đến nó là nó nghe hết, nó nghe nó bèn đi kiếm mình để ăn thịt, nhưng phải đến đêm ba mươi Tết nó mới có tài nghe được như vậy. Được cái đêm ba mươi trời tối quá cọp đi không thấy đường húc đầu vào cây, thế là cọp ta quên hết, lại phải trở về rừng lại vậy.

Lương cười: – Thì ra em cũng là cọp đấy thôi, vừa ở trên rừng về chứ còn gì nữa. Anh thấy bây giờ lớn lên em vẫn không thay đổi gì cả. Vẫn dễ vui, dễ buồn, thích cái gì là làm cho bằng được, và có thể buông rơi tất cả bởi một ý nghĩ nhỏ nhoi nào đó. Cái hồi em xin ra học ngoài Hà Tĩnh anh lo ngại lắm, phải đi cả tháng trời trên núi mà từ bé em quen sống trong sự sung sướng làm sao mà chịu đựng được khổ cực dọc đường, và sự thiếu thốn ở miền kháng chiến, thế mà em vẫn nhất quyết đi, và em đã đi được thật. Bây giờ lại đùng đùng bỏ về, cũng làm một chuyến gian nan vô cùng, chỉ vì tự nhiên nhớ làng ghê gớm. Anh chịu em rồi đó.

Huyên quay lại nhìn anh:

– Ở trường em học có nhiều bạn bè trạc tuổi em, gia đình giàu có sung sướng hơn em nhiều, vậy mà họ cũng rời bỏ gia đình và thành phố đi ra ngoài đó. Có mấy anh em một người bạn gái của em, ông thân sinh ra nó hiện làm Thủ Hiến Trung Việt ở Huế, lừng lẫy sang trọng mà bạn em nó phải chịu ăn đói để đi học ngoài trường em đó anh ạ. Tất cả bạn học của em đều phải đi như em vậy. Chúng em phải qua những chiến khu suốt dãy Trường sơn, qua Liên U Ba Rền, qua những hang động cheo leo, những quốc lộ nguy hiểm, đi sát bên đồn bót của Tây, cực khổ lắm nhưng thú vị cũng nhiều anh ạ, y như một cuộc phiêu lưu mạo hiểm mình xem trong các phim hồi nhỏ vậy đó.

– Có gì mà không đẹp đẽ thú vị đối với tưởng tượng của em đâu.

Huyên vẫn say sưa kể:

– Em đã đi qua động Phong Nha thật đẹp, thật huyền ảo, vào đó tưởng tượng như mình lạc vào một thế giới huyền hoặc nào đẹp quá để có thể là sự thật. Đến Quảng Bình, em đi qua một thị trấn rất thơ mộng, cảnh trí như trong các chuyện thời xưa, đó là Minh Cầm, cái tên tuyệt đẹp, phải không anh? Minh Cầm là thị trấn ở địa đầu vùng an toàn của Liên khu Tư, thị trấn nằm bên một giòng sông, rộng mênh mông, trên sông nổi lên những ngọn lèn, lèn là tiếng của người vùng đó để gọi những ngọn núi đá dựng lên cao vút như bức trường thành sừng sững giữa sông, cảnh trí thật hùng vĩ. Hai bên đường trước mặt dãy phố dọc bờ sông rặt một thứ cây ngô đồng, thân cây to lớn và bươm bướm bay rợp trời, khiến em bất giác nhớ lại những câu đồng dao của thời vua Ngô Phù Sai và Tây Thi thuở trước, giòng sông Minh Cầm nó còn đẹp hơn Ngũ hồ nhiều, em chắc thế.

Lương mỉm cười: “Em anh trở thành thi sĩ từ bao giờ thế?”

Huyên cũng cười theo anh:

– Làm thi sĩ làm quái gì anh, thi sĩ chán lắm anh ạ, cứ phải lải nhải hoài những điều không bao giờ làm cho họ thỏa mãn, em không muốn trở thành thi sĩ đâu. Để em kể tiếp anh nghe, đến Minh Cầm chúng em được đi goòng một đoạn đường đến một cái bến gọi là Đò Vàng. Goòng là một loại toa xe lửa trước kia còn sót lại, chạy bằng than có khi còn bằng sức đẩy của người để lấy đà qua những đoạn đổ dốc. Chúng em độ mươi đứa đi goòng nhằm đêm sáng trăng, khi chiếc goòng đổ xuống một vùng bình nguyên trắng xóa lau lách trong đêm, em nao nao chỉ muốn khóc, em nhớ những chuyến đi xe lửa từ trên đèo Hải Vân đổ xuống

Lăng Cô hồi trước. Có những hạnh phúc mà khi đã qua mình mới biết là có nó, lạ thật anh nhỉ?

– Đó là điều mà con người thường hay nhận ra rất muộn màng, nhưng có vẫn còn hơn không em ạ. Em kể làm anh nhớ chuyến đò dọc trong những mùa trăng những năm về trước.

Anh nhớ mỗi buổi chiều thứ bảy là mình ra bến Gia Hội, đò làng mình vẫn thường cập bến ở đó. Xuống đò nằm suốt đêm, sáng ra là đến bến làng mình, chơi cả ngày chủ nhật ở ngoài đồng, chiều lại nằm đò suốt đêm để sáng thứ hai có mặt ở Huế mà đi học. Nhớ lại mình đã trôi bồng bềnh suốt thời niên thiếu đi về trên sông qua phá Tam Giang từ Huế về làng, anh nhớ những giấc ngủ chập chờn trong tiếng hò mái nhì thâu đêm trên mặt nước lòa ánh trăng. Em có nhớ những câu hò mái nhì không em? Nó đã ru mình ngủ một thời tuyệt đẹp. Bây giờ những hình ảnh đó chỉ như truyện cổ tích, mới mấy năm mà tưởng xa lắm rồi em nhỉ.

Cả hai anh em cùng bùi ngùi yên lặng, một nỗi gì xa xôi, không rõ rệt như một thoáng bâng khuâng, như một niềm xa xót. Huyên nhìn vết trũng sâu trên đôi mắt người anh chợt thấy lòng mình chùng xuống.

Có tiếng người cười nói xôn xao ngoài sân, Lương đứng dậy: 

- Ai đến vào lúc này kìa, để anh ra xem thử ai đó.




Chương 13

– Cái thằng trông bộ điệu dáo dác thế kia, mày lo tìm bầy gà tơ đấy hẳn? Hãy bỏ cái bộ tịch đói khát đó đi, hãy tỏ ra là một người đàng hoàng xem nào.

Hồ trả đũa ngay: “Có mày mọi rợ thì có, đi tới nhà ai là chỉ lo nghĩ tới chuyện ăn thôi, đi thăm anh Lương mà cứ nghĩ tới bầy gà tơ, không biết ngượng. Hãy tỏ ra đứng đắn tí nào, trước mặt tao mày phải đi đứng cho tử tế nghe không.”

Hoàng làu nhàu:

– Mấy thằng quỷ này, cãi vã nhau cả ngày, nghe nhức óc, khi nào cũng như những đứa trẻ con, đừng làm tao nổi xung lên nghe.

Chưa ra đến sân Lương đã nghe tiếng Hoàng, Bửu, Hồ, Phong cãi nhau ỏm tỏi. Lương mỉm cười, cảm thấy vui vui; các ông tướng đây rồi. Anh bước ra sân vừa gặp Huỳnh, Lương vui mừng ôm lấy bạn:

– A, Huỳnh, anh đã lành rồi sao, đi được rồi đấy à?

Huỳnh siết tay Lương: “Tôi đã trở về đơn vị, hôm nay chủ nhật, các ông ấy rủ kéo nhau qua thăm anh chị đây, ý là các ông ấy muốn nhắc nhở câu mời hấp dẫn của anh tháng trước đấy mà.”

Lương vui vẻ: “Tốt lắm, xin mời cả vào đây. Đây là Huyên, em họ của tôi. Từ ba năm nay Huyên học ở Liên khu Tư, vừa mới về đây hôm qua, sáng nay anh em tôi mới gặp lại nhau đấy.”

Lương lần lượt giới thiệu các bạn với em, mọi người chào hỏi nhau xong, Huỳnh hỏi:

– Chị và các cháu đâu rồi anh?

Lương cười buồn: “Hôm tưởng là ngày buồn lắm vậy mà hóa ra vui. Sáng sớm nay tôi đưa Hà và hai cháu đi Huế. Cháu Cao bị đau, nó cứ mòn dần đi. Hà được phép đưa hai cháu vào Huế chữa kẻo ở đây không đủ phương tiện. Vợ con đi rồi tôi buồn quá, đi lang thang một lúc, định về qua nhà dặn dò một chút rồi qua ở lại với anh đêm nay, ai ngờ về đến nhà thì gặp Huyên rồi tiếp đến bây giờ có anh và các chú nữa. Tất cả mọi người đều đến với tôi đúng lúc quá.”

Huỳnh chép miệng: “Thôi thế cũng hay, để chị ấy đưa cháu đi cho qua một lúc, chứ ở đây cứ nơm nớp chạy giặc mãi, mình đàn ông không nói làm gì chứ đàn bà trẻ con thấy tội lắm.”

Hoàng gật đầu tán thành:

– Vâng có thế thật, thấy cảnh anh Lương bây giờ tụi em nghĩ mà sợ, trời đất kháng chiến này chắc không bao giờ tụi em dám nghĩ đến chuyện vợ con đâu.

Lương cười xoà:

– Hãy cứ biết thế, có chắc gì đâu, người ta nói một đàng làm một nẻo là sự thường đấy nhé. Các cụ ngồi chơi nhé, tôi đi dặn qua người nhà làm cơm trưa nay, họp mặt đông đủ như thế này phải có gà mới được. Hôm nay mừng em Huyên vừa đi xa về nhà và anh Huỳnh vừa bình phục. Thật không ngờ mà vui quá. Huyên kể chuyện Khu Tư cho các anh nghe đi em, anh xuống nhà một tí anh lên ngay.

Lương ra khỏi phòng, Huỳnh nói với Huyên:

– Trông Huyên gầy yếu thế mà đi được từ ngoài kia vào đây, phải đi cả tháng trường, làm sao Huyên đi nổi?

– Vâng, hồi em mới rời gia đình đi ra ngoài ấy cách đây ba năm thật là cực khổ vất vả với chuyến đi đầu tiên ấy, bây giờ thì cũng quen chịu đựng rồi anh ạ.

– Tôi nghe anh Lương nhắc đến Huyên luôn, Huyên về đây đã được tin tức gì về gia đình Huyên ở trong thành phố chưa?

– Em mới vừa về hôm qua, chưa hỏi thăm được tin tức gì của mẹ và các em của em cả. Gia đình em ở mãi trong Hàn chứ không phải ở Huế, nên tin tức cũng khó khăn lắm.

Phong xen vào:

– Huyên kể chuyện đi học ở ngoài Khu Tư cho chúng tôi nghe đi nào, kể chuyện qua Liên U Ba Rền cho bọn này nghe với, xem có kinh khủng như người ta thường tả không nào.

Hồ tỉnh bơ quay mặt nhìn ra sân, hát khe khẽ:

“Trèo đèo Ba Rền
Băng qua Nhã Nam
Vui lên đi tươi cười nụ cười gian nan,
Nghe đâu đây Liên U
Nơi chân chồn mỏi gối
Đường trường xa lắc, còn đi mấy ngày…”

Phong quay lại, trừng mắt:

– Cái thằng quấy hoài, có im đi cho người lớn nói chuyện không mày?

Huyên cố nhịn cười:

– Anh ấy hát đúng đấy, vâng, Huyên đã đi ngang qua Ba Rền rồi đấy ạ. Đó là một đỉnh núi khá cao mà người ta phải vượt qua trong cuộc hành trình ra vào Liên khu Tư. Nghe mọi người truyền miệng thì cũng ghê gớm lắm, bởi vì dọc theo con đường trèo lên núi có vài nấm mộ rải rác bên đường. Người ta thêu dệt rất nhiều chuyện khủng khiếp chung quanh những nấm mồ vô danh đó. Nhưng theo Huyên thì Huyên nghĩ rằng đó là những người bị chứng đau tim hay bị cảm sốt dọc đường nên họ không chịu đựng nổi một cuộc leo núi, thế thôi. Với những người bình thường thì Ba Rền không có gì ghê gớm cả, chỉ mất nửa ngày để leo lên đỉnh núi và nửa ngày còn lại để trụt xuống chân núi bên kia; lại còn cái thú khi lên tới đỉnh núi bỗng thấy mình đứng trên một biển mây, lần đầu tiên khi nhận thấy thế Huyên kinh ngạc và vui sướng vô cùng. Theo Huyên thấy thì trong một thời thanh bình nào đó, mọi người cũng cần có những cuộc đi núi như thế trong những dịp hè, cũng là điều thích thú và bổ ích lắm đấy chứ.

Bửu gật gù:

– Thế là Huyên vừa qua một cuộc leo núi mùa hè này đấy.

– Vâng, có lẽ cứ xem như thế nó lại bớt tính cách gian nan trầm trọng hơn.

Lương đã trở lại ngồi bên Huỳnh từ lâu, anh nhìn em gái bằng đôi mắt trìu mến:

– Em vẫn không bỏ cái tính lạc quan hóa mọi vấn đề, anh thấy chuyện gì cũng khiến em trầm trồ thích thú, cả những chuyện khiến người khác bực mình, với em bao giờ nó cũng đâm ra hay hay.

Hoàng hỏi: “Như thế chắc Huyên không biết buồn đâu nhỉ?”

Huyên cười, đôi mắt chợt im vắng, tiếng nàng nhẹ nhàng: “Vâng, có lẽ thế.”

Người nhà mang lên một ấm nước chè. Huyên đón lấy, đến bên kệ tủ lấy mấy chén con rót nước ra chén, mang đến từng người.

Bửu đón lấy chén nước từ tay Huyên, chàng ấp chén nước ấm nóng trong lòng bàn tay, nhắm mắt hít mùi nước chè xanh có bỏ gừng tỏa ra thơm ngát cả căn phòng.

– Cám ơn Huyên, lâu lắm tôi mới được uống nước chè trong một cái chén xinh nhỏ như thế này, và lại do tay một người khác đưa mời. Thường thì tụi tôi chỉ uống nước trong cái ca bằng nhôm múc nước từ trong một cái vại, mà nếu chậm chân chậm tay là hết.

Hồ liếc xéo Bửu:

– Thằng này lại giở trò tiểu tư sản ra rồi. Huyên biết không, nó dòng vua, cái giống đế quốc phong kiến ấy mà. Đi kháng chiến mà bao giờ cũng mơ mơ màng màng cứ tưởng như mình là ông hoàng như thời trước. Đêm nào trước khi đi ngủ nó cũng làm cái trò như thế này, nó hô: “Hai tay” – “Dạ” – “Làm giường cho cậu ngủ,” thế là hai tay ông ấy lo kê một tấm ván hay quơ một đống rơm vun lại làm chỗ nằm; khi nằm vào chỗ ngủ rồi, ông ấy lại hô: “Hai tay” – “Dạ” – “Đắp mền cho cậu,” xong ông ấy mới thò hai tay kéo chăn lên trùm kín đầu đánh một giấc ngon lành, cứ y hệt như là ông hoàng ấy thôi.

Mọi người cười vang, Bửu quay lại sừng sộ với Hồ:

– Mày chỉ được tài nói người khác, còn cái thứ mày đi kháng chiến mà lúc nào cũng lo kỳ cọ hai bàn chân với hai bàn tay trắng nõn như tay con gái thì sao, xin quý vị cứ nhìn tay chân nó thì biết, cứ gọi cách mạng vô sản vùng lên họ chặt tay chân của mày trước hết.

Mọi người cùng quay lại nhìn Hồ, quả nhiên tay chân của Hồ trắng múp như tay chân con gái thật, Hồ càu nhàu Bửu:

– Trời sinh ra tao như rứa, mi ghen sao?

Tất cả lại cười vui, mọi người đều cảm thấy thoải mái, bọn Hoàng vui vì sự có mặt của Huyên trong buổi họp mặt này như một bóng mát nhắc nhở họ nhớ lại những năm thanh bình ở trong thành phố của họ, ở đó họ có những người chị, những người em gái, bạn gái hay người yêu đã dành tất cả sự thương mến nuông chìu cho họ, đã lâu lắm rồi họ không còn được ai thêu cho một cái khăn hay cái áo gối, đan cho một chiếc áo, làm cho vài thức bánh hay đưa mời một chén nước trà chẳng hạn. Những thói quen cam khổ hiện thời làm cho họ dường như không còn nhớ rằng đã có những điều đó trong đời.

Buổi trưa hôm nay mọi người vui vầy họp mặt trong thư phòng của Lương mà những kệ sách đã gần như trống rỗng không còn gì nữa, những chiếc trường kỷ, bộ bàn ghế bằng gỗ trắc, những cái tủ, tất cả đều được chạm trổ tinh vi lên nước đen bóng có khảm những miếng xa cừ ngũ sắc, những chiếc rui, xà cột nhà to lớn cũng đều được chạm hình long ly quy phượng. Khung cửa sổ màu xanh mở ra khu vườn cây rợp mát phía sau tỏa hắt vào phòng một ánh sáng trong trẻo xanh lơ. Căn phòng tuy không tránh thoát vẻ trần trụi điêu tàn dấu vết của chiến tranh, vài vết đạn xẹt qua mũi chiếc đầu rồng trên cái xà ngang to nhất, chiếc trường kỷ kê ở góc trái bị đạn cày thành một đường trũng để lộ màu gỗ chân phương trắng toát, tất cả đều phủ một lớp bụi mỏng tỏ ra không được săn sóc tỉ mỉ như xưa, nhưng những cái đó gây ấn tượng vang bóng một thời êm đềm vàng son nhất. Sự có mặt của Huyên, người con gái mảnh mai với làn da xanh xao dáng vẻ học trò, hồn nhiên vui vẻ trong ánh mắt nụ cười trong khung cảnh này khiến bọn Hoàng tưởng như mình đang sống lại cả một thời yên vui thuở trước.

Đột nhiên, một sự yên lặng bao trùm tất cả.

Buổi trưa ở miền quê chợt lắng đọng, nghe thật xa tiếng hò của một người thợ cấy buồn não nuột. Nền trời ngoài kia trong vắt không gợn mây, nhưng từ phía cánh đồng xa chạy dài đến tận giòng sông bốc lên một lớp hơi mờ dị hoặc, làm chìm xuống ngọn nắng hanh hao của buổi chớm thu, một màu vàng óng chuốt lung linh tỏa khắp không gian. Từ trong căn phòng im mát này nhìn ra, người ta có cảm tưởng như mình đang được bao bọc bởi những tơ vàng rực rỡ.

Tiếng cười của Huyên trong vắt:

– Sao tự nhiên mọi người yên lặng cả thế?

Huỳnh trỏ bọn Hoàng:

– Mấy ông tướng này có mấy khi ngồi yên vậy mà bây giờ ngồi mặc niệm như thế kia là vì các ông ấy bị ngợp vì cảm thấy hạnh phúc quá trong hiện tại này đấy thôi. Tôi nói có đúng không các cụ?

Hoàng mỉm cười: “Chịu anh rồi đấy, – giọng chàng chợt trở nên bâng khuâng – sao lại có những thời khắc lạ lùng như thế này nhỉ? Mình có cảm giác đầy đủ quá đến nỗi đâm ra lười biếng, không muốn nghĩ gì, nói gì nữa hết.”

Bửu mỉm cười quay sang Huyên:

– Hoàng nói đúng đấy. Huyên biết không, chiều nay khi bọn này rời khỏi đây trở lại nơi trú đóng, lại phải mang cà mèng, ca, muỗng loảng xoảng ra đứng giữa sân chờ hỏa đầu vụ phát cơm, nhận phần của mình xong phải lo đớp cho thật nhanh chứ nếu ăn nhấm nháp chậm rãi sẽ bị phê bình là tiểu tư sản. Tiểu tư sản được coi như đồng nghĩa với phản quốc, là đi theo Tây, giết hại đồng bào, có thể hiểu nôm na làm vậy. Sau khi ăn cơm là buổi họp kiểm thảo việc làm và tác phong của mình trong ngày, phải nặn óc moi cho ra một lỗi nào đó của mình để xung ra, nếu không sẽ bị phê bình là mang bệnh tự mãn, tự kiêu, không hề thấy mình có lỗi. Lại phải xoi bói moi móc cho ra một lỗi nào đó của đồng đội để phê bình họ, nếu không sẽ bị cho là không có thiện chí xây dựng cho đồng đội. Kế tiếp, là thảo chương trình hoạt động cho ngày mai. Cái ngày mai ấy cũng lại sáng làm việc, trưa họp, chiều làm việc, tối họp, và cái vòng lẩn quẩn cứ y như thế đều đều. Chúng tôi phải luôn luôn tự dằn vặt để tìm cho ra tư tưởng xấu và hành động sai của mình cũng như phải xét nét tìm tòi những điều tương tự ở anh em đồng đội tối ngày, không bao giờ được yên ổn thoải mái cả. Vì thế, giây phút này, khung cảnh này, những khuôn mặt bạn bè này đã mang lại cho chúng tôi cảm giác bình yên, thư thái vô cùng. Chúng tôi không được thấy lại tưởng như nhiều năm lắm rồi.

Hồ lại quay mặt đi chỗ khác, ngâm nga: “Ở đây tai vách mạch rừng…”

Bửu ngoảnh lại, trừng mắt:

– Cái thằng này phá đám hoài, không để người lớn nói chuyện cho yên. Mày sợ hả, tao thì lâu lâu phải nói ra cho nó hả một chút, kháng chiến còn trường kỳ mà, cụ dạy thế mày không nhớ sao?

Hồ nói chậm rãi:

– Đồng ý với mày, nhưng mọi sự nó là vậy, ở đâu cũng thế chứ không riêng gì trong bộ đội chúng mình đâu. Mày hỏi Huyên xem ở trường Huyên theo học ngoài kia có như vậy không?

Huyên gật đầu:

– Không khác gì đâu các anh ạ. Không khí học đường lẽ ra phải được vô tư hồn nhiên nhưng Huyên và các bạn học cũng phải sinh hoạt y như các anh vậy thôi.

Huỳnh mỉm cười khoan hòa:

– Chúng ta không nên làm hỏng mất bữa cơm trưa đầy hứa hẹn sắp tới bằng những câu chuyện buồn thảm như thế, có phải vậy không anh Lương?

Như để trả lời Huỳnh, người nhà lên báo cơm đã được dọn xong, Lương đứng dậy tỏ vẻ hài lòng:

– Anh Huỳnh nói rất trúng, nào, chúng ta hãy đi ăn, mong rằng bữa cơm sẽ ngon cho quên bớt đắng cay trong cõi đời này vậy.

Bữa ăn có măng kho với thịt cò, mùa mưa ngoài ruộng đầy tôm tép và cá đồng nên thịt cò thơm phức và béo ngậy. Những miếng măng trắng ngần nằm lẫn với những thỏi thịt cò săn sắt ngập trong chất nước ngọt ngào trong bóng, bên trên có rắc hạt tiêu, một nhánh ngò xanh tươi mơn mởn vắt ngang trên chiếc tô tráng men có vẽ hình hai ông tiên đánh cờ, nét mặt tiên ông ngẩng lên trong một thần thái ung dung nhàn tản. Bên cạnh là một dĩa thịt gà xé bóp rau răm, những thớ thịt gà trắng muốt trong những lớp da màu vàng mỡ điểm những sợi rau xanh nom thật khỏe mắt và hứa hẹn nhiều cho vị giác. Lại có cá đồng kho với riềng, những con cá nhỏ bằng ngón tay tròn trĩnh vàng óng bên những cọng riềng màu ngà tỏa lên một hương vị đằm thắm hiển hiện những mặt nước cánh đồng dâng khói mùa thu. Và sau hết là món canh chua nấu măng giang với cá ngạnh nguồn, mùa nước lên, cá ngạnh từ trên nguồn kéo về đồng gặp nhau xây mùa tình ái nên con nào con nấy căng đầy bụng trứng vàng tươi óng chuốt giữa những sợi măng trắng, có những hạt mỡ ớt nổi lên long lanh đỏ trên tô canh bốc khói nghi ngút.

Bữa cơm ngon lành và thật là đẹp mắt, được nấu nướng bởi những bàn tay khéo léo của những người đàn bà miền quê Thừa Thiên.

Trong đời sống kháng chiến những bữa ăn như vậy rất hiếm hoi. Căn bếp đầy mùi khói nồng nàn của rơm rạ, người đàn bà quê mùa ngồi quay mặt vào bếp quơ từng nắm rơm đun dần vào lò, lửa nhảy múa vờn liếm trên chiếc ấm nấu nước, tiếng nước sôi reo nghe vui tai, một ngày đầm ấm như trong giấc mơ của một thời thanh bình nào đó.

Hiện tại bỗng xa vời như một bóng mây trôi.




Chương 14

Trong lúc mọi người nói chuyện, vui đùa giữa bữa ăn, Lương bỗng sực nhớ, anh hỏi Huỳnh:

– Sao lâu quá tôi không thấy Trần về nhỉ, lâu không gặp lại đâm ra nhớ. Giá bữa cơm hôm nay mà có Trần thì thật là vui hoàn toàn.

Gương mặt Huỳnh thoáng qua một chút u ám:

– Trần vừa đi dự lớp chỉnh huấn về gần một tháng nay, tôi nghe tin Trần bị đau nặng lắm, không biết đã khỏi chưa. Tôi vừa trở lại đơn vị, công việc sắp đặt chưa yên. Có lẽ phải đến tháng sau tôi mới đi công tác về trên ấy để đi thăm Trần luôn thể.

Hoàng chép miệng:

– Cũng khó mà chịu đựng nổi những điều như anh Trần đã trải qua, anh ấy đau nặng là phải.

Lương vốn ít biết tin tức trong giới những người kháng chiến nên anh hỏi:

– Có việc gì xảy ra cho Trần thế?

Huỳnh vắn tắt kể lại cho Lương nghe chuyện Trần đi công tác tình cờ chứng kiến vụ công an xử tử một cô gái ra sao, và người cán bộ công an chỉ huy vụ hành quyết đã dùng cô gái để thí nghiệm ba mũi tên tẩm thuốc độc của người thiểu số cho y ra sao, Huỳnh nói tiếp:

– Việc đó đã làm cho Trần điên đảo, xưa nay nó vốn cả lòng tin, nó mang một ý thức tốt đẹp toàn vẹn về đời sống chiến khu và không khí kháng chiến. Nó yêu đời và yêu người, nó yêu cả kẻ thù khi đã ngã xuống nằm trên trận địa. Có lần tôi và nó gặp nhau giữa trận Thanh Bồ, khi tiếng súng đã im, quân ta hoàn toàn làm chủ chiến trường, chúng tôi đi ngang qua một khe nước trông thấy xác một thằng Tây nằm vắt qua một cành cây mục, hai tay thòng xuống nước, mình mẩy trần truồng, chứng tỏ nó đã bị lính của ta lột sạch, việc đó là thường. Tôi định đi thẳng nhưng Trần kéo tôi lại xin tôi phụ với nó khiêng xác thằng Tây đặt lên một mô đất cao ráo, cho toán thu dọn chiến trường dễ tìm thấy. Thằng Pháp có những vòng tóc vàng hoe xõa rối trên vầng trán, khuôn mặt thật trẻ trung. Trần vuốt mắt, sửa tay chân cho nó thật ngay ngắn, đoạn nó đi bẻ một cành lá bội đắp lên chỗ trần truồng của xác chết, vừa làm mọi việc đó nó vừa nói thì thầm như thằng kia có thể nghe được nó: “Cái áo tao đang mặc là của quân đội tao phát cho, khi nào tao không đi lính nữa phải trả lại quân đội, vì thế tao không thể cởi ra đắp cho mày như lòng tao mong muốn được. Đồng đội tao nó lột mày trần như nhộng mày đừng giận làm gì, chúng nó nghèo, chúng nó cũng khốn khổ như mày, như tao vậy, đứa nào cũng trẻ trung, cũng yêu đời, đứa nào cũng còn cha mẹ, anh em, chị em, người yêu, bạn bè chờ đợi ở nhà, vậy mà cả lũ kéo nhau đến đây bắn giết nhau bằng thích. Đời nó xui khiến ra như vậy, cuộc đời chó chết lắm, mày thấy không, nhưng mày đã yêu nó, tao cũng yêu nó, yêu quá đỗi đến nỗi bị nó xui khiến cho phải xông ra chém giết nhau. Mày chết thật phi lý, tao mà chết cũng vậy thôi, hỏi quê hương mày, quê hương tao sẽ hưởng được những gì từ cái chết của mày, của tao? E rằng cả mày và tao, chúng ta đều không kịp biết đâu mày ạ.”

Huỳnh ngừng lại ngẫm nghĩ một chút, anh mỉm cười tiếp:

– Rồi nó chỉ mặt thằng Pháp nằm yên như say ngủ, bảo tôi: “Cái mặt thằng Pháp này phải sống để làm thi sĩ phải không mày, mày xem, vầng trán cao, rộng mênh mông xanh ngắt, vòng tóc vàng xõa rối thật lãng mạn, nét mặt thanh cao, chết mà con tươi rói, nó còn có vẻ thi sĩ hơn mày, hơn tao nữa. Nói cho cùng thì cái chết của nó cũng đẹp đấy chứ, trả lại thế gian tất cả những thứ đã khoác lên mình nó, áo quần, vật dụng, tên tuổi, chỉ còn lại chính nó mà thôi. Thì khi cha mẹ nó sinh ra, nó đã trần truồng mà chui ra, bây giờ đời có tước đi tất cả thì nó lại vẫn trần truồng, coi như huề vốn, có mất mát gì đâu mà buồn. Bây giờ nó nằm đây, bên khe ngọc tuyền, có hai thằng lính thi sĩ Việt Nam vuốt mắt nó, đắp lên mình nó nhành lá cây đã từng tô điểm phong cảnh quê hương Việt Nam. Đáng ra phải quấn cho nó bằng một lá cờ, nhưng nghĩ cho cùng, một nhánh lá cây giữa trời đất vẫn hơn, mày nghĩ sao?”

Lương bật cười:

– Ông ấy lếu láo thật, như thế chẳng trách gì, khổ thân là phải.

Hoàng nói:

– Tôi nghĩ tếu như thế mà có thể là đảng viên Cộng sản cũng lạ thiệt.

Huỳnh nhăn mặt:

– Thì tất cả mọi trái ngược đó vây hãm lấy nó, đang làm nó dở sống dở chết kia. Nó làm tôi lo ngại vô cùng.

Huyên tự nãy giờ yên lặng chăm chú theo dõi câu chuyện, đôi mắt nàng sáng lên vẻ hiếu kỳ mãnh liệt, bây giờ mới buột miệng nói:

– Người như thế mà là đảng viên sao, lạ nhỉ, như vậy thì không giống một cái khuôn tí nào, em mới nghe lần này là một đấy.

Phong hỏi:

– Huyên nói gì mà một cái khuôn?

Lương cười giải thích:

– Huyên nó bảo những đảng viên họ như cùng một cái khuôn đúc ra, rập nhau từ dáng điệu cho đến cách phát biểu tư tưởng, đi một chiều, không bao giờ thay đổi.

Bửu gật gù nhìn Huyên, giọng nói cố ý kéo dài:

– Một ví dụ khá đấy, có lẽ lại chính xác không chừng, cần xét lại cho kỹ, nghe.

Hồ lại sừng sộ:

– Mày bỏ cái giọng mệ của mày đi cho tao nhờ, cứ tưởng mình là vua hoài.

Hoàng quay sang, giọng đe nẹt:

– Mấy thằng này hễ người lớn nói chuyện là cứ chộn rộn hoài, tao đập cho một trận nên thân bây giờ.

Mọi người cùng cười nhưng bầu không khí chợt trở nên buồn tẻ, không còn vui vẻ nữa, như có một đám mây vừa giăng qua, bao trùm lên số phận con người.

Sau bữa ăn, trong khi Hoàng, Bửu, Hồ, Phong và Huyên ra ngồi nói chuyện dưới hàng hiên, Lương và Huỳnh vào phòng sách, hai người ngồi hút thuốc bên nhau, yên lặng một lúc lâu.

Huỳnh gạt tàn thuốc vào một cái dĩa, vẻ trầm ngâm cất tiếng, nói chậm rãi:

– Anh để chị mang cháu đi là phải. Có lẽ rồi đây sẽ có nhiều biến chuyển mới, chưa biết ra sao. Nhưng chắc chắn là đời sống sẽ càng ngày càng khó khăn nhiều. Nhất là đối với những gia đình như gia đình anh.

Lương thở ra:

– Tôi hiểu, tôi đã định cho vợ con đi từ lâu rồi nhưng cứ nấn ná mãi cho đến nay, nhân cháu Cao đau nặng nên mới giải quyết được việc đó. Dù sao cũng khổ tâm lắm anh ạ, từ hồi nào đến bây giờ Hà và hai cháu đã quen có tôi ở bên cạnh rồi, vui buồn có nhau, xa nhau lần này là lần đầu, không biết sẽ ra sao, mình người lớn không nói gì chứ trẻ con nó nhớ thì tội lắm.

– Dù sao chị và các cháu vào trong ấy đã có hai bác, anh đừng lo. Nghĩ cho cùng, lêu bêu như tụi tôi mà lại hay, có gì thì chỉ chịu một mình, không làm khổ lụy đến ai hết, không để ai phải lận đận với mình.

– Đôi lúc tôi cũng nghĩ như thế, nhưng phần tôi chậm mất rồi. Như anh và Trần thì có thể thong thả chờ cho hết chiến tranh rồi lập gia đình của không muộn.

– Tôi thì chẳng nói làm gì, có hết chiến tranh cũng thế thôi, chắc gì người yêu có thể chờ đợi mình mãi, hết cả cái xuân xanh đi mất, hơn nữa chắc mình cũng không nỡ để ai chịu khổ vì mình. Thằng Trần nó cứ cằn nhằn tôi khó tính, ở bẩn, lấy vợ thêm tội cho vợ mà thôi. Còn Trần thì chắc sắp lo chuyện vợ con rồi đấy, mẹ Trần đã kén được con dâu rồi, gia đình Trần nhờ tôi gọi nó về vì chuyện ấy đấy, – Huỳnh mỉm cười – cứ tưởng tượng tôi cũng biết trước nó sẽ nhăn nhó bực bội như thế nào rồi.

– Sao vậy, Trần không thích cô ấy à?

– Không phải vậy, nhưng anh nghĩ hoàn cảnh tụi tôi bây giờ mà tính chuyện lấy vợ nó thất sách quá, lấy rồi bỏ người ta đó mà đi biệt à?

– Mẹ Trần nhắn sao?

– Bà Thị, cô ruột Trần vừa đi Huế về, mẹ Trần nhắn Trần cụ sẽ cho hai cô cháu gái về thăm Trần, một cô là cháu ngoại của cụ gọi Trần bằng cậu ruột, còn cô kia là con người chị của anh rể Trần, cha mất sớm, mẹ lấy chồng gởi cô bé cho anh chị của Trần nuôi hộ, vì thế cô ta ở với gia đình Trần từ ngày còn bé. Hiện giờ anh chị Trần đổi vào Sàigòn, để Thương, tên cô bé, ở lại với mẹ Trần đi học với Thể My là cô cháu của Trần. Theo bà Thị kể thì Thương năm nay đã được mười bảy tuổi, rất xinh đẹp nết na, mẹ Trần thương lắm, cô ta quấn quýt mẹ Trần, xem cụ như mẹ ruột, có lẽ vì thiếu tình cha mẹ nên cô bé tìm thấy người mẹ nơi bà cụ của Trần. Vì vậy mà mẹ Trần quyết định nhắm hỏi cưới cho Trần. Bà Thị nhờ tôi nhắn Trần bao giờ về được cho bà biết để bà lên Huế đón hai cô bé về. Số là các cụ muốn đôi trẻ chúng nó gặp nhau, ra cái điều các cụ để toàn quyền cho con cái đấy mà, lắm chuyện thế đấy.

Huỳnh kéo dài giọng pha trò khiến Lương bật cười:

– Trần có biết qua về việc này chưa?

– Rồi, chuyến Trần về thăm tôi vừa rồi bà Thị đã nói cho Trần biết ý mẹ rồi.

– Thế Trần bảo sao?

– Nó coi như chuyện không có gì quan trọng, nó cho đó như một ý nghĩ ngộ nghĩnh hay hay của cụ, nói để mà nghe mà thôi. Phen này mà nó nghe cụ nhắn bảo về gặp cô bé thật sự chắc là nó phải ngã ngửa.

– Xem ý Trần có mến cô ta không?

– Nó bảo nó coi cô bé như cháu của nó là Thể My, con của anh chị của nó vậy, vì cô bé sống với gia đình nó từ hồi còn bé tí, và cũng gọi nó bằng cậu như con bé Thể My, ngày nó đi ra kháng chiến cô bé mới mười bốn tuổi.

Lương chép miệng: “Nếu mẹ Trần nhất quyết muốn thế thì Trần cũng khó mà cưỡng lại được, cụ đã già quá mà Trần lại là con trai một. Kể cũng hay, giữa Trần và cô bé đã có mối giây liên hệ gia đình, đi đến chỗ hòa hợp nhau cũng không có gì khó.”

– Vâng, tôi cũng nghĩ vậy.

– Bao giờ anh đi trên ấy?

– Có lẽ tháng sau.

– Anh bị thương mới về còn yếu mà họ đã cử anh đi công tác ư? Anh liệu trong mình anh đấy, chứ đi đường núi mùa này vất vả lắm, mưa hoài, người còn yếu dầm mưa thật là không nên đâu.

Huỳnh nhếch môi:

– Không sao đâu anh, tôi chỉ e không làm kịp những việc phải làm mà thôi. Việc đi công tác là do tôi muốn đi, vì ngoài công việc và ghé thăm Trần bị đau, tôi còn phải hoàn tất một việc cần thiết. Đó là tôi sẽ xin tỉnh chuyển về trung ương cho tôi bản điều trần của tôi thỉnh cầu sửa đổi việc cải cách ruộng đất.

– Bản điều trần đó như thế nào? – Lương hỏi vẻ chăm chú và trong đôi mắt trầm tĩnh của anh thoáng qua một chút lo âu bất nhất.

– Trong những ngày nằm chờ vết thương kín miệng, tôi đã làm việc ngày đêm để hoàn thành bản điều trần đó. Tôi thấy thời gian quá gấp rút. Chắc anh cũng đã nghe nói đến vấn đề cải cách ruộng đất do trung ương chính phủ đề ra. Cán bộ ta ở các cấp đã học tập lâu nay, những ngày sắp tới sẽ có những đoàn cán bộ đi đến các địa phương sống chung với đồng bào để phát động phong trào này. Hẳn anh đã đọc qua những tài liệu về cuộc cách mạng về cải cách ruộng đất của Trung Hoa cùng những cảnh đầu rơi máu chảy kinh hồn của nó. Theo nguyên tắc thì cách mạng là phải có đầu rơi máu chảy, cấp lãnh đạo kháng chiến của ta đã đi theo công thức đó. Dù sao nhân dân Trung Hoa đã nếm trải kinh nghiệm ấy trước chúng ta, theo chỉ thị của Bắc Kinh, trung ương lãnh đạo kháng chiến của chúng ta đã bắt đầu thi hành chính sách ruộng đất rập theo khuôn mẫu của cách mạng Trung Hoa. Trong bản điều trần tôi muốn trình bày quan điểm của tôi về vấn đề này, tôi nghĩ rằng dù nó có không đi đến đâu nhưng tôi cũng đã gióng lên một tiếng vang nhỏ nhoi nào đó cho hết phận làm người của mình.

– Xin anh tóm tắt nội dung cho tôi nghe.

– Tôi muốn nói rằng vấn đề cải cách ruộng đất đã đề ra quá sớm đối với hiện tình đất nước của chúng ta. Ở Trung Hoa, người ta thực hiện cuộc cải cách ruộng đất trong khi xứ sở của họ đã có chủ quyền, chính phủ và nhân dân họ không phải lo việc chiến tranh chống ngoại bang. Họ rảnh tay đối phó với bên ngoài và dồn hết tiềm lực để thanh toán bên trong. Vì thế cho nên với một nước Trung Hoa rộng lớn và một dân số khổng lồ, cuộc cải cách ruộng đất của Trung Hoa tuy mang lại bao cảnh sinh linh đồ thán, nhưng không bị ảnh hưởng đến sự mất còn của Tổ quốc họ. Hiện trạng đất nước ta trái lại, chúng ta là một dân tộc nhược tiểu đang lâm vào một cuộc chiến tranh chống xâm lăng, chúng ta phải đánh nhau với một ngoại bang thuộc vào hàng cường quốc trên thế giới. Dân tộc ta đang trải qua một cuộc thử thách hiểm nghèo một còn một mất với kẻ thù bên ngoài. Dĩ nhiên mọi tiềm lực của nhân dân đều phải dồn về trọng tâm chống Pháp. Như vậy cuộc cải cách ruộng đất được đề ra trong giai đoạn này sẽ không tránh khỏi làm cho nhân tâm phân tán, tài sản của dân sẽ bị lụn bại trong cơn khủng hoảng của sự thay cũ đổi mới. Song song với cảnh tàn phá chết chóc của chiến tranh, cảnh đấu tố tiêu diệt giai cấp sẽ xảy ra và chúng ta phải mang thêm gánh nặng xương máu của cuộc đấu tranh tương tàn nồi da xáo thịt sẽ còn khủng khiếp gấp ngàn lần tai họa chiến tranh.

Sự diệt vong có thể thấy trước mắt vì đó. Một khi nhân tâm đã bị phân tán chia rẽ bởi giai cấp này giai cấp nọ tiêu diệt lẫn nhau, tình trạng đó gieo rắc khắp nơi sự nghi kỵ vu khống, thù ghét, oán hận do đó sự nhất tâm chống giặc cứu nước sẽ bị tan rã mau chóng. Ngoại bang sẽ nắm lấy cơ hội mà xâm nhập và chi phối nội tình của ta. Những bằng chứng trước mắt về sự rập khuôn theo những chính sách của Trung Hoa và Nga Sô để áp dụng trên mảnh đất nhỏ bé lầm than này cho ta thấy trước một hình thức đô hộ mới mẻ hơn, tân kỳ hơn, và cũng tàn khốc hơn nữa. Đó là sự đô hộ về tinh thần và ý thức hệ, ngàn lần kinh khủng hơn những hình thức đô hộ từ xưa đến nay nhiều. Nó tương tự như một cuộc bán linh hồn cho quỷ Satan.

Huỳnh đã ngừng nói, Lương vẫn còn nín lặng, anh nhíu mày, nhìn theo đàn kiến đen bò lên tường, làm thành một vệt đen dài ngoằn ngoèo xao động, làm như nhìn đàn kiến di động anh có thể tìm hiểu được đích xác cái gì mà anh linh cảm được trong khi nghe bạn nói. Huỳnh nhìn Lương, bắt gặp vẻ mặt tư lự suy nghĩ của bạn.

– Tôi biết anh nghĩ gì, có phải anh nghĩ rằng liệu người ta có cứu xét ý kiến của tôi không chứ gì?

Lương gật đầu, Huỳnh định nói nhưng Lương đưa tay ngăn lại:

– Không phải tôi chỉ nghĩ có thế mà thôi đâu. Tôi còn nghĩ rằng liệu anh có lường được hậu quả của việc làm này hay không? Anh có nghĩ đến thái độ của những cán bộ chính trị lãnh đạo cơ quan đối với anh từ lâu nay ra sao không? Chắc anh còn nhớ mới đây anh bị thương trong trận đánh họ đã không tìm kiếm anh và phao đồn là anh đã theo giặc. Tôi nghĩ rằng trung ương thì xa mà những kẻ đó thì gần. Anh là người ngoài Đảng, dù anh đang phục vụ trong bộ đội, dù anh xả thân cho cuộc chiến đấu này, nhưng trên bình diện tư tưởng và thành phần, người ta đã xếp anh vào loại giống như tôi hiện tại mà thôi. Anh có nghĩ đến tất cả mọi điều đó chưa? Dĩ nhiên tôi mong rằng anh hãy suy xét kỹ trước khi làm việc này.

Huỳnh gật đầu, trầm giọng:

– Tôi có nghĩ đến tất cả rồi anh ạ. Nhưng tôi không thể lùi bước được. Khi chúng ta đã đặt số phận của chúng ta vào cuộc kháng chiến này, khi chúng ta tìm đến để có mặt nơi đây, điều trước tiên chúng ta nghĩ đến và chấp nhận, đó là cái chết. Điều chúng ta không chấp nhận là sự thối lui chứ không phải là sự bước tới. Tôi đã thấy những gì trong cuộc kháng chiến này? Tôi đã thấy hàng ngàn người lính đã ngã xuống, tôi đã thấy họ sống dở chết dở trong những trạm cứu thương, tôi đã thấy những làng mạc bị san bằng, hàng ngàn thây thường dân vô tội, đàn bà trẻ con chồng chất lên nhau. Tất cả những cái đó không thể phút chốc biến thành vô nghĩa. Những hình ảnh đó mãi mãi nung nấu lòng tôi, lòng anh, và triệu triệu lòng người Việt Nam, nó biến sự đau khổ lên xương lên da khiến người ta không thể phản bội những người đã chết.

Huỳnh ngừng lại nhìn Lương, cái nhìn thâm trầm cảm mến:

– Có lẽ tôi cũng được như anh. Cái gì đã giữ anh ở lại đây, cái gì đã khiến anh rứt ruột xa lìa vợ con anh? Hẳn là không phải ở đây người ta ân cần tử tế với anh, anh với cái mác tiểu tư sản trí thức mà người ta đã xếp loại, còn hơn nữa, anh lại còn là địa chủ phú hào. Anh thừa biết tác dụng nguy hiểm của những danh từ đó ra sao. Chúng ta đang ở giữa một thời kỳ mà những danh từ đều có công dụng như những thanh mã tấu. Thế mà anh vẫn lưu lại đây, lạc loài, cô đơn, bất lực. Há rằng tôi không được bằng nửa tấm lòng dũng cảm đó của anh sao.

Những lời nói của Huỳnh xuyên vào tận tâm can Lương khiến anh xúc động vô cùng, mặt anh tái ngắt, anh run run siết chặt lấy tay Huỳnh:

– Huỳnh, thế là đủ, tôi không còn biết nói sao với anh nữa, chỉ mong sao khi cuộc nước này đi qua, anh em chúng mình, xin cho được sống xứng đáng, và chết không hổ thẹn.

Trong bóng chiều buông xuống đầu con đường làng băng qua cánh đồng rộng, hai anh em Lương và Huyên dừng lại dưới bóng tre, nhìn theo Huỳnh và Hoàng, Bửu, Hồ, Phong cho đến khi bóng họ nhỏ dần lẩn khuất trong sương chiều. Hai anh em quay gót, không ai nói với ai, nhưng trong buổi chiều quê lặng lẽ này, có rất nhiều tiếng nói thầm đi vào cõi miên man vô cùng tận.




Chương 15

Trên đường đi lên núi, Huỳnh tưởng tượng một Trần xanh xao vàng vọt, với vẻ mặt u uất, giọng nói đắng cay. Nhưng sự thật đã trái ngược hẳn.

Huỳnh đến nơi Trần ở vào lúc mười giờ đêm, trong nhà còn ánh đèn, nhìn về gian nhà bếp anh thấy ánh lửa bập bùng lọt qua khe vách. Huỳnh khẽ đập vào tấm liếp cửa, có tiếng Trần hỏi, giọng dõng dạc.

– Ai đó?

Huỳnh trả lời, dõng dạc không kém:

– Huỳnh đây.

Tức thì, tiếng dép khua động đi đến phía cửa, tấm liếp được kéo qua một bên, và trong ánh sáng của cây đèn dầu tỏa ra khắp gian nhà, hiện ra bóng Trần cao lớn thẳng tắp, tiếng chàng cười vui vẻ ấm áp, giọng chàng đầm ấm mừng rỡ:

– Ồ, tao đang định đi về đồng bằng xem mày sống chết ra sao đấy chứ. Vào đây, thằng này liều thật, vừa mới dở sống dở chết thế mà cũng mò lên được tận đây, ồ thật đấy, cái mặt mày trông thấy mà ghê, may mà hai bé Hiền và Hòa chúng nó đã ngủ hết rồi chứ không thì chúng đã khóc thét lên rồi, mày định dọa trẻ con đấy hả? Vết thương của mày đã lành hẳn chưa? Mày qua quốc lộ lúc mấy giờ? Qua hồi bảy giờ mà giờ này đã đến đây là đi mau đấy chứ. Mày đúng là thằng khùng, việc gì phải bò lên đây, tao sắp xuống gặp mày mà. À, mày tưởng tao sắp chết hả, chưa đâu, người như tao sống dai lắm, tụi vi trùng sốt rét chúng nó chào thua tao rồi, bây giờ tụi tao sống thân thiện lắm. Mày hỏi có tiếp tục tiêm thuốc cho dứt vi trùng không hả? Thôi, xua đuổi chúng nó lắm làm gì, tao bằng lòng cho chúng nó ở trọ trong máu tao đó, bây giờ chúng nó ngoan ngoãn lắm rồi, luân lưu dịu dàng trong mạch máu của tao và bằng lòng để yên tao, thế là được rồi, ở đời mình không nên cư xử quá đáng với ai dù là đối với vi trùng sốt rét. Gặp mày là mừng cái đã. Mày đã ăn uống gì chưa, chưa hả, thế là tốt, chúng ta sắp có một nồi cháo vịt, chị Hiếu đang nấu cháo dưới bếp đó. Quý đâu rồi hả, mày xem ông ấy kia, mới chín giờ đã lăn ra ngủ, ngáy thật đều đặn mày thấy không, nhưng nó không quên dặn hễ cháo chín thì gọi nó dậy, đúng là cái đức ăn và ngủ của ông ấy bằng nhau, tội nghiệp, đáng lẽ đang còn cắp sách đến trường kia đấy.

Trần lại gần Quý, lay nó dậy:

– Quý, Quý dậy đi, anh Huỳnh lên đấy.

Quý đang ngủ say sưa, bỗng nó phóc dậy một cái, mở to mắt ôm lấy Huỳnh reo to:

– Đúng anh Huỳnh đây rồi, em nằm mơ thấy anh, em nghe tiếng anh nói, té ra là anh thiệt.

Huỳnh và Trần cười ha hả, mỗi người cầm một tay, nhắc bổng Quý lên, đặt nó xuống đất, nó la oai oái. Chị Hiếu ở dưới nhà bếp chạy lên:

– Anh Huỳnh, nghe tiếng anh mà tôi bận lỡ tay một chút, anh mạnh rồi chứ?

Huỳnh quay lại, anh ngạc nhiên nhìn thấy Hiếu dưới ánh đèn đêm nay trông có vẻ rực rỡ lạ thường, nàng vẫn mặc cái áo cánh trắng và quần đen như thường lệ, không có gì thay đổi trong cách phục sức bên ngoài của nàng cả nhưng trên khuôn mặt nàng có một cái gì chói lọi, sáng rực, đôi mắt vốn bị lé của nàng lóng lánh rỡ ràng, dường như ánh sáng bừng tỏa ra từ đôi mắt đó, đã khiến cho sự xấu xí của đôi mắt lé không còn nữa, Huỳnh vui vẻ chào:

– Chào chị Hiếu, chị mạnh giỏi đấy chứ; tôi trông chị dạo này có vẻ tươi tắn hơn trước nhiều đấy.

Hiếu mỉm cười:

– Cảm ơn anh. Mấy tháng trước nghe anh bị thương tôi lo quá, sau nghe Quý bảo vết thương không nguy hiểm tôi mới thấy mừng. Anh đã khỏe hẳn chưa ạ?

– Chị xem, tôi bò lên đây được là xem như khỏe lắm rồi còn gì, ấy thế mà thằng Trần nó thấy tôi nó không mừng mà còn la lối om sòm đó chị.

– Dạ, tôi trông anh cũng còn gầy lắm, xin mời anh nghỉ một lát cho khỏe, tôi xuống trông nồi cháo chín để mang lên anh dùng, anh vừa đi xa về chắc đói lắm, lại mới yếu đau xong.

Hiếu đi xuống bếp, Trần trông theo, mỉm cười, hỏi với:

– Cũng như Trần vậy, phải không chị Hiếu?

Hiếu ngoái lại nhìn Trần rồi quay đi, vẻ mặt thoáng âu yếm, đôi mắt nàng ngời sáng, trước khi nàng khuất sau tấm phên tre ngăn nhà trên với nhà bếp.

Khi mọi người ăn cháo xong, Hiếu dọn dẹp rồi lui vào nhà trong với hai con. Huỳnh, Trần và Quý cũng đi nằm nhưng họ còn chuyện vãn mãi tới khuya.

Huỳnh cảm thấy yên lòng khi thấy Trần tươi tỉnh dịu dàng. Sau cơn đau nặng chàng có vẻ xanh xao nhưng thần thái chàng thật bình thản thanh thoát lạ lùng. Trần không nói gì đến lớp chỉnh huấn, chỉ kể cho Huỳnh nghe về những người bạn chung của hai người mà chàng gặp lại ở phân khu cùng những mẩu chuyện lếu láo giữa họ với nhau.

– Mày đã nghe chuyện “khổ qua cô ơi” chưa mày?

– Chưa, chuyện sao?

– Chuyện như thế này, có một tiểu thư con nhà giàu, một ngày đẹp trời bỗng hứng lên đòi đi kháng chiến. Cô nàng làm cán bộ phụ nữ, người ta cử cô nàng đi họp phụ nữ tận ngoài Liên khu Tư. Phải đi đường núi hàng tháng trời nên cô nàng thuê một chú mọi cõng mình đi. Chú mọi vừa phải cõng cô ả vừa phải mang bọc quần áo, thức ăn, gạo cơm. Được cái nàng cán bộ thì vóc hạc xương mai mà chú mọi nhà ta thì cũng to con nên không nặng nhọc gì cho lắm. Chú mọi cõng cái sự đời trên lưng đủng đỉnh đi trên núi ngày này qua ngày khác, biết bao phong cảnh sơn thủy hữu tình nên cái cõi lòng đen kịt của thằng người núi cũng phải xốn xang. Một ngày nọ, nó cõng cô ả đi chậm lại, tụt ra sau, bỏ xa đoàn cán bộ cùng đi. Cuối cùng khi nó biết rằng đoàn người đi trước đã cách xa độ vài cây số đường rừng, nó mới đặt cô ả xuống, rồi đứng ỳ ra, không chịu đi nữa. Cô ả thấy trời đã về chiều mà chú mọi lại bỏ mình xuống không chịu đi nữa, lấy làm lạ, giục nó đi, nó cứ đứng ỳ ra, mặt mũi ngờ nghệch khổ sở nhìn cô ả có vẻ van xin, cô ả nổi dóa, quát mắng ầm ĩ, thì chú mọi ra vẻ sợ hãi úp mặt vào gốc cây, nói hoài không dứt một câu: “khô qua cô ơi,” là sao mày biết không? Là “khổ quá cô ơi” đó. Thế là cô ả chợt hiểu, cô ả khiếp đảm, mắng chưởi, đe dọa rồi cuối cùng khóc lóc van lơn nó. Phần chú mọi thì chỉ úp mặt vào gốc cây mà nói đi nói lại liền miệng như đọc thần chú: “khô qua cô ơi, khô qua cô ơi.” Trời gần tối, giữa rừng một mình, có muốn đi cũng không dám, cô cán bộ mệt mỏi, tuyệt vọng gọi chú mọi: “Thôi đến đây, – rồi nàng quát – mau lên.” Chú mọi rời gốc cây, đến gần nàng. Xong đâu đó, nó xốc hành lý lên vai, cõng nàng cán bộ lên lưng, hớn hở nhẹ nhàng chạy như bay. Cả hai đến trạm nghỉ sau đoàn cán bộ có vài phút. Câu chuyện nếu chỉ có thế thì không ai biết được. Nhưng cuộc đời lắm nỗi trớ trêu, tối hôm đó khi cùng mọi người mang lương thực ra ăn, cô ả tìm mãi không thấy con dao cắt cơm và thịt, đã sẵn đau đớn hậm hực trong lòng, nàng hét lên hỏi chú mọi con dao ở đâu, nó nhìn nàng với bộ mặt khốn khổ ngờ nghệch khiến nàng càng điên tiết, hét tướng lên, quýnh quá nó đành nói: “Con dao tôi để rớt ở chỗ cô cho tôi…đó.” Mọi người chưng hửng, rồi mọi người hiểu ra, ai nấy được một mẻ cười đau bụng. Chuyện truyền đi rất nhanh, bây giờ tụi cán bộ từ Ba Lòng ra đến Liên khu Tư đều thuộc nằm lòng, hở một tí là tụi nó kêu đong đỏng “khô qua cô ơi.”

Huỳnh và Quý cười lăn lóc, Quý hỏi:

– Chuyện có thật như vậy không anh? Hay họ bày đặt ra để có chuyện mà cười. Làm gì đến nỗi phải thuê mọi cõng đi.

– Có lẽ có thật đấy em ạ, vì hiện giờ ở Quảng Bình trẻ con nó có hát câu đồng dao:

“Ai coi lên núi mà coi,
Coi bà cán bộ cưỡi voi không bành.”

Căn cứ vào đó, có thể cho là câu chuyện khó tin nhưng có thật.

Huỳnh chắc lưỡi:

– Chuyện tếu thật, ông cố tổ, sao nó không thuê mình cõng có phải hơn không, thằng mọi thế mà có phúc.

Cả ba lại được dịp cười vang.

– Mày có gặp thằng Hào không?

– Có, tao có gặp, nó học cùng khóa chỉnh huấn với tao.

– Nó có cô chị đẹp lắm, nét mặt đẹp như Đức Mẹ ấy, không biết bây giờ cô ấy ở đâu.

– Cô ấy chết rồi.

Huỳnh kêu lên:

– Chết, sao thế?

– Ừ, chết một cách tội nghiệp lắm mày ạ. Hào nó kể chị nó lấy thằng Mưu, trung đoàn phó, lấy nhau xong thằng kia đi vào đơn vị ở Thừa Thiên, chị nó ở lại

Quảng Bình, đi làm việc đoàn thể phụ nữ. Được ít lâu, chị nó biết mình có thai, khi gần sanh cô ta viết thư cho chồng xin gởi một ít tiền để sống qua thời kỳ sinh đẻ vì nghỉ làm việc thì đoàn thể không cấp sinh hoạt phí cho nữa, dù là sinh hoạt phí một tháng là ba chục ký lô gạo mà thôi. Thằng chồng không trả lời thư cho vợ mà lại viết thẳng cho đoàn thể phụ nữ chỉnh rằng các đồng chí không giáo dục vợ tôi để vợ tôi có hành động ỷ lại, hèn yếu, mang nặng tính chất tiểu tư sản là đòi hỏi mè nheo chồng, làm bận tâm chồng trong khi thi hành nhiệm vụ của một chiến sĩ cần đặt hết tâm trí vào việc giết giặc và phục vụ cho nhân dân.

– Hừm, hừm, – Huỳnh nhổ nước miếng xuống đất – lại có cái trò như thế nữa à?

– Thế là các cán bộ phụ nữ được lệnh phái đến giáo dục cô ta. Gần ngày sinh, cô ta phải nghỉ việc vì đoàn thể nhận xét năng suất làm việc bị sút kém. Cô phải chịu đói rách ngồi nghe cán bộ giải thích và dạy dỗ. Đến ngày sinh cô ta bị kiệt sức, cả mẹ lẫn con đều bị sốt rét, hai mẹ con run đây đẩy trên giường sinh, mẹ con nối tiếp nhau chết ngay sau đó. Thằng Hào nó kể cho tao nghe nước mắt nó nhễ nhại, tao buồn quá, chẳng thiết an ủi nó làm gì. Chúng nó bỏ nhà ra kháng chiến có hai chị em, bây giờ còn lại một mình nó.

Huỳnh ngậm ngùi:

– Thôi chết thế mà lại yên thân. Tao nhớ ngày tao gặp nàng xuống lấy nước dưới bến sông Ô Lâu đi với thằng Hào. Hôm ấy tao sửng sờ trước vẻ đẹp thanh tao, trong suốt, đôi mắt trầm tĩnh, dáng dấp đài các trang nghiêm. Ngay khi gặp nàng tao cảm thấy một điều gì lạ lắm, sự hiện diện của nàng như một thoáng mong manh; quả thật, tao đang nói chuyện với thằng Hào, quay lại thì nàng biến mất. Sau đó không có dịp nào gặp lại. Thỉnh thoảng nhớ lại cảnh tượng siêu phàm trên bến sông Ô Lâu hôm ấy, tao cứ nghĩ không biết nàng có thật hay không. Bây giờ thì tao chắc chắn rồi, nàng không hề có thật, nàng là thần tiên hiện xuống gánh bớt khổ đau cho những con người khốn nạn trên đất nước này đó thôi.

– Mày biết chuyện cụ Ưng Úy, thân sinh ra nhà bác học Bửu Hội, lên chiến khu chứ hả?

– Biết, rồi sao?

– Cả cụ ông lẫn cụ bà được võng ra Liên khu Tư. Bửu Tiến, nhà viết kịch nổi tiếng ở Khu Tư dựng ngay một vở kịch nhan đề “Trên Nớ,” diễn lại cảnh cụ Ưng Úy lên chiến khu. Mày tính, một vị đại thần của triều đình cũ, một hoàng thân lão thành đã tự rời bỏ đời sống vương giả để đi lên núi tìm hơi hướng của Tổ quốc, cứ kể thì cảm động thật đấy, nhưng thằng Quyền nó xem vở kịch, nó vào kể lại có một màn, cụ Ưng Úy chia vàng cho cô hầu thiếp son trẻ trước khi đi, có nhiều câu nói tầm thường kỳ cục lắm. Bửu Tiến đóng vai cụ Ưng Úy, lột tả hết những phong thái quan dạng kiểu cách của vua quan phong kiến, nhiều cái rất lố bịch. Trong khi đó cụ Ưng Úy và cụ bà được mời đến xem người ta diễn tả mình, ngay trước mặt mình không cần hỏi ý kiến trước, do một người huyết tộc diễn tả con người mình. Bửu Tiến gọi cụ Ưng Úy bằng chú. Tuy nhiên, thằng Quỳnh nó bảo vở kịch quả thành công về phương diện bố cục chặt chẽ, diễn viên xuất sắc, rất hấp dẫn nhờ những màn cô hầu thiếp trẻ đẹp của vị đại thần ngâm thơ và gảy đàn tỳ bà do Trúc Quỳnh, nữ kịch sĩ có tiếng đóng.

– Chuyện cười ra nước mắt được đấy chứ. Mày có nghe những hoạt động văn nghệ của anh em ngoài đó dạo này ra sao không?

– Tao gặp mấy thằng làm văn nghệ ngoài đó vào cho biết tình trạng bi quan lắm mày ạ. Từ khi Nguyễn Sơn hết làm khu trưởng, bị trả về Tàu, đưa đi Triều Tiên thì anh em ngoài đó lâm vào tình trạng bơ vơ nếu không muốn nói là đen tối. Nguyễn Sơn là một vị tướng lỗi lạc, am hiểu sâu rộng tất cả mọi vấn đề, quân sự, chính trị, văn hóa và cả những vấn đề chuyên môn. Nhưng dù xuất thân là một tướng lãnh của Trung Hoa Cộng sản, đã từng tham dự cuộc Vạn Lý Trường Chinh, khi về nước Nguyễn Sơn đã tỏ tấm lòng nhiệt thành yêu nước quá đến nỗi xao lãng việc bành trướng của đảng, hơn nữa lại có vài thái độ không hưởng ứng đường lối chung, cho nên ông ta đã bị gạt ra khỏi bằng cách bị đưa trở lại Trung Hoa. Thật đáng tiếc, đất nước này cần những người như vậy biết bao.

Huỳnh chua chát:

– Ô hô, kẻ sĩ không thể nào sống nổi trên nước non này.

Trần gật đầu:

– Nguyễn Sơn chiêu hiền đãi sĩ, đã giúp đỡ nuôi dưỡng anh em văn nghệ sĩ để sáng tác, biết dùng người một cách rộng rãi hiểu biết, như việc dùng Nguyễn Tiến Lãng, một tù nhân chính trị quan trọng vào chức vụ giám đốc trường Thiếu Sinh Quân. Nghe đâu sau khi Nguyễn Sơn đi Triều Tiên, Nguyễn Tiến Lãng cũng tìm cách rời khỏi Khu Tư luôn. Anh em văn nghệ sĩ cũng vậy, mỗi người tản mác mỗi nơi. Cái thời hăng say sáng tác không còn nữa.

Huỳnh thở ra:

– Tưởng họ may mắn hơn mình trong này nhiều chứ, té ra đâu rồi cũng vậy. Mày có biết trong khi mày đi chỉnh huấn, trong khi tao còn nằm dưỡng thương, ty Thông tin tỉnh nó mở một cuộc bình thơ, chúng nó tấn công tao ráo riết. Bài “Quay về thương” của tao có một đoạn nói đến ngày mai khi tàn cuộc chiến tranh này, những người yêu thương nhau biết có còn tìm lại được nhau không. Chúng nó mắng mỏ tao kịch liệt vì hai câu:

“Ngày mai tôi đi tìm mẹ tôi
Giữa đám trần gian thưa thớt vui…”

Chúng nó nói rằng: “Ngày mai đó là ngày mai thanh bình, ngày mai chiến thắng, một trời hoan ca, một ngày hồng thắm, một rừng người xao xuyến, một rừng cờ đỏ tung bay, đó là một ngày mai huy hoàng lộng lẫy, tại sao Huỳnh lại bảo là “ngày mai tôi đi tìm mẹ tôi giữa đám trần gian thưa thớt vui?” Tại sao lại thưa thớt vui? Điều này chứng tỏ tác giả không hòa mình với niềm vui dân tộc, tác giả đã xa rời quần chúng, người nghệ sĩ cách mạng phải ý thức được rằng khi cầm cây bút mình viết cho ai, viết để phục vụ cái gì.”

– Mày thấy không? – Huỳnh cười lạt – Đó là món quà tặng của người ta để dành cho tao sau khi thoát chết trở về đơn vị. Được cái hồi này tao đâm ra hiền như cục đất, cho nên tao im lặng. Tao nghĩ còn nhiều việc phải làm, hơi đâu mà cãi vã nhau hoài.

Quý đã ngủ say, Huỳnh và Trần nằm lặng yên, họ không nói chuyện nữa, nhưng họ biết nhau đang thao thức. Có tiếng gà rừng gáy ở xa xa, hai người thiếp đi trong khi bên ngoài trời chuyển rạng đông, ánh sáng mờ nhạt đuổi dần những bóng tối ẩn núp trong từng kẽ lá, dưới những ngọn cỏ trĩu nặng sương mai.

Ngày lại bắt đầu với tất cả sự rạng rỡ tinh quái của nó, buộc con người phải chạy đuổi theo đến mệt nhoài, in hằn nét ưu tư trên bao vầng trán; và những thành công, những thất bại, và tuổi già, và cái chết không làm nên được sự yên nghỉ nào cả.




Chương 16

Tiếng máy bay xa dần rồi im bặt.

Mọi người già trẻ lớn bé nhô ra từ những chỗ ẩn nấp, xôn xao hỏi han tin tức của nhau, tiếng người rộn ràng lao xao khắp mọi phía, tiếng những người đàn bà réo gọi, tiếng reo cười gặp nhau, tiếng than van hốt hoảng. Tất cả những âm thanh đó vang âm cả một góc núi đồi như tiếng của một đàn ong vỡ tổ.

Trần vẫn nằm yên trên một tảng đá lớn dưới lòng một cái khe cạn nước, hai bên tường núi dựng đứng, ở lòng khe nhìn lên thấy như mình đang ở dưới đáy giếng sâu, một chỗ trú ẩn thiên nhiên thật an toàn. Ở đây có thể yên trí làm lơ xem như không biết gì đến những chiếc máy bay của giặc lồng lộn rú rít trên không thả từng loạt bom vang dội núi rừng, sà xuống núi đồi bắn từng tràng đạn xé toang không khí.

Từ buổi sáng, sau khi chia tay Huỳnh, mỗi người đi mỗi ngã lo những công việc riêng, hẹn chiều về nhà, Trần và Quý lên bộ chỉ huy, Quý đợi Trần ở ngoài, Trần vào trong được một lát thì nghe tiếng ầm ầm như sấm động từ xa. Trong nháy mắt, một đoàn sáu chiếc máy bay giặc ào tới, một tràng bom nổ dữ dội rung chuyển cả vùng rừng núi, nhà cửa rung rinh. Mọi người nằm rạp xuống, dán sát vào mặt đất, nín thở, máu như ngưng đọng trong cơ thể. Mỗi lần một chiếc máy bay sà xuống sát những ngọn cây, những nóc nhà, tiếng rồ ngạo nghễ ghê rợn của nó như xoáy vào da thịt con người làm tê lịm nhức buốt. Hai cánh máy bay lướt qua kéo lê dưới đất một bóng rợp kinh khủng như bóng của Tử thần, những loạt đạn bay vèo vèo thành những tiếng rít đặc và xoắn lại, những cành cây kêu răng rắc, gãy đổ ầm ầm, những chiếc lá xanh tả tơi xõa nằm rã rượi trên mặt đất. Chừng mười phút sau chúng ầm ầm bay lên cao, bay xa dần, mọi người chỗi dậy xao xác.

Trần cũng dậy, chạy chồm ra ngoài tìm Quý, nhưng tìm mãi không thấy Quý đâu cả. Chợt chàng nghe một tiếng kêu vo vo trong không khí, chưa kịp nhận ra tiếng gì thì ầm một tiếng, đất dưới chân chàng chao qua chao lại như đưa võng, một ngọn khói trắng đặc bốc lên từ ngọn đồi trước mặt. Có tiếng người xung quanh la lên: “Canh nông giặc tấn công, chạy đi mau.”

Không kịp suy nghĩ, Trần chạy theo mọi người, với bản năng cầu sống. Tiếng đại bác của địch vẫn rót đều đều, mỗi lần nghe tiếng kêu vo vo, mọi người lại nằm rạp xuống, chờ tiếng nổ ầm lên dữ dội xong, họ liền chỗi dậy thấy mình còn đủ tay chân lại tiếp tục chạy. Trần cũng làm y như mọi người, cuối cùng không hiểu bằng cách nào chàng lọt xuống lòng khe này cùng một số đông người khác. Những chiếc máy bay lại trở lại thả bom, bắn phá chừng mười lăm phút lại bay đi và đại bác lại thay phiên giã từng hồi. Cứ như thế cho đến ba giờ rưởi chiều.

Trong lòng khe chồng chất rải rác những tảng đá xanh nhẵn thín đủ mọi hình thù kỳ cục, chúng ngoan ngoãn nằm yên, nhẫn nại và say ngủ trong bóng im mát rượi, như những thiêng vật đã có một thời sống động bị hóa đá bởi một cơn thịnh nộ nào đó của Thượng Đế. Những dây leo chằng chịt hai bên bờ đá, len lỏi giữa những kẽ rêu, thỉnh thoảng người ta bắt gặp một cái hoa tím biếc yểu điệu nép mình giữa chốn âm u hoang dã này. Trần và một số nam nữ cán bộ ngồi trên những tảng đá nói chuyện phiếm, cũng cảm thấy đỡ sốt ruột và qua thì giờ. Xế trưa mọi người đều mệt mỏi và đói, Trần tìm một góc khuất kín ngả người nằm trên một phiến đá, trên mặt chàng có một tàu lá chuối rừng nghiêng xuống che những giọt nắng lọt xuống từ vòm cây trên cao. Trần nằm yên, hai tay khoanh trước ngực. Giữa tiếng máy bay và bom đạn vang rền từ vách núi này qua vách núi kia, chàng nghe những tiếng rì rào nói chuyện của mọi người, xa hơn tí nữa tiếng một cây đàn guitar khẽ rung lên theo một điệu hát trầm buồn của người cán bộ trẻ tuổi, một bản nhạc kháng chiến thịnh hành của Phạm Duy. Chàng nghe cả tiếng nước tí tách nhỏ giọt từ trong khe đá.

Trần thiếp đi giữa những âm thanh đó, giấc mơ của chàng thật là quái dị nhưng cũng không kém êm đềm. Chàng thấy mình đang trôi bập bềnh trên mặt biển, mặt trời lên cao chiếu xuống mặt nước muôn ngàn chiếc vương miện chói lòa, bỗng nghe tiếng ầm ầm chuyển động dội lên từ đáy biển sâu, lòng biển sôi sục, những đợt sóng dâng lên trắng xóa uốn cong cao ngất, hùng tráng như những chiếc bờm trắng của những con sư tử. Trần nằm trên đầu một ngọn sóng cao ngất, ngửa mặt nhìn trời, ngọn sóng chạy băng băng về phía một vách núi đá to lớn sừng sững, choán cả một góc trời. Trần nghĩ trong bụng thế nào ngọn sóng cũng đưa mình đập vào ngọn núi đá ấy, ý nghĩ khiến chàng toát mồ hôi, kinh hoàng, ngọn sóng càng đến gần núi đá càng dâng cao, dâng cao mãi rồi đột nhiên hạ xuống, dàn trải ra dưới chân núi đá, đong đưa thân thể chàng một cách êm đềm như trong một cái nôi.

Và vách núi đá bỗng cúi xuống nhìn chàng, dần dần biến thành khuôn mặt của chị Hiếu đầy vẻ dịu dàng thương yêu, đôi mắt lé của chị đăm đăm nhìn chàng, dần dần trở nên to ra, to mãi đến khi nó bao trùm tất cả, không còn thấy gì nữa. Liền đó một đôi mắt đẹp tuyệt vời hiển hiện mênh mông giữa bầu trời xanh thẳm, đôi mắt của người thiếu nữ trên chuyến đò ngang trên giòng sông Hương năm nào. Trần vẫn nằm đong đưa trên mặt sóng, ngửa mặt nhìn lên đôi mắt u uẩn của nàng, chàng cảm thấy một niềm khao khát mãnh liệt muốn tìm tòi một ý nghĩ gì giấu kín trong đôi mắt đó. Đôi mắt lộ vẻ mừng tủi của cố nhân, cảm động như muốn ứa lệ, đôi mắt nói thật nhiều những điều chưa từng ai hay biết khiến lòng Trần tràn ngập một ý niệm tri ân, một nỗi bình yên khôn tả.

Trần tỉnh giấc thật êm đềm kỳ thú, dư ảnh của giấc mơ hùng tráng và diễm ảo vẫn còn quyện lấy người chàng. Chàng nằm yên lắng nghe mọi người lục tục gọi nhau đi về, chàng biết cuộc oanh tạc đã chấm dứt, một cảm giác khoan khoái nhẹ nhõm chiếm lấy thân thể và tâm trí chàng. Chàng nghe những tiếng chân của những người trú ẩn trong lòng khe đã đi xa dần, có tiếng léo nhéo của một đoàn người đi trên bờ khe, ngay phía trên chỗ chàng nằm. Tiếng một người nói: “Cháy rụi mấy gian nhà ở ngọn đồi phía Tây, một đứa bé chết cháy vì cha mẹ đi vắng, có nhiều người bị thương…”

Trần nhỏm dậy, chàng chợt nhớ đến Huỳnh, đến Quý, đến Hiếu và hai đứa bé. Chàng vội vã nhảy qua từng phiến đá tìm đến lối mòn leo lên mặt đường.

Ra khỏi khe núi, đi được một quãng chàng gặp Huỳnh từ xa đi tới, thấy Trần, Huỳnh mừng rỡ:

– Đây rồi, mày làm cả nhà lo muốn chết.

Trần ngơ ngác hỏi:

– Lo cái gì?

– Thì máy bay hết bắn phá, mọi người đều tìm về nhà đủ cả chỉ thiếu có mặt mày thôi chứ còn gì nữa. Chị Hiếu lo cho mày lắm, tao và Quý chia nhau hai ngã đi tìm mày đây.

– Thì tao cũng lo nên vội về nhà tìm xem có đủ mọi người không đây.

Huỳnh ngao ngán:

– Mày vội đi về như thế này đấy hả, ai nấy trở về cả tiếng đồng hồ rồi, mày có biết mấy giờ chiều rồi không?

– Mấy giờ rồi?

– Hơn bốn giờ rồi ông tướng, ồ, thằng này làm sao thế này, Huỳnh quay lại nhìn sát vào mặt Trần, mặt mũi thế này thì vừa ngủ dậy xong phải không? Bom đạn ầm ầm suốt ngày như thế mà mày chui vào đâu ngủ được vậy mày?

– Tao ngủ dưới lòng khe từ xế trưa đến giờ. Đói bụng quá không ngủ thì làm gì được.

– Chịu mày rồi đấy. Chiến tranh đối với mày chỉ là một giấc ngủ dài thôi đấy hả?

Trần cười vẻ bí mật:

– Còn nhiều thứ nữa chứ mày, nói sao cho xiết.

Hai người rảo bước về đến nhà, Quý cũng vừa về tới, Trần hỏi Quý:

– Khi sáng bom vừa nổ xong loạt đầu, anh chạy ra tìm em ngay mà chả thấy em đâu cả. Em biến đi đâu thế?

– Thì bom vừa nổ xong là em lao ngay vào bộ chỉ huy tìm anh cũng chả thấy anh đâu cả.

Hai bé Hiền, Hòa chạy đến với Trần, Trần cúi xuống bế cả hai đứa vào lòng:

– Máy bay bắn cả ngày các cháu có sợ không?

– Sợ lắm chú ạ.

– Hòa không sợ đâu, hễ mẹ mua cho Hòa cái súng là Hòa bắn đùng đùng, như máy bay địch vậy đó.

– Nó nói dóc đấy chú ạ. Khi bom nổ cái ầm nó khóc ré lên mà bảo không sợ.

– Tại nó làm đau cái lỗ tai của Hòa chớ bộ.

– Tao cũng đau lỗ tai mà tao đâu có khóc. Ê, thế là con trai bét nhè, lêu lêu.

– Thôi thôi, đừng cãi nhau nữa, cho chú xin. Thế trưa có đói bụng không nào?

– Không, không chú ạ, mẹ vào nhà lấy cơm với khoai ra ăn.

– Máy bay bắn cả ngày thế mà mẹ làm sao chạy từ ngoài hầm vào nhà?

– Khi máy bay đi thì mẹ chạy vào, vừa trở ra hầm thì máy bay trở lại.

– Ngồi dưới hầm cả ngày các cháu có mệt không?

– Không chú ạ, chỉ buồn ngủ thôi, không có gì chơi cả.

Bé Hòa nói chả chớt:

– Hòa ngủ mà cứ nổ ầm làm Hòa giật mình hoài.

– Hừ, cái thằng Tây tệ thật, nó cứ nổ ầm làm Hòa ngủ phải giật mình, nó không biết điều chi cả, để rồi chú mắng cho nó biết ngượng.

– Nó ở đâu mà chú mắng nó được thế? Chú cho Hòa đi xem nó với.

– Ờ, ờ, – Trần lúng túng ngước mặt lên lim dim mắt, gãi gãi cái cằm.

Huỳnh phì cười:

– Bí rồi đấy nhé, nào bé Hòa bảo chú Trần dắt đi mắng thằng Tây đi.

Trần chợt nghĩ ra, mừng rỡ:

– Ừ phải, cháu yên trí, chú cháu mình không phải đi đâu hết, chú sẽ dắt thằng Tây đến đây bắt nó xin lỗi cháu, được không?

Hiền, Hòa sung sướng, bốn con mắt tròn xoe, sáng rực:

– Bây giờ hả chú?

– Ngay ngày mai.

Huỳnh hiểu ý Trần, cười ngất:

– Tao hiểu rồi, thằng này khôn thật, mày định bê thằng hàng binh Đức, thằng Koch đến đây chứ gì? Này các cháu, chú Trần sẽ mang đến cho các cháu một thằng Tây to bằng cái nhà thế này này.

Trần vẫn nghiêm trang, bảo hai đứa bé:

– Bây giờ các cháu hãy nghĩ trước những câu mắng để mai gặp thằng Tây mà trách mắng chúng nó một trận, và nếu thấy nó có vẻ dễ thương, biết lỗi thì chú cháu mình hãy tha cho nó, và nếu có thể cho nó ăn cơm với chúng mình nữa, đồng ý chứ?

Hai đứa bé gật đầu lia lịa, hai đôi mắt trong veo, lóng lánh; Trần buông hai đứa xuống đất, vỗ vào lưng Hòa một cái:

– Thôi, ra kia chơi, đừng có nghịch bẩn.

Ngồi trong bếp Hiếu lắng tai theo dõi câu chuyện ở nhà trên. Từ khi Trần trở về, lòng nàng dạt dào một nguồn hạnh phúc chứa chan. Hiếu ngồi đứng không yên từ khi Huỳnh và Quý chia nhau đi tìm Trần, nàng lo buổi cơm chiều, vừa làm việc vừa bồn chồn lo lắng, thỉnh thoảng một ý nghĩ ghê sợ thoáng qua trong đầu, nàng vội lắc đầu như để xua đuổi ý tưởng đó đi. Có tiếng một đoàn người xôn xao đi lại, đột nhiên tay chân nàng bủn rủn, trí tưởng tượng của nàng hiện ra hình ảnh người ta mang Trần về nhà trên một cái cáng, mình đẫm máu, mắt nhắm nghiền, ý nghĩ đó làm Hiếu điếng người, nỗi đau đớn khiến nàng nghẹt thở. Máy bay và đại bác im tiếng gần cả tiếng đồng hồ, mọi người đều về đủ cả. Vậy mà chờ mãi không thấy Trần. Biết làm sao với sự chậm trễ này. Lòng Hiếu như lửa đốt, quặn đau từng hồi.

Thình lình, nàng nghe tiếng cười nói vui vẻ, tiếng của Trần trầm ấm xen lẫn tiếng cười nói vang vang của Huỳnh và Quý, Hiếu buông thõng tay, sửng sờ, tim nàng nhói lên, nàng cúi xuống để mặc giòng nước mắt sướng thỏa chảy dài trên mặt.

Bây giờ thì nàng yên tâm lắm rồi, nàng tiếp tục lo cơm chiều, chắc Trần đói lắm. Cách một tấm phên tre, Hiếu yên lặng ngồi cời thanh củi trong lò, nàng theo dõi câu chuyện giữa hai con và Trần, lối nói chuyện với trẻ con của Trần làm Hiếu mỉm cười, tâm trí nàng âu yếm tưởng tượng bộ mặt quan trọng của Trần khi nói chuyện với trẻ con thật đáng yêu biết bao. Người con trai trong cơn sốt đêm trường hôm nào đã ôm nàng trong vòng tay, đã làm xáo trộn cả tâm hồn bình thản an phận của nàng, từ nay đã làm đảo lộn cuộc đời của nàng.

Nàng hiểu rằng một định mệnh lạ lùng và ngang trái đã dựng lên trước mặt nàng, không còn ngờ gì nữa, tình thương yêu này là hạnh phúc tuyệt đỉnh của bây giờ và là đắng cay đau khổ của mai hậu. Nhưng nàng không mong gì hơn. Từ trước nàng đã biết rõ những gì mà cuộc đời có thể dành cho một người đàn bà cô đơn và xấu xí như nàng. Đó chỉ là sự đau khổ đơn độc, lăn lóc với thực tế cuộc đời để kiếm sự sống cho nàng và hai con, một mình chống chỏi với tất cả bất trắc của cuộc đời, và không mong được ai che chở. Nói chi tới một tình yêu thương, một vòng tay ôm ấp nâng niu, một đôi mắt thiết tha trìu mến.

Thế mà phép lạ đã hiện ra với tất cả khoan hồng mầu nhiệm của nó. Bây giờ nàng đón nhận từng giờ từng ngày ân sủng được trông thấy Trần, được nghe tiếng nói cười của chàng, được săn sóc cho chàng. Chừng đó quá đủ cho cuộc đời còn lại của nàng, bởi vì nàng biết rằng một ngày nào đó, Trần sẽ không còn bên nàng nữa, chàng sẽ mất hút trong cuộc đời đầy ngăn cách éo le này. Nàng sẽ không than van, oán hận, sẽ không để cho Trần phải khổ sở bận tâm gì đến nàng. Với Trần, Hiếu tự xóa đi thân phận của mình. Chẳng phải trước kia, nàng chỉ biết an phận thủ thường, sống chỉ là để đưa đẩy cho hai con nên người mà thôi. Hồi tưởng lại bao nhiêu ngày tháng trước đây cùng sống dưới một mái nhà, thế mà Hiếu có nghĩ ngợi gì đâu, đời sống khó khăn với hoài bão tương lai của hai đứa con thơ không cho nàng được nghĩ viển vông. Thế mà đột nhiên mối tình đã hiện ra với tất cả vẻ cảm động thiêng liêng cũng như sự say đắm phàm trần của nó.

Cho đến nay Hiếu vẫn chưa hết bàng hoàng kinh ngạc. Nàng không hiểu ra sao nữa, mỗi khi nhớ đến đôi mắt đằm thắm của Trần, đôi môi đỏ thắm khát khao của chàng tìm kiếm đôi môi của nàng, lòng nàng rung động một cách êm đềm như những cơm mưa đầu mùa tan vào lòng đất khô héo của những ngày hanh hao nắng hạn.

Nàng cũng thấy mình yếu đuối, bé bỏng vô cùng, dại khờ biết bao, tình yêu ngang trái này mở ra cho nàng bao nhiêu điều lạ lùng mà nàng khó thể tin là có thật.

Đời Hiếu, Hiếu những tưởng không còn có gì khiến cho nàng ngạc nhiên nữa. Cuộc đời tối tăm từ buổi còn thơ, nàng là con thứ trong một gia đình trung lưu, từ bé nàng sống như một cái bóng bên cạnh người cha bất đắc chí trong cuộc đời, lạnh lùng thờ ơ với con cái, một người mẹ bị tê liệt nằm một chỗ năm này qua năm khác. Hiếu được học hết bậc tiểu học rồi ở nhà. Khi vừa lớn lên nàng đã biết nếm trải đau đớn tủi thân vì biết mình bị tật mắt lé, xấu xí không ai muốn nhìn nên nàng thường trốn tránh mọi người, tìm những nơi hiu quạnh ngồi đọc sách và thả hồn tưởng tượng theo những nhân vật mà tùy từng lúc vui buồn nàng nghĩ mình là họ. Nàng lấy chồng do lời giao ước giữa cha nàng với một người bạn từ khi nàng còn ở trong bụng mẹ. Trong những buổi trà dư tửu hậu hai người bạn cao hứng hứa gả con cho nhau và sau này họ quyết thực hành lời hứa đó.

Việc lấy chồng của nàng giản dị như thế, không ai buồn hỏi đến ý kiến của nàng, người ta lo liệu mọi lễ nghi theo tục lệ, một bà cô được vời tới để chỉ dẫn cho Hiếu phải may mặc ra sao, phải đi đứng lễ bái thế nào.

Người chồng, trong lễ cưới mới thấy mặt cô dâu, vô cùng thất vọng vì đôi mắt lé xấu xí buồn nản của nàng, bỏ nhà ra đi biền biệt. Mặc, cha mẹ chồng vẫn tiến hành lễ cưới và tuyên bố chỉ biết có nàng là con dâu mà thôi. Hiếu sống trong niềm tủi nhục của một cô dâu bị bỏ rơi, nhưng cuộc đời đã lãng quên nàng từ ngày thơ ấu nên rồi nàng chịu đựng cũng quen đi, nàng tập thích nghi với đời sống của gia đình chồng. Hiếu tự nghĩ mình chỉ là một người con gái bất hạnh thì dù sống dưới một mái nhà này hay dưới một mái nhà khác, với danh vị rồi cũng thế thôi. Tuy nhiên sự cam chịu của nàng, cùng tính nết hiền hậu dịu dàng của nàng đã gây được cảm tình của gia đình chồng đối với nàng. Cha mẹ chồng thương mến nàng như con đẻ, nhờ đó nàng đã sống lặng lẽ dễ chịu trong cảnh làm dâu hờ đó.

Người chồng bỏ đi ba năm lại trở về nhà, anh ta làm ra vẻ không biết đến sự có mặt của Hiếu trong nhà, lạnh lùng xa cách, nhưng dần dần nghe lời cha mẹ khuyên nhủ, người mẹ khóc lóc van lơn, viện lẽ đã cưới người ta về làm dâu, dù sao cũng mang tiếng là gái có chồng, nếu anh ta không bằng lòng thì cha mẹ sẽ mang tội bất nhân vì đã làm lỡ đời con gái của người ta.

Sau cùng vì hiếu với cha mẹ, và sống gần gũi trong gia đình, anh ta cũng có dịp để tâm đến sự yên lặng xa xôi của nàng, vẻ nhu thuận đáng quý của nàng, nên anh đành lòng mà nghĩ âu cũng là duyên số. Hiếu cũng biết chồng đã vì cha mẹ mà bằng lòng ăn ở với nàng, nhưng từ bao nhiêu năm bị đời bỏ quên, nàng hầu như thỏa hiệp với cuộc đời mà để mặc cho số phận run rủi.

Ít năm sau hai bé Hiền Hòa kế tiếp nhau ra chào đời, nhờ trời chúng rất xinh xắn dễ thương nên càng thắt chặt tình nghĩa vợ chồng của nàng. Vợ chồng Hiếu đã đến lúc gần gũi, quý mến nhau, nàng những tưởng đời nàng đến lúc yên vui. Nhưng sự tan vỡ đã đột ngột xảy ra cùng với bộ mặt ghê tởm của chiến tranh, người chồng đã ngã gục ngay trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến, chồng chết đi mang theo chút hy vọng nương tựa cuối cùng của đời Hiếu. Tai biến dồn dập, cha mẹ chồng cũng lần lượt từ giã cõi đời vì buồn phiền, vì mất con, vì già yếu quá.

Hiếu thành ra tứ cố vô thân, bồng hai con dại tản cư từ làng này sang làng khác, cuối cùng nàng trôi dạt đến vùng rừng núi chiến khu này. Nàng đặt hết tâm hồn vào hai đứa con thơ, cuộc sống khó khăn xuôi ngược nhưng lòng nàng thanh thản bình yên. Hiếu có ngờ đâu cuộc đời trôi nổi của mình lại có ngày bắt gặp khuôn mặt tình yêu chói lòa diễm phúc.

Giờ đây nàng mang một tâm trạng ngổn ngang rối bời cảm xúc, dĩ vãng u buồn dằng dặc sau lưng nàng hầu như biến dạng. Nàng như một con sùng bằn bặt nằm yên trong lòng đất sâu đen tối, bỗng một ngày phép lạ hiện ra, con sâu trắng nõn tự nhiên thấy mình trồi lên mặt đất, trên lưng mọc ra đôi cánh kỳ diệu, khẽ động cánh, tức thì thấy mình bay cao trên bầu trời xanh nguy nga lồng lộng, ánh sáng tinh khôi choáng ngợp. Thời gian bây giờ đối với nàng vô thủy vô chung. Tình yêu mang lại cho nàng nỗi bất tuyệt của kiếp sống, hạnh phúc và khổ đau đều có đủ quyền lực làm tan hoang tất cả. Nàng lờ mờ hiểu rằng phải như thế, rồi sẽ phải như thế, nhưng bằng cách nào thì nàng không thể biết. Có điều nàng biết rõ là nàng sẽ vui lòng đón nhận, và sẽ vui lòng mãi mãi.

Có tiếng chân nên mạnh xuống nền nhà đi về phía bếp, nàng biết đó là tiếng chân của Trần, nàng đâm ra luống cuống, tim nàng rộn rã. Nàng ngẩng lên, Trần đứng đó, choán hết cả khuôn cửa vào bếp, nét mặt chàng tươi cười rạng rỡ, đôi mắt đen láy sáng rực trìu mến nhìn nàng. Chàng nhận thấy ngấn nước mắt còn đọng trên má nàng, chàng tiến lại gần, nụ cười vẫn đằm thắm trên môi, Trần hạ giọng khẽ hỏi:

– Sao Hiếu khóc?

Nàng lúng túng, ngượng ngập, đưa tay lên dụi mắt, tuy cố gắng lắm mà giọng nói vẫn run, nàng chỉ vào bếp lửa:

– Tại củi tươi khói nhiều quá, nên mắt bị cay đấy chứ.

Trần bật cười, chàng thấy sự bối rối che giấu xúc động một cách vụng về của Hiếu có vẻ trẻ thơ tội nghiệp lạ, lòng rạt rào thương cảm, chàng cúi xuống, ghé gần nàng hơn nữa, giọng trêu chọc âu yếm:

– Làm gì có chuyện củi tươi, Hiếu khóc tại Trần về chậm, sợ Trần chết rồi phải không?

Hai tiếng “Trần chết” làm mặt Hiếu tái xanh, nàng hoảng hốt nhìn Trần, nàng đưa tay lên như muốn bịt miệng Trần nhưng lại bỏ thõng tay xuống, nàng nhìn Trần, vẻ trách móc:

– Đừng nói bậy như thế, không nên.

Vẻ sợ hãi kiêng kỵ của Hiếu khiến Trần thích thú, chàng sung sướng cười to, vang động cả nhà khiến Hiếu càng thêm cuống quýt, nàng khẩn khoản nhìn Trần:

– Đừng cười to vậy, cả nhà đều nghe đấy.

– Thì đã sao? – Trần lại hạ giọng – vậy thì Hiếu đừng khóc nữa kia, Hiếu thì cái gì cũng lo, cái gì cũng sợ. Trần không chết được đâu, có Hiếu mà làm sao Trần chết được. Bao giờ chết cùng chết, phải không nào?

Trần ra vẻ diễu cợt, nhưng đôi mắt vui vẻ của chàng chứa đựng một niềm ấm áp cảm động. Chàng đưa tay vén mớ tóc xõa rối trên trán Hiếu, đùa nghịch hỏi lại:

– Có phải không nào?

Hiếu gật gật đầu, nàng vội cúi nghiêng xuống, vờ chăm chú trông bếp lửa, tránh cho Trần khỏi trông thấy đôi mắt lại ẩm ướt của nàng.

Tiếng Quý gọi Trần ở nhà trên giúp nàng tránh được nỗi ngượng ngùng khó khăn đó. Trần đứng dậy đi lên nhà, còn nói to vói lại:

– Trần đói bụng lắm rồi đó chị Hiếu.

Hiếu ngửa mặt, thoáng cười một mình, nàng nhìn lửa nhảy múa trong lò, một vệt lửa lòe ra, cười lên lảnh lót, thần trí Hiếu chơi vơi, chợt chùng xuống trong một cảm giác êm ái dịu dàng.

Lần đầu tiên trong đời, nàng có những giây phút mơ mộng, tâm hồn nàng như cơn gió buổi chiều nổi lên ngoài kia, bay lướt thướt qua những ngọn đồi im bóng mây che, cuốn lại rối rắm trong những vùng u tịch hỗn mang, gây nên muôn ngàn tiếng xào xạc vu vơ, đoạn thở dài suốt qua bóng chiều huyền hoặc.




Chương 17

– Không cái chết nào giống cái chết nào cả, bởi vì những khuôn mặt không bao giờ trùng nhau cả. Tao nghĩ đó cũng là kỳ công của Thượng Đế vậy.

– Thế nhưng mày không thấy cái dáng điệu khóc than nhếch nhác của người sống thì lại giống y hệt nhau, người nào cũng giống người nào. Đó cũng lại là một kỳ công của Thượng Đế như mày nói nữa. Tao nghĩ rằng điều đó chứng tỏ Ngài muốn rằng trong sự đau khổ mọi người đều bình đẳng.

Mặt trăng đã lên cao khi Huỳnh và Trần đi lên đến đỉnh ngọn đồi. Họ vừa đi thăm những xác chết vì máy banh oanh tạc trong ngày. Ăn cơm xong họ rủ nhau đi, có tất cả năm người chết, trong số có một đứa bé bị chết cháy. Hình ảnh đứa bé co quắp đen thui, da thịt nứt nẻ khiến họ gây gây ớn lạnh.

Từ chiều cho đến khi trăng lên, họ đã đi đến từng nơi một, hai người cùng có cảm tưởng mình là những chứng nhân khốn khổ. Họ nhìn ngắm xem xét từng nạn nhân, từng vết đạn đục khoét mang đi sự sống của con người, có những người quen và không quen, những người sáng nay còn chào hỏi, còn bao nhiêu dự tính ước mơ, bây giờ nằm im lìm không cử động, không còn biết đến ai nữa. Những người nằm xuống phó mặc cuộc đời, cuộc đời tai ác chứa chấp cùng một lúc sự sống và sự hủy diệt.

Huỳnh và Trần tìm thấy trên khuôn mặt người chết sự bình thản triết lý được rút ra từ cõi sống và trên vẻ mặt khóc than đau khổ vật vã của những người còn sống, nỗi kinh hoàng huyền nhiệm của sự chết.

Cho đến khi lòng đã quá đủ hoang tàn ngao ngán, họ rủ nhau đi lên ngọn đồi vì trăng đã lên cao, tỏa xuống khắp thung lũng một ánh sáng mờ ảo vuốt ve, có một lời kêu gọi âm thầm quyến rũ từ phía những rừng hoang bao la như ánh trăng đã lùa tới từ những vùng xa xôi ngút ngàn đó. Ngọn đồi họ đi lên mọc tuyền một thứ cây tràm thoai thoải từ đồi nọ qua đồi kia, lá cây bé nhỏ, thuôn dài như hình chiếc thuyền loáng bạc dưới trăng.

Vài đóm lửa hắt hiu mông lung dưới thung lũng chập chờn khi ẩn khi hiện trong sương. Một cánh chim vút ngang qua đồi, đôi cánh nhỏ vẫy vẫy rồi khép lại chao nghiêng, vạch một đường bay mộng mị đơn côi mất hút trong ánh trăng nhòa nhạt xa vời.

Trần và Huỳnh cùng cảm thấy buồn rầu nhưng ánh trăng quá dịu dàng hư ảo khiến lòng họ dịu bớt phần nào những ám ảnh chết chóc đen tối. Trần lên tiếng hỏi bạn:

– Thế mai mày về rồi đấy à?

Huỳnh thong thả ngồi xuống bên một bụi tràm, anh ngắt một chiếc lá, đưa vào miệng, nhằn nát, vị đắng của lá tràm tê lạnh đầu lưỡi anh, mùi thơm khuynh diệp nồng hắc khiến anh thấy dễ chịu. Anh bảo Trần:

– Ngồi xuống đây một lát mày. Ngồi xuống đây, nghĩ rằng mình còn sống, còn được ngồi giữa một đêm trăng, còn nhận biết rằng mình là hư vô và hư vô là mình. Như thế này đã là hạnh phúc lắm rồi. Ừ, mày ngồi thế trông được đấy, để ánh trăng soi vào mặt, một bộ mặt nguyên lành chưa bị bom đạn cày nát, thế là đã đẹp với trăng lắm rồi. Đêm như đêm nay tao thấy có lắm điều huy hoắc, mày có tao và tao có mày, cả hai đứa đều còn đủ mặt mũi tay chân, lại có nguyên cả một đêm trăng kỳ dị. Tao có nhiều chuyện cần nói với mày. Ngày hôm nay, có lúc tao tưởng không còn nói gì với mày được nữa. Bây giờ biết chắc là có thể nói đủ mọi chuyện với nhau. Đời kể cũng tuyệt vời đấy chứ mày.

Trần bật cười:

– Thằng này say trăng đến nơi rồi. Mày lảm nhảm gì thế? Hôm nay tao mới thấy mày nói hơi nhiều. Vì trăng hay vì thoát chết trận mưa bom ban ngày đấy?

– Cả hai mày ạ. Mày không thể biết được tao sợ chết đến chừng nào, tao sợ một mình, mặc dầu sống giữa đám đông tao vẫn không bớt cô đơn, tao hay gắt gỏng với mọi người là vì thế. Chết là phải đi một mình rồi, không còn ai ở bên để nói chuyện, để gắt gỏng, để phiền hà, để yêu thương thì cũng vậy. Đêm nay, mày thấy đó, những người kia nằm im lìm chờ sáng mai mọi người còn sống tụ tập đến tiễn đưa thân xác của họ làm một chuyến độc hành đi về với cát bụi. Buồn biết bao!

– Tao thì cho là thoát, được nghỉ ngơi linh hồn và thể xác nhọc nhằn. Chả sợ gì cho mệt xác, sống hay chết cũng vậy thôi, cả hai đều tuyệt diệu như nhau cả. Tao háo hức với đời sống cũng như nghĩ đến cái chết tao cảm thấy tò mò đến cực độ. Chắc nó phải có một cái gì đó khiến cho khi sinh ra con người phải khóc, thế mà khi chết đi con người lại mỉm cười. Mày có thấy mặt những người chết khi nãy không? Tao thấy hình như họ mỉm cười.

Huỳnh nói, giọng mơ hồ:

– Mỉm cười à? Ừ, tại sao lại không mỉm cười nhỉ? À này Trần, mày có định cưới vợ không đấy?

Trần chưng hửng ngạc nhiên, nhưng cũng phá ra cười:

– Ồ cái thằng này, hôm nay mày làm sao thế? Đang không lại nói chuyện cưới vợ trong một lúc như thế này. Mày có điên không?

Huỳnh nghiêm trang:

– Không, tao nói thật đấy. Mấy hôm nay bận nhiều việc quá nên tao chưa có dịp nói với mày về chuyện bác Thị nhắn mày về chuyện đó.

– Cô tao nhắn à, có chuyện gì thế?

– Bác Thị vừa đi Huế về bảo tao tin cho mày biết cụ của mày sắp cho con bé cháu của mày đi cùng với cô bé Thương về nhà bác Thị để gặp mày. Cụ bảo muốn lo chuyện vợ chồng cho mày và Thương sớm chừng nào hay chừng ấy vì cụ đã già quá rồi.

Trần chép miệng:

– Lại chuyện đó à. Tao cứ tưởng mẹ tao nói là nói vậy thôi chứ. Ai ngờ bây giờ lại làm như chuyện thật. Phiền quá!

– Sao lại phiền? Tao thấy cụ cũng có lý. Cụ đã già mà mày là con một, cụ không lo sao được. Vả lại tao nghe bác Thị bảo Thương rất dịu dàng, hiền hậu, và đẹp nữa.

– Rất đẹp chứ không phải đẹp mà thôi. Ngày còn bé tí nó đã có những nét thật kiều diễm thanh thoát của một thiếu nữ rồi.

– Vậy thì còn chờ đợi gì mà mày không bằng lòng, lại bảo rằng phiền?

Trần có vẻ bứt rứt không yên:

– Không phải phiền mà thôi đâu, tao e rằng sẽ phải khổ tâm nữa là khác.

– Tại sao lại khổ tâm? Mày nghĩ không thể nào yêu được Thương hay sao?

– Không phải thế, trái lại là khác. Thương rất đáng yêu, tao chắc rằng ba năm qua nàng đã trở thành một cô gái yêu kiều quyến rũ nữa. Mẹ tao không bao giờ lầm lẫn khi quyết định một việc gì, cụ đã chọn Thương tất đã phải hoàn toàn. Nhưng tao bây giờ không thể chấp thuận chuyện đó được nữa.

– Tại sao không? Bộ mày bảo đi như thế này rồi không thằng nào tính chuyện vợ con gì cả hay sao?

– Có chứ, tao đang tính chuyện lấy vợ đây, nhưng chắc chắn không phải là Thương, thế mới có chuyện.

– Như vậy nghĩa là sao? Lại rắc rối rồi, mày đang yêu một nàng nữ cán bộ nào rồi đấy phỏng? Thảo nào tao thấy vừa đi chỉnh huấn về, đau một trận suýt chết xong mà mặt mũi thằng này cứ sáng rực cả lên. Chẳng bù với hôm sắp đi chỉnh huấn, tao ngồi ở nhà cứ lo ngay ngáy, cứ sợ mày có việc gì.

Trần cười:

– Hôm đó mày trông mặt mũi tao u ám lắm hả?

– Còn hơn thế nữa, khi nghe mày trở về và đau nặng tao lại càng lo hơn vì tao biết mày sẽ chẳng nên trò trống gì với cái lớp chỉnh huấn ấy, mày đau nặng chứng tỏ điều ấy. Thế nhưng khi gặp mặt mày thì tao thấy mày vui vẻ sung sướng hơn bao giờ hết, cái mới lạ.

– Chẳng có gì là lạ. Mày nói đúng, lớp chỉnh huấn không thành công với tao hay ngược lại thì cũng thế. Nhưng mày có điều quên không nghĩ tới là cổ nhân có dạy “không thành công thì thành nhân,” đó là điều tao mong đạt đến nhất. Mày thấy tao vui vẻ sung sướng à? Phải nói là thanh thản nhẹ nhàng thì đúng hơn. Vì tao đã giải thoát được nhiều điều. Trong đó, điều đáng kể là tao không còn tức giận hằn học nữa, chẳng hạn trước kia tao ghét đắng bọn thằng Trương, thằng Việt Dũng, bây giờ tao thương xót chúng nó, tao thấy chúng nó khốn khổ hơn mình nhiều, chúng nó tội nghiệp ở chỗ chúng nó đành lòng qui thuận chịu bọc mình vào lớp vỏ cứng, kệch cỡm thảm hại, chúng nó sợ xây xát, sợ đủ thứ. Còn mình, không sợ cái gì nữa cả, tao thấy tao thênh thang, đó là lý do đủ để thấy mình yên ổn, ít nhất đối với chính mình. Chưa nói đến nhu cầu của một cuộc dự phóng, với điều đó tao chấp nhận sự sống chết ngang nhau một cách bình yên vô cùng. Thật ra thì tao những muốn phá vỡ tan hoang tất cả nhưng để làm gì mới được chứ.

– Được rồi, đâu còn có đó. Bây giờ hãy nói về nàng của mày đi. Tao muốn biết chuyện đã xảy ra như thế nào?

– À, còn chuyện ấy nữa, mấy hôm nay tao cũng định nói với mày nhưng chưa có dịp. Tao đang yêu mến một người đàn bà và tao định lấy nàng làm vợ.

Huỳnh sốt ruột:

– Thì cứ nói phứt ra là người nào để tao còn xem ra sao chứ, cứ ấm ớ hoài, mày chối nguây nguẩy không chịu lấy cô bé Thương là tao biết rồi. Vậy nàng tên gì, làm cơ quan nào ở phân khu?

Trần bật cười:

– Sao mày lại nghĩ rằng nàng phải ở phân khu kia, tại sao không là ở đây?

– Vì mày vừa ở đó về, mày ở chiến khu này ba năm nay mày có chú ý đến cô nào đâu, mà ở đây có ma nào nên thân để có thể yêu được.

– Vậy mà người ấy ở đây, và là một người mày không bao giờ ngờ tới. Bởi vì dưới mắt mọi người thì nàng không bằng ai hết. Nàng chỉ có giá trị với riêng tao thôi. Đối với tao nàng rất đẹp và chỉ có một mình tao nhìn thấy được vẻ đẹp đó mà thôi. Chính vì thế mà tao gắn bó đời tao với nàng. Mày nóng muốn biết nàng là ai phải không? Tao nói đây: đó là chị Hiếu.

– Hả? Mày nói sao? Chị Hiếu à?

– Không thể tưởng tượng được phải không? Tao cũng thế. Trước kia nếu tao nghe một chuyện tương tự như thế này, chắc tao phải cười nôn ruột. Đời lắm chuyện lạ lùng, sự có mặt của mình cũng đã là chuyện lạ rồi. Vậy thì có gì đâu mà mày phải hoảng hốt lên.

– Đúng vậy, tao hơi hoảng một chút, nhưng không sao, chuyện xảy ra từ bao giờ?

– Mới đây thôi, trong thời kỳ tao đau nặng.

– À, tao hiểu rồi.

– Không, mày không hiểu đâu. Hiếu đã thức trắng đêm này qua đêm khác để lo cho tao, nhưng không phải vì thế mà tao yêu nàng. Nếu tao mang ơn Hiếu về chuyện giúp đỡ săn sóc trong khi tao đau ốm thì sự trả ơn bằng một mối tình không khác gì một sự bội phản. Vì đó không phải là căn bản để giữ cho bền chặt một mối tình. Tình của tao đối với Hiếu chính vì nàng là hiện thân cho một nỗi bất hạnh cô độc to lớn vô cùng. Điều đó phản ảnh tâm tư của tao trong những ngày đi chỉnh huấn, trên đường về từ phân khu, trong những cơn sốt mê man một mình tao đơn độc giữa bao nhiêu sự giằng xé của thể xác lẫn tâm hồn.

Tao nói điều này mày cứ việc cười nếu mày thích, chính vì đôi mắt lé của nàng mà tao yêu thương nàng vô cùng. Tao những muốn hôn lên đôi mắt ấy không biết bao nhiêu lần và mong gìn giữ nó mãi trong đời tao. Đôi mắt của một người bị lé nó luôn có một vẻ trơ trọi cô độc lạ lùng, ai cũng có thể thấy rõ điều đó; một đôi mắt bình thường chúng nó luôn luôn cùng nhau nhìn về một hướng nào đó, chúng biểu lộ một sự đồng điệu, vui buồn có nhau. Trên khuôn mặt của một người có đôi mắt lé, thiếu vắng hẳn điều đó, nó lỗi điệu và tỏ rõ sự lạc lõng bơ vơ. Mày cười rồi đấy nhé, tao biết mà, điều đó đáng cười lắm, mà cũng đáng khóc nữa, cái đó còn tùy. Có một đêm tao vùng vẫy một cách tuyệt vọng để ra khỏi một cơn mơ quái ác, cho đến khi tao hét lên một tiếng mở choàng mắt ra được, mồ hôi toát ra ướt đẫm cả người, tao vẫn còn nguyên cảm giác kinh hoàng của sự cô đơn đến cùng cực. Lúc ấy khuôn mặt và đôi mắt lé của Hiếu cúi xuống nhìn tao đầy vẻ lo âu thương cảm. Tức thì tao cảm thấy chan hòa một nỗi xót xa an ủi khiến tâm trí tao dịu lại ngay. Tao thấy trong đôi mắt bất toàn ấy một nỗi lạc loài rộng lớn mênh mông bao trùm cả nỗi đơn độc của tao.

Nó có ma lực của một nhân duyên đã được an bài, cái nhân duyên nối liền một vực thẳm này đến một vực thẳm kia.

Đột nhiên Trần ngừng lại.

Từ ngọn đồi trước mặt, một tiếng chim lạ bỗng trỗi lên véo von réo rắt như những sợi tơ trăng ngâm lên rồi thốt nhiên im bặt như có sự lầm lẫn nào đó. Cả hai người bạn cùng yên lặng lắng tai nghe, ngỡ ngàng. Không khí trong suốt như được lọc từ một thiên thể khác.

Một ngôi sao băng ngang cuối trời nghe như có tiếng xé lụa trong không trung.

Tiếng Trần cười khẩy:

– Tao kể xong rồi đó, mày khuyên can gì tao không?

Giọng Huỳnh xa vắng:

– Mỗi con người đều tha hồ tưởng rằng mình đã chọn lựa, kỳ thật họ đã chọn lựa đúng cái căn phần của mình. Vậy thì tao có gì để khuyên can mày, khuyên can cái gì mới được chứ? Có điều, tao muốn nói với mày, chúng ta, ít nhất là mày và tao, đã đi từ mất mát này đến mất mát kia, dần dần sẽ không còn có gì để mà gìn giữ nữa, thêm hay bớt những mối bận tâm rồi cũng thế thôi. Từ đầu con đường, chúng ta đã đa mang thật nhiều, hành trang nặng trĩu cả vai, không những thế, lại còn ham hố nhặt nhạnh thêm ở dọc đường, rồi khi đến cuối đường, bỗng ngơ ngẩn thấy mình nhẹ tênh. Cuối cùng mình vẫn chỉ là mình, không thể là gì khác. Thực tế mà nói, để qua một bên những rắc rối không tránh khỏi với gia đình và xã hội đối với một mối tình kỳ quặc như thế, đừng quên mày là một đảng viên, Đảng theo dõi chặt chẽ tư tưởng, hành động cho đến tình cảm của mày. Một mối tình ngoại lệ được xem như một cách vượt rào, nó kéo theo những suy luận triền miên để đi đến những kết luận không ngờ nổi. Nhưng kết luận ấy nó giản dị hơn những điều mày đã kể cho tao nghe đêm nay nhiều. Nó giản dị như một viên sỏi quăng xuống bể lặn mất tăm vậy đó. Dĩ nhiên mày cũng hiểu rằng mối tình của mày và chị Hiếu sẽ đi đến đâu rồi. Dù sao, tao cũng không muốn thấy mày lâm vào tình cảnh khốn khó, nhưng nghĩ cho cùng, tao muốn hay không cũng vậy thôi.

– Rồi sẽ ra sao, đối với tao cũng không cần thiết nữa, có quá nhiều điều trước đây tao đã tưởng quan hệ lắm, bây giờ chỉ thoáng qua như không có gì cả. Mày nói cái gì căn phần đó, đúng là điều tao cảm thấy, thôi thế để đến đâu hay đến đấy.

– Còn một điều nữa, bây giờ tao phải về trả lời với bác Thị như thế nào đây?

Trần cắn môi ngẫm nghĩ:

– Kể ra thì việc đó không có gì khó, được rồi, mày cứ thưa với cô Thị là tao sẽ về, lúc nào thuận tiện tao sẽ báo trước. Từ chối sự thăm viếng của những người thân trong gia đình là chuyện vô lý, vả lại chính tao cũng mong muốn cuộc thăm viếng này. Xa nhà kể cũng lâu lắm rồi, dù sao Thể My và Thương là những khuôn mặt thân thiết gợi lại cho tao những ngày êm ấm trong gia đình, đó là quãng thời gian quá đẹp đến nỗi không lòng nào không mong gặp lại.

Huỳnh càu nhàu:

– Có trời mới theo kịp những chuyện trên trời dưới biển của mày, rồi ra khốn khổ đấy con ạ.

Trần cười tươi tỉnh, mắt sáng ngời bóng trăng:

– Sao dạo này mày không bảo tao như trước mày thường bảo: “Hãy cứ được như thế, và đừng khốn khổ như tao?”

Huỳnh vụt đứng dậy, sờ tay lên vai áo ẩm ướt sương đêm, giọng nói bỗng trở nên cộc cằn, gắt gỏng:

– Thôi đi về, thằng quỷ này, mới đau dậy ngồi mãi đây, muốn chết đấy hả?

Nói xong Huỳnh cắm cúi bước đi, vẻ bực dọc. Trần đứng dậy đi theo bạn, ngửa mặt nhìn trăng, chàng nhảy chân sáo theo cạnh Huỳnh, hai tay đút vào túi quần, miệng huýt sáo một điệu nhạc nhảy nhót, lang thang giữa trời khuya.

Huỳnh vẫn lầm lì bước, đầu cúi xuống vẻ lắng nghe, nét mặt anh dần trở nên dịu dàng, tiếng huýt sáo của Trần như quấn quýt lấy người anh, anh mỉm cười một mình trong khi bước qua một lối rẽ có bóng tre che khuất bóng trăng dẫn xuống căn nhà bên kia triền núi.




Chương 18

Mùa đông dài vô tận trong thời kỳ chiến tranh, mùa đông ở miền quê Thừa Thiên lại còn rét mướt hơn bất cứ nơi nào khác.

Mưa suốt tháng này sang tháng nọ, đất đai cây cối ủng thối, không một loài cây nào trổ trái đâm hoa được trên mặt đất lạnh lẽo này. Các loại côn trùng chui thật sâu vào lòng đất, những cánh đồng ngập nước mênh mông in bóng bầu trời nặng trĩu, mây xám như chì. Có những ngày buốt giá căm căm, cá tôm trên đồng cũng bị chết cóng, nổi lềnh bềnh trên mặt nước.

Sự sống gần như ngưng lại trên mặt đất, thiên nhiên cũng bị đọa đày.

Đối với dân quê miền này, mùa đông là mùa khốn khổ nhất.

Từ vụ mùa tháng bảy, số lương thực dự trữ của họ trong năm không đủ kéo dài cuộc sống lây lất, cho đến tháng mười một, tháng chạp chẳng còn lại bao nhiêu. Trừ một vài nhà giàu có trong làng, còn tất cả đều phải ăn mọi thứ gì họ bòn mót được trên mặt đất lạnh lẽo khô cằn, những củ khoai họa hoằn còn sót lại trên những thửa đất đã được đào xới kỹ lưỡng. Các loại rau dền, rau sam, rau má vị đắng chát vì cằn cỗi, dai cứng như rơm rạ vì thiếu khí ấm của mặt trời, người dân quê ăn những thứ đó thay cơm, nhưng những thức ăn đó cũng không nhiều nhỏi gì, người ta phải tranh giành nhau, chưởi bới đánh đập nhau vì một ven bờ ruộng có mọc những thứ rau ăn được.

Trước chiến tranh tình trạng không đến nỗi nào như thế, trong những tháng giá, người ta có thể đi làm thuê mướn ở các làng lân cận hoặc ở thành phố, chờ đến vụ mùa lại trở về với ruộng đất.

Bây giờ các nẻo miền đều đóng kín. Thảng hoặc một khuôn mặt lạ đi vào trong vùng đất nào để làm ăn, dù có đủ giấy tờ của chính quyền kháng chiến cấp

phát vẫn bị nghi ngờ theo dõi, vô phúc cho kẻ đó nếu trong thời gian ấy có sự trùng hợp một cuộc hành quân của Pháp ngang qua hay một trận máy bay oanh tạc là đời kể như đi đứt.

Lý lẽ của chiến tranh không ngập ngừng ở một sự nghi kỵ nào hết, chém giết và chém giết liên miên, dưới mọi hình thức và phương tiện.

Như vậy, mùa đông đã vây hãm tất cả. Những khuôn mặt người lớn ốm o vàng vọt, những thân hình trẻ con ở truồng bụng ỏng chứa rặt những thứ rau hổ lốn, đứa lớn tha đứa bé lượn lờ trên đường quan, gió thổi heo hút, mặt mũi xanh bủng héo hắt.

Đó là khuôn mặt quê hương Việt Nam vừa qua cơn đói năm Ất Dậu lại rơi ngay vào vòng binh lửa chống xâm lăng. Giờ đây lại tiếp diễn cảnh nồi da xáo thịt bởi ý thức chủ nghĩa, bởi nuôi dưỡng hận thù.

Và bên cạnh tất cả đau đớn quằn quại rách nát đó là những mùa đông vô cùng vô tận, những mùa đông đói rét cơ hàn.

Những người kháng chiến phải hứng chịu sự phũ phàng của mùa đông một cách oanh liệt. Trong những ngày nắng ấm, họ còn có thể cười đùa với hiểm nguy, với mọi thiếu thốn nhưng khó ai có thể giữ mãi được nụ cười trên môi khi phải rong ruổi ngày đêm dưới những cơn mưa và gió rét căm căm quật vào mặt mũi thân thể họ như những ngọn roi da nhức buốt. Không có đủ áo ngự hàn, trên mình họ chỉ có những bộ quần áo mỏng manh chắp vá không đủ che tấm thân gầy gò run rẩy vì lạnh, vì đói. Phải, họ đói lắm, lương thực quá hiếm hoi trong mùa đông nên khẩu phần của họ cũng bị hạn chế. Những người có thể liên lạc được gia đình cũng đỡ khổ phần nào nhờ sự tiếp tế lo lắng của những người thân.

Mùa đông năm nay, một kẻ mất hút liên lạc với gia đình như Huỳnh vẫn có được chiếc áo len mặc ấm, chiếc áo của người mẹ già bên sông dành cho người con trai không thấy trở về đã đem mặc cho Huỳnh khi Trần sắp đưa Huỳnh xuống thuyền đi trên giòng sông đêm tối.

Cũng trong một đêm mùa đông, Huỳnh đã trở về căn nhà nhỏ bên sông để thăm người mẹ.

Huỳnh cập thuyền vào bãi cát, anh nhảy xuống, một món quà nhỏ trong tay, lòng bồi hồi cảm động, Huỳnh đã đi ngược lên cái dốc dẫn đến căn nhà.

Chợt Huỳnh đứng dừng lại, đưa tay lên dụi mắt, anh tưởng anh đang mơ. Căn nhà không còn ở đó nữa. Huỳnh không tin rằng đêm tối đã huyền hoặc đôi mắt của anh. Huỳnh bước vội vào cái sân nhỏ, bốn bề trống vắng, chỉ còn trơ lại cái nền đất, dấu hiệu chứng tỏ trước đây đã có một mái nhà, nước mưa đọng từng vũng loáng ướt dưới bầu trời đêm.

Huỳnh đứng lặng, không biết mình đang nghĩ gì, nơi đây không còn dấu vết của người tưởng như đã lâu lắm rồi, hàng bao nhiêu năm. Lau lách bên sông xào xạc, đồng không mông quạnh trải dài đến tận những xóm làng mù khơi trong sương.

Tất cả đều lặng lẽ, câm nín. Một con cá quẫy táp bóng ở ngoài sông, mặt nước xao động một thoáng rồi loang ra thành vòng tròn tỏa rộng, mặt nước lại khép kín, lặng lờ mênh mang, cảnh trí có một vẻ gì như không thật.

Huỳnh đi lại thơ thẩn trên nền nhà, hồi tưởng đến bếp lửa vẫn lập lòe đêm đêm mới cách đây vài tháng, nghe vẳng tiếng nói nghẹn ngào của người mẹ dặn dò anh trở lại.

“Một đứa kia nó đã bỏ mẹ mà đi biệt rồi.” Còn đứa này, đứa con trai xa lạ dở sống dở chết ngã quỵ trên bậc thềm của mẹ ngày nào. Mẹ đã nâng giấc che chở thương yêu nó, với tất cả tấm lòng người mẹ. Đứa con này đã có ngày trở lại, nhưng mẹ không còn ở đây để chờ đợi đêm đêm nữa. Mẹ bây giờ ở đâu? Về tá túc dưới mái nhà họ hàng nào đó hay đã đi mãi vào lòng đất yên nghỉ ngàn năm? Hay chính cả mẹ cũng không bao giờ có thật? Người mẹ một đêm mùa xuân đã dang tay đón Huỳnh trên bậc thềm này chỉ là linh hồn của người mẹ Việt Nam lang thang suốt đầu ghềnh cuối bãi nhặt nhạnh từng đứa con thân yêu của quê hương chiến tranh đau khổ này.

Một cơn gió từ ngoài sông thổi tạt vào, lướt êm như tiếng thở dài nhẹ trôi qua cánh đồng mênh mông hiu quạnh, có đám mây trắng nõn bỗng nhiên sà xuống, lơ lửng trên mặt sông mang hình thù một chiếc thuyền giương buồm trắng bọc gió đang bay lên. Huỳnh sẽ không lấy làm lạ nếu hốt nhiên thấy hình ảnh người mẹ hiện ra trên chiếc buồm mây đang tản mạn dần thành từng dải trắng quấn quýt trôi đi.

Nỗi buồn hoang lạnh chiếm lấy tâm hồn anh, anh ngậm ngùi cúi xuống gói quà trong tay, đó là một chiếc khăn quàng bằng nhiễu màu lục mà Huỳnh ước ao được tự tay phủ lên vai gầy của mẹ. Huỳnh chậm chạp bước xuống sân, bên chiếc vại nước đã vỡ làm đôi, có gốc mai già trụi lá nghiêng xuống, dáng mảnh khảnh trơ trọi. Huỳnh đứng dừng lại đó, mơ màng.

Huỳnh tháo gói quà trên tay, mở rộng chiếc khăn nhiễu màu lục, bằng cử chỉ âm thầm và cẩn trọng, anh khoác chiếc khăn lên cành mai thấp nhất, bàn tay Huỳnh khẽ vuốt ve trên mình chiếc khăn mềm và mịn; đoạn Huỳnh thong thả bước xuống bãi cát, nước sông rào rạt xô dồn vào bãi, chiếc thuyền nhỏ chờ anh tròng trành đu đưa trên mặt sóng. Người chèo thuyền vẫn yên lặng như từ lúc đưa anh tới.

Huỳnh bước lên thuyền, ra hiệu bảo chèo đi. Chiếc thuyền từ từ rời xa bãi cát.

Căn nhà nhỏ bên sông kể từ nay không còn nữa, nó biến đi lúc nào không ai hay biết.

Nhưng người mẹ già đơn côi đứng trên chiếc sân nhỏ trông vời sông nước mong ngóng con về vẫn còn hình tượng cây mai già yếu trơ trụi nghiêng mình bên chiếc vại nước vỡ làm đôi.

Nghe theo lời Trần, Huỳnh đã hoãn lại việc gởi về trung ương bản điều trần về việc cải cách ruộng đất. Theo Trần thì đề cập đến việc đó bây giờ chưa phải lúc. Riêng Đảng đã phát động chính sách này ở những vùng an toàn ngoài miền Bắc, hiện người ta đang rút tỉa dần dần những kinh nghiệm để nghiên cứu, soạn thảo, hoàn thành một chính sách chung. Ở những vùng có giặc chiếm người ta chưa thể nghĩ đến việc kiện toàn những biện pháp cải cách đó. Cho nên, cũng theo ý Trần, cần phải có thời gian theo dõi mọi diễn tiến về những sự việc này ở miền Bắc để nhận định những điều cần thiết cho bản điều trần được thêm phần chân xác, tránh những ngộ nhận đáng tiếc về sau.

Như vậy, cái việc đáng kể mà Huỳnh mong làm cho mảnh đất quê hương này vẫn chưa thực hiện, trong khi đó, càng ngày những người kháng chiến càng đi sâu vào tình trạng không lối thoát.

Do sự thanh lọc thành phần giai cấp, Đảng đã đặt ra phong trào biên chế. Những người bị xem như giai cấp tiểu tư sản, có tinh thần kháng chiến thuần túy chứ không thích hợp với không khí đảng phái đều thực sự bị loại trừ khỏi hàng ngũ kháng chiến, viện lẽ cần có người về tăng gia sản xuất ở hậu phương.

Hàng trăm người bị dồn vào đường cùng. Họ bỏ nhà ra đi những mong đem lại một ngày vẻ vang cho đất nước, vậy mà nay, quân giặc vẫn còn nghinh ngang trên xứ sở, mặt mũi nào họ trở về với gia đình để nói rằng Tổ quốc không còn cần đến tôi nữa. Chưa nói đến những thành tích chiến công của họ đã dứt hẳn lối về với gia đình của họ, phần đông đều ở quanh vùng địch chiếm. Có biết bao nhiêu người bơ vơ lạc lõng đi lang thang suốt miền nọ đến miền kia để cuối cùng đi vào những cái chết vô nghĩa đầy rẫy trong chiến tranh hoặc chấp nhận những cuộc sống thừa tàn tạ chứa chất uất nghẹn và đau thương của những chí trai không thỏa.

Cũng trong mùa đông này số người đi kháng chiến bỏ súng trở về vùng giặc chiếm càng ngày càng tăng thêm. Huỳnh chứng kiến biết bao bạn bè đã tìm đường trở về thành phố Huế, trong đó có những con người trước đây tràn đầy kiêu căng khí phách. Do đâu mà họ đã chấp nhận sự ô nhục của một cuộc đầu hàng? Tuy Huỳnh hiểu rõ hơn ai hết, rằng phần đông không phải là họ đầu hàng giặc, mà là đầu hàng số phận, số phận đau đớn mỉa mai của đất nước, mà cũng chính là bản thân của họ. Thế nhưng lòng Huỳnh vẫn không khỏi tê tái khi sớm mai thức dậy được tin một đồng đội đã từng nằm sương gối đất với mình, cùng chia nhau từng nắm cơm gạo hẩm, cùng vui cười bên nhau giữa mưa nắng đường trường, đã rời bỏ hàng ngũ để trở về bên kia vùng địch chiếm. Con chim đã lìa bỏ bầy, bỏ bạn để bay đến một nơi không còn lẽ sống, cánh chim buông xuôi cho một kiếp lưu đày. Họ bị lưu đày chính trên quê hương của họ.

Kể từ nay, họ trở thành kẻ bơ vơ, không còn lý tưởng, không có niềm tin. Họ bị kể như những kẻ phản bội, những tên Việt gian khốn nạn dưới cái nhìn thông thường của người đời.

Huỳnh buồn rầu nghĩ đến những thân phận đen tối ràng buộc với vận mệnh không may của xứ sở này. Có lúc anh bàng hoàng tự hỏi tại sao mình lại ở đây để làm gì, có ích gì cho ai đâu, nhưng cuối cùng rồi Huỳnh cũng chọn lựa sự ở lại, ở lại cho đến cùng, dù ở lại chỉ để nhìn quê hương dần dần biến dạng, dù ở lại cũng không hơn gì những kẻ đã ra đi về bên kia, cam chịu một cuộc đầu hàng.

Mùa đông năm 1950 mang theo nỗi tàn phai một mùa lý tưởng của những người Việt Nam yêu nước. Mọi sự đều trở nên vô nghĩa, những nỗi niềm phấn khởi đam mê, những gian lao cơ cực, hết thảy đều bị phụ phàng.

Những kẻ còn say mê hay đã tỉnh cơn mê đều soi rõ khuôn mặt mình trên chiếc gương định mệnh, một định mệnh chỉ còn in dấu của tang thương.




Chương 19

Cuộc hẹn gặp của Trần với gia đình tuy đã định vào tháng chín nhưng mãi đến cuối tháng chạp Trần mới có dịp thu xếp để về gặp Thảo My, cháu gái chàng và Thương, người con gái mà mẹ chàng muốn chàng cưới làm vợ.

Sau trận đau, hơi bình phục chàng đã chỗi dậy nhận công tác đi liên miên vùng này qua vùng nọ. Cuối tháng mười một, cơ quan Trần có lệnh rời chiến khu về trú đóng ở đồng bằng. Ngày Trần và Quý dọn dẹp tài liệu và vật dụng để rời khỏi căn nhà của Hiếu, nhìn vẻ mặt âu sầu lặng lẽ của nàng lòng Trần se sắt, xót xa. Cuộc đời của người đàn bà chàng yêu thật quá đỗi bấp bênh, dạo rày nàng phải nhận thêm công tác vào nội thành nguy hiểm vô cùng. Từ đây cơ quan của Trần rời hẳn miền xuôi, hai người lại càng hiếm hoi có dịp gặp nhau hơn nữa. Tuy chàng cố an ủi nàng, rằng chàng sẽ trở về với nàng luôn, rằng chàng mãi mãi nghĩ đến nàng, nhưng những ngày xa cách chàng vẫn thấy nét mặt buồn rầu cam phận của nàng hiện ra trong trí chàng mỗi khi chiều xuống. Hình ảnh người đàn bà đáng thương lủi thủi đi về một mình trên những nẻo đường kháng chiến in sâu trong tâm khảm chàng, là mối bận tâm lo nghĩ của chàng, khiến lòng chàng mang nặng một nỗi nhớ thương sâu đậm vô cùng mà chàng không hề ngờ tới.

Cơ quan của Trần trú đóng cách nhà bà Thị đi nửa ngày đường và phải qua sông.

Trần rẽ vào lối ngõ nhà cô của chàng, tự nhiên thấy lòng mình rộn ràng xôn xao. Không biết tại không khí buổi chiều cuối năm khiến một kẻ lăn lóc gió sương như chàng bỗng thấy lòng mềm yếu khi sắp đối diện với những khuôn mặt thân thuộc của gia đình, hay tại chàng sắp gặp một người con gái có liên quan đến nhiều vấn đề trong đời chàng hiện tại? Có lẽ cả hai.

Từ ngoài sân, chàng nghe tiếng cọ rửa nồi niêu chén bát lanh canh ở phía cầu ao sau nhà, mùi thơm khói chiều lan tỏa, có tiếng người nói cười vui vẻ bên dãy nhà ngang. Trần đi về phía đó. Chàng nghe một chuỗi cười phá lên trong trẻo, mà chàng đoán là của Thể My cháu gái chàng, cái con bé vẫn như ngày nào, đang không nó cũng reo cười lên được. Tiếp đó, chàng lại nghe tiếng chân chạy đuổi nhau, tiếng bà Thị la lên âu yếm: “Khéo vấp ngã bây giờ, thôi đừng đuổi nó nữa con.”

Trần lách qua cánh cửa bước vào, bà Thị quay lại trông thấy chàng reo lên:

– Đấy, tao nói có sai đâu, đúng là giờ này nó về tới mà.

Thương đang chạy đến góc nhà ăn thông lên nhà trên, thấy Trần vào bỗng đứng dừng lại, bối rối nhìn Trần, mặt đỏ bừng, lúng túng. Nàng mặc một bộ đồ trắng, khoác bên ngoài chiếc áo len màu xanh nhạt.

Trần nhìn sửng sốt, cô bé gái mảnh mai xinh xắn trong trí chàng ba năm về trước, bây giờ đã trở thành một thiếu nữ dung mạo vẹn toàn. Trần đã nghĩ rằng nàng rất đẹp, nhưng không ngờ nàng đẹp đến thế. Thấy Trần ngắm mình, Thương thẹn thùng, nét mi e ấp cúi xuống càng tăng vẻ kiều diễm thanh tú của sống mũi thẳng và cao, khuôn mặt trái xoan trắng ngần như sữa, đôi môi tươi hồng màu nắng mai mím lại trong một vẻ hờn dỗi đáng yêu. Thương đứng đó, quanh người nàng tỏa ra một sức sống dịu dàng tươi mát vô cùng.

Bà Thị thấy Trần ngẩn người đứng ngắm Thương, vẻ hài lòng hiện ra trên khuôn mặt phúc hậu, bà cười nụ kín đáo, vừa định mở miệng nói thì Thể My từ nhà trên phóng xuống như một cơn gió, cô bé reo to lên, ôm chầm lấy Trần:

– Cậu Trần, cậu Trần đây hả?

Trần phì cười, cảm động ôm cháu vào ngực, nhại lại:

– Thể My, Thể My đây hả?

Cả nhà đều cười vì sự ngộ nghĩnh của hai cậu cháu. Trần nắm hai tay cháu dang ra, ngắm cháu từ đầu đến chân, Thể My có một tầm vóc cao lớn hơn Thương, mặc dầu kém Thương hai tuổi. Cô bé có một vẻ đẹp mạnh khỏe tràn đầy sinh lực, hai gò má hồng hào, đôi mắt sáng rỡ tươi cười, cái trán hơi gồ nhưng được mái tóc xõa lơi làm dịu bớt, nét môi đầy đặn dưới sống mũi hơi cong lên, toàn thể gương mặt cô bé biểu lộ sự tinh quái thông minh rất đáng yêu.

– Cháu vẫn nghịch ngợm y như trước, lớn quá rồi còn gì. Ngày cậu đi cháu chỉ mới bằng này này.

Trần đùa nghịch lấy tay làm hiệu thấp sà gần mặt đất. Thể My la to nũng nịu:

– Ôi, cháu không chịu đâu, ngày cậu đi cháu đâu có lùn tịt đến như vậy.

Trần cười vui vẻ, chàng quay lại nhìn Thương, giọng chàng êm ái:

– Thế còn Thương, Thương không mừng cậu Trần ư?

Trần buông Thể My, chìa hai tay về phía Thương:

– Nào, lại đây Thương, đừng làm người lớn với cậu Trần chứ, bộ không phải là bé Thương của cậu đó sao?

Đôi mắt Thương chợt ngời sáng, nàng vụt chạy đến nắm tay Trần, dáng thơ ngây mừng tủi:

– Thưa cậu ạ.

Âm thanh của ba tiếng “thưa cậu ạ” trong như chim hót của Thương bỗng khiến cho Trần thấy tâm hồn bâng khuâng dao động. Những ngày Thương còn bé nàng vẫn chào chàng như vậy mỗi khi chàng đi đâu về. Âm thanh đó làm hiển hiện cả chuỗi ngày niên thiếu êm đềm đã chìm sâu trong tiềm thức, gợi lại tiếng võng đưa kẽo kẹt của buổi trưa hè, hình ảnh giòng sông lấp lánh đã hơn một lần chàng vùng vẫy bơi lội để làn nước mát mơn trớn da thịt trai trẻ của mình, những bài thơ tin yêu trọn vẹn, hàng cây lá biếc trên hè phố xa xưa.

Trần nao nao nắm chặt bàn tay mịn màng ấm áp của Thương, như để xác nhận với chính mình rằng những hình ảnh xưa kia đã có lần có thật.

Giọng chàng đầm ấm:

– Ừ, có thế chứ, tưởng không thèm nhìn cậu nữa. Cậu bây giờ già lắm rồi, kháng chiến mau già lắm cháu ạ.

Thể My liến thoắng cãi cọ:

– Đâu có, cậu già đâu mà già. Cậu đẹp và oai ghê đi. Bà ngoại mà thấy cậu như thế này bà mừng phải biết. Bà nghe cậu bị đau bà khóc quá. Cháu cứ tưởng cậu đen thui và gầy như que củi, tại cháu đi xem ciné nó chiếu dạo thấy người kháng chiến bị bắt đều ốm nhom và đen thui như nhau cả. Ai mà ngờ cậu đẹp cứ như tài tử cinéma ấy thôi. Tụi bạn cháu ở Huế mà được thấy cậu là chúng nó mê phải biết, chúng nó mơ người kháng chiến lắm.

Nói đến đấy Thể My đột ngột ngừng lại, nhìn Thương cười láu lỉnh, đưa tay bụm miệng cười khúc khích:

– À quên, xin lỗi chị Thương nhé.

Đoạn cô phá lên cười vang trêu chọc. Thương đứng im, hai má nàng ửng hồng, nàng nhìn bà Thị, tỏ vẻ cầu cứu.

Bà Thị cười hiền hậu:

– Cái con Thể My cứ nghịch phá chị Thương mày hoài, khi nãy nó cũng vừa trêu Thương như vậy bị Thương đuổi cho bỏ chạy may mà không vấp ngã đấy. Nào, hãy để cậu cháu ngồi xuống cái đã, cứ ríu ra ríu rít như chim cả ngày.

Trần thoáng hiểu vì sao khi chàng mới vào Thương đang chạy đuổi Thể My thấy chàng nàng dừng lại lúng túng đến như vậy.

Chàng ngồi xuống ghế, đánh trống lảng, hỏi bà Thị:

– Mẹ cháu có mạnh không thưa cô? Năm nay cụ phải ăn Tết một mình sao? Thương và Thể My đều về đây cả rồi.

– Mẹ cháu không một mình đâu, năm nay nhà mình trên ấy rộn rịp lắm, anh chị cháu ở Sàigòn mang hết con cái về ăn Tết với cụ. Vì thế hai cháu gái mới về đây với cô cháu mình được đấy.

Trần hỏi:

– Em Tâm đâu rồi thưa cô?

– Nó vừa đi cúng tất niên ở nhà thờ họ ở xóm trên, cháu nghĩ có tội nghiệp cho thằng bé không, mới mười tuổi đầu phải thay mặt cha trong những việc họ việc làng. Tết nhất mà dượng không về được biết làm sao.

Trần chép miệng:

– Tết này dượng khó về được lắm, là cán bộ cao niên, dượng phải đảm nhận công tác tổ chức lễ lạc cho đoàn thể, cho anh em trên ấy, có lẽ phải qua Tết dượng mới về thăm nhà được.

Bà Thị buồn rầu:

– Ấy cô cũng biết thế nên có than thở gì được.

Thể My đến sau lưng ghế Trần, quàng tay ôm lấy cổ chàng, ngả đầu trên vai chàng:

– Ba mẹ cháu ở Sàigòn về mang theo bao nhiêu là quà, thế mà phần cháu ít quá, cái gì bà ngoại và ba mẹ cũng bảo để dành mang ra cho cậu, thế cậu có chia cho cháu không nào?

Trần cười xoa rối đầu tóc cháu:

– Chưa chi đã lo vòi vĩnh, cái con bé chó con của cậu, vẫn chứng nào tật ấy, lớn rồi đấy nhé, không bé bỏng gì nữa đâu, ừ, cậu cho hết đấy, khỏi chia, có bằng lòng không?

Thể My sung sướng vỗ tay nhảy lên reo mừng:

– A, thích quá, cháu không lấy hết của cậu đâu, cháu chỉ xin con búp bê thôi, ai lại cậu là con trai lớn thế kia mà chơi búp bê, mẹ cháu thật kỳ, phải không cậu? Cháu xin con búp bê mấy cũng không được, nhất định đòi gởi cho cậu Trần thôi.

Trần ngơ ngẩn:

– Búp bê à, mẹ gởi búp bê cho cậu à?

– Vâng, búp bê đẹp lắm, búp bê có nhạc nữa cậu ạ, nó biết nhắm mắt mở mắt nữa. Mẹ còm-măng ở bên Tây kia lận.

Con búp bê quả là xinh đẹp thật, mái tóc vàng óng long lanh xõa xuống trán, xuống quanh cổ và đôi tai hồng hào trông thật là ngộ nghĩnh, nó có một nét mặt ngu ngơ lạ lùng, nét mặt biến đổi luôn luôn, khi đặt nằm xuống nó nhắm mắt lại, bình yên chìm sâu trong giấc ngủ hồng, khi bế ngồi lên nó mở mắt ra ngơ ngác dại khờ như sắp thốt lên một tiếng bập bẹ u ơ nào đó. Nó được mặc một chiếc áo màu trời xanh thêu hoa trắng, Thể My vặn một cái nút sau lưng, tức thì một điệu nhạc thảnh thót trỗi lên nhẹ nhàng, những nốt nhạc nhảy nhót như nẩy lên từng giọt âm thanh.

Trần nhắm mắt, điệu nhạc ru đưa chàng với những lời ca thần tiên trong sáng thuở nào:

“Mes amis, la vie est belle
Malgré les peines
Qui nous enchaînent…”

Lòng Trần nao nao, chị Tú của chàng đã gởi con búp bê này vì chị biết lòng đứa em trai của chị vô cùng. Những tháng năm dầu dãi phong sương sẽ được xóa đi trong một thoáng bềnh bồng ru đưa về những ngày thơ ấu vui tươi của hai chị em mà búp bê mang theo điệu nhạc làm thiên thần sứ giả từ miền quê hương bát ngát của những ngày thần tiên, cách biệt hẳn chuyến độc hành đi vào cuộc đời ngút ngàn khói lửa của em trai chị.

Trong khi Thể My và Thương say mê ngắm con búp bê và chăm chú nghe điệu nhạc với những đôi mắt ngời sáng, Trần ngồi yên lặng đọc thư của người chị:

“Em có nhớ ngày em giành con búp bê của chị đang chơi, chị không cho, em nổi xung giựt đứt chiếc hoa tai của chị làm rách mất trái tai bên trái của chị không? Sau này em lớn khôn mỗi khi em nổi giận, chị chỉ cần đưa em xem chiếc trái tai bị rách của chị là em dịu lại ngay. Kỷ niệm buồn và đẹp em nhỉ? Chị gởi con búp bê này cho em do kỷ niệm đó. Em có buồn cười chị lẩn thẩn không? Em bây giờ đã là một chiến sĩ xông pha, can trường cứng cỏi rồi, đâu có còn bé bỏng như những ngày chơi đùa tranh giành đồ chơi với chị nữa. Phần chị thì cũng đã có chồng, có con khôn lớn, những ưu phiền của cuộc đời cũng đã chồng chất đầy trên hai vai chị. Nhưng mỗi khi trở về mái nhà của chúng ta, chị vẫn nhìn thấy rõ ràng hình ảnh tuổi thơ của hai chị em mình nô đùa chạy nhảy lẩn quất sau những khóm cây trong vườn nhà, hoặc ẩn nấp trong những kẹt xó của ngôi nhà thân yêu. Đứa bé gái và thằng em trai nhỏ ngày xưa hình như vẫn còn chơi cút bắt nhau đâu đó. Mỗi khi trở về nhà chúng mình, chị thấy thời gian không hề trôi đi, thời gian đã ngưng đọng lại.

Bao giờ thì em trở lại ngôi nhà của chúng mình em nhỉ? Ba năm em đi xa, mẹ của chúng ta đã già quá đi rồi, vì lo âu phiền não. Cũng may là cháu Thể My và Thương luôn luôn ở bên cạnh mẹ. Chắc cô Thị đã nói với em về ý muốn của mẹ mong em và Thương sẽ thành thân sau này.

Chị nhớ ngày Thương còn bé nó cũng đã thương mến quấn quýt em và khi Thương lớn lên, khi em đi xa, Thương cũng cùng chia sẻ với gia đình ta nỗi lo buồn thương nhớ em. Thương mồ côi và gia đình ta đã là một nơi trú ẩn tốt đẹp che chở cho nó từ tấm bé nên chị nghĩ rằng Thương không còn muốn rời xa mẹ để đi đâu nữa. Tuy nhiên, mẹ muốn để cho em toàn quyền quyết định nên đã dàn xếp cuộc về quê này cho Thương và Thể My về gặp em trong dịp Tết này, mẹ còn bảo…”

Trần gập phong thư, mọi người đã xuống hết nhà dưới, Trần nghe vẳng tiếng bà Thị dặn dò người nhà lo buổi cúng giỗ cuối năm, tiếng Thể My ríu rít chuyện trò với Thương ngoài hàng hiên trước, cô bé đã ôm con búp bê ra ngoài.

Trần nhìn chiếc sập ngổn ngang những đồ vật mẹ và chị gởi cho chàng, có những đôi bít tất bằng len thật nhẹ và thật mỏng để “buổi tối con mang vào mà đi ngủ cho ấm,” mẹ dặn trong thư như thế; lại có một cái gối nhỏ thật mềm, tự tay chị Tú thêu một cái bao gối vẽ hình khuôn mặt ngộ nghĩnh của một đứa bé trai hai mắt nhắm nghiền trong giấc ngủ say, nghiêng má gối trên một cánh bướm màu vàng trong tư thế chập chờn bay.

Trần mỉm cười, thật mẹ và chị không hề biết chiến tranh là gì cả. Trong trí hai người đàn bà thân yêu của chàng có lẽ chiến tranh chỉ là một trò chơi hào hùng mã thượng, hơi có phần nguy hiểm, nhưng vẫn là trò chơi mà đứa con và em của họ đã hồn nhiên đi vào đó, tháng năm qua, mắt vẫn sáng, môi vẫn đỏ, tóc vẫn xanh, hồn vẫn còn nguyên vẹn.

Trần chép miệng:

– Thôi cũng được đi, cứ như thế lại đỡ khổ cho mẹ và chị nhiều. Lại còn chuyện bé Thương nữa, – Trần lại lắc đầu mỉm cười – thế là mẹ và chị không bỏ sót thứ gì cả đấy nhé.




Chương 20

Phút ngượng ngập buổi ban đầu qua đi, dần dần Thương đã chuyện trò tự nhiên với Trần, do thái độ ân cần thân ái của Trần khuyến khích. Đêm giao thừa khi cả nhà ngồi quanh bếp lửa nấu bánh tét, Thương kể cho Trần nghe việc nhà, chuyện học hành, chuyện những bà con quen biết cũ ở Huế.

Thương yêu mến Trần từ ngày còn bé, hình ảnh cậu Trần dắt bé Thương và Thể My đi lang thang trên bờ sông, bắt cho hai đứa vài con châu chấu, tìm hái cho hai đứa những chùm dẻ dại. Có những ngày hè lộng lẫy, Trần trèo lên cây phượng vĩ hái xuống cho hai đứa những chùm hoa to đỏ thắm và bao giờ cũng dành cho Thương cành hoa đẹp nhất. Trong giấc mơ của một thời thơ dại, đối với Thương, cậu Trần là người tốt nhất, đẹp nhất, đáng yêu đáng quý nhất.

Năm Thương lên mười bốn tuổi, một hôm cậu Trần ngồi nói chuyện với vài người bạn trai trên hàng hiên trông ra vườn nhãn bên hè nhà, tình cờ Thương đi qua nghe một người bạn trêu chọc Trần về một người con gái nào đó, Thương nghe tiếng cười sung sướng của Trần, giọng Trần say đắm:

– Có phải thế không? Nàng đẹp như trong truyện thần tiên, làm sao ngăn được lòng mình khỏi chết đuối trong đôi mắt trăng sao của nàng.

Nghe đến đó, không hiểu sao Thương thấy xây xẩm mặt mày, Thương muốn bước đi, rời khỏi chỗ ấy, nhưng người Thương lao đao muốn ngã; Thương nép vào một bụi cây ngâu gần đó, gượng níu lấy một cành ngâu, ngồi thụp xuống đất, đầu óc quay cuồng như muốn ngất lịm. Nghe tiếng động Trần quay lại, thấy bụi ngâu rung rinh, Trần gác chân qua thành lan can, nhảy xuống đất đi về phía đó. Trần tìm thấy Thương ngồi nép dưới bụi ngâu, mặt xanh ngắt, run rẩy, hai mắt mở rộng nhìn Trần. Trần kêu to:

– Thương, cháu làm sao thế này, đang chơi trốn bắt với Thể My hả? Sao mặt mày tái ngắt thế này?

Trần đặt tay lên trán lạnh ngắt lấm tấm mồ hôi của Thương:

– Không chừng bị gió rồi đây, chết thật, đau đến nơi mà vẫn còn chơi đuổi nhau cho được. Đi vào nhà với cậu.

Thương theo Trần vào nhà như người mất hồn, cô bé để yên cho mẹ Trần đỡ lên giường nằm, xoa dầu khắp cả người. Cho đến khi mẹ Trần ra khỏi phòng, còn lại một mình, Thương nằm yên để cho nước mắt tuôn dầm ướt đẫm gối, dần dần Thương thấy dễ chịu và ngủ thiếp đi lúc nào không biết.

Sau đó Thương thường nghĩ bâng quơ về cậu Trần và không hiểu được vì sao hôm ấy mình lại như thế. Thương sợ hãi không dám nghĩ rằng mình đã yêu Trần, ai lại như thế, mình còn bé mà, vả lại cậu Trần là cậu mà. Thế nhưng từ đó lòng Thương vẫn buồn bã không đâu, cô bé thường tránh tất cả mọi người. Nhất là những khi Trần hỏi han chăm chút đến Thương, Thương cảm thấy một tình cảm ngổn ngang khó chịu vô cùng.

Nhưng tình trạng đó kéo dài không lâu; thời cuộc biến đổi, Trần rời bỏ gia đình đi kháng chiến. Thương vẫn lặng lẽ sống trong gia đình Trần và càng lớn lên Thương càng thấy mình hiểu biết. Nàng chấp nhận cái buổi chiều ngất lịm bên khóm hoa ngâu như một khám phá tuyệt vời trong cùng thẳm tâm hồn bé nhỏ đơn côi của nàng. Trong thâm tâm nàng hòa hợp mối tình từ buổi thơ ngây với hình ảnh của Trần đã trở nên thánh hóa. Vốn trầm tĩnh ít nói, nàng biểu lộ nỗi nhớ thương sâu đậm với kẻ ra đi bằng cách săn sóc quyến luyến mẹ của Trần.

Cho đến một ngày Thương sửng sốt khi nghe Thể My trêu ghẹo nàng, cho nàng biết mẹ Trần có ý định cưới nàng cho Trần. Ngoài mặt Thương làm ra vẻ bình thản, không quan tâm, nhưng trong lòng nàng xiết bao kinh ngạc, nàng khó có thể ngờ rằng giấc mơ của nàng lại có ngày thành tựu.

Ba năm Trần xa vắng, Thương chỉ biết mơ hồ về Trần qua cô Thị của Trần. Những lúc bà Thị ở nhà quê lên, mẹ Trần kéo bà vào phòng, ở đó hai bà nói chuyện thật nhỏ, vẻ bí mật sợ hãi và sau đó là những giọt nước mắt của mẹ Trần. Đêm đêm tiếng tụng kinh gõ mõ của mẹ Trần thỉnh thoảng điểm một tiếng chuông ngân dài trong ngôi nhà rộng vắng, như tiếng thở dài của người mẹ qua những tháng ngày hiu quạnh. Dần dần, Thương cảm thấy hình ảnh Trần bỗng trở nên hoang đường như một chuyện huyền thoại, vừa thân yêu vô cùng, vừa xa cách biết bao.

Đêm giao thừa này, ngồi nhìn Trần trầm ngâm yên lặng nhíu đôi lông mày sậm nhìn đăm đăm vào bếp lửa bập bùng, khuôn mặt chàng tranh tối tranh sáng trong bóng lửa lung linh vờn múa. Có một cái gì trong tận cùng đáy mắt của chàng, có lúc lóe lên như lằn chớp của một cơn bão tố, có lúc sâu thẳm chìm đắm như một nỗi đau thương kỳ lạ. Ánh mắt đó khiến Thương linh cảm một nỗi cách biệt muôn trùng, nó làm cho nàng thấy lạnh. Nàng cảm thấy mình bé bỏng xiết bao, tội nghiệp xiết bao, lạc lõng xiết bao trong tình yêu đơn giản thơ ngây của nàng.

Lạ lùng làm sao, Trần càng tỏ sự thân thiết trìu mến đối với nàng bao nhiêu, nàng càng cảm thấy những cử chỉ thân thuộc đó minh xác một cách rõ ràng sẽ không bao giờ có sự gì xảy ra giữa hai người khác hơn mối thân tình cậu cháu của những ngày thơ ấu đã đi qua. Rằng giờ đây chỉ còn một mình nàng bơ vơ đứng lại trong dĩ vãng hoa mộng êm đềm của nàng. Người nàng yêu đang ngồi đó, trước mặt nàng mà như đang mất hút vào một cõi trời bao la rộng lớn ngút ngàn vô tăm vô tích.

Cảm giác đó khiến cho nàng đau đớn, nàng tự trấn an mình, cho rằng hạnh phúc được gặp lại chàng quá ư to lớn cho nên nàng đã lo sợ viễn vông như vậy. Trong đời có những hạnh phúc mà người ta không dám tin là có thật.

Với tâm trạng rối bời như thế, bề ngoài Thương vẫn giữ vẻ điềm đạm trả lời những câu hỏi của Trần và yên lặng ngồi nhìn chàng, nghe chàng kể chuyện. Nàng để mặc cho tâm trí mình bị dụ hoặc bởi tiếng nói trầm ấm của Trần, nàng nhìn Thể My đang ôm chặt cánh tay Trần, ngả đầu trên vai Trần thỉnh thoảng lại reo to thích thú:

– Chuyện có thật không hở cậu? Ai lại thế hở cậu? Ai lại đi kháng chiến mà lại thuê mọi cõng đi?

– Có thật đấy cháu ạ, ở ngoài Quảng Bình trẻ con nó có hát câu đồng dao “Ai coi lên núi mà coi, coi bà cán bộ cưỡi voi không bành” đấy.

– Như thế thì có thật rồi còn gì. Chuyện ly kỳ đấy nhỉ, chị Thương nhỉ?

Trần mỉm cười nghĩ thầm, ấy thế mà chàng chỉ mới kể cho các cô cháu của chàng nghe nội cái chuyện cô nữ cán bộ thuê người thiểu số cõng đi thôi đấy, chàng mà kể thêm cái vụ “khô quá cô ơi” cho mà nghe thì phải lăn đùng ra chết giấc. Ai lại kể chuyện đó cho cháu gái nghe bao giờ, chàng nghĩ thấy buồn cười nên lại mỉm cười.

Thể My tò mò nghiêng đầu nhìn chàng:

– Cậu cười cái gì mà có vẻ bí mật thế? Chuyện có thật không nào, hay là cậu cười chúng cháu dễ tin chứ gì?

– Cháu không tin thì thôi, thế nếu cháu đi kháng chiến, cháu có thuê người thiểu số cõng đi không nào, đi bộ đau chân lắm đấy cháu ạ.

– Đời nào cháu làm như thế, đã ra đi vì nước ai lại lẩn tránh đau khổ hiểm nguy bao giờ. Cháu mà được ba mẹ cho phép thì cháu đi phải biết.

– Sao cháu hay nói “phải biết” thế?

– Vâng, cháu quen đi rồi, không những cháu đi kháng chiến mà thôi, mà mấy bà cán bộ trưởng giả thuê người thiểu số cõng đi ấy vô phúc mà gặp phải cháu giữa đường thì phải biết.

Trần vui vui hỏi trêu cháu:

– Ừ, phải biết, thế thì cháu làm gì người ta nào? Cháu xin cô ta cho cháu cõng hộ chứ gì?

– Vâng, có thể là như vậy, để rồi sau đó đi qua cái cầu nào, cháu thả bà ta rơi tõm xuống sông cho bỏ ghét.

– Ơ, trên núi làm gì có sông?

– Thế có gì hả cậu? Thế mấy năm nay cậu bơi ở đâu? Hồi ở nhà ngày nào cậu không ra sông bơi thì cậu không chịu được mà.

– Ờ, ờ, có suối cháu ạ.

Thể My reo to:

– A, suối hả cậu? “Suối mơ bên giòng thu vắng, giòng êm đưa lững lờ ngoài nắng” ấy hả cậu? Thế suối của cậu có đẹp như trong bài “Suối mơ” không hả cậu?

– Đẹp hơn nhiều lắm cháu ạ.

– Thế hả cậu, thế thì tuyệt quá, thế có ai “từng hẹn mùa xưa cùng xây nhà bên suối” không cậu? Và có “đàn nai đùa trong khóm lá vàng tươi” không hở cậu?

Thể My hỏi bằng một giọng liến thoắng dễ thương vô cùng.

– Có đấy cháu ạ. Cậu có vợ chồng một thằng bạn, chúng nó làm một cái nhà bằng tranh trên một cây cao bên bờ suối, phải leo lên nhà bằng một cái thang cây. Trông cứ y như là một cái tổ chim, xinh đáo để.

Thể My ngẩn người, chớp chớp đôi mắt sáng trong:

– Tuyệt diệu, cháu thích một cái nhà như thế lắm. Cậu làm một cái nhà như thế bên bờ suối để cháu xin bà và ba mẹ cho cháu và chị Thương ra ở với cậu đi.

– Không được đâu cháu ạ.

– Tại sao lại không được hả cậu?

Trần làm bộ mặt thảm sầu:

– Cậu chưa nói hết chuyện mà.

Thể My băn khoăn hỏi:

– Có chuyện gì vậy cậu?

Trần cúi mặt, che giấu một ánh mắt tinh nghịch, lấy giọng buồn rầu kể lể:

– Một ngày nọ, có một cơn bão rừng. Bão mạnh lắm làm trốc gốc cái cây to có cái nhà xinh như tổ chim của hai vợ chồng trên đó. Khi ấy người chồng đi công tác vắng, chỉ có người vợ ở nhà mà thôi. Cả cái cây bị ngã ầm xuống giòng suối nước chảy mạnh như thác đổ, cái nhà bị cuốn đi cùng với người vợ trong đó.

Thể My tròn xoe đôi mắt kinh hoàng, hỏi dồn:

– Rồi sao nữa hả cậu?

Thương cũng nín thở, nét mặt căng thẳng lo lắng, nhìn Trần đăm đăm, chờ đợi. Bà Thị đang bổ cau gần đấy cũng dừng tay lắng nghe.

– Khi người chồng trở về, cơn bão đã dứt, trời đã quang, mây đã tạnh, nắng chan hòa lấp lánh trên giòng suối chảy hiền hòa. Người chồng lội ra giữa giòng, leo lên ngồi trên những chạc cây bị đổ xuống, anh ta ngồi đó mãi đến chiều, sau đó anh ta xuôi giòng suối lội theo hướng cái nhà và người vợ bị trôi đi. Từ đó không còn ai trông thấy anh ta đâu nữa.

Bà Thị cúi xuống tiếp tục bổ cau, thở dài kín đáo. Thương cúi đầu yên lặng. Thể My chép miệng:

– Tội nghiệp ghê hả cậu? Thế họ là bạn cậu đấy à?

– Ừ, vậy cháu còn muốn làm nhà bên bờ suối nữa không?

– Thôi, cậu ạ, chuyện buồn quá như thế cháu sợ lắm. Cháu không thích nữa đâu, thôi, về nhà mình mà ở cho rồi.

– Ừ, có thế chứ. Cháu ngoan lắm đó Thể My.

Thể My ngước lên, vừa thoáng bắt gặp một tia tinh quái lóe lên trong mắt Trần. Cô bé buột miệng la to lên:

– Ơ, cậu lại đặt bày nữa rồi, cháu biết cậu muốn dọa cho cháu sợ không dám vòi ở với cậu nữa chứ gì. Cháu không chịu đâu, cháu không thích bị lừa đâu, bắt đền cậu đấy.

Cô bé ôm lấy cánh tay Trần, vùng vằng nũng nịu, Trần cười ha hả thích thú. Cả nhà thấy cảnh tượng ấy đều vui cười. Thương nhẹ nhàng thở ra, cười thoải mái hỏi Trần:

– Thế không có chuyện họ bị trôi đi phải không cậu?

Trần vừa gỡ cánh tay bị Thể My lay giật, vừa vỗ vỗ trên đầu Thảo My, cười nụ:

– Không có đâu Thương ạ, cháu không thích chuyện xảy ra như vậy sao?

Bà Thị cười hiền hậu, xen vào:

– Hỏi hay nhỉ, ai mà thích chuyện xảy ra như vậy. Cái thằng thiệt quá tay, đặt chuyện hay đến nỗi nghe cứ tưởng như thật, làm cô mất công bùi ngùi thương xót nữa chớ.

– Thưa cô, chuyện bịa hay chuyện thật cũng vậy cô ạ. Có khi chuyện thật còn bi thảm hơn nữa kia. Vả lại chuyện như vậy cũng có thể là thật lắm.

Thương bỏ thêm củi vào bếp, lắng nghe tiếng sôi sục của nồi bánh, nàng dịu dàng nói:

– Vâng, thưa cậu, cháu xem truyện cũng biết rằng đời còn có nhiều chuyện đau thương hơn nữa. Nhưng ai lại cậu bịa đặt ra cái chuyện chi buồn quá, đến bây giờ cháu biết là chuyện không có rồi mà cháu vẫn buồn.

Trần cười xí xóa:

– Thôi, cho cậu xin lỗi nhé, tại Thể My nó đòi đi ra kháng chiến cậu nghe sợ toát mồ hôi, cậu phải bịa đặt cho nó nản.

Thể My phụng phịu:

– Thế sao cậu đi được mà cháu đi không được hả cậu? Cháu có nhiều đứa bạn học cùng lớp chúng nó cũng bỏ học ra đi kháng chiến nhiều lắm.

– Ấy chính vì cái chuyện bỏ học ấy mà cậu không muốn cháu dại dột làm cái chuyện như những đứa bạn của cháu đấy.

– Tại sao đi kháng chiến chống Pháp để cứu nước giành độc lập mà cậu lại bảo là dại dột hả cậu? Thế hồi cậu bỏ nhà đi cũng dại dột lắm sao, cậu cũng bỏ học đấy thôi.

Trần thấy rõ ràng mình bị kẹt, cái con bé thật quá tay, thứ này mà học đòi làm cán bộ rồi giở biện chứng pháp ra thì mệt bở hơi tai với nó đấy nhé.

Trần quàng tay ôm ngang vai cháu, giọng chàng trở nên trang nghiêm:

– Cháu nói rất đúng, cũng có thể là hồi cậu ra đi cậu đã làm một việc dại dột, này nhé, bỏ học hành, bỏ mẹ già, bỏ ngôi nhà, thành phố, giòng sông, bỏ lại tất cả những gì yêu quý thiêng liêng nhất, như thế là dại dột quá rồi còn gì. Nhưng cái dại dột của con trai khác với cái dại dột của con gái cháu ạ. Đó là điều cậu muốn nói với cháu. Nếu còn có những thằng con trai ưa dại dột như cậu, cũng chẳng làm sao. Nhưng những đứa con gái như cháu thì lại là chuyện khác.

Thể My vẫn tỏ vẻ không bằng lòng:

– Thế bộ con trai yêu nước được còn con gái thì không hay sao thưa cậu?

Trần kiên nhẫn:

– Có chứ, một ngày nào đó, hoặc ở một lĩnh vực nào đó. Cháu có thể làm những công việc hợp với cháu để đem lại lợi ích cho xã hội, cho Tổ quốc, còn chuyện đánh giặc là chuyện của con trai, mà hiện giờ là lúc chúng ta đang phải đánh giặc.

Thể My đã buồn ngủ díp cả mắt lại nhưng vẫn cố cãi bướng:

– Cháu cũng đánh giặc được vậy.

Trần vuốt ve mái tóc óng ả của cháu, dỗ dành:

– Ừ, thì cháu cũng đánh giặc được. Bây giờ hãy đi ngủ, cô bé anh hùng rơm của cậu.

Thể My ngả đầu trên vai Trần, giọng lè nhè:

– Không, cháu không đi ngủ đâu, cháu còn đợi giao thừa mà.

Ngay lúc đó, từ xa, rất xa, có tiếng chuông nhà thờ đổ hồi vọng lại trong đêm giá rét căm căm. Tiếng chuông vang vọng, dư âm lãng đãng quấn quýt từng hồi, lan tỏa trong không gian, tiếng chuông như thoát ra từ một cõi miền đầy ánh nến nguy nga lộng lẫy. Đâu đây như có tiếng những đôi cánh trắng mỏng manh bay xào xạc, mang theo thông điệp của một năm mới đã bắt đầu.

Mọi người đều ngẩng đầu lên, nghe ngóng hồi hộp. Thể My vùng nhảy lên, la to:

– A, giao thừa rồi!

Cô bé xoay người một vòng, di động ra một vầng ánh sáng rực rỡ của bếp lửa đang reo, nét mặt cô bừng dậy tươi hồng, môi mắt sáng ngời rạng rỡ:

– Cháu phải đi mặt áo Tết đây.

Nói xong cô bé vụt biến mất trong góc tối của căn nhà ngang như một vì tiên bé bỏng trong mơ.

Bà Thị nhìn theo lắc đầu âu yếm:

– Nó đã lớn mà cứ như hồi còn bé, không thay đổi gì cả.

Bà đứng dậy, vươn vai, bảo Trần và Thương:

– Các cháu sửa soạn đón năm mới nhé, cô đi gọi bé Tâm đây.




Chương 21

Con chó già khoanh mình nằm ngủ dưới một cành mai nở vàng biếc. Ánh nắng đầu xuân phủ lên lớp lông xám nhạt của nó một lớp gợn sáng rung rinh.

Một con bướm cánh màu xanh ngọc có điểm chấm màu nâu bay lượn trong nắng đáp xuống đậu trên cái tai nhỏ bé của con chó. Con chó già đang ngủ nhưng vẫn biết có con bướm mùa xuân đến đậu trên lỗ tai mình. Nó khẽ máy đôi tai, tức thì con bướm bay cao lên đến đậu trên một hoa mai, cánh hoa mỏng manh trĩu xuống, bướm lại khoan thai bay qua một chùm hoa khác, một ít phấn vàng dính theo chân bướm.

Tuy cái Tết năm nay chồng bà Thị không về được nhưng trong nhà không khí Tết cũng đầy đủ và trang trọng với căn nhà thờ xanh biếc ánh nến và trầm hương.

Mặc dù đêm qua cả nhà đều thức khuya nhưng sáng nay mọi người đều dậy sớm. Tất cả đều y phục chỉnh tề để đón năm mới. Người ta lễ bàn thờ tổ tiên và chúc tụng lẫn nhau.

Hơn hai năm nay từ ngày người con gái của bà Thị mất đi. Tết năm nay trong nhà bà mới lại thấp thoáng những tà áo màu tha thướt của các cô gái, nó làm cho căn nhà trở lại sống động và có vẻ Tết hơn bao giờ cả.

Sáng nay Thương mặc một chiếc áo dài lụa màu túy ngọc, chiếc quần sa tanh trắng có viền thêu rất công phu dưới gấu, nàng mang một đôi giày da đen bóng, nàng đi lại trong nhà, châm thêm nước trên bàn thờ, giúp bà Thị sắp đặt lại cỗ cúng. Khuôn mặt trắng mát tươi đẹp, dáng điệu dịu dàng trang trọng của nàng tương phản với Thể My riu ríu như chim khuyên trong chiếc áo dài gấm màu vàng hoàng hậu, mái tóc thắt hai cái nơ trắng dát kim tuyến óng ánh trên màu tóc đen huyền. Nhìn hai cô gái ở thành phố về quê Trần liên tưởng đến những người con gái của miền kháng chiến, quanh năm suốt tháng họ chẳng có cái gì ngoài những bộ áo bà ba màu nâu hoặc đen trắng, chân mang dép cao su đen. Thế mà họ vẫn có những vẻ đẹp thanh thoát lạ lùng không thua kém gì những cô gái đài trang trong thành phố.

Bà Thị vừa lễ bàn thờ cúng mồng một Tết xong. Bà mang một nén hương ra khấn vái ngoài sân. Bà vái lạy khắp bốn phương, đoạn mang nén hương ra cắm ngoài cổng ra vào, để cho những linh hồn trong gia tộc phiêu dạt khắp nơi, mùa xuân đến cũng nương theo khói hương mà trở về dưới mái nhà xưa của họ lúc sinh thời.

Giữa buổi sáng đầu xuân, ánh nắng chiếu trên khuôn mặt của người đàn bà hiền hậu phảng phất một vẻ buồn kín đáo, vẻ buồn khiến ta liên tưởng đến bao mùa xuân lộng lẫy xa xưa. Tóc bà vấn trần, một đôi hoa tai ngọc bích xanh đậm trên đôi tai đầy đặn. Bà mặc một chiếc áo dài bằng hàng len màu xám, quần đen bằng hàng lĩnh tuyết nhung, chân vận đôi hài nhung màu đen, vóc người hơi mập, cử chỉ chậm rãi oai nghiêm, bà Thị là hiện thân cho những gì bền vững và ấm cúng của những gia đình Đông phương. Hiện giờ bà đang có việc phải nghĩ ngợi, đó là việc hôn nhân của Trần và Thương mà mẹ Trần đã giao phó nhờ bà thu xếp. Thương và Thể My chỉ còn ở lại đây ba ngày, sáng mồng bốn hai cô gái đã phải trở về thành phố. Từ chiều hôm qua khi Trần trở về, cùng gia đình canh nồi bánh tét trò chuyện tới khuya, bà đã âm thầm theo dõi thái độ cử chỉ của Trần đối với Thương, nhưng linh cảm của đàn bà khiến bà nhận thấy sự trìu mến hồn nhiên của Trần đối với Thương chỉ là sự vui mừng gặp lại người thân thuộc của gia đình sau bao năm xa cách mà thôi. Có một cái gì nơi Trần khiến bà thấy mọi sự có vẻ không xuôi chèo mát mái. Cũng bằng linh tính của đàn bà mà bà rất hiểu rõ lòng Thương. Người con gái mồ côi cha, mẹ đi lấy chồng, đã về ở trong gia đình Trần từ thuở bé, nàng đã dành cho gia đình Trần một tấm chân tình ngây thơ cảm động, riêng đối với Trần, nàng đã để lộ niềm yêu thương thắm thiết. Bà Thị mải mê suy tính trong lòng, bà sẽ dàn xếp cho chúng có dịp nói chuyện riêng với nhau để gần gũi nhau hơn nữa. Thời buổi bây giờ không còn như trước, phải để cho đôi trẻ được quyền tự định đoạt lấy việc đời của họ, bà chỉ âm thầm khuyến khích mà thôi. Nghĩ đến đấy, trong óc bà thoáng hiện một sự sắp đặt khá tinh tế. Bà mỉm cười một mình, quay bước trở vào nhà.

Vừa ngang qua sân, bỗng bà đứng khựng lại, một tràng súng nổ rền vang về phía cánh đồng xa, những tiếng nổ ròn khô khan, xoáy mạnh như ghim vào từng bụi cây đám cỏ. Con chó già đang ngủ vụt dậy sủa vang lên, rồi cúp đuôi chạy biến ra sau vườn. Con bướm có đôi cánh xanh biếc đang đậu trên cành mai vàng chợt chao cánh, hốt hoảng như muốn lộn lèo giữa khoảng không. Những cánh hoa mai rung động, bàng hoàng run rẩy. Bà Thị vẻ mặt lo lắng nhưng vẫn bình tĩnh bước vào nhà.

Trần đang đánh cờ tướng với Tâm, con trai bà Thị, Thương và Thể My ngồi xem hai bên. Nghe tiếng súng hai cô bé đứng bật dậy, vẻ mặt lo sợ. Trần vẫn cúi đầu nghĩ ngợi nước cờ, chàng hơi nhíu mày, nhưng không ngẩng lên. Tâm ngước mắt nhìn Trần, hơi e ngại, nhưng thấy chàng vẫn chú tâm vào ván cờ, nó cũng yên lặng cúi xuống tiếp tục nghĩ thế cờ.

Bà Thị từ ngoài bước vào:

– Không biết cái gì mà súng nổ gần như thế?

Người lão bộc, già Mót, đang ngồi sưởi trong bếp, đứng dậy đi thẳng ra ngoài:

– Để tôi đi ra xem cái gì.

Thể My chạy đến bên Trần:

– Có sao không hả cậu, cháu sợ quá.

Trần không nói gì; lấy tay đẩy một con cờ, vẻ mặt đăm chiêu suy nghĩ. Tiếng súng lại nổ vang lên, nghe gần hơn. Có tiếng chân người chạy dồn dập ngoài đường quan. Tâm nhẹ nhàng nhắc lên một quân cờ, chiếu tướng. Trần thở ra:

– Anh chịu thua em rồi đó.

Bà Thị lắc đầu:

– Súng nổ thế mà hai anh em cứ chúi vào bàn cờ. Tết nhất mà họ làm gì thế chả biết.

Trần đứng dậy, khoác vai Thể My:

– Nào, cô bé của cậu, đừng có hốt hoảng lên thế, vậy mà cứ đòi đi kháng chiến, cháu của cậu anh hùng ghê, để cậu xem nào, nghe tiếng súng có vẻ gần vậy chứ kỳ thật là nó nổ xa lắm. Tận làng dưới, ngoài sông kia lận. Tuy nhiên phía đó cơ quan của cậu đóng ở đó. Có lẽ cậu phải về xem sao.

Bà Thị nhìn Trần lo sợ:

– Đâu có được, súng đang nổ dữ dội, chưa biết tình hình ở ngoài ra sao, làm sao mà đi được.

Thương đứng lặng, đôi mắt trân trân nhìn Trần có vẻ cầu khẩn van lơn. Thể My níu cứng cánh tay Trần:

– Cháu không cho cậu đi đâu, cậu bỏ bà và hai đứa cháu ở lại như thế này mà cậu yên tâm đi được hay sao?

Già Mót bước vào, giọng khinh khỉnh:

– Cái tụi Tây thiệt không ra gì hết. Ngày Tết của người ta mà cũng làm rộn. Tây ở đồn làng trên sáng nay qua bên kia sông làm gì không biết, đụng nhau với mấy bộ đội của mình đang đánh nhau bên đó. Lại có cả ca nô chở lính ở trong Huế về nhiều lắm, ba bốn chiếc ca nô đang đi ngoài sông đó.

Lão nhổ toẹt xuống đất, đưa tay gãi gãi cái đầu cạo trọc, tóc bạc trắng lởm chởm:

– Thiệt là cái lũ vô đầu vô vị, được ba ngày Tết người ta cúng giỗ tổ tiên mà chúng nó cũng kéo nhau đi phá làng phá xóm cho được, bắn dữ rứa thì ông bà mô mà thèm về nữa.

Mọi người yên lặng lắng nghe, ngoài sông có tiếng động cơ rù rù vọng lại, Trần nói:

– Như thế này là chúng lợi dụng ngày Tết, ai nấy đều lo lễ lạc không đề phòng nên chúng tập trung quân đổ về tấn công các đơn vị kháng chiến của mình đấy cô ạ.

Vùng của ta không sao đâu vì không có bộ đội ta đóng và cũng nhờ gần Huế. Nhưng bên kia sông và miệt dưới thì có nhiều cơ quan và các đơn vị của ta đóng. Cháu e rằng đánh to đây, bây giờ cháu phải đi, vì cháu cần có mặt bên các bạn cháu.

Trần không nhìn ai cả, quay lưng đi thẳng lên nhà trên.

Trong khi chàng đang lúi húi xếp những đồ vặt vãnh vào ba lô, bà Thị theo lên một mình. Bà buồn rầu hỏi Trần:

– Cháu đi như thế này cô lo sợ quá, và còn chuyện Thương nữa, cháu đã có ý định gì chưa, cô sẽ trả lời với mẹ cháu ra sao đây?

Trần nhìn cô, chàng hơi nhíu mày, nhưng giọng chàng vẫn ôn tồn:

– Xin cô đừng lo, cháu thuộc đường sá quanh vùng này, các trạm liên lạc của ta sẽ cho cháu biết tin tức và đường đi nước bước, cháu không sao đâu mà cô lo. Còn về chuyện vợ con của cháu, xin cô hãy kể lại cho mẹ cháu nghe hôm nay cháu phải rời nhà ra đi sớm hơn ngày đã định ra sao, mẹ cháu tất sẽ hiểu. Ngay trong lúc này cháu đang ở đây, có bao nhiêu bạn đồng đội của cháu đang lâm trận, cũng có thể có người đang gục ngã, làm sao cháu có thể nghĩ đến chuyện đó bây giờ cho được. Xin mẹ cháu và cô khoan vội lo việc đó, vì cháu chắc cô cũng thấy là không phải lúc.

Bà Thị chép miệng:

– Cháu nói vậy cô cũng đành vậy. Nhưng còn Thương cô biết là nó cũng nghĩ đến cháu nhiều, mà đâu phải tính ngay bây giờ, chỉ cần cháu bằng lòng một tiếng rồi bao giờ cũng được.

Trần nói với cô bằng giọng nhẫn nại:

– Thưa cô từ bao lâu chúng ta đã xem Thương như người trong gia đình, Thương có quyến luyến cháu là do tình cậu cháu chơi đùa với nhau từ thuở bé mà thôi. Hiện Thương cũng còn thơ ngây lắm, chưa biết gì đâu, chúng ta nên để cho Thương học hành, đừng gieo vào trí óc nó chuyện người lớn làm gì. Cháu quý Thương cũng như Thể My và không thể mỗi lúc xem khác đi được. Xin cô hiểu và nói với mẹ cháu. Cháu sẽ viết cho mẹ và chị cháu sau. Bây giờ cháu phải đi, xin cô đừng buồn, hãy cầu nguyện cho cháu. Nhé, cô nhé.

Bà Thị lặng lẽ gật đầu, Trần xốc quai ba lô lên vai, cúi chào cô đoạn bước vội xuống nhà ngang. Thương và Thể My đứng đó, vẻ chờ đợi. Thể My chạy lại ôm lấy Trần:

– Cậu đi thật đấy à? Sao cậu lại đi trong lúc súng bắn nhiều thế kia? Cháu sợ quá, bà ngoại mà biết cậu đi như thế này thì bà khóc lắm, cháu cũng khóc nữa.

Cô bé mếu máo, nước mắt tuôn ra ràn rụa. Trần xúc động, chàng cố gượng cười, vỗ về cháu:

– Ơ, chỉ thiếu chuyện khóc nhè nữa mà thôi đấy nhé. Bây giờ thì đủ rồi, cô chiến sĩ can đảm của cậu, hãy để cậu đi ra ngoài một tí xem sao, lát dứt tiếng súng, yên cậu lại về mà, có gì đâu, cháu đừng làm vậy, cậu buồn.

Thương đứng yên, hai mắt mở rộng nhìn Trần, khuôn mặt nàng trắng bạch. Hai ngày nàng về đây, được thấy mặt người nàng yêu, không hiểu sao nàng có linh cảm rằng chàng đang sống giữa mọi sự bất ổn về tinh thần, điều đó in dấu trên ánh mắt ưu tư, trên nét mặt khắc khổ của chàng. Trong những mẩu chuyện mà chàng vui đùa với Thể My, chàng đã để lộ cho nàng thấy đời sống của chàng chứa chất biết bao đắng cay đau khổ. Bây giờ chàng lại sắp ra đi, tiếng súng ác nghiệt ngoài kia thúc giục réo gọi chàng. Bây giờ nàng đang nhìn tận mắt tính mạng của chàng đang bị đe dọa, chàng sắp rời khỏi căn nhà này, đi về phía có tiếng súng vang âm từng tràng sau những cánh đồng, những lũy tre, những hàng cây xanh um kia.

“Chàng đi đến đó làm chi kìa?” Nàng đau đớn tự nhủ, hai tay nàng buông thõng. “Nhưng chàng đã sẵn sàng để đi, trông kìa, không ai có vẻ sẵn sàng hơn thế nữa, chàng đứng đó mà tâm trí chàng đã thoát đi tận đâu đâu, về phía tiếng súng khủng khiếp vẫn nổ giòn ở xa kia, quả thật, chàng không bao giờ, không bao giờ có thể là của mình cả, cũng không thể là của ai cả. Mình chỉ là một đứa bé mơ ước hão huyền. Chàng sắp đi đến đó, đi đến với cái số phận khắc nghiệt của chàng, còn mình, ở lại đây, trơ trọi, không có gì cả, không còn gì nữa.”

Thương hoang mang tự hỏi: “Có thật đúng như vậy không?”

Nàng mơ hồ thấy Trần tiến lại bên nàng, quàng tay qua vai nàng siết nhẹ, giọng chàng trầm ấm:

– Thương buồn à? Cậu đi một lát cậu về ngay thôi mà.

Chàng cúi nhìn sâu vào mắt Thương:

– Nào, cháu can đảm lên chứ, hãy cười cho cậu đi được may mắn xem nào. Cậu cần Thương can đảm, có như thế cậu đi sẽ được bình yên. Ừ, có thế chứ, cháu cười đẹp lắm, đó là dấu hiệu chúc lành. Thế là không có súng đạn nào động đến cậu được đâu.

Chàng hôn phớt trên mái tóc Thương:

– Thôi cậu đi nhé.

Chàng nựng cằm bé Tâm đứng gần đó:

– Đợi anh về đánh cờ nhé.

Tâm la lên: – Anh về ngay nhé.

Trần gật gật đầu băng ngang qua già Mót đang đứng nhìn chàng băn khoăn, chàng đặt tay lên vai ông lão:

– Tôi đi già Mót nhé.

Đoạn chàng đi thẳng ra sân, khuất sau hàng giậu chè tiên xanh ngắt có những sợi tơ vàng óng ả uốn lượn bên trên.

Tiếng súng bên kia sông vẫn nổ suốt ngày mồng một, lúc gần lúc xa, nhưng khi chiều xuống, đêm về, mang trả lại sự tĩnh mịch cho đồng quê. Sự yên lặng của đêm đen đè nặng xuống tâm tư mọi người. Bà Thị và hai cô gái thức rất khuya để chờ Trần về. Mỗi tiếng xào xạc của lá cây lay động ngoài vườn, tiếng đập cánh của một con chim đêm, tiếng gió luồn qua khe cửa đều làm cho họ nhìn nhau nghe ngóng hy vọng.

Đúng như Trần đã nói, trận chiến xảy ra suốt mấy ngày đêm, luôn ba ngày Tết, máy bay Pháp bay ra bắn phá, giội bom liên miên những làng miệt dưới bên kia sông.

Suốt ba ngày, ba người đàn bà ra sân đứng nhìn những chiếc máy bay lồng lộn trên không phận cuối lũy tre xa xa xanh thẳm, thả hàng giây bom nổ rền trời, và sà xuống bắn phá không ngừng trên những làng mạc, ở đó họ biết rằng Trần đang có mặt. Lại những đêm về chờ đợi, những ngày đón nghe tin tức, người chết, nhà cháy, giặc đi lùng, hãm hiếp.

Thể My không cười vui nữa, nét mặt vô tư hồn nhiên của cô bé đã vương nếp buồn đau, khắc khoải.

Thương im lìm câm nín, nàng âm thầm cầu nguyện cho Trần, nàng niệm Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, xin che chở cho chàng. Giữa những phút giây cầu nguyện, thỉnh thoảng một ý nghĩ kinh hoàng len vào tâm tư khiến người nàng lạnh tê buốt cóng. Nàng run rẩy đi tìm bà Thị, nàng tìm thấy bà quỳ trên chiếu trải trên nền gạch, trước bàn thờ Phật, nét mặt hiền hậu của bà thành khẩn trong dáng điệu cầu xin, ngước lên tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, đôi mắt thiết tha thờ phụng, tay bà lần tràng hạt, quang cảnh ấy khiến lòng Thương dịu lại, như được nâng đỡ, nàng rón rén quỳ xuống bên cạnh bà Thị, ngẩng lên nhìn Đức Phật, nét mặt từ bi nhân ái của Ngài mang lại cho lòng nàng niềm yên ủi vô biên. Mắt đẫm lệ, Thương miên man cầu nguyện không nhận thấy Thể My cũng nhẹ nhàng quỳ bên cạnh nàng từ bao giờ không biết.

Ngày mồng ba, tiếng súng đã ngớt, buổi chiều có một người lạ tạt qua nhà bà Thị, đưa một mảnh giấy rồi đi ngay. Mảnh giấy nhàu nát, không có phong bì:

“Cháu bình yên, chưa thể về được, xin cô và cả nhà đừng lo. Thương và Thể My về nhà cho cậu gởi lời thăm bà Ngoại và ba mẹ. Hai bé chóng ngoan, học giỏi cậu mừng. Trần.”

Mọi người đều thở ra nhẹ nhõm, vui mừng, không ai nghĩ đến việc Trần không thể trở lại như chàng đã hứa. Thương không ngớt thầm lập đi lập lại trong trí: “miễn là chàng còn đó, miễn là chàng vẫn còn đó.”

Ngày mai Thương và Thể My trở về thành phố Huế, đêm hôm ấy nàng đi tha thẩn khắp căn nhà bà Thị, ở đây nàng đã gặp lại Trần, dù chỉ trong khoảnh khắc, ở đây nàng đã thấy chàng cười nói như trong giấc mơ, nàng đã thấy chàng rời khỏi nơi đây một cách đột ngột, lạ lùng khôn xiết. Nàng còn nhớ đôi mắt dịu dàng, ẩn náu một nỗi đau thương kỳ dị của chàng cúi nhìn sâu trong đáy mắt nàng, giọng nói trìu mến ấm áp của chàng, chiếc hôn phớt nhẹ trên mái tóc như đó chỉ là hơi thở. Ngày mai nàng sẽ trở lại đời sống êm đềm phẳng lặng của nàng trong ngôi nhà của mẹ Trần ở thôn Vĩ Dạ, ở đó nàng đã lớn lên, ở đó nàng xây những ước vọng đầu tiên, ở đó nàng đã mơ mộng qua những buổi chiều trong khu vườn rợp bóng những cành cây nhãn, những chùm nhãn đầu mùa ngọt lịm nhắc nhở ngày chớm sang thu, giòng sông ngang qua sau vườn lăn tăn gợn sóng vàng ánh nắng chiều. Trên những bậc đá xây xuống bến sông, Thương đã bao lần đứng đó, bứt từng chiếc lá tre thả trôi theo giòng nước, buông trôi theo giòng bao nhiêu mộng mơ của tuổi thơ, của tình yêu, của tương lai hoài bão. Người con gái mồ côi là nàng vẫn còn một mái ấm để trở về, để tiếp tục chuỗi ngày bình yên buồn nản, để cầu nguyện mãi mãi cho một người đã dấn thân vào cuộc sống vô thường, đầy nắng rát và lửa đạn. Nàng sẽ chờ cánh chim bay mỏi có lúc phải ngừng, nàng biết rằng nàng sẽ chờ đợi được. Trong tâm hồn trẻ trong suốt của nàng, mối tình từ ngày thơ bé đã khắc ghi như một lời son sắt, cũng như biết bao tâm hồn phụ nữ phương Đông, tình yêu của nàng không mong bù đắp. Yêu là cho tất cả và chấp nhận mọi thua thiệt đau buồn.




Chương 22

Lương và Hà đã hẹn nhau chỉ đi ba tháng rồi trở về, nhưng bệnh tình bé Cao kéo dài mãi nên đến gần Tết Hà mới nhắn về cho Lương biết nàng và hai con sẽ trở về trước Tết.

Những buổi chiều cuối năm, chiều nào Lương cũng ra bến đò chờ đợi, nhưng cho mãi đến chiều ba mươi Tết, chuyến đò cuối cùng cập bến cũng không hề mang theo bóng dáng vợ con anh. Lương buồn bã, cúi đầu quay gót trở về. Anh lang thang dọc theo con đường ngoài bờ sông thật lâu mới rẽ vào làng, làm như đi gần giòng sông chừng nào Lương càng có cảm tưởng gần gũi vợ con anh hơn chừng ấy.

Sáng mồng một Tết, Lương mở mắt với nỗi bàng hoàng quạnh quẽ, quanh mình chẳng có một ai, anh buồn bã chỗi dậy mặc áo quần, chiếc áo sơ mi trắng Hà gởi về, anh chưa kịp nhuộm màu nâu hay màu xám đậm cho dễ tránh máy bay, anh chép miệng:

– Thôi hãy mặc Tết cái đã, rồi hãy nhuộm sau cũng được.

Lương ra khỏi nhà, ngơ ngác không biết mình đi đâu, có một cái gì thu hút khiến bước chân đưa Lương đi mãi về hướng bờ sông. Ánh nắng mai nhuộm vàng mặt sóng phản chiếu lên người Lương những bóng sáng nhảy múa rập rờn. Khí lạnh buổi sáng làm anh lạnh buốt rùng mình, anh tự trách mình đãng trí quên không mặc thêm áo ấm. Một người làng từ bến đò đi ngược về phía Lương, Lương nghe người ấy cất tiếng chào kèm theo một câu chúc Tết thì phải, Lương cũng chào đáp lễ và cũng chúc lại người ấy một câu. Lương tiếp tục đi mải miết cho đến khi bến đò vắng vẻ và con đập kéo dài ra tận giữa sông hiện ra trước mắt anh. Anh đi chậm lại, lần bước đi ra giữa đập, cho đến khi đi hết con đập anh mới dừng lại, đứng sững nhìn mặt sông, hình ảnh một chiếc thuyền từ từ cập bến hiện ra trong trí anh. Lương thấy Hà tươi cười, hai mắt sáng lóng lánh, xanh biếc như ngày mới yêu nhau, nàng từ trong khoang thuyền bước ra, đưa cao trên tay bé Mai hồng hào xinh đẹp như một đóa hoa, bên cạnh nàng bé Cao khỏe mạnh, cao lớn hơn ngày đi, đang reo mừng muốn nhảy ra khỏi mạn thuyền để ôm lấy cha. Lương bước tới một bước; hai tay anh run run đưa tới trước trong một cử chỉ đón nhận, nhưng hình ảnh bỗng mờ dần, chỉ có tiếng nước sông rào rạt vỗ vào bờ đập. Lương chợt bừng tỉnh, cảm thấy đau đớn trong lòng. Hơn bao giờ hết, anh nhớ quay quắt mùi sữa trên cổ con anh, mùi thơm ngai ngái trên mái tóc của vợ hiền.

Bây giờ Hà và hai con anh đang làm gì trong ngày đầu xuân này? Các con có hỏi mẹ chúng rằng cha ở đâu không? Hà sẽ trả lời con anh ra sao? Cả trăm ngàn ý nghĩ dồn dập trong trí Lương, anh đứng lặng một lúc lâu, thân hình anh cao lớn chơ vơ tận đầu bờ đập, gió thổi mạnh luồn vào chiếc áo sơ mi trắng của Lương làm phồng vạt áo sau lưng, kêu phần phật. Lương cảm thấy run cầm cập nhưng anh vẫn đứng yên, nhìn chăm chú theo một luồng nước chảy quanh co giữa giòng sông như một con đường được vạch ra giữa sông. Lòng thương nhớ vợ con khiến Lương nghĩ rằng đó là con đường mà chiếc thuyền mang vợ con anh sẽ theo đó mà xuôi đến bến này. Anh không thể hiểu được có việc gì khiến Hà không thể mang con về như đã hứa với anh.

Bên tai Lương chợt có tiếng rù rù vẳng lại từ đàng xa. Anh định thần lắng nghe xem đó là thứ tiếng gì, có lúc giống như tiếng một con bò rống vang qua cánh đồng xa, cũng có lúc nghe như tiếng gió vi vu, mãi đến khi mắt anh nhận thấy những chấm đen lạ hiện ra trên giòng sông lòa nắng từ xa thật xa, lúc đầu thật nhỏ, sau rõ dần dần. Lương giật mình, máu trong người anh như đông đặc lại, “đúng là ca nô của địch.” Có đến năm hay sáu cái. Lương vội cúi khom người chạy ngược vào bến. Từ bến đò Lương chạy băng qua cánh đồng, anh thở hào hển, men theo những con đường có bụi cây che khuất, chạy mãi, trong khi tiếng động cơ của ca nô địch mỗi lúc một lớn hơn từ ngoài sông.

Vào đến đường làng, anh nghe có nhiều tiếng người la lên từ đầu xóm, nhưng những con đường trong làng vẫn còn vắng hoe vì sáng mồng một Tết, mọi người đang bận lễ buổi sớm, chưa ai ra khỏi nhà.

Một tràng súng nổ vang giòn giã từ phía xóm nhỏ ngoài sông. Lương chạy vội về nhà, cất giấu một vài đồ đạc, thay một bộ áo quần đen. Vừa lúc ấy cả làng đều được báo động, người ta truyền miệng nhau, giặc về làng, đang đụng nhau với bộ đội ở ngoài xóm bến. Tức thì làng trên xóm dưới, những trai tráng và phụ nữ trẻ tuổi đều lũ lượt rời khỏi các căn nhà, dìu dắt nhau chạy ra những đụn cát trắng phau trùng điệp sau làng. Trong làng chỉ còn lại những người già và trẻ con ở lại giữ nhà mà thôi.

Độn cát của miền này rộng mênh mông trắng xóa, đồi cát nọ nối tiếp đồi cát kia kéo dài ra tận bờ biển Thái Bình. Ở vùng này, mỗi khi Tây về khủng bố, mọi người trong làng đều chạy ra ẩn núp trong các làng chài lưới dọc bờ biển khuất sau những đồi cát chạy dài như một tiểu sa mạc. Tại đây màu cát trắng xóa dễ dàng tố cáo bóng dáng quân giặc xuất hiện từ xa hàng vài cây số. Họ có thể cứ thế dọc theo bờ biển chạy mãi cho đến khi hết tiếng súng, nghe ngóng tin giặc đã rút lui, mọi người mới lần bước trở về thôn xóm của họ.

Lương chạy qua nhà Huyên, cách nhà anh một khu vườn.

Vừa ra đến đầu đường, Lương gặp Huyên đang chạy về phía anh:

– Em định qua mừng tuổi anh không ngờ lại rủ anh chạy giặc.

– Thì anh cũng sang rủ em chạy giặc đây.

Hai anh em cùng cười, thong thả sóng bước bên nhau đi theo con đường dẫn ra ngoài đồi cát.

Tiếng súng vẫn còn ngoài sông xa nên mọi người trong làng đều dừng lại, quanh quẩn ven hàng dương liễu sau làng để nghe động tĩnh, xem tình hình ra sao, chưa ai muốn chạy đi xa.

Lương và Huyên đứng dưới một cây dương liễu, bóng đổ che nắng từ trên cao tỏa khắp một vùng cát trắng. Từ trên đồi dương nhìn xuống, hai người trông rõ nhà cửa làng mạc và cánh đồng trải dài đến tận bờ sông. Bấy giờ những chiếc ca nô địch chạy ngoài sông đang quay mũi vào cái xóm nhỏ ngoài bến sông. Từng loạt súng nổ vang rền, thỉnh thoảng một trái phá từ tàu địch bắn vào, sau tiếng nổ dữ dội một vầng khói trắng đục bốc lên sau lùm cây.

Trên đồi dương liễu sau làng, mọi người bàn tán lao xao, tiếng nói chuyền từ cây nọ qua lùm cây kia.

– Chà, tiếng súng nổ giòn quá, tụi Tây đi chúc Tết bà con mình đấy mà.

– Kể ra thì bộ đội mình lịch sự thiệt, mang đãi khách toàn kẹo đồng nổ như bắp rang.

– Thật đúng là cái tụi đi cướp nước, chúng nó biết hôm nay là Tết của dân mình chớ, vậy mà cũng kéo nhau đi khủng bố cho được. Chẳng may đụng phải bộ đội rồi, phen này thì cho chết cả lũ.

– Ừ mà cũng lạ thiệt, bộ đội về đóng ở xóm ngoài hơn một tháng nay thôi, vậy mà tàu chúng nó ra là đổ bộ ngay chóc lên xóm ngoài, đụng nhau ngay.

– Thì bao giờ cũng có Việt gian chỉ điểm cho chúng nó, chứ chúng nó thì biết cóc khô gì.

– Ừ, thật đấy, chúng nó thì biết cái khỉ khô gì, chung quy cũng tại mấy thằng Việt gian bán nước cả. Tao ghét tụi nó còn hơn ghét Tây, bắt được tụi nó tao đâm liền, băm vằm làm trăm mảnh cũng chưa hả giận. Ngày Tết mà nó làm mình phải bỏ ông bà ông vải mà chạy có khói, ra đứng lóng ngóng giữa trời như thế này.

Tiếng một người con gái cất lên, giọng hằn học:

– Thôi im đi, đừng đứng đó mà nói tào, cái thứ đồ trói gà không nổi mà đòi giết ai. Nội một việc xóc cái bó lúa không lên nổi mà cứ lo nói trạng.

– Sao em khó quá vậy em, bởi vì anh học trò nên chưa quen gánh lúa, thương em rồi anh sẽ tập lần. Chữ nghĩa học mới khó chớ còn chuyện gánh lúa thì học mấy hồi em.

– Này đừng có đứng đó mà nói trây, ai anh em gì với cái mặt chú, cứ xưng học trò để làm biếng làm nhác. Không có chữ đui nào trong bụng cả mà cứ làm bộ làm tịch hoài ai mà thèm ưng lấy mấy thứ đó kia chớ.

Cô gái quê nguýt dài ngoe nguẩy bỏ đi một nước, chiếc áo cánh đen may sát bó chặt vào người làm nổi bật thân hình chắc nịch, đầy sức sống. Mọi người cười ồ, trong khoảnh khắc ai nấy đều cảm thấy vui vui, quên đi nỗi lo sợ của chiến tranh chết chóc kề cận.

Huyên nhìn theo cô gái:

– Ai như chị Chắt ấy anh nhỉ, sao hôm nay chị ấy trở chứng chua ngoa như thế chứ thường ngày em thấy chị ấy hiền và ít nói lắm mà.

Lương mỉm cười:

– Ừ, cô Chắt đó. Em vừa đi xa về nên chưa biết. Thằng Đại con ông Còm ở xóm dưới đó, hồi nhỏ học đâu được hết lớp năm, đọc chữ qua loa rồi bỏ học đi lêu lỏng, sau vào Huế học nghề chụp ảnh, lúc tản cư về làng nó làm dáng lắm; tóc chải láng mướt, áo quần chải chuốt, đi đâu cũng kè kè cái máy ảnh. Sau này chạy giặc cực quá nên cũng bớt đi, nhưng về nhà quê mà nó không chịu làm lụng gì cả, ngày chí tối lượn lên lượn xuống trong làng, o bế mấy cô con gái. Nghe đâu gần đây ông Còm cha nó đi dạm hỏi cô Chắt cho nó, nhà cô Chắt bằng lòng nhưng cô ấy chê thằng kia là thứ lỡ ông lỡ thằng, không chịu, cha của cô ấy thì cứ nhất quyết đòi gả cho được.

Huyên gật đầu:

– Chị ấy nghĩ phải đấy chứ anh nhỉ, ở nhà quê mà lấy mấy thứ đó làm gì. Tội nghiệp chị ấy thật, em nghĩ phong tục ở quê mình nhiều cái thật kỳ cục, con không ưng thì thôi lại cứ bắt ép phải lấy. Như vậy thật khổ phải không anh?

Lương nhìn em, anh vói tay gỡ một lá dương liễu vương trên tóc Huyên:

– Em nói thế bộ em quên ông nội của em bên nhà cũng nghiêm khắc lắm, luôn luôn gả các cháu gái theo ý mình, không thèm hỏi ý kiến bao giờ cả. Anh thấy các chị con các bác của em bên ấy đều gả như vậy cả, em nhớ không?

– Vâng, em nhớ, cũng may mà các chị ấy đều lấy chồng tốt cả. Thôi cũng được.

Lương trêu em:

– Thôi cũng được là thế nào? Còn em thì định sau này lấy chồng ra sao đó?

Huyên cười:

– Làm sao được hả anh? Đó là chuyện ngày sau. Bao giờ em gặp lại gia đình đã rồi mới nghĩ đến chuyện đó được. Em vừa nhận được tin nhà, mẹ em nay đau ốm hoài, gia đình em đang lâm vào cảnh túng quẫn, các em của em đang cực khổ lắm ở trong Hàn. Trong khi đó thì em ở đây, như bị giam lỏng, không làm gì được cả, vì mình chỉ là thành phần tiểu tư sản vô tích sự. Thậm chí em xin đi dạy học không lương để khỏi phải ở không người ta cũng hẹn rày hẹn mai. Em không biết rồi sẽ ra sao đây anh ạ.

Nét mặt Lương bỗng tối sầm lại:

– Anh hiểu, anh hiểu, lại vẫn cái trò đó. Dù sao thì chuyện đó đối với một cô bé như em không đến nỗi nào đâu em ạ. Em còn trẻ, còn nhiều thì giờ, còn nhiều điều có thể đính chính. Không ai có thể bắt buộc lớp người trước người sau phải chấp nhận tư tưởng của nhau. Anh nghĩ rằng với em, em còn đủ thì giờ để chọn lựa em ạ.

Huyên ngỡ ngàng nhìn anh:

– Anh nói cái gì em chưa hiểu, chọn lựa cái gì, hả anh?

– Ờ, thì cũng có lúc mình phải chọn lựa một cái gì đó. Không cần phải hiểu chi cho lắm. Hiểu thêm cực, em ạ.

Lương ngừng bặt, anh đưa mắt nhìn sang sông, tiếng súng vẫn nổ đều về phía xóm bên:

– Chả biết đánh đá ra làm sao ngoài ấy, gần trưa rồi, rút đi cho người ta về ăn cơm chứ.

Bỗng có tiếng ồn ào, từ phía truông có nhiều người rầm rập chạy tới, Lương chưa kịp hỏi han, nhưng nhìn ra cánh đồng, anh hiểu ngay. Những chiếc ca nô địch đã cập vào bờ, quân giặc đổ bộ lên dàn thành hàng ngang từ ngoài đồng tiến vào làng, chúng đi rải rác, lom khom, súng hờm trong tay, từ trên đồi dương sau làng trông xuống mọi người thấy những chấm nhỏ di động giữa đồng lúa xanh rờn.

Tiếng người la lên trong những lùm cây:

– Chạy đi thôi, Tây vào làng rồi đó.

Lương kéo Huyên chạy ra đồi cát, cát nóng luồn qua kẽ chân lọt vào giữa đôi dép cao su đen làm rát bỏng da chân, nhưng không ai nghĩ đến, mỗi bước đi trên cát làm họ trụt lại sau một chút nên vất vả lắm họ mới qua được bốn năm đụn cát. Xế chiều hai anh em ra đến đụn cát cuối cùng, họ đứng trên đỉnh, phóng tầm mắt nhìn biển cả hiện ra mênh mông như một tấm thảm xanh lơ vĩ đại bao la tiếp giáp với trời.

Từ xa, sát ven biển, những làng chài lưới cách khoảng nhau chừng vài ba cây số dọc theo bờ biển. Mỗi làng có độ hai chục nóc nhà, phần nhiều lợp bằng lá sơ sài. Có độ một hai căn nhà lợp bằng ngói đỏ, đứng chơ vơ giữa vùng cát trắng, không có một thứ cây cối gì tô điểm cho đỡ trống trải ngôi làng, ngoại trừ vài gốc dừa nghiêng ngả lẻ loi đầu ngọn gió biển. Quanh bãi biển ngoài làng những đám cỏ bồng vàng úa bò lan trên cát biển.

Tiếng súng xa xa vẫn nổ đì đùng sau lưng họ, gió biển tạt vào mặt họ mang theo hơi lạnh của cả một mùa đông lạnh buốt. Hai anh em đi chầm chậm trụt xuống đồi cát biển đến một ngôi làng.




Chương 23

Đã có nhiều người từ các nơi khác chạy giặc tới đó trước Lương và Huyên, trong số đó có Huỳnh và bộ tứ Hoàng, Bửu, Hồ, Phong. Mọi người đều vui mừng gặp lại nhau, kể từ cái ngày tháng bảy ăn cơm ở nhà Lương đến bây giờ họ chưa hề có dịp gặp lại nhau.

Mãi chiều có tin giặc đã rút ra tàu nhưng vẫn đậu ở bến chứ chưa đi, giặc bắt ông già bà lão khuân vác ra tàu bao nhiêu heo gà lúa gạo chúng lùng tìm được. Một vài căn nhà không có người giữ bị đốt phá. Dù sao, mọi người chưa thể tính chuyện trở về làng được vì người ta ức đoán rằng giặc có thể trở lại ngày mai.

Huyên lo công việc mua gạo và thức ăn để lo cơm chiều. Họ ở lại trong một căn nhà khá khang trang, có sân lát gạch, chủ nhà quen biết với Lương, thường vào ra nhà Lương mua đổi cá mắm và lúa gạo.

Dân các làng biển vùng này thường nghèo đói. Đời sống của họ không khác chi dân du mục, tuy họ sinh sống ở một nơi cố định. Họ ở cách những làng ruộng chỉ có bốn năm đồi cát, nhưng vì đời sống của họ quá gần với thiên nhiên, giữa trời cao biển rộng, vùng cát trắng phau, quanh năm chỉ nghe tiếng sóng gào gió thét nên con người sống gần như một thời ăn lông ở lổ. Ở đây những người đàn bà con gái che kín khoảng ngực của họ bằng một cái yếm, mặc quần vải thô màu xanh chàm hoặc màu xanh đen. Còn đàn ông và trẻ con thì thẩy đều trần truồng. Gió và nắng pha hơi muối mặn của trùng dương ươm lên thân thể khỏe mạnh của những trai tráng trong làng một màu nâu sậm như đồng hun. Người lạ từ xa đi vào làng, nhìn những người đàn ông khỏa thân đi lại tự nhiên, họ làm việc, phơi lưới, kéo thuyền trên bãi cát, trét lại những đáy thuyền, sẽ có cảm tưởng như mình đang đến thăm hòn đảo của những người sống theo chủ nghĩa tự nhiên lấy sự khỏa thân làm mục đích. Ở đây, những con người đơn thuần mộc mạc không cần vâng theo một quan niệm phức tạp nào hết. Họ sống, trần truồng theo nhu cầu của nghề nghiệp chài lưới, giữa thiên nhiên vô cùng, giữa biển và cát từ đời này qua đời khác. Những quan niệm táo bạo mới mẻ của những lớp người tự cho là văn minh tiến bộ thật ra chỉ lập lại những hình thái nguyên thủy vẫn còn luân lưu trong tiềm thức của con người mà thôi.

Ở đây mỗi khi có khách đến nhà, người đàn ông gia trưởng biểu lộ một cử chỉ lịch sự bằng cách chào hỏi khách xong, đoạn ông ta quơ một cái khố treo bên vách trịnh trọng quấn phần thân thể bên dưới, gọi vợ con pha nước chè rồi mới vui vẻ mời khách ngồi trên tấm phản giữa, tự mình ngồi xếp bằng xuống trước để làm gương cho khách ngồi theo.

Mùa biển tốt, đánh được nhiều tôm cá, người kẻ biển sống rất phủ phê, ăn uống nhậu nhẹt tối ngày, họ không có ý thức để dành tiền và thực phẩm. Vì vậy cho nên đến mùa biển động, họ thường chịu đói rét cơ hàn. Trong những mùa đói khổ đó, họ thường mang những đồ đồng xưa, mâm nồi, những bộ lư hương tam sự vào cầm cố trong làng ruộng. Người trong làng ruộng thường bóp chặt hết sức tàn nhẫn, đến nỗi qua mùa cá người kẻ biển không còn mong lấy lại được những của cải xem như gia bảo của mình. Nhiều khi cùng quẫn quá, đêm đêm họ rủ nhau vào các làng ruộng ăn trộm, thường bị dân làng đuổi đánh, có khi bị chết chóc hoặc bị thương tích què quặt.

Thế nhưng mỗi khi những người ở trong làng ruộng ra biển, luôn luôn được tiếp đãi ân cần với một sự rộng rãi mà chỉ người kẻ biển mới có, chính biển cả đã dạy cho họ lòng khoan dung, dễ tha thứ, dễ yêu đời.

Ngay trong thời chiến tranh này, người kẻ biển đã dang tay đón nhận những người từ trong làng ruộng chạy ra ẩn núp trong làng họ, ở đây tương đối được yên ổn hơn trong ruộng nhờ những độn cát trắng phau làm thành lũy cho họ canh chừng giặc đến. Khi một bóng địch quân xuất hiện từ xa trên cát trắng, mọi người đã nhận biết ngay, họ có đủ thì giờ bỏ tất cả vật dụng lên thuyền, đẩy thuyền ra khơi trước khi giặc đến làng.

Chiều nay hai anh em Lương và những người bạn có thể yên ổn ngồi ăn bữa cơm chiều dọn ra giữa sân trong một cái nia to tướng dùng để phơi cá hoặc phơi lúa. Họ ngồi quanh mâm cơm đặt ở giữa nia, bữa cơm chỉ có mỗi món tép kho, món ăn độc nhất của dân làng biển trong mùa tháng giá, biển động không ra khơi được. Ngoài ra họ còn được hưởng chút hương vị Tết nhờ người chủ nhà đã có nhã ý biếu họ một đòn bánh tét với một dĩa thịt heo kho đông.

Hoàng cười thoải mái:

– Chạy giặc như thế này chạy hoài cũng được, không gì cũng được một buổi tối tự do khỏi phải họp hành sinh hoạt gì cả, cũng khỏe.

Hồ làu nhàu:

– Chưa chắc, không chừng chặp tối ăn cơm xong các ông ấy chả có việc gì làm bèn nổi hứng lên cho đi tìm mấy thằng nhỏ về hành hạ cho vui không biết chừng. Chớ có vội mừng.

Bửu nói lửng lơ:

– Tới đó rồi hay. Hãy biết bây giờ ăn cơm xong ta đề nghị kéo nhau ra bãi biển chơi, đuổi bắt mấy con còng mang về tối nay đốt lửa nướng ăn. Trời lạnh, sóng biển ào ạt, cả bọn ngồi quanh bếp lửa, nướng từng con còng, tối trời cho nên béo ngậy, mùi còng nướng cứ dậy lên, thơm phức, tuyệt.

Bửu vừa nói vừa hếch mũi lên, hít từng hồi như mùi thơm của những con còng nướng đang phảng phất đâu đây.

Huyên nghe vậy cũng náo nức:

– Để Huyên hỏi mượn cái giỏ tí nữa mang theo bắt còng bỏ vào đó mang về nhé.

Huỳnh quay sang Huyên:

– Hơi sức nào mà Huyên lo việc ấy. Cứ để cho các ông ấy tha hồ mơ mộng, nói cho sướng miệng đấy thôi. Cứ ra bãi biển bảo tụi cua còng nó sắp hàng đứng sẵn đó cũng chưa chắc ông nào chộp lấy được một con chứ đừng nói, toàn là công tử Huế cả mà bày đặt đòi đi làm kẻ biển.

– Anh lầm to rồi đấy nhá, để chốc nữa tôi bắt cho anh coi, bắt thật nhiều nữa là khác. Chiều nay bác chủ nhà ở đây đã chỉ dẫn cẩn thận cho tụi tôi rồi. Này nhé, chỉ cần một bó đuốc, một cây sào dài, cứ đưa cao bó đuốc chạy dọc theo mé nước, trời tối lũ còng bò lên cả bãi biển ngắm sao, thấy ánh đuốc bèn lấy làm lạ ngẩn tò te đứng nhìn, thế là người cầm cây sào quơ gạt hẳn chúng nó lên trên bãi xa hẳn các lỗ hang của chúng nó, không còn chạy trốn vào đâu được nữa. Thế là ta ung dung thò tay hốt vào giỏ, mang về nướng, ra chi béo, ra chi thơm, tuyệt vời.

– Ừ, tuyệt lắm, giặc mà nó thấy ánh đuốc ngoài bãi biển lại càng tuyệt hơn nữa, thịt của lính kháng chiến cũng ra chi béo, ra chi ngọt, ra chi thơm đấy nhỉ.

Bửu ngẩn người rầu rĩ:

– Ờ nhỉ, thật muốn quên chiến tranh một phút cũng không xong, thôi vậy.

Nói xong, Bửu buông chén cơm đã ăn xong, lại ngồi trên một cái đòn dài giữa sân, buồn rầu đưa mắt nhìn quanh quẩn, mặt trời đỏ au đã xuống dần trên mặt biển, làm thành một vệt dài đỏ tươi chói lọi như sắc máu, phản chiếu lên nền trời đầy những áng mây bay tan tác, một vùng hào quang sáng chói kỳ dị, nổi bật lên giữa biển cả và không gian bao la đang chìm đắm trong bóng chiều dần tối. Tiếng gió rên dài qua trùng dương thổi lại lạnh buốt, sóng biển ào ào, có khi như những tiếng thì thầm, có khi như từng hồi cuồng nộ.

Mọi người lần lượt ăn xong, Huyên rót cho mỗi người một bát nước chè tươi, họ ngồi rải rác trong sân, ai nấy yên lặng nhấm nháp bát nước chè, lặng lẽ theo đuổi những ý nghĩ riêng tư. Trong không khí của buổi chiều đầu xuân nơi góc biển heo hút này, trong trí mỗi người đều hiện rõ hình ảnh gia đình đầm ấm với bàn thờ khói hương nghi ngút.

Bửu bỗng gọi Huỳnh:

– Này anh Huỳnh, Tết này anh Trần thế mà sướng được nghỉ phép ba ngày về thăm gia đình ở một vùng yên ổn gần thành phố, khỏi phải phiền vì những vụ Tây đi lùng như thế này, lại có hai người đẹp, nữ sinh Đồng Khánh về thăm. Tuyệt đấy chứ, anh Huỳnh nhỉ?

Huỳnh chưa kịp đáp, Lương quay sang hỏi Huỳnh:

– Có phải cái chuyện anh kể mấy tháng trước đó không? Thế ra mẹ Trần đã sắp đặt cho cô bé về gặp Trần để tính chuyện hôn nhân cho Trần thật rồi đấy à?

Phong la to:

– Lại có chuyện đó nữa ư? Thế thì ly kỳ thật, anh Trần gặp rắc rối rồi đấy nhé. Tôi vừa nghe mấy người bên Đảng bộ Tỉnh ủy bàn tán chuyện anh Trần vừa nạp đơn xin Đảng cho phép cưới chị Hiếu đây mà.

Huỳnh hơi sửng sốt, anh hỏi gặng Phong:

– Thật à, họ nói ra sao?

– Thì như vậy đó.

Huỳnh lẩm bẩm một mình:

– Cái thằng liều thật.

Huyên tò mò hỏi:

– Thưa anh sao anh lại bảo là liều? Nếu anh Trần anh ấy yêu người nào thì cưới người ấy, sao lại bảo là liều hở anh?

Lương phụ họa với em gái:

– Ừ, tôi cũng nghĩ vậy, nếu Trần yêu một người con gái ở miền kháng chiến này thì Trần có quyền đi cưới chứ đâu phải nhất thiết là phải cưới người do cha mẹ định đoạt mới được?

Huỳnh nói chậm rãi:

– Không phải thế, anh chưa hiểu. Chuyện không giản dị như thế đâu.

Huỳnh ngừng lại, khum tay che gió quẹt diêm châm một điếu thuốc, anh rít một hơi dài, ngẫm nghĩ, anh đang tìm lời để nói, thật khó mà nói cho người khác hiểu được mối tình ngang chướng của Trần và Hiếu mà có thể tránh được sự ngộ nhận lố bịch trong ý thức của người nghe. Trong lòng Huỳnh, sự giằng co giữa lòng thương mến đối với cả Trần và Hiếu, với ý muốn tách rời Trần ra khỏi mối tình kỳ quặc mà Huỳnh linh cảm thấy sẽ gây nhiều bất lợi cho Trần, mỗi khi nghĩ đến chuyện này Huỳnh lại thấy bực dọc không lối thoát.

Bóng tối đã phủ đầy, nền trời lưa thưa vài ngôi sao nhỏ bé xa vời, từng đám mây lớn nối nhau bay qua bầu trời, biến đổi thành đủ mọi hình thù quái đản.

Tiếng Huyên cười nhỏ, hồn nhiên:

– Huyên cứ nghe các anh nhắc mãi về anh Trần mà Huyên chưa hề thấy mặt mũi anh ấy ra sao cả. Anh Lương cứ nhắc nhở bảo thơ hai anh Huỳnh và anh Trần hay vô cùng, rằng hai anh là thần thơ chứ không phải là thi sĩ nữa.

Phong đáp lời Huyên:

– Đúng vậy Huyên ạ. Thơ của anh Huỳnh và Trần là thơ gối đầu của thế hệ chúng mình hôm nay đó. Huyên sẽ có dịp được nghe, ờ mà Huyên chưa gặp anh Trần nhỉ, anh ấy rất trẻ, lớn hơn tụi tôi một chút thôi, người cao, gầy rất đẹp trai, thế mà hiện giờ anh ấy đang yêu một người đàn bà ngoài ba mươi, lớn hơn anh ấy cả chục tuổi, góa chồng, có hai con, không nhan sắc nếu như không muốn nói là xấu xí nữa.

Hoàng thong thả tiếp lời Phong:

– Kể ra thì chị ấy cũng không đến nỗi xấu nếu chị ấy đừng có đôi mắt lé quá nặng nề như vậy. Nhưng bù lại thì tính tình chị ấy rất đôn hậu, đáng quý. Có lẽ vì sống gần nhau lâu nên anh Trần cảm chị ấy vì tính nết mà không để ý đến vẻ ngoài và tuổi tác của chị ấy chăng. Dù sao thì cũng phải là nghệ sĩ thì mới yêu như thế được.

Lương sửng sốt hỏi Huỳnh:

– Chuyện đến thế kia à? Như vậy thì quả Trần liều thật, cái căn nghệ sĩ của Trần làm khổ Trần mất rồi.

Huỳnh gật đầu:

– Nó như vậy đó, tôi phân vân chưa biết nói thế nào cho anh và Huyên hiểu. Chỉ nội cái chuyện tình của nó cũng đã phi lý lắm rồi, bây giờ nó lại còn bày đặt thêm cái trò xin phép đảng của nó để cưới nữa thì rồi không biết sẽ tới đâu. Tôi lo ngại cho nó quá anh ạ. Cái thằng trông vậy mà gan lì không chịu nổi.

Huyên nói, giọng nao nức:

– Lạ quá nhỉ, Huyên muốn gặp anh Trần để xem anh ấy ra sao mà chuyện của anh ấy cứ y như tiểu thuyết ấy thôi. Tuyệt đấy chứ, anh Lương nhỉ.

Lương mỉm cười khoan dung, mắng yêu em:

– Cô thì chuyện gì mà chả tuyệt, anh đã bảo rằng cô nhìn thấy cái hay cái đẹp ở khắp mọi nơi mà lại, trai tơ với gái góa mà tuyệt cái nỗi gì. Anh cũng lo như anh Huỳnh đây, chuyện sẽ không tuyệt như các cô cậu tưởng đâu. Đừng quên Trần là đảng viên, rồi sẽ còn mệt nhiều đấy.

Có tiếng động ngoài ngõ, mọi người nhìn ra, một bóng người cao lớn đang đi vào, dáng thẳng tắp in lên nền cát trắng phía sau. Vào đến sân, người ấy lên tiếng:

– Chà, vui vẻ quá nhỉ, quý vị họp mặt ở đây vui vẻ như thế này báo hại tôi chạy đi tìm muốn chết.

Mọi người ồ lên mừng rỡ:

– À, Trần đây rồi.

– A, anh Trần, anh linh thiêng thật, mọi người đang nhắc anh thì anh tới.

– Tao tưởng mày đang ở nhà cô Thị chứ, sao lại dẫn xác về đây?

– Huyên đang mong gặp anh Trần thì anh Trần đó, Huyên thấy anh ấy thế nào?

Trần hỏi: – Huyên nào thế?

Lương giới thiệu:

– Đây là Huyên, em gái tôi, còn đây là anh Trần đó Huyên.

Trần chào Huyên, mặc dầu trời đã nhá nhem tối, không trông rõ mặt người:

– Chào Huyên, anh Lương hay nhắc đến một cô em đang đi học ngoài Khu Tư với chúng tôi luôn, có phải là Huyên đấy không?

Lương đáp: – Phải đấy Trần ạ, Huyên vừa trở về mấy tháng nay. Nó nghe chúng tôi nhắc đến anh nhiều quá nó sốt ruột cứ mong gặp anh để xem ra sao đấy.

– Các ông ấy nói gì tôi thế hả Huyên? Bây giờ Huyên gặp tôi rồi đó, có giống tí nào như các ông ấy diễn tả không?

Huyên cười nhẹ: – Trời tối quá Huyên có nhìn thấy anh rõ đâu mà anh bảo Huyên thấy anh thế nào.

Câu trả lời mà không trả lời gì cả của Huyên làm mọi người cười vang. Lương xốc lại cổ áo ấm, gật đầu nói:

– Ừ, tối quá rồi thật, và lạnh nữa, nên vào trong nhà cho ấm thì hơn.

Mọi người lục tục kéo nhau vào trong nhà, người chủ nhà lăng xăng mời khách lên nhà trên, ông ta thắp thêm một dĩa đèn dầu phụng, châm thêm một ấm nước nóng, đoạn cùng vợ con rút lui xuống căn lều dưới dùng làm nhà bếp, và cũng là chỗ ngủ của gia đình họ.

Bửu hỏi Trần:

– Sao anh lại ở đây? Anh đang được phép về thăm nhà mà, tôi đang thèm được như anh. Tết nhất mà cứ lủi thủi mãi ở những nơi khỉ ho cò gáy này, rầu thúi ruột. Nghe nói anh có hai cô nữ sinh ở Huế về thăm phải không? Đời tươi như vậy mà bỏ về đây sao đành?

Trần cười, hàm răng sáng chói dưới ánh đèn dầu lạc:

– Sao đành về đây à, ừ nhỉ, ta cũng quên chưa hề tự hỏi như thế bao giờ. Để ta xem nào, về đây để góp mặt với các cụ như thế này có được hay không?

– Được quá đi rồi, sao anh biết tụi tôi ở đây mà đi tìm?

– Tôi ra biển từ chiều, ở làng trên kia, có người nói gặp Huỳnh và các cụ ở dưới này, ăn cơm xong tôi xuống ngay, ban chỉ huy chỉ qua bên này, họ bảo các cụ đang ăn cơm với người nhà, tưởng ai té ra anh Lương và Huyên. Tối mồng một Tết, anh em gặp nhau đông đủ thế này còn đòi chi nữa. May nhờ Tết nhất nên mới được thả lỏng đi tìm nhau như thế này chứ không thì giờ này còn sinh hoạt kiểm thảo chán, kêu rên gì nữa.

Hoàng nói:

– Tôi cũng vừa nói như thế mà mấy thằng nó cứ được voi đòi tiên đấy, cái thứ gì mà sướng không biết hưởng.

Lương gật gù:

– Đời cũng lạ thiệt, sáng mồng một thức dậy một mình buồn quá, tôi đi lang thang ra bờ sông, xuống bến đò nhìn chỗ vợ con ra đi mấy tháng trước cho đỡ nhớ, thình lình thấy tàu địch xuất hiện từ xa, thế là lo chạy giặc, những tưởng cái Tết này thế là đi đứt, chẳng có gì vui, không ngờ lại gặp anh em đông đủ như thế này, lại có cả Trần, thật hiếm khi được như thế này. Đêm nay Trần và Huỳnh ngâm thơ cho anh em nghe nhé, nếu được thì cuộc đời quả thực chưa đến nỗi nào.

Trần lục xắc, lấy ra một gói bánh ngọt và một gói mứt gừng, khi đi bà Thị đã vội vàng nhét theo:

– Có mứt bánh bà cô tôi nhét theo đây, sáng nay tôi ở nhà cô, đang đánh cờ tướng với thằng em, cuộc đời đang ung dung nhàn nhã thì nghe tiếng súng nổ nơi hữu ngạn dưới này, lại thấy ca nô địch từ từ đi ngoài sông, biết thế nào cũng có đánh nhau to, mới vội về đây chứ. Thôi tối nay mình hưởng tạm hương vị Tết ăn mứt gừng, uống nước chè tươi vậy. Ngày mai coi bộ vất vả đấy, tụi Tây chúng nó không để mình yên mấy ngày Tết đâu.

Huyên xuống nhà mượn vài cái đĩa bày bánh mứt ra, nàng thong thả pha nước, đưa bánh mứt mời mọi người. Cô gái đi lại trong nhà, ánh đèn dầu phụng lu mờ chiếu hắt cái bóng mảnh khảnh lên vách tường như một nỗi buồn mong manh.

Mùa xuân đến đâu đây, trong đêm đen, giữa một miền cát ròng sóng biển, những kẻ gặp nhau tình cờ trong mùa loạn lạc, đêm nay bỗng thấy ấm lòng.

Trong phút chốc mọi người đều yên lặng, trầm lắng giữa mộng mơ và thực tế. Mùa xuân len lỏi vào những mạch ngầm của u hoài và phiền muộn, của ly loạn và đau khổ, của tang thương và bất tuyệt.




Chương 24

Đêm càng về khuya, trong không khí hắt hiu cô tịch, tiếng thơ thâm trầm cảm khái của Huỳnh và Trần hòa lẫn tiếng sóng đại dương gầm thét chuyển động cả lòng đất sâu.

Cả vùng trời biển bao la có lúc như ngưng đọng, run rẩy theo lời thơ như bão táp mưa sa, như suối nguồn giải thoát biết bao ràng buộc u mê hạn hẹp.

Lời thơ làm rung chuyển bao nhiêu hoài bão, bao nhiêu mộng mị của Huyên, người con gái bé nhỏ đang sống những ngày vô định, lạc lõng chưa biết về đâu. Lời thơ mang mang đưa Huyên về những miền tình người bát ngát, những cõi miền đầy nước mắt đau thương nhưng không vương mang thù hận.

“Thuở ấy quê hương tôi đau khổ, chìm đắm trong ô nhục, tất cả mọi người trên quê hương đều than khóc; nước mắt chảy thành suối thành nguồn thành sông thành biển. Tôi mang số kiếp người nghệ sĩ, tôi đã được khóc thật nhiều, tôi hòa chung những giọt nước mắt sướng thỏa trong nỗi đau thương với đồng loại.

Nhưng có một ngày, một luồng sáng lóe lên từ chân trời ảo ảnh, người người đều bị choáng ngợp mừng rỡ, tất cả đồng thanh hoan ca, nhân loại kết nhau thành từng dải, nắm tay nhau nhảy múa reo cười, mê cuồng say đắm.

Từ chân trời ảo ảnh, luồng sáng phóng ra kết tụ thành một mê cung, ở đó nhân loại dắt díu nhau đi lang thang hàng đoàn, ngày đêm cười lên từng tràng mê sảng.

Giờ đây chỉ còn mình tôi cô đơn ở lại giữa hư vô, chỉ còn mình tôi vẫn còn biết thương đau, giờ đây chỉ một mình tôi khóc.

Tôi không còn tìm đâu ra mảnh đất để gieo hạt giống sầu thương.

***

Đêm vừa tàn, trời mưa vừa tạnh, em bàng hoàng, chới với vì anh vừa thốt tiếng chia ly. Em cuống quýt, mê man vì đau đớn, em nguyện cầu xin Trời hãy cho mưa trút nước cho thành lụt, cho khỏi con thuyền cách bến sang.

Nhưng rồi anh cũng ra đi, anh rời khỏi vòng tay em, dấn thân vào vòng đam mê, đỏ tươi rừng rực lửa đạn bạo tàn.

Anh đi rồi, em vẫn còn ngồi mãi bờ sông khóc tận chiều, em khóc cho mối tình không chắc, lệ có vơi cùng đau quạnh hiu, tiễn anh này dạo mùa thay lá, mai ngày nếu anh hy sinh trước hay em trước, ta nguyện ôm mồ chôn kiếp yêu.”

Tiếng ngâm của Huỳnh bỗng trở nên khờ dại:

“Lòng em là mẹ bầy con dại
Mẹ bé mồ côi khổ rất nhiều,
Lòng khổ đi tìm thương xót khổ
Khổ trần xin họp bến nâng niu.”


***

“Này, hãy nghe đây, có một nước cộng đồng. Ở đó có nghìn Chúa bay lên, nghìn Chúa xưng tên, không thiết nhìn nhau, rằng đó là nhau.
Này, hãy nghe đây, ở nước cộng đồng người người đều no lành, sức người không hề nghèo, hoa đời không hề tàn.
Này, này, hãy nghe đây, ở nước cộng đồng đầu đầu quầng mười vầng thần trí, người người quầng mười vầng từ bi.
Này, này, hãy nghe đây, người hãy gắng sức đi tìm một nước cộng đồng như thế trên vũ trụ biến động khôn lường này.”

Đó là những điều mà Huỳnh đã gởi gắm trong thơ của anh. Tiếng ngâm của Huỳnh vang vang niềm ưu ái xót thương.

Lời thơ như hơi thở cúi xuống thổi đi chút bụi mờ trên giòng đá khắc, khuôn mặt Huỳnh ẩn hiện dưới ánh đèn dầu khi mờ khi tỏ, râu tóc phủ kín mặt anh chỉ để lộ sống mũi cao và đôi mắt ngời ngời một nỗi bi thương giữa một thế giới hoang tàn. Huyên xúc động sâu xa, một chân trời vừa mở trước tuổi thơ thần thánh có những suy tưởng đam mê đến cùng cực. Từ bao lâu Huyên đã buông mình trôi bềnh bồng trong đó, có một cái gì trong Huyên từ chối một sự thức tỉnh, nàng biết rằng đàng nào cũng chỉ đưa đến một sự giằng co rách nát tâm hồn mà thôi.

Trong muôn ngàn mớ cảm nghĩ hỗn độn đau buồn đó, Huyên mơ hồ nghe những tiếng thơ của Trần nối tiếp.

“Mưa rừng. Ngày này qua ngày khác, những cơn mưa kéo dài lê thê dưới bầu trời nặng trĩu mây đen. Cả vũ trụ ướt sũng vây hãm lấy ta. Rừng sâu rạp mình dưới cơn mưa ngàn thác lũ, không một lời chim vọng lại, bao lâu ta thức trong lòng lá, nghe suối trường thiên kể nỗi niềm.

Rồi một ngày, mây đen dàn thành hàng theo gió bay đi, mở hé một mảnh trời xanh như thoáng hiện thiên đường, có tia nắng lọt qua kẽ mây chiếu xuống khu rừng một chớp lóe tinh khôi. Tức thì rừng sâu xao xác, vạn vật cựa mình, ta nghe muôn ngàn tiếng chim trỗi lên lảnh lót.

Đột nhiên tiếng chim tắt nghẹn, vạn vật im lìm, rừng thiêng cúi lặng, ta lạ lùng chẳng hiểu từ đâu, ngẩng trông lên, tia nắng phỉnh phờ không còn nữa, bầu trời giăng giăng một màn mây xám xịt.

Tia nắng đã có ma lực sai khiến chim rừng mừng hão vội ca vang, từng tràng lanh lảnh nhưng rồi ngậm, ta ngẩng trông trời xám sắc mây!!!”

***

“Em nằm đó, đất ấm êm ôm ấp da thịt tươi nồng của em. Mồ thì xanh, xanh quá, lá say đời. Hàng cây lá lướt thướt nghiêng xuống mồ em, rỏ lên thi thể còn xanh của em những hạt lệ tao phùng. Đêm đêm, có ánh sao khuya băng mình qua hàng ngàn thế kỷ đến đậu trên hàng mi em, trên mắt em khép kín một giọt sáng long lanh.

Em nằm đó, thời gian ân cần đón nhận em vào lòng Mẹ Thiên Thu. Em buồn chi em, có anh, người thi sĩ quỳ xuống bên em, có môi anh hôn lên vết thương se sắt của em, có môi anh hôn lên đầu mũi tên tẩm độc, có bàn tay anh vuốt mặt cho em, bàn tay anh xin em xóa hết hận thù.

Trả lại cho thế nhân bao căm hờn phi lý, trả lại cho người ngọn lửa dữ hung tàn. Bao kinh hoàng đớn đau xưa không còn nữa, xin em rủ lòng thương lũ người quay lại giày xéo lên nhau.

Đồng loại em đánh đuổi em ra khỏi cuộc đời, em nằm xuống đây, Đất Trời giao hòa thương mến, em nằm xuống đây, yên hàn thư thái, đợi chờ đồng loại thoát kiếp u mê, trở về cùng em trong lòng hư vô bất tuyệt.”

Tiếng thơ đã dứt từ lâu, mọi người chưa hết bàng hoàng. Gió lộng từ trời cao xoáy sâu xuống lòng biển rộng, bùng lên một âm ba chấn động khiến không gian khép nép.

Ngọn đèn dầu khô cạn, không ai buồn nói năng. Huyên kinh ngạc đến toàn thân bất động, có cái gì đâu đây, một ý thức vạn năng của kiếp sống, có một điều gì đó, lần đầu tiên trong tâm trí non nớt của Huyên bỗng nhiên thấy mình trở nên cao cả, vĩ đại vô cùng. Huyên nhìn quanh những khuôn mặt đều trở nên gần gũi thân thiết biết bao.

Đêm nay tâm hồn Huyên chùng xuống, cảm thông với cõi miền vô cùng vô tận. Đêm nay giữa lòng quê hương chiến tranh hận thù chất ngất, người thơ đã vượt muôn trùng, giữa sóng gào gió thét, mang về một chút bình yên trong lòng người thế hệ.

Có tiếng đập cửa, mọi người choàng tỉnh cơn mơ, Huỳnh bước ra mở hé cánh cửa, một liên lạc viên của ban chỉ huy cho biết có lệnh mới, mọi người phải trở về đơn vị để chuẩn bị cuộc hành quân trước buổi sáng mai.

Trần, Huỳnh và Hoàng, Bửu, Hồ, Phong từ giã hai anh em Lương để trở về đơn vị của mình.

Lương và Huyên tiễn những người bạn ra sân, hai anh em nhìn theo những bóng người áo xám chìm khuất trong sương khuya, không ai nói với ai một lời.

Đêm tối mịt mùng không có một vì sao, tiếng chim đêm thất thanh vang lên trong độn cát mênh mông báo hiệu có những bước chân di động để lại vết hằn trên cát trắng.

Nhưng trước khi bình minh ló dạng, cơn gió ban đêm đã xóa mờ dấu vết, đùn lên những gợn sóng cát thiên thu.

Không ai biết những bước chân đi qua đêm là của bạn hay của thù.




Chương 25

Lương bị bắt vào ngày mồng năm, hai ngày sau khi chạy giặc trở về nhà. Huyên sửng sờ đau đớn, nàng câm nín nghe người làng bàn tán.

– Thằng Việt gian này ghê thật, học hành nhiều cũng có khác, nó thu xếp cho vợ cơn nó đi vào Huế trước rồi mới chỉ điểm cho giặc về phá làng phá xóm sau. Chả trách máy bay giặc thả bom tan nát cả làng mà nhà nó vẫn y nguyên, không biết nó làm dấu cách nào mà tài thế.

– Thì ra lâu nay làng xóm mình ấp rắn độc trong lòng mà không biết. Cái thứ đồ tiểu tư sản trí thức địa chủ thối nát ấy rồi chỉ đến bán nước là cùng. Công an mình cũng sáng suốt lắm, đã biết trước nhưng chưa có bằng chứng, cứ làm ngơ để đấy, bây giờ tội trạng đã rành rành mà nó còn leo lẻo kêu oan nữa đấy.

– Làm sao mà mình có được bằng chứng nó làm Việt gian thế?

– Ối dào, bằng chứng thì thiếu gì, này nhé, suốt mấy ngày gần Tết chiều nào nó cũng đi dọc bờ sông ra dấu hiệu cho đồng đảng của nó bên kia sông để liên lạc về dưới đồn làng Hạ. Nó lại còn kêu oan, nó bảo nó ra bến đò để đón vợ con ở Huế về, nghe kể cũng xuôi ta, nhưng đón ở bến đò thôi chứ, việc gì lại đi dọc bờ sông tháng chạp trời lạnh buốt thế, bộ đi hóng mát hay sao. Rõ ràng hơn nữa là sáng mồng một Tết, đúng ngày Tây đổ bộ vào làng, hôm ấy nó ra khỏi nhà từ sáng sớm trong làng chưa nhà nào mở cửa cả. Nó lại ra bờ sông, đò Huế về buổi chiều chứ làm gì có buổi sáng mà bảo đi đón vợ con, nó lại mặc một cái áo trắng cho Tây dễ nhận ra nữa chứ, lại ra đứng tận đầu bờ đập ở giữa sông để ngoắc tàu địch tới, thiệt nó không coi ai ra gì hết chỉ nghĩ đến chuyện rước giặc vào làng mà thôi. Nghĩ mà hú vía, hôm đó nếu không có bác Còi đi thăm mấy cái đơm đó đặt ngoài bờ lác bắt gặp nó ngoài sông thì làng mình còn nhiều trận điêu đứng nữa chứ chẳng chơi đâu. Bác Còi bác ấy bảo rằng khi nó bị bắt gặp đi một mình ngoài sông vào giờ ấy, bộ tịch nó lúng túng ra mặt, bác ấy chào và chúc Tết nó, nó cũng không dừng lại nữa.

– Ai mà ngờ nhà ông Nghè ăn ở tử tế như thế lại sinh ra một thằng Việt gian như thế. Cho con ăn học cho biết nghĩa lý hóa ra nó học tiếng Tây nó đi theo liếm gót thằng Tây. Nhà cửa ruộng vườn dư ăn dư để, đến nỗi gì mà phải làm bậy. Thiệt là lòng tham không đáy, chắc tụi Tây nó trả lương cho vợ con nó trong Huế cũng nhiều lắm.

– Nhiều là cái chắc, người làng mình vô Huế thấy mụ vợ thằng Lương ăn bận sang trọng, vàng đeo đầy mình đi trên chiếc xe hơi bóng lộn. Không có tiền của Tây trả lương bán nước cho thằng chồng ngoài này mà con vợ trong ấy lại được như vậy à.

– Tôi nghe nói gia đình bên vợ chú Lương giàu lắm, xe hơi hai ba chiếc, không chừng thím Lương đi xe của cha mẹ thì sao?

– Ơ, cái thằng này muốn bênh Việt gian địa chủ hay sao đó. Ai chẳng biết hồi mụ ấy ở đây nó giúp cho chú đem tiền về lo thuốc thang cho mẹ chú đau nặng. Chú thật ngu ngốc, cứ tưởng thế là nó tốt bụng, nó cho một nó lấy lại mười, chú làm việc cho nó thí chết chẳng kể đêm ngày chứ tốt lành gì mà bày đặt thương Việt gian địa chủ.

– Đừng nói thế tội chết. Nói là nói vậy chứ ai mà ưa được cái giống địa chủ Việt gian.

– Ừ, có thế chứ, dù sao thì tối nay họp tổ nông dân, chú cũng nên tự kiểm thảo sự yếu đuối đó để cho đoàn thể giúp đỡ cho chú dứt khoát tư tưởng với tụi địa chủ phong kiến đi nhé.

– Có gì đâu mà dứt khoát, tôi có thương tiếc gì họ đâu mà anh nói thế.

– Hừ, nếu chú không đưa ra thì tôi cũng phải đưa ra, phải xây dựng cho chú tiến bộ kịp với đà cách mạng vô sản chứ.

– Cái đó tùy anh.

Những luận điệu như thế cứ ngày này sang tháng khác gặm mòn tâm trí của Huyên. Nàng bước đi, lòng hoang mang sợ hãi đến cùng cực. Người anh họ mà Huyên thương mến nhất, quý trọng nhất giờ đây đã trở thành một người xấu xa tồi tệ nhất dưới mắt mọi người. Việt gian, không có danh từ nào nhục nhã cho bằng. Huyên âm thầm đau đớn, ngoài mặt nàng không dám tỏ lộ với ai ngay cả những bà con ruột thịt gần gũi nhất. Nàng hiểu thân phận nàng cũng chẳng hơn gì anh Lương của nàng, người ta còn để yên nàng vì nàng chỉ là một cô gái còn nhỏ tuổi mà thôi.

Lương bị bắt mang đi đâu không ai biết đã hơn một tháng, cả làng sau một hồi xôn xao bàn tán rồi cũng nguội dần đi. Không một ai dám tỏ vẻ lo lắng thương xót, mọi người đều nhất loạt biểu lộ sự căm hờn đến tột độ, tưởng chừng như nếu người ta đưa anh về làng lúc đó, dân làng sẽ ùa ra băm nát anh lập tức.

Huyên hết sức dè dặt trong việc đi tìm hỏi thăm tin tức của người anh. Nàng nói với người nhà rằng nàng đi qua bên kia sông để thăm người cô lấy chồng bên đó. Huyên tìm đến cơ quan của Huỳnh, gặp luôn cả Huỳnh và Trần trong một căn nhà trống trải. Hai người đang ngồi nói chuyện, vừa thấy Huyên, Huỳnh đứng bật dậy, ra đón Huyên từ ngoài sân, Huỳnh nói nhanh:

– Anh biết Huyên tìm anh về việc gì rồi. Hãy vào đây, có anh Trần ở đây nữa, chúng ta nói chuyện.

Huỳnh đưa Huyên vào nhà, chỉ một cái ghế cho Huyên ngồi, như cái máy Huyên ngồi xuống ghế, nhìn Huỳnh, đôi mắt buồn bã, chờ đợi.

Huỳnh trầm giọng nói:

– Anh và Trần đang định tìm gặp Huyên, vì biết rằng sau khi anh Lương bị bắt, Huyên ở bên ấy không còn ai nữa. Anh cũng biết rằng Huyên mong biết tin tức của Lương.

– Vâng, em lo lắng cho anh em quá mà không dám hỏi ai cả. Tội nghiệp anh em bị bắt oan, hai anh cũng biết đó. Chỉ vì anh ấy thương nhớ vợ con quá, lại có cái tật khi buồn thì ưa đi lang thang mà ra nông nỗi.

– Anh ấy bị bắt không oan đâu Huyên ạ.

Huyên mở to mắt nhìn Huỳnh:

– Cả đến anh mà cũng có thể nghĩ là anh Lương em làm Việt gian ư?

Trần mỉm cười chua chát:

– Huyên không hiểu, đó chỉ là một cách nói của anh Huỳnh đó thôi. Anh Huỳnh nói thế có nghĩa là chuyện người ta bắt anh Lương là một việc có dự liệu ở trong chính sách chung. Còn có tội hay không điều ấy không thành vấn đề.

Huỳnh ngắt lời Trần, đôi mắt bừng lên sắc giận:

– Anh ấy có tội chứ, tại sao không? Nhưng không phải bị tội làm Việt gian đâu, Việt gian chỉ là cái cớ để bắt mà thôi. Anh ấy có cái tội to lắm, tôi đã biết từ lâu, đó là tội tiểu tư sản trí thức, địa chủ phú hào, Huyên hiểu rõ chứ?

Huyên tái mặt, đôi môi nhợt nhạt của nàng run lên:

– Nếu thế thì nguy cho anh Lương em lắm rồi, em có nghe những chuyện như thế ngoài miền Bắc, không ai thoát chết được cả, miền Bắc cứ hễ địa chủ là có sẵn tội cường hào ác bá rồi.

– Đó là những vùng tương đối yên tĩnh, xa hẳn vùng địch chiếm, trái với miền Trung chúng ta, sát nách các đồn Tây, lại ở gần các thành phố của địch, cho nên để bắt đầu chính sách tiêu diệt giai cấp, người ta phải có những thủ đoạn thích hợp với từng địa phương, Huyên hiểu rõ điều đó chứ? Trí não của con người tinh vi lắm Huyên ạ.

Huyên tỏ vẻ nôn nóng:

– Hai anh có biết bây giờ anh Lương em ở đâu không?

Giọng Trần ôn tồn:

– Khi Lương mới bị bắt đưa lên tỉnh, anh có đến thăm, chả nói được gì nhiều, Lương nhờ nhắn với vợ con cứ ở yên trong Huế, đừng về làng nữa, việc ấy anh đã nhờ cô anh nhắn lại rồi. Lương rất bình tĩnh, đàng hoàng, tuy người tiều tụy lắm. Tất cả anh em chúng ta đều đau buồn khi nghĩ đến Lương trong tình trạng bi đát này, nhưng chúng ta cần phải bình tĩnh mới được Huyên ạ. Riêng các anh không biết phải làm sao đây, khoanh tay ngồi nhìn một người bạn bị hãm hại oan ức, những thằng con trai như các anh lại càng nhục nhã hơn Lương đang chịu cảnh giam cầm nữa.

Huyên cúi đầu:

– Vâng, em hiểu.

Huỳnh cười khẩy:

– Đừng hiểu gì cả mà đỡ khổ Huyên ạ. Huyên còn trẻ quá, hãy vui đời, hãy hồn nhiên mà sống, như thế lại hơn. Có thương anh Lương thì để bụng. Huyên đùng nghĩ rằng người ta có thể bằng lòng để yên cho một cô gái nhỏ tỏ lòng thương xót một người thân thích của mình. Thương Việt gian, thương địa chủ tội nặng lắm đấy. Khi về bên làng Huyên nên thận trọng là hơn. Hiện giờ các anh không thể biết Lương đang ở đâu, công an viện cớ giữ gìn bí mật chuyên môn nên không thể tiết lộ chỗ giam Lương cho ai biết, họ cho biết đây là trường hợp tội phạm chiến tranh rất nguy hiểm.

Huyên lặng người, nàng không thể khóc, cũng không nói gì được nữa.

– Anh đang nhờ những người quen có thế lực hỏi giúp, có gì anh sẽ cho Huyên biết. – Trần nói bằng giọng xót xa.

Huyên vâng dạ, một lát nàng đứng dậy buồn bã cúi chào Huỳnh và Trần để ra về.

Hai người tiễn Huyên ra cổng, Huỳnh nhìn theo dáng người gầy nhỏ của em gái bạn, nói với Trần:

– Tao e rằng cô bé này cũng khó ở yên với cái tụi ủy ban xã ở bên ấy, vì cô bé quấn quýt thương mến Lương quá đỗi. Bây giờ Lương bị bắt, không biết cô bé sẽ ra sao.

Trần nghiến răng:

– Có Trời mới biết được những gì có thể xảy ra giữa thời buổi này. Vậy mà không thấy Trời can thiệp gì cả, bộ mảnh đất này bị Trời bỏ quên hay sao.

Huỳnh chua chát:

– Nếu không bỏ quên thì cũng là không muốn nhớ, đằng nào cũng vậy thôi.

Huyên thất thểu đi xa dần tầm mắt của Huỳnh và Trần, vừa thì thầm khấn nguyện, trong khi đôi mắt nàng đẫm đầy lệ:

– Xin Trời thương anh con, xin Trời rủ lòng thương xót tất cả chúng con.

Huyên không nhớ mình đã đi qua bao nhiêu chiếc cầu nhỏ bắt từ xóm này qua xóm khác. Đang lầm lủi bước đi Huyên nghe tiếng người gọi tên nàng. Nàng ngẩng lên thấy Phan, một người bạn học cùng trường ở Hương Khê ngày nàng còn học ở Liên khu Tư.

Phan đứng trong sân một ngôi nhà nhỏ, chàng mặc quân phục, nét mặt đẹp đẽ cương nghị, đôi mắt trong sáng tươi cười nhìn Huyên. Huyên dừng lại, cảm thấy lòng êm ả dịu dàng, mọi lo âu đau đớn trong lòng hầu như tan biến khi nhìn thấy người bạn của một thời đi học, một thời mà những giấc mơ tròn đầy thắm thiết.

– Anh đóng ở đây à? Huyên hỏi.

– Vâng, đơn vị tôi về đóng ở đây vài tháng nay. Huyên vào chơi đã.

Huyên tạt vào, buổi chiều đi qua ngoài kia, trong khi câu chuyện hàn huyên không dứt giữa hai người bạn học. Hình ảnh mái trường xưa đầy rêu phong, những cây cau trong sân trường, những ngọn đồi đầy hoa sim tím phía sau đồng cỏ may sau lưng trường học. Hai người nhắc đến hai cây bàng liền cành nhau trên con đường dốc trước cửa trường đổ xuống thôn Gia Ninh, nơi họ ở trọ học. Ở đó, khi mùa trăng đến, ánh trăng loáng bạc trên những tàng lá to xòe rộng như những chiếc dù, che chở ngôi làng chìm ngủ trong bóng đêm yên tĩnh tràn đầy ơn phước, những cây cam, cây bưởi, mùi hoa thoáng động trong đêm.

Và giòng sông Ngàn Sâu chảy ngang qua thôn Gia Ninh, băng qua Chu Lễ xuôi về Châu Phong, Đức Thọ, thuận giòng trẩy đến Nam Đàn, Đô Lương, những bờ đê những nương dâu, câu hò tiếng hát đêm trăng lướt qua cánh rừng hoa trảo trắng muốt liêu trai. Biết bao địa danh thân thiết, biết bao khuôn mặt thầy học, bạn bè thân thuộc, luyến lưu, Phan và Huyên cùng lần lượt nhắc nhở, cùng chung một niềm hoài tưởng.

Huyên từ giã Phan ra về khi nắng xế nghiêng trải dài một làn gợn sóng lăn tăn trên sông xanh biếc ngoài kia.

Phan hỏi xin Huyên chiếc quai nón của nàng làm bằng một dải len màu hồng tết bím. Chàng nói để chàng thắt một cái nơ trên quyển vở của chàng và tết một sợi dây trên chiếc huy chương chiến sĩ của chàng. Huyên cười hồn nhiên, nàng tháo quai len màu hồng đưa cho Phan. Khi ra ngoài đường ngang qua một bụi chuối, Huyên dừng lại, nàng tước một sợi dây chuối đã gần khô, màu nâu xốp, cột vào chiếc nón bài thơ của nàng.

Huyên trở về làng, trên thuyền đi qua sông, nàng thấy mình đang đi ngược giòng thời gian. Cuối sông những lá hoa xưa đang phất phới vẫy gọi nàng từ một miền thiên đường bát ngát, ở đó có trường xưa, có thầy và bạn, có giòng sông, có những tàng cây to loáng ướt sương trăng, có một mùa hoa trảo trắng ngời, có những đồi sim ảo mộng.

Từ cõi miền đó, chiều nay khuôn mặt Phan tươi cười rạng rỡ đã đưa Huyên trở lại quê hương của tuổi thơ, giây phút thần tiên ngắn ngủi lãng quên đi thực tại đau buồn.




Chương 26

Trần cúi xuống, khuôn mặt người đàn bà tắm đẫm ánh trăng sáng ngời lên màu sữa, những giọt nước mắt lóng lánh đọng lại trên hàng mi khép hờ của nàng. Trần đặt môi lên giòng nước mắt nóng ấm, vị mặn chát thấm lan đầu lưỡi chàng. Trong một thoáng, hình ảnh người con gái bị hành hình trong khu rừng già ngày nào với đôi mắt khép kín còn hoen ngấn lệ bỗng hiện ra trong trí chàng.

Trần lắc đầu, như muốn xua đuổi cảm giác nôn nao bất ổn xâm chiếm tâm hồn, chàng cúi xuống tìm môi Hiếu, đôi môi nồng ấm, hơi thở dịu dàng mê man của người yêu làm chìm lắng xô dạt về chốn hư vô nào đó mọi ý tưởng đau thương xa xót. Những lá cỏ rung rinh lấp loáng quanh hai người. Một cơn gió lạ bay quanh suốt ngọn đồi, lang thang bay mãi lên cao, cuốn theo những dải mây trắng trôi đi hàng hàng lớp lớp. Trăng thượng tuần cũng lang thang đi ngược chiều giữa những đám mây bay, cô đơn và lạnh lẽo.

Trần nằm ngửa nhìn mây bay ngang trời có khi bóng trăng bị mây che khuất kéo lê những vệt mờ rối trên lưng đồi, thân thể Trần cũng bềnh bồng như muốn trôi đi. Chàng hỏi Hiếu ngồi yên lặng bên cạnh chàng:

– Hiếu có nhìn thấy trăng đang đi không?

Hiếu ngẩng nhìn trăng nói thật thà:

– Hồi còn bé tôi nhìn trăng bao giờ cũng thấy trăng đi, nhưng không hiểu sao lớn lên có khi tôi để ý nhìn mà không thấy trăng đi nữa, trăng cứ đứng yên giữa trời. Có lẽ ngày bé chưa biết buồn, còn đang vui nên thấy trăng đi, thấy ngày chóng qua, còn bây giờ đời đã buồn nên ngày tháng không đi, trăng cũng không đi.

Trần chép miệng thở ra:

– Ăn nói như thế làm gì mà người ta không mê.

Hiếu quay lại nhì Trần ngẩn ngơ:

– Tôi có nói gì đâu nào?

Trần vòng tay kéo mặt Hiếu xuống sát mặt mình, hôn dài trên khuôn mặt chìm trong bóng tối.

– Hiếu có biết không? Hiếu nói những câu mà Hiếu thường không biết là mình đã nói gì, Hiếu có biết như thế đáng yêu biết chừng nào không?

Hiếu để yên cho Trần hôn mình, đoạn nàng dịu dàng gỡ tay Trần ra, ngồi thẳng lên, giọng buồn bã:

– Không, tôi không thể biết được.

Trần nghiêng mình trên cỏ may, nhìn hình dáng Hiếu ngồi yên trên sườn đồi, in lên nền trời phía sau, Hiếu ngoảnh nhìn đi chỗ khác để tránh cái nhìn nồng nàn say đắm của Trần khiến nàng xôn xao không chịu nổi, nét bán diện của nàng trong bóng trăng mờ ảo có một vẻ trẻ thơ thanh thoát lạ lùng.

Trần buột miệng nói:

– Chả trách các cụ mình ngày xưa thường bảo “nhất vợ nhì trời” cũng phải.

Hiếu ngạc nhiên:

– Tại sao Trần lại bảo vậy?

Trần cười mơ hồ trong ánh trăng:

– Chứ không phải sao, này nhé, nằm như thế này mà nhìn lên thì trời ở trên kia xa quá, vợ thì ở ngay trước mặt, thế không phải là “nhất vợ nhì trời” thì là gì nào?

Thấy Trần dùng tiếng “vợ” để chỉ mình, Hiếu xúc động nghẹn ngào, nàng ngồi yên, nước mắt nàng lại trào ra. Trần kéo nàng sát vào người chàng, quàng tay ôm chặt lấy nàng, thì thào:

– Lại khóc rồi, xấu lắm, bộ không phải là vợ anh rồi đấy ư?

Giọng Hiếu chìm trong tiếng nấc:

– Tôi sợ, tôi sợ lắm.

– Em sợ gì?

– Tôi sợ làm khổ anh.

Trần bật ngồi dậy, chàng nghiêm giọng gọi:

– Hiếu, hãy quay lại nhìn anh đây này.

Hiếu sợ hãi quay lại nhìn Trần, nước mắt trên má nàng chảy thành vệt dài sáng ướt dưới trăng.

– Việc Đảng không chấp thuận cho anh cưới em không thành vấn đề. Kể từ nay, em là vợ của anh mãi mãi, từ nay chúng mình vui buồn có nhau, sống chết có nhau. Anh có trách nhiệm lo cho em và hai đứa bé, từ nay không có sức mạnh nào có thể chia rẽ anh và em được nữa, em hiểu chưa?

Hiếu cui cúi đầu, khổ sở:

– Nhưng tôi biết rõ rằng họ sẽ không để yên cho chúng ta đâu, Trần ơi, phần tôi thì không sao, tôi chịu khổ đã quen đi rồi, tôi chỉ sợ cho anh, tôi sợ lắm, nếu anh có bề gì, tôi không thể nào sống nổi.

Trần vuốt ve mái tóc Hiếu, giọng chàng dỗ dành thương cảm:

– Họ không làm gì anh đâu, em đừng lo. Hiện giờ cơ quan không giao công tác cho em nữa, như thế càng hay. Từ lâu anh đã có ý không muốn cho em nhận lãnh những nhiệm vụ nguy hiểm quá đối với một người đàn bà yếu đuối và còn có con dại như em, chưa biết làm thế nào thì bây giờ họ kiếm chuyện cho em nghỉ việc, như thế cũng lại là một dịp may. Từ nay em có thể rảnh rang để lo cho anh và hai con mà thôi. Mẹ và chị có gởi cho anh ít tiền và vàng, anh chẳng dùng đến, em giữ lấy để sống qua lúc này và buôn bán gì thêm. Rồi chúng mình sẽ liệu sau, bây giờ em đừng khóc nữa, chúng mình có rất ít thì giờ được gần bên nhau như thế này, ngày mai anh lại phải đi rồi, đừng để khi anh đi xa, cứ nghĩ đến em là thấy mặt em đầm đìa nước mắt, anh buồn. Anh chỉ còn góc núi này có em thương yêu và hai bé Hiền Hòa thơ dại. Em không thể biết được khi ở dưới kia, sát bên đồn địch, hay giữa mặt trận, hình ảnh em và hai đứa bé đã theo anh đi khắp mọi nơi như thế nào. Ừ, có thế chứ, em tươi lên như thế làm anh vui biết bao. Em không thể biết được em đẹp đến như thế nào Hiếu ạ.

Hiếu quay đi, giọng trách móc:

– Đừng nói thế, làm tôi thêm tủi, tôi mà đẹp cái nỗi gì.

– Không có người đàn bà nào xấu cả, và người đàn bà nào khi yêu cũng đẹp tuyệt vời, mà em thì yêu anh vô cùng, phải không Hiếu? Anh biết thế vì anh thấy em đẹp quá, nhất là đêm nay, tại sao em đẹp thế, hở em?

Hiếu cảm thấy nóng bừng hai má, cái nhìn nóng bỏng, giọng nói du dương của Trần như ru nàng trong một vùng khí hậu ấm áp chan hòa hạnh phúc vô biên. Bỗng dưng thẹn thùng như ngày mới lớn, nàng cuống quýt bảo Trần:

– Thôi đừng nói thế nữa, Trần kỳ cục lắm, ai lại đi yêu một người xấu xí và lớn tuổi hơn mình mà lại cứ bảo đẹp hoài. Trần hay nói nhảm lắm.

Hiếu nghiêng đầu nhìn Trần, vẻ tò mò:

– Tại sao, tại sao vậy hở Trần, tại sao lại đi yêu tôi, một người đàn bà xấu xí và lớn tuổi hơn Trần nhiều vậy?

Trần cười lớn, giọng ngạo nghễ:

– Em tưởng là em lớn hơn anh ư? Như vậy là em lầm. Để anh nhắc lại cho em nhớ kẻo em quên nhé. Ngày xưa chúng mình là Kim Đồng và Ngọc Nữ ở trên trời, hai đứa quấn quýt thương yêu nhau lắm, chạy nhảy nô đùa với nhau cả ngày. Một đêm trăng như đêm nay, hai chúng mình tò mò vén mây nhìn xuống trần gian, thấy trên một ngọn đồi bóng mây bay lướt thướt, cảnh trí thật huyền ảo, có hai người nam nữ yêu nhau ngồi dưới bóng trăng thủ thỉ với nhau những lời thật nồng nàn, tha thiết, cũng như chúng mình đêm nay vậy. Họ hôn nhau những cái hôn dài mê man tưởng như đất trời không còn nữa như thế này này. Ơ, đừng vùng vằng như thế chứ, để anh kể tiếp, thế rồi Kim Đồng Ngọc Nữ bỗng thấy động lòng trần tục, hai đứa nhìn nhau, cùng ngây ngất đọc thấy trong mắt nhau sự say đắm, ước muốn, nhìn quanh chúng thấy cảnh trời chán ngắt, buồn hiu. Hai đứa bèn rủ nhau xuống trần gian, hẹn sẽ yêu nhau làm vợ làm chồng. Nói là làm, Ngọc Nữ là con gái nên mau mắn lắm, cô bé cứ để chân trần phóng nhanh xuống trước, còn Kim Đồng là con trai nên chậm chạp, tính nết lại lo xa sợ đường trần đầy chông gai nên lo đi tìm giầy dép mang vào chân, cẩn thận rồi mới xuống sau, vì vậy Kim Đồng xuống trần chậm hơn Ngọc Nữ mười phút, thế nhưng mười phút trên trời bằng mười năm dưới trần thế. Vì thế nên khi xuống trần Kim Đồng bị sinh ra sau Ngọc Nữ mất mười năm, lạc nhau mất mấy mươi năm sau mới gặp lại nhau, bây giờ tìm gặp nhau rồi họ không bao giờ để mất nhau nữa, họ trở lại ngọn đồi tiền kiếp trong một đêm trăng để thực hiện mộng ước của họ khi ở trên trời. Em nhớ không em? Có đúng như vậy không em? Tại sao em rùng mình? Em lạnh phải không em? Ờ, sương xuống ẩm ướt cả vai em rồi đây này, chúng mình trở vào nhà em nhé, ừ sao em nhớ rõ ngọn đồi này mà đến đây làm nhà bên sườn đồi để chờ anh vậy? Cái gì xui khiến anh tìm đến đây để được gặp em? Phải có sao chứ phải không em? Chúng mình có tiền duyên với nhau mà. Em buồn vì em không được đẹp ư? Em không hiểu vì sao em không đẹp mà anh yêu ư? Bởi vì Trời giận sao em lại rủ anh xuống trần đấy, Trời thử thách xem chúng mình có yêu nhau thật không đấy. Nhưng anh nghĩ thế lại hay bởi vì chỉ có một mình Kim Đồng có thể nhận ra Ngọc Nữ mà thôi, người phàm mắt tục không ai nhìn ra được cả, như vậy chúng mình chỉ có thể là của nhau mà thôi. Ơ, anh đã ủ em trong tay anh kín như thế này mà em vẫn còn rùng mình, lại run nữa đây này, thôi để anh bế em vào nhà vậy. Có gì đâu nào, người em nhẹ quá, cứ như bế trẻ con ấy thôi.

Đêm nay vợ chồng mình thức suốt đêm với nhau em nhé. Trăng đã lặn sau đầu non kia rồi, em biết tại sao không? Trăng tủi thân đấy, vì cô đơn giữa trời, vì nhìn thấy hạnh phúc của chúng ta đó em. Biết đâu đêm nay trên trời cũng có một đôi Kim Đồng Ngọc Nữ vén mây nhìn trộm chúng mình mà mơ ước. Có lẽ bây giờ họ đang nương theo bóng trăng bay xuống trần thế rồi đó em, anh mong họ đang nắm tay nhau mà bay, đừng để lạc nhau lâu quá như chúng mình.

Em, hãy ôm anh thật chặt, như vậy đó, em có ấm không em? Thế này thì mãi mãi chúng mình sẽ không bao giờ lạnh nữa, không bao giờ lạnh nữa, phải không em?




Chương 27

Trong góc quán, Trần ngồi thẳng, yên lặng, mắt đỏ ngầu, điếu thuốc trên tay cháy gần chạm ngón trỏ, chàng vẫn không động đậy. Cốc cà phê còn lại một chút đen sánh dưới đáy, nguội lạnh, hờ hững như quang cảnh đêm tàn trong quán nhỏ.

Ngọn đèn dầu khô cạn, một chút lửa yếu ớt đậu lại trên cái tim đèn gầy guộc, lu mờ như chỉ chực bùng lên rồi tắt ngấm. Chiếc bàn đặt giữa quán, ngọn đèn được khêu sáng suốt đêm, ở đó có hai người cán bộ bày ra một cỗ cờ tướng, họ đánh với nhau suốt đêm trong yên lặng, thỉnh thoảng họ xuýt xoa tấm tắc khen nhau một nước cờ hay. Tiếng những quân cờ lách cách rời rạc trong đêm khuya. Sau mỗi ván cờ, những con cờ bị xáo trộn kêu rào rào, tim đèn lại được khêu lên cho thêm sáng, bình nước trà lại được nghiêng qua châm đầy hai chén nhỏ, họ vấn lại điếu thuốc, nói khẽ với nhau vài câu chuyện bâng quơ, rồi lại tiếp tục cúi xuống nghĩ ngợi trên cuộc cờ.

Chiếc bàn ở góc đối diện với bàn Trần có hai ba người gục đầu lên bàn ngủ gà ngủ gật, thỉnh thoảng một người lại ngóc đầu dậy ngơ ngác nhìn quanh với đôi mắt lạc lõng bất thiết rồi lại gục xuống ngủ lại.

Ở góc trong cùng có một người nằm trên chiếc ghế dài bằng gỗ dương, ngủ say sưa từ hồi tối, tiếng ngáy to đều đều như kéo gỗ.

Bên ngoài trời vẫn còn tối mờ mờ, bụi tre trước quán cựa mình kêu ken két, chòm tre xào xạc, những chiếc lá thuôn dài đu đưa trong bóng đêm ẩn hiện vài ánh sao yếu ớt đã bắt đầu nhòa nhạt. Có bóng người gánh hàng kẽo kẹt đi qua chiếc cầu bắc ngang qua lạch nước chảy qua trước quán phía bên kia đường. Không khí bên ngoài lùa vào quán qua chiếc cửa sổ ngay sau lưng Trần có chấn song bằng những mắt tre, nồng mùi từ con lạch trộn lẫn mùi sương đêm đầm đầm hơi giá lạnh.

Ngôi quán nằm ở chặng chót từ chiến khu đổ về mở ra nhưng lộ trình xuôi về những làng mạc đồng bằng hay những vùng phụ cận thành phố Huế. Thường thường những người cán bộ kháng chiến từ chiến khu về đến đây là trời đã tối, họ ngủ vạ vịt qua đêm trong quán để chờ sáng lại tiếp tục rẽ đi những nẻo đường khác nhau.

Vợ chồng người chủ quán đã dậy sau một hồi chợp mắt, có tiếng động sau bếp, từ tấm phên đan bằng những thanh nứa thưa thớt, chiếu hắt ra những tia sáng của bếp lửa hồng vừa nhóm. Mùi khói của loại cây chàm trổi nhóm bếp tỏa ra khắp quán một mùi thơm nồng hắc.

Tiết trời cuối hạ mang hương vị nồng nàn của cơn gió nam lùa tới từ những vườn cây trái chín đầy mật ngọt giao thoa với hơi thu e ấp tản mạn trong không gian khiến con người cảm thấy bứt rứt như thể có những nỗi u hoài đang bị lãng quên mà có cố gắng mấy cũng không thể nào nhớ ra được.

Tựa hồ trên những cánh đồng vàng óng chưa từng có dấu vết của súc vật hay của loài người đã lướt qua, tựa hồ tiếng côn trùng rì rào trong đêm dài mùa hạ chưa từng gặm nhấm tâm tư của lữ khách trong cơn chợt tỉnh chợt mê của đêm trường quán nhỏ.

Trần vẫn ngồi thẳng tắp trong chiếc bàn góc quán như thế không biết bao nhiêu lâu, điếu thuốc trên tay chàng rơi tàn lả tả xuống tập giấy trước mặt. Chàng đăm đăm nhìn ngọn đèn dầu sắp lụn với đôi mắt nhìn mà không trông thấy gì cả, những đường gân máu đỏ ngầu kéo chằng chịt trong đôi mắt chàng chiếu ngời lên một gợn sóng ẩn ức lung linh. Mãi cho đến khi đầu lửa đỏ của điếu thuốc cháy xuống nung bỏng da, Trần mới khẽ động ngón tay, di chuyển đầu lửa nhích ra một chút, chàng cúi xuống nhìn điếu thuốc trên tay mình một cách chăm chú, in thể đó là một vật lạ lùng lần đầu chàng mới trông thấy, khuôn mặt chàng chợt trở nên trầm lắng xa vời, chàng đưa điếu thuốc chỉ còn một mẩu ngắn lên môi, rít một hơi dài. Đốm lửa sáng ngời loe ra từ môi chàng theo bàn tay búng luôn xuống nền đất, chàng di một bàn chân lên điếu thuốc rồi để yên đó không buồn kéo chân về chỗ cũ. Chàng ngước lên buồn bã nhìn tập giấy với những hàng chi chít nhảy múa trước mặt chàng, chàng nghiêng đầu thổi những mẩu tàn thuốc rơi vương vãi trên mặt giấy. Chàng nhìn những hàng chữ của chàng trên đó, “Bản án,” danh từ ấy vang lên trong tiềm thức của chàng suốt đêm khi chàng nhìn tập giấy mang những lời lẽ thỉnh cầu xin rút lui ra khỏi Đảng của chàng. “Ra khỏi Đảng,” mấy chữ ấy làm tim chàng nhói buốt. “Bản án,” hai tiếng ấy lại nổi lên trong trí chàng, dữ dằn, hung bạo, như chiếc vồ đập mạnh vào đầu chàng. Quả vậy, với tập giấy gần sáu trang, chàng trình bày với Đảng tình tự đất nước của chàng với tình yêu con người khốn khổ trên quê hương xứ sở này, một tình tự đơn sơ thuần khiết khác biệt với chủ trương đường lối sắt máu của Đảng. Với ý thức đó chàng cho rằng sự có mặt của chàng trong hàng ngũ của Đảng không còn đem lại lợi ích gì cho Đảng nữa, những mâu thuẫn nội tâm sẽ giết dần mòn tình yêu của chàng đối với Đảng, do đó chàng nêu lên ý muốn cuối cùng của chàng xin Đảng chấp nhận cho chàng ra khỏi Đảng. Như vậy chàng vừa ký xong bản án tự lưu đày, hay tự xử thì cũng vậy.

Từ ngày dấn thân vào cuộc sống phong trần gian khổ này, Đảng trong tâm tư chàng như suối hiền, như bóng mát, đã biết bao lần chàng lặn ngụp trong ảo tưởng chói lòa đó mà khắc phục được bao cơn hiểm nghèo, qua khỏi những lúc chồn chân mỏi gối. Giờ đây, ánh hào quang lộng lẫy trong tâm hồn chàng đã vụt tắt, trung thực với chính mình và thương tiếc chút dư vang của tình yêu lý tưởng thần thánh đã đi qua, chàng không muốn bày trò dối trá. Lưu lại Đảng với một tấm lòng không còn như xưa nữa, với trái tim không còn đập những tiết điệu ấm áp mê say nữa, đó mới chính là điều ghê tởm. Nhưng cũng như khi hết yêu một người tình lòng không còn đam mê tha thiết nữa, nhưng sự dứt bỏ tránh sao cho khỏi đau đớn rã rời.

Cũng lạ lùng làm sao, bên sự nhói buốt đến tê dại cả toàn thân, tâm linh chàng bỗng nhiên nhẹ hẫng như vừa được giải thoát ra khỏi một sự băng hoại triền miên từ bao nhiêu năm tháng. Trong trạng thái trống rỗng đó, chàng nhận thức một cách rõ ràng rằng từ nay chàng chỉ có một mình, không còn đồng chí, không còn bạn bè, không còn một ngọn lửa nào có thể thắp sáng lại được nữa.

Huỳnh đã bị bắt, người bạn duy nhất vừa là cứu cánh của chàng trong những thao thức của nội tâm bị dằn vặt, là nguồn cội sức mạnh tinh thần bền bỉ chịu đựng của chàng, giờ đây không còn bên cạnh chàng nữa.

Huỳnh bị bắt sau khi đệ trình bản điều trần về chính sách cải cách ruộng đất lên cơ quan hữu quyền xin chuyển về cấp lãnh đạo trung ương. Khi nghe tin Huỳnh bị bắt, Trần lập tức tìm đến những đồng chí chỉ huy cao cấp có thẩm quyền để phản đối việc bắt giữ Huỳnh và xin trả lại tự do cho Huỳnh. Đề nghị của chàng bị từ chối, chàng được giải đáp cách dung dị rằng với bản điều trần đó, Huỳnh đã công khai chống lại đường lối của Đảng, thêm vào đó những bài thơ của Huỳnh đã gây xáo trộn tinh thần trong hàng ngũ bộ đội kháng chiến rất nhiều, rằng những hành động đó được xem như phản động, được tạo nên bởi một nguyên động lực nào đó người ta đang còn tìm hiểu. Có thể là do kẻ thù thúc đẩy, cũng có thể là do tinh thần hèn nhát khiếp nhược của đương sự, và để biết rõ căn do, người ta đã giao Huỳnh cho cơ quan chuyên môn để điều tra cho được rõ ràng.

Về thái độ phản đối và phẫn nộ của Trần, những đồng chí cao cấp khuyến cáo chàng không nên đặt tình cảm riêng tư lên trên đại cuộc và chính nghĩa.

Tiếp đó Đảng đề ra một cuộc học tập tại cơ quan Huỳnh để giải thích về việc tại sao bắt giữ và loại trừ Huỳnh ra khỏi hàng ngũ bộ đội kháng chiến. Trong những buổi học tập đó, những người có thiện cảm và hiểu biết Huỳnh đều im lìm thất sắc, không hề dám lên tiếng. Hoàng, Bửu, Hồ, Phong, không ai nói với ai, đều có cảm giác sợ hãi rùng rợn vô cùng. Từ đây họ đã hiểu rõ thêm con đường họ đang đi sẽ mở ra cho họ những ngõ ngách ranh giới nào. Trong nỗi hoang mang cùng cực đó, họ xòe rộng bàn tay, cúi tìm trên đó chút số phận của mình.

Dù là một đảng viên được ưu đãi, Trần cũng không thoát ra ngoài tâm trạng đó. Chàng không xin gặp Huỳnh vì chàng thừa biết sẽ bị từ chối. Chàng đau xót nhớ lại gần đây sức khỏe của Huỳnh càng ngày càng sa sút, bệnh tim làm cho tính tình anh càng thêm gắt gỏng, thêm vào đó những nỗi ưu tư phiền muộn khiến anh càng ngày càng thêm xơ xác. Vốn đã xuề xoà không hề chú ý đến phục sức bề ngoài, gần đây Huỳnh lại càng tệ hơn nữa, anh chẳng hề tắm rửa, thậm chí có những ngày anh không thiết rửa mặt đánh răng, râu tóc phủ kín cả mặt mày, áo quần đầy cáu ghét dơ bẩn. Trần cằn nhằn thì Huỳnh nói:

– Mày tính sống giữa thời buổi này, ở sạch làm gì cho uổng, phải ở bẩn mới hòa mình được với thứ người ngợm xung quanh chứ.

Trần đã đau khổ nên chàng hiểu và thương bạn vô cùng.

Trời trắng dần, ánh sáng nhợt nhạt len lách vào cửa sổ làm sáng dần từng góc tối, từng xó xỉnh nghèo nàn trơ trụi của cái quán. Thốt nhiên Trần nhớ lại hình ảnh một buổi sáng trên chuyến đò ngang qua bến Phu Văn Lâu. Hôm ấy chàng đến bến đò trễ hơn thường lệ. Vào tiết lập xuân, mặt trời chưa ló dạng, ngày bắt đầu với một ánh sáng buồn bã, người con gái chàng yêu đã ngồi đó, trên mạn thuyền nàng nhìn chàng bằng một thoáng nhìn mừng đón thầm lặng rồi e thẹn cúi xuống quay sang chỗ khác, chiếc nón bài thơ và mái tóc rũ xuống che khuất một bên mặt. Chừng đó đủ cho lòng Trần rộn ràng ngây ngất. Chàng bước lên đò,

chiếc đò khẽ tròng trành, khi cúi xuống tìm chỗ ngồi, chàng nhìn thấy một con cá giếc thật to, có lẽ người lái đò mua lại của người đơm cá đâu đó ven sông. Con cá bị một sợi dây lạt xỏ qua mang cột vào một cái cọc bằng gỗ bên dưới đáy thuyền, cả mình con cá mẩy mập với những miếng vẩy trắng ngời được thả ngập xuống vũng nước đọng giữa lòng thuyền. Cái miệng nó há căng tròn trịa vì sợi dây cứng xâu qua mang, nó cố gắng ngáp ngáp, thỉnh thoảng lại quẫy mình một cái. Khi đã ngồi xuống mạn thuyền gần như đối diện với người thiếu nữ, Trần vẫn cúi nhìn con cá đang chao qua chao lại trong vũng nước theo đà tròng trành của chiếc đò với những cái ngáp khó khăn tội nghiệp. Vô tình tia nhìn của chàng di chuyển sang một bên, bắt gặp đôi bàn chân của người thiếu nữ đặt trên sàn thuyền lát gỗ cạnh đấy, đôi bàn chân như hai búp hồng xinh đẹp với hai gót mịn đỏ như thoa son vận trong đôi guốc mộc lên nước bóng như hai phiến ngà. Vẻ đẹp bất ngờ khám phá làm tim Trần đột nhiên thắt lại, không hiểu vì đâu chàng chợt thấy ngậm ngùi. Trần ngạc nhiên không hiểu có sự liên hệ nào giữa hình ảnh con cá đang ngáp hấp hối kia trong những miếng vẩy sáng ngời như nạm bạc và đôi bàn chân xinh đẹp của người yêu làm cho nỗi xúc động của chàng mang một sắc thái bùi ngùi xa xót đến như vậy.

Giờ đây chàng nhớ lại rõ ràng như đang sống trong cảnh mộng xưa, cảm giác ngậm ngùi vẫn còn nguyên vẹn. Cái gì đã khiến cho chàng trong giây phút bải hoải trầm trọng giữa hủy diệt và tái sinh, lại nhớ đến con cá lập lờ nằm ngang ngáp những cái ngáp đáng thương hấp hối dưới lòng thuyền và đôi bàn chân hồng mịn của người con gái chàng yêu đang dẫm những bước lên ngôi thần nữ trong lòng chàng?

Có một con ve không biết ở đâu đến đậu trên mắt tre trên song cửa sổ, mình mẩy xù xì, hai con mắt tròn xanh như hai viên ngọc bích, đôi cánh trong suốt dài thượt khẽ rung động kêu rọt rẹt. Trần quay lại nhìn, chàng chiếu đôi mắt mệt nhọc vì mất ngủ nhìn con ve một cách khó khăn. Con ve có một vẻ quen thuộc như nó đến đây từ mùa hạ nào rực rỡ vàng tươi của những năm mà tình đời hãy còn nguyên vẹn. Những buổi trưa hè trong vườn cây xanh mát ran ran tiếng ve kêu bên giòng sông hiền hòa lấp lánh của khung trời Vĩ Dạ. Sao con ve lại rời bỏ khu vườn mùa hạ đó để đến đây làm chi kìa? Như để trả lời câu hỏi đang trì chậm lướt qua trong trí óc mụ mẫm nặng nề của chàng, con ve lại khẽ rung động đôi cánh kêu rọt rẹt rồi thình lình nó vụt bay ra ngoài trời khuất dạng. Trần gật gù ra dáng tán thành, “Ừ, phải đó, với đôi cánh mỏng trong suốt như thế kia, có khó gì việc bay trở về tìm lại khu vườn mùa hạ cũ, ở đó ve có thể thoát xác để trở lại hình thái của buổi ban sơ tao ngộ với cuộc đời, và ở đó, ve có thể mơ dài qua hết kiếp phù sinh. Chỉ có ta đành ngồi lại nhìn tất cả đi qua, không phương níu giữ, chỉ có ta không có đôi cánh mỏng huyền diệu trong suốt có thể trông xuyên qua cả cõi trời, chỉ có ta lủi thủi độc hành tới một mùa đông trắng xóa. Con đường ta đi cực kỳ vắng vẻ, nhưng không sao, hành trang ta mang theo trong trái tim dày dạn đau thương này là chút lửa chắt chiu gìn giữ từ mùa hạ cũ. Với chút lửa đó ta hồn nhiên đặt lên canh bài định mệnh, ở đó những quân bài là những thân phận bọt bèo rẻ rúng trên xứ sở lầm than yêu dấu này. Ôi, sao ta nhìn thấy những khuôn mặt của người Việt Nam sao mà khắc khoải đau buồn, những khuôn mặt thảy thảy mang hình tượng mẹ ta, bạn ta, người yêu ta, vợ ta, con ta chưa ra đời và cả chính ta đây nữa; sao những khuôn mặt đều dúm dó biến dạng đến như thế kia nhỉ? Ôi, ta đã làm gì, các đồng chí của ta đã làm gì, Đảng của ta đã làm gì trên nước non này, những ngày đã qua, những ngày sắp tới?”




Chương 28

Chưa bao giờ anh cảm thấy được gần gũi em bằng lúc này Lan ạ. Chưa bao giờ tâm trí anh, thể xác anh được hoàn toàn giao phó cho em như bây giờ.

Khi anh hồi tỉnh lại trong nhà giam này, hình ảnh em chập chờn lãng đãng trong mù sương trước mắt, anh đưa tay lên dụi mắt để được nhìn thấy rõ em hơn, cánh tay anh nhức nhối, nứt nẻ, thâm đen, ai đã làm gì nó nhỉ? Anh mơ hồ tự hỏi, người anh đau đớn như dần, mỗi cử động như xé gan xé ruột. Dần dần anh nhớ lại, những trận mưa đòn, những câu hỏi dồn dập, người ta hỏi anh những gì nhỉ, để anh nhớ rõ hơn một tí nữa, à, đại khái là những câu hỏi như thế này, “ai đã xúi giục anh phản bội?” “anh nhận lệnh của ai để hành động chống lại nhân dân, chống lại vô sản?” Ai nhỉ, anh ngơ ngác nhìn quanh, mãi không nhận diện được một khuôn mặt nào quen thuộc đã xúi giục anh làm như thế. Nhưng anh không ngơ ngác được lâu, cơn mưa roi cá đuối trút xuống thân thể anh, từng làn roi rứt đi từng miếng da miếng thịt của anh. Anh ngất đi, tỉnh lại rồi lại ngất đi, da thịt anh rên lên từng cơn quằn quại rách nát, trong cơn ngất lịm, anh thấy em hiện ra, nét mặt em khoan hòa thuần hậu, em cúi xuống, môi em hồng mịn ấm áp đặt lên những lằn roi, anh nghe những vết thương tê điếng, một cảm giác rùng rợn thống khoái vô biên.

Khi anh tỉnh lại, người ta hỏi anh có oán hận vì bị tra tấn không, nếu được thoát ra có đi theo Tây ngay tức khắc để trả thù kháng chiến không? Mắt anh, mũi anh, miệng anh sưng vếu, anh có muốn trả lời cũng không cử động nổi những thớ thịt trên môi trên mặt, anh đành nghĩ thầm vậy. Anh nghĩ rằng tại sao lại oán hận nhỉ, tại sao lại cứ phải oán hận mới được, mà oán hận ai, những kẻ tra tấn đánh đập anh ư? Họ biết gì về những việc họ đã làm? Vả chăng anh có phàn nàn gì nữa? Thân xác này từ khi xa mẹ, xa em, đã phó mặc cho Tổ quốc, Tổ quốc có giằng xé nó ra, giựt đứt đi của nó từng mảnh da mảnh thịt, máu anh đó, thịt da anh đó, vung vãi trên nền đất quê hương này, ấm êm như trẻ thơ được đặt về lòng mẹ, có gì khiến anh ân hận đâu em?

Bây giờ anh đã khá thong thả, người ta đã để yên cho anh, người ta giao phó cho anh giấy bút để viết bản kiểm thảo, tự thú. Anh đang thành khẩn thú nhận đây, anh xin thú với em, Mặc Lan yêu dấu, hãy nghe đây, anh yêu em, suốt đời anh chỉ yêu có một mình em, vì em anh đi giành lại quê hương đất nước, vì em anh đã yêu thương loài người, vì em mà anh xin loài người đừng dựng nên thù hận, vì em anh vui lòng hứng chịu vết đạn của ngoại nhân xuyên qua thân thể cũng như những ngọn roi ác liệt của quê hương xé rách thịt da. Vì em tất cả đó em.

Giờ đây anh mang thân tù tội, chốn giam cầm này không có tường đá, không có cửa sổ chấn song sắt như những nhà lao mà em có thể tưởng tượng được. Ở đây đã có rừng già vây bọc, địa thế cheo leo hiểm trở, người ta không cần canh giữ gắt gao, anh và các bạn tù có thể đi lại, xuống suối giặt giũ, vào rừng chặt tre nứa vác về dựng lên những cái lều được xem như nhà giam của mình vậy, vót những cái chông nhọn hoắc để làm những cái bẫy, những hầm chông vây hãm lấy khu rừng mình sống ở đó. Em thấy không, tuyệt diệu đấy chứ, ngục thất của quê hương mà mình tự dựng lên để giam giữ mình trong đó chứ đã ai giam được mình, em thấy không em?

Em ơi, có những buổi chiều anh ngồi trên phiến đá của anh ở góc sân trại giam, nhìn về phía mặt trời sắp lặn sau rặng núi sẫm màu phương Tây. Cái bóng của anh nghiêng dần cho đến khi nó đổ dài về phía sau lưng anh, có khi quay lại anh giật mình thảng thốt tưởng như có ai đang rình rập phía sau. Anh ngồi như thế cho đến khi mặt trời lặn hẳn, sương và gió núi thấm vào tận xương da anh, lạnh tê buốt dại cả toàn thân, anh vẫn ngồi yên như thế cho đến khi nghe tiếng cồng tập họp vang lên âm u rền rĩ lướt qua những căn lều tăm tối, chấm dứt những giờ sám hối trong ngày.

Từ khi anh đến đây, qua những thủ tục đầu tiên, những trận đòn chí tử, những cơn chết đi sống lại, bây giờ người ta bằng lòng cho anh sống để xét mình và sám hối. Người ta đưa anh ra góc rừng chỉ cho anh một phiến đá, mỗi buổi chiều sau một ngày làm việc lao nhọc trong rừng, anh phải đến ngồi trên phiến đá đó nhìn đăm đăm về phía mặt trời sắp lặn để kiểm điểm lại những tội lỗi của mình đã phạm đối với nhân dân, với Tổ quốc bởi vì anh đã hành động trái với chính nghĩa. Từ đây anh sẽ ngồi ở đó chiều này qua chiều khác cho đến khi nào anh giác ngộ, thấy rõ được sự lầm lỗi của anh, ăn năn hối cải viết tờ kiểm thảo thú nhận sự phản bội của mình.

Phiến đá của anh nó mòn trơn nhẵn bóng, gần như lên nước em ạ, phải nhìn thấy nó tận mắt thì mới được. Những bạn tù của anh đều có mỗi người một phiến đá như vậy, chúng nó đều giống nhau đến ngộ nghĩnh, mặc cho hình thù vóc vạc to nhỏ tròn dài có khác nhau. Có lẽ vì nó vốn chân phương là đá. Hồi nhỏ anh đã yêu đá vô cùng, con sông Rù Rì nhỏ bé chạy vắt qua cánh đồng của quê anh, anh còn nhớ cứ hễ mùa mưa đến đá mất tăm mất tích, nhưng khi đến mùa nắng, nước sông rút cạn là đá lũ lượt trồi lên.

Ngày còn bé anh thường ra sông chơi, lũ đá lớn đá bé quen thuộc với anh biết bao, mỗi phiến đều có một tiểu sử oanh liệt và chúng đều lần lượt kể lại cho anh nghe, bằng lối nói chuyện riêng của đá.

Hỏi có chi tuyệt vời cho bằng dĩ vãng của đá? Hỏi có chi gây xúc động sâu xa cho bằng biết từ đỉnh non nào đá đã từ đó lang thang qua biết ngàn vạn năm nào để đến tận lòng sông của quê hương anh, để cùng một đứa bé trai ngây dại là anh nô đùa với nhau qua những mùa hạ biếc.

Em biết không, khi mùa mưa tới, mực nước dâng cao, đá lặng lẽ nằm yên trong lòng nước, đã có lần nhớ quá, anh lặn xuống thăm đá, anh bơi chuyền từ phiến này qua phiến khác, sờ mó vuốt ve từng phiến, trong bóng sáng lờ mờ long lanh của lòng sông quê hương anh, đá và anh đã cho nhau những giây phút thần tiên diễm ảo tuyệt vời.

Anh lớn lên, say mê những chân trời mới lạ, mỏi mê theo đuổi hào quang không tưởng của cuộc đời, quên bẵng mất những người bạn lặng lẽ của thời thơ ấu. Có ngờ đâu đến ngày nay, khi nước non chưa tàn cuộc, khi đã thành kẻ bị bỏ rơi ở xó rừng tù tội này, đá vẫn một lòng chung thủy có mặt bên anh, khi anh đã trắng tay, người bạn xưa lại đến với anh. Lạ một điều là anh chỉ tìm lại mối tình đá xưa kia khi lòng anh đã hoàn toàn thanh thản như đứa bé ngày xưa chưa biết âu lo chi đến cuộc đời.

Phiến đá của anh bây giờ cho anh biết thật nhiều điều bí ẩn và nó biết trấn an anh một cách thần tình em ạ. Nó nói với anh về những người đã ngồi đây trước anh, về mặt trời mỗi chiều lặn dần sau rặng núi phương Tây kia, về sự câm nín vĩ đại của vô cùng. Dần dà nó biến nỗi khắc khoải đau thương trong anh trở thành mối hân hoan mới mẻ kỳ lạ.

Những cán bộ phụ trách cái Trung tâm Cải hối Tây Hạ này họ sành kỹ thuật tâm lý lắm em ạ, họ biết rõ tác dụng của cái cảnh mặt trời sắp lặn, bóng tối rình rập úp chụp xuống thân phận con người, cái cảnh thê lương của gió núi mây ngàn khi hoàng hôn xuống, những kẻ bị giam cầm rồi cũng đến buông xuôi tất cả, cam tâm đầu hàng số phận trong tâm trạng “nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng” này.

Riêng anh, nhờ nghe được lời của đá, cho nên anh hiểu được ý nghĩa chân xác của mặt trời buổi chiều vàng vọt lặn xuống phương Tây để sớm mai lại mọc lên rực rỡ từ phương Đông như thế nào.

Từ đó anh biết rằng bình minh lộng lẫy cũng như tà huy ảm đạm, nỗi vui sướng cũng như niềm đau khổ, mọi thứ đều dàn trải ra đó, đều có sẵn ở đó, nhưng tất cả chỉ là hư vô, tất cả đều chỉ có vẻ có thật khi có mặt của con người.

Không có con người tất cả đều trở thành vô nghĩa, vậy thì chính con người thật quý hóa biết bao, em ơi, đá khôn ngoan đã dạy anh như thế, nhờ đó anh yêu sự sống vô cùng, anh không còn mỏi mê chán chường nữa, lòng anh bừng lên một niềm ham sống vô bờ. Lạ lùng thay, chưa bao giờ anh cảm thấy tự do như lúc này, những buồn thương giận ghét thường tình không còn ràng buộc anh được nữa. Trước kia anh luôn luôn bị dằn vặt ray rứt, những đau đớn âu lo đầy rẫy trong cuộc đời vây hãm lấy anh, có lúc làm cho anh không còn nhớ ra em nữa. Bây giờ thì anh rảnh rang, chúng ta bắt đầu lại tất cả nghe em. Nay anh chặt cây đã thạo không khác một tiều phu. Anh làm việc quần quật từ sáng tinh sương cho đến xế chiều không có thì giờ nghĩ ngợi lôi thôi nữa. Ấy cũng hay, cái chính sách lao động nó cũng được việc đấy em ạ.

Em, bây giờ ý nghĩa duy nhất của cuộc đời đối với anh là, miễn là anh còn sống, miễn là một ngày nào đó anh sẽ trở về được với em. Phép lạ sẽ xảy ra khi anh tìm lại được em, anh sẽ đưa em trở về giòng sông khô cạn của quê anh, sẽ giới thiệu với em từng viên đá của thiên đường tuổi thơ, sẽ cùng em trở lại góc rừng u tối này, sẽ chỉ cho em phiến đá bầu bạn, phiến đá ân nhân của những tháng ngày đau thương tù tội.

Mai sau các con của chúng ta sẽ truy nguyên từ phiến đá này, xây lên đền đài kỷ niệm, sẽ biến góc rừng Tây Hạ này thành chốn danh lam, những máu thịt vô danh vung vãi trên mảnh đất tù này sẽ về nguồn về cội.

Em ơi, mai sau những vết thương xưa sẽ liền da liền thịt, vì chúng mình đã tìm lại được nhau, anh sẽ làm thơ ca tụng nhan sắc em như tự bao giờ.”




Chương 29

Lan, anh chưa có án nhưng Lương bạn anh thì đã có án em ạ. Án tử hình. Em nghe những tiếng ấy có thấy gì không em? Tính mạng của một người được định đoạt trong ba tiếng ghê rợn ấy. Em thấy đó, làm sao không thiết tha với sự sống cho được.

Từ ngày anh vào đây, gặp Lương, Lương và anh cùng ở với nhau một căn lều, Lương có vợ và hai con hiện ở trong thành phố Huế em ạ. Bây giờ thì anh ấy không còn ở chung với anh nữa, người ta giam riêng người có án tử hình qua một khu khác. Tuy nhiên Lương vẫn còn một tia hy vọng, con vật nào mà lại không hy vọng hở em? Ấy là sáng nay khi nghe tuyên đọc cái án tử hình, sau đó người ta cho Lương ký vào lá đơn xin Chủ tịch ân xá. Lúc đó anh nhìn thấy một tia sáng bừng lên trên khuôn mặt đã tắt hết sinh khí của Lương; khi người ta áp giải Lương đi qua khu đặc biệt, Lương còn ngoái lại nhìn anh, anh còn thấy tia sáng ấy rỡ ràng trong đáy mắt Lương, em ơi, tia sáng ấy nói với anh nhiều hơn tất cả những lời than van rên siết trong cuộc đời này. Nó làm tim anh nhói buốt như muốn ngừng đập.

Anh chưa nói với em về Lương nhỉ, anh sắp nói đây, để em có thể biết vì sao chút tia sáng nhỏ nhoi trong mắt người bạn có án tử hình đã làm cho anh nhức buốt đau đớn hơn tất cả những lần anh bị tra tấn đánh đập.

Anh không nhớ rõ đã quen Lương từ hồi nào, có lẽ vì vẻ hiền lành mơ mộng của Lương đã làm cho sự có mặt của anh ấy trở nên mờ nhạt đối với mọi người chung quanh. Từ khi ra kháng chiến, anh thường đi công tác qua lại vùng Lương ở nên thỉnh thoảng anh thường tạt lại thăm Lương.

Trong thời kỳ này anh có dịp gần gũi Lương hơn và cũng lạ lùng về Lương nhiều hơn. Anh không hiểu nổi tại sao lại có thể có người mang một tấm lòng tin yêu cuộc đời một cách tuyệt đối và hồn nhiên đến như vậy. Thật thế, mặc những gập ghềnh bất ổn mà Lương luôn nhìn thấy một cách sáng suốt, Lương vẫn tiếp tục yêu thương cuộc đời và tin tưởng tương lai một cách vô điều kiện, không hề trả giá bao giờ. Là một loại người trí thức hoàn toàn thiên về văn học, triết lý và những mộng mị tương tư, Lương không có một ý thức nào về chính trị, nhưng khi cuộc kháng chiến trên quê hương ta bắt đầu, Lương cho rằng bổn phận của mình là phải có mặt. Thế là anh ấy ở lại quê làng tình nguyện tham gia kháng chiến. Người ta giao cho anh ấy dạy bình dân học vụ và trông coi trường tiểu học, anh chấp nhận công việc một cách vui vẻ, tận tụy với trách nhiệm của mình như vốn anh ấy sinh ra để làm một hương sư vậy.

Mặc dù thế người ta cũng không thể dung cho Lương yên ổn trong phận sự đó, bởi vì Lương là thành phần địa chủ phú hào, đã thế Lương lại mắc thêm cái tội thương nhớ vợ con, ưa đi lang thang mơ mộng đầu ghềnh cuối bãi, vì thế cho nên Lương đã bị bắt. Lan đừng hỏi anh tại sao, tại sao người ta lại có thể bị bắt bớ giam cầm vì những tội không phải là tội như vậy.

Anh không thể giải thích cho em hiểu được đâu, em quá đẹp, quá thần tiên để có thể hiểu nổi những điều như vậy. Để anh kể tiếp, dù sao cũng phải có một cớ hợp lý để bắt người chứ, vậy thì người ta cho Lương một cái tội, tội làm Việt gian, ghê không em, Việt gian, quá nặng nề em ạ, cái tội ấy thật quá ê chề nhục nhã. Anh những tưởng Lương đau đớn vô cùng vì cái danh từ Việt gian ấy, nhưng lạ lùng thay, khi gặp Lương ở đây, anh ngạc nhiên nhìn thấy vẻ mặt Lương yên hàn vô sự một cách vô lý. Khi nói đến nỗi oan ức của Lương, Lương chỉ nói thật giản dị:

– À, chẳng qua họ lầm, người ta ai chả có lúc lầm lẫn, mọi việc rồi sẽ sáng tỏ chứ. Dù sao tôi cũng mong mọi việc điều tra chóng xong để trở về trước ngày kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám để tổ chức lễ kỷ niệm cho học trò của tôi kẻo tôi vắng mặt cũng khá lâu rồi, công việc ở trường chả biết ra sao.

Lan ơi, còn có niềm tin yêu nào trong cuộc đời này thiết tha hơn câu nói của người bạn đáng thương của anh nữa không? Đất nước ơi, còn những đứa con chân tình như thế sao đến nỗi đọa đày? Anh không nói thêm với Lương về việc đó nữa, anh nghĩ nếu Lương đã tin tưởng như thế, những ngày tháng tù đày gian lao ở đây cũng bớt khắc nghiệt đi nhiều.

Lan ơi, Lương đã nằm xuống vĩnh viễn rồi Lan ạ. Anh đã nghĩ phải cố gắng lắm mới nghĩ được rằng Lương đã chết, và nghĩ như thế rồi, anh cảm thấy một ý niệm thờ ơ khôn tả đối với mọi thứ còn sót lại trên đời này. Thoạt tiên anh muốn thét lên, nhưng tiếng kêu thất thanh của anh tan loãng mất hút vào cõi hư vô, xác bạn bây giờ đã nằm yên trong lòng đất. Có còn gì đáng gào lên nữa đâu. Anh nhớ lại hình như lâu lắm rồi, những chuyện đã xảy ra, như trong cơn mộng dữ nào từ tiền kiếp.

Trời tháng bảy ở đây thấy rõ hơi thu hơn bất cứ nơi nào khác, sáng ra thấy lòng suối sâu hơn, sương lạnh bốc lên từ đó dày hơn, nắng quái buổi chiều nhuộm vàng cây lá sẫm màu hơn, bất chợt có lúc một luồng ớn lạnh chạy suốt qua tâm hồn giá buốt của anh. Hôm qua Lương đi rồi, anh ngủ trong căn lều của anh có một mình, con trai như anh mà đêm đầu tiên không có Lương, anh nhìn chỗ nằm của Lương bên cạnh anh, cứ nghĩ như có một thây ma đang nằm đó, anh không ngớt lập đi lập lại trong trí rằng Lương không chết, Lương sẽ không bao giờ chết, Lương sẽ được ân xá. Làm sao một người có thể cam tâm chết được khi có một người vợ và hai đứa con ngây thơ vô tội đang chờ. Thế nhưng cái chết cứ ám ảnh anh làm cả người anh căng thẳng, có lúc rã rời, nhức nhối. Quá nửa đêm anh thấy trong người gây gây sốt, tâm trí chập chờn nửa tỉnh nửa mê. Anh nghe như có tiếng người lao xao, tiếng chân người chạy rầm rập, như có nhiều bóng đuốc lướt ngang qua lều anh, cơn mê nhận chìm anh xuống, người anh nặng như chì, không cử động nổi. Mắt anh có lúc lóa lên, có lúc tối sầm hẳn lại, không thể nào mở mắt ra được nữa, cuối cùng anh nghe những tiếng súng nổ mơ hồ như vang vọng từ nơi nào xa xôi lắm, như từ một kiếp khác. Anh thiếp đi không biết bao nhiêu lâu, cho đến khi nghe tiếng người giữ tù mở khóa cửa lều nghe loảng xoảng, anh vụt thức dậy, người anh mệt lả, miệng nhạt thếch, cơn sốt còn váng vất. Người coi tù càu nhàu:

– Dậy đi, nhanh lên cho, ngủ kỹ thế ông, dậy đi, lo đi chôn xác tù vượt ngục hồi hôm chứ.

Anh chợt thấy người tỉnh hẳn, nhẹ tênh, anh nhỏm dậy thật nhanh, lòng thầm mong linh tính mình bị lầm lạc, trong khi tim anh thắt lại, đập thình thịch từng hồi chuông báo nguy: “Tù vượt ngục? Ai, ai thế?”

– Còn ai vào đấy nữa, thằng Lương vẫn ở đây với anh đấy thôi. Anh làm bộ không biết gì à, cả đêm nó báo hại chúng tôi phải vất vả, cả trại báo động xôn xao cả lên, bộ đội đuổi theo chặn đúng phóc con đường lòng chảo dọc suối đi về phía bắc. Đ.M. thằng nào vượt ngục cũng mưu toan chạy về phía đó, giặc nó chờ sẵn, nó đón rước mà. Hừm, cứ tưởng bở, cho chết, đáng kiếp cái thứ đồ Việt gian.

Anh đứng lên, loạng choạng suýt ngã, anh lảo đảo bước ra ngoài, qua mặt người coi ngục, bỏ hắn lại đó với câu chửi thề treo trên đôi môi xám xịt.

Trời chưa sáng, bóng tối còn vương vất trên những bụi cây đám cỏ, anh nhìn thấy một đám tù nhân tập hợp ở cuối sân trại, dưới ánh đuốc lập lòa. Anh đi về phía đó, có tiếng người nói oang oang:

– Đáng lẽ chúng tôi quăng xác nó xuống lòng khe cho quạ mổ diều tha cho rồi, nhưng thượng cấp ra lệnh mang nó về cho các anh trông thấy đó làm gương. Đấy, chống con mắt lên mà nhìn, đừng anh nào làm chúng tôi nhọc xác nữa đấy nhé, khôn hồn cho nó, để bắn chết chứ bắt sống về thì có mà nhừ đòn. Rừng Tây Hạ này đừng có hòng mà trốn, trại cải hối này còn kiên cố hơn tường đá cửa sắt nữa kia, có ngu thì mới tưởng bở là trốn được.

Anh tiến đến gần giọng nói và ánh đuốc, Lương nằm dài trên đất, một manh chiếu rách đắp sơ sài trên thi thể. Anh đứng lặng, người anh trống rỗng, vô hồn, không còn cảm giác gì nữa. Một người bạn tù biết chúng anh là bạn thân, có nhã ý cúi xuống lật manh chiếu ra đưa cao bó đuốc soi sáng mặt Lương. Anh cúi xuống, ánh lửa bập bùng trên khuôn mặt người chết gây một cảm giác sống động. Đột nhiên anh đọc thấy trên khuôn mặt đó những chuỗi ngày bình yên thơ mộng xa xưa, từ đứa bé tươi hồng thả một cánh diều dài suốt một dải chiều quê mênh mông thoáng gió đến gã thư sinh say ngủ trong khoang thuyền đầy trăng lồng lộng tiếng hò mái nhì vời vợi qua phá Tam Giang không bờ không bến. Bây giờ là đây, cái thân xác cứng đờ im lìm nơi đất tù hoang dã, anh quỳ bên Lương, nắm chặt bàn tay cứng lạnh, hơi lạnh này lạ nhỉ, thuở nhỏ anh nghe người ta nói cái lạnh của người chết không giống một hơi lạnh nào khác, có lẽ là như thế này đây. Bây giờ còn chi mà nghĩ nữa, Lan ơi, hãy đưa bàn tay của em cho anh nắm, một bàn tay ấm áp, mềm mại, một bàn tay sống.

Ôi, sự sống, phải nắm một bàn tay đã chết rồi mới biết được, đó là bàn tay của một kẻ lạ, không thể là bàn tay của người đã từng trò chuyện thân thiết, yêu thương trong cõi đời. Anh ngẩng lên nhìn quanh, họ đều đứng đó, những kẻ coi anh là thù, cũng như những người coi anh là bạn, họ đang còn những bàn tay ấm áp, những bàn tay thuận tiện cho cái siết chặt tay gắn bó, họ không là kẻ lạ, có lẽ lần lượt, một ngày nào đó, sẽ đến phiên từng người, nhưng bây giờ thì họ vẫn còn ở đó.

Lan ơi, hòn đất cuối cùng vừa lấp kín thi hài bạn anh thì ánh mặt trời vừa ló dạng, ánh vàng rực rỡ dát lên từng đám cây rừng, từng phiến đá xanh. Mặt trời soi sáng những khuôn mặt võ vàng vì sợ hãi, vì thiếu ăn thiếu ngủ, vì lao nhọc của những người tù đi chôn xác chết, trong đó có anh. Anh nhìn nắm đất đỏ dậy vừa được vun lên, ngu ngơ thầm nghĩ: “Lẽ ra ánh mặt trời này còn chiếu sáng khuôn mặt của Lương, dù chỉ một ngày, dù chỉ một ngày nữa thôi.”




Chương 30

Cơn sốt hành hạ Huỳnh suốt tuần lễ cho đến khi Trần tới.

Lúc ấy vào khoảng bốn giờ chiều, Huỳnh ngồi co ro run rẩy trên phiến đá của anh sưởi chút nắng chiều hanh hao cố gắng chống chỏi với cơn rét run từng hồi từ trong ruột gan, trong từng thớ thịt. Huỳnh cúi gập người lại, hai tay ôm chặt lấy hai vai gầy, ngực gò xuống, lưng nhô lên hai cục xương nhọn hoắc. Chợt anh nghe như có tiếng ai gọi tên mình, anh ngẩng lên, Trần đang lừng khừng bước tới, dáng thẳng tắp, nụ cười khinh bạc trên môi, người coi tù đi kèm một bên.

Huỳnh ngẩn ngơ hỏi:

– Mày đến thăm tao đấy à? Sao mày biết tao đau mà đến?

Trần chưa kịp đáp, người coi tù đã thúc vào lưng Trần, gắt gỏng:

– Chỗ của anh ở đằng kia kìa, không phải lúc trò chuyện lôi thôi.

Trần thản nhiên đi thẳng, ngang qua mặt Huỳnh chàng vừa đi vừa nói nhưng không quay lại:

– Mày hãy yên chí, tao đã xin ở cùng lều với mày, để tao săn sóc mày đau, bằng lòng chứ?

Cơn rét tự nhiên biến mất, Huỳnh rướn người nhìn theo Trần, anh không hiểu người anh lúc ấy ra sao nữa, nói là ngao ngán buồn phiền thì đúng hơn. Nhưng dù sao, từ ngày vào tù đã hai tháng cho đến nay, chưa bao giờ Huỳnh cảm thấy lòng mình dễ chịu bằng chiều nay khi nhìn thấy bạn đi qua trước mặt mình.

Tuy nhiên Huỳnh cũng bực dọc lẩm bẩm: “Nó lại làm cái trò gì để đến nỗi bị người ta tống vào đây đó không biết.”

Huỳnh nhìn theo Trần và người coi tù đi đến góc sân tận đằng xa, anh buột miệng nguyền rủa một câu khi thấy người coi tù chỉ cho Trần phiến đá còn bỏ trống của Lương. Trần tiến đến phiến đá, đứng lại ngắm nghía một chút, đoạn chàng xoay người lại, nói một câu gì đó với người coi tù, chàng đĩnh đạc ngồi xuống phiến đá, nhẹ đưa tay phẩy một chút bụi dính trên ống quần, cử chỉ đẹp đẽ uy nghi như chàng đang chiếm ngự một ngai vàng, đưa mắt lơ đãng nhìn bao quát cả một vùng rừng núi. Người coi tù đứng tần ngần một lát, rồi bỏ đi. Quanh sân trại, rải rác mười lăm người tù ngồi trên những phiến đá, ngẩng mặt nhìn ra thung lũng phía Tây, mặt trời chiều nghiêng dần chiếu lên những gương mặt ốm o buồn thảm một ánh sáng bềnh bồng hiu hắt.

Căn lều nhỏ bé của Huỳnh trống trải quá chừng, vách lều bằng những thanh nan đan lại thưa thớt, bên ngoài có ráp thêm một lớp tranh mỏng. Mái cũng lợp bằng tranh có nhiều chỗ lộ thiên, nằm trên chiếc giường ghép bằng những thanh nứa có thể nhìn thấy những ngôi sao lấp lánh qua những khe hở của mái tranh. Đêm nghe tiếng rừng mênh mông vây bọc trại giam Tây Hạ, chung quanh được rào bằng những thân cây vạt nhọn trồng san sát nhau chạy dọc từ cánh rừng lồ ô vòng quanh thung lũng phía Tây cho tới giáp bờ suối. Trăng thật sáng, mênh mang ngoài kia, gió núi nổi lên, cây rừng xào xạc, tiếng một con mang lạc bầy đi lang thang giữa rừng khuya, kêu lên những tiếng rã rời thê thiết.

Người coi tù vừa khóa xong cửa lều, tiếng chân y bỏ đi nghe xa dần, Huỳnh chỉ lên chiếc giường độc nhất giữa lều bảo Trần:

– Mày nằm đây, còn tao nằm chỗ này.

Trần sờ tay lên trán Huỳnh, trán anh nóng như lửa, Trần lo ngại hỏi:

– Họ có cho mày uống thuốc gì chưa?

– Từ hôm tao bị sốt, mỗi sáng chúng nó phát cho tao hai viên gì trắng trắng, tao độ chừng là ký ninh. Vào những buổi sáng thì tao vẫn tỉnh táo, vẫn được cắt đi chặt cây như thường.

– Mày bị sốt bao nhiêu ngày rồi?

– Một tuần đúng, kể từ ngày Lương mất.

– Cách đây năm ngày tao còn gặp vợ Lương, chị ấy về hỏi thăm tin tức chồng, Huyên đưa chị ấy đi tìm tao, trông chị ấy tiều tụy quá, chị ấy nhờ tao lo cho Lương được tha. Tội nghiệp cho chị, trông mong vào một thằng hết thời, rách nát như tao.

– Thế chị ấy chưa biết tin Lương chết à?

– Chưa, làm sao mà biết được, tao cũng vậy, hôm qua đến đây mới biết đấy chứ.

– Thế mày bảo chị ấy sao?

– Thì còn bảo sao hơn, tao khuyên chị ấy nên trở về Huế lo cho hai con kẻo ở lâu ngoài này không yên ổn chút nào, nhất là trong hoàn cảnh của chị. Tao bảo rằng Lương không hề gì đâu, người ta chỉ giữ một thời gian cho rõ trắng đen rồi sẽ trở về, rằng tao sẽ cố tìm đủ mọi cách để giúp Lương, lo cho Lương ra khỏi tù.

Trần ngừng lại, cười khẩy:

– Mày biết không, tao nói cứ như thật vậy, chả vậy mà chị ấy có vẻ tin tao lắm, yên tâm ra mặt. Chỉ có Huyên nó biết là tao nói dối, cô bé nhìn tao đăm đăm, đôi mắt có vẻ tội nghiệp cho tao phải nói dối. Tao phớt tỉnh, nói thao thao bất tuyệt, miễn sao cho chị ấy yên lòng chịu trở về Huế thì thôi.

Huỳnh thở ra: – Rồi sao nữa?

– Chị ấy bằng lòng trở về Huế ngay hôm sau chứ sao nữa. Khi hai người ra về, Huyên nói cảm ơn tao và nhờ tao nếu gặp mày nói giùm cô ấy gởi lời thăm mày.

– Không biết cô bé có được yên ổn với chúng nó không, mày không hỏi à?

– Có, cô ấy cho biết cũng không ổn thỏa gì lắm, nhưng chắc không sao. “Em con gái mà, lại còn nhỏ nữa, họ đâu thèm bắt làm gì,” cô ấy bảo thế.

– Ờ, thì cũng mong được như vậy, chứ biết sao bây giờ.

– Có một điều lạ lắm mày ạ.

– Cái gì lạ?

– Là đôi mắt của Huyên giống hệt đôi mắt của người tao yêu trên chuyến đò ngang hồi ở Huế ấy.

– Thế à, hay là mày cảm Huyên rồi đó?

– Nói bậy, nó cũng như em mình vậy, vả chăng tao coi như có vợ rồi.

– Có vợ là có vợ chứ coi như là thế nào?

– Họ không cho tao cưới Hiếu thì chúng tao lấy nhau luôn, như thế cũng coi như vợ chồng chứ gì nữa. Tao đi tù phần tao sao cũng được, chỉ tội cho Hiếu bụng mang dạ chửa thôi.

Huỳnh nhỏm dậy:

– Lại còn cái chuyện đó nữa à?

Trần gật đầu: – Ừ, hai tháng rồi.

Huỳnh nằm vật xuống thở dài:

– Mày thật là chúa rắc rối, không hề bao giờ chịu yên cả, rồi sẽ ra sao đây? Đã vậy lại còn làm gì để chúng nó tống cổ vào đây vậy? Vào đây là cuộc đời kể như lúa rồi, mày biết quá đi rồi.

– Tao biết chứ, nhưng khó thể làm khác hơn được, biết sao bây giờ, chẳng thà vào đây để đỡ phải thấy nhiều chuyện còn hơn. Mà nào tao có làm gì cho cam, tao chỉ làm đơn xin ra khỏi Đảng, sau đó Đảng lập tức đình chỉ công tác của tao, tao tán thành, vui vẻ bàn giao công việc lại và về ở nhà với Hiếu, định phá rẫy trồng trọt sống qua ngày đấy chứ. Ấy thế mà họ chưa chịu, quyết định tống tao vào đây cho được. Ừ, thì vào tù, ở đâu thì cũng vậy. Khi công an đến bắt tao chúng nó chỉ bảo là có lệnh gọi thôi, tội nghiệp Hiếu chạy theo khóc lóc, tao sợ có hại cho cái thai, phải làm bộ giận dữ Hiếu mới đứng lại nhìn theo, bây giờ tao còn nghe văng vẳng tiếng Hiếu gọi làm tao chịu không nổi. Vào đây hôm qua chúng nó mới cho biết tao có tội liên lạc với địch, tao nghĩ mãi không ra chuyện gì cả, mãi sau chúng nó mới hài ra rằng tao về nhà cô Thị, tức là liên lạc với địch đó.

– Tại sao về nhà cô Thị là liên lạc với địch?

– Cách đây mười ngày tao về đồng bằng đến nhà cô Thị để hỏi tin nhà, đồng thời định xin mẹ tao gởi về ít tiền sống tạm qua ngày, phần Hiếu thai nghén đi lại khó khăn. Đến nơi thì mới biết cả nhà dọn lên ở hẳn trên Huế rồi, ông dượng tao rời bỏ vùng kháng chiến đưa gia đình về thành phố, người ta sắp biên chế ông và rục rịch đưa ông ra tố khổ vì ruộng đất của ông khá nhiều. Thế là ông già đành từ bỏ giấc mộng đem những ngày còn lại dâng cho Tổ quốc. Hừ, những ngày còn lại dâng cho Tổ quốc, đẹp đấy chứ mày nhỉ. Tội nghiệp ông già, tao còn nhớ mỗi lần gặp ông đi công tác trên đường núi, ông bị chứng suyễn kinh niên, cái thứ đó kỵ miền núi lắm, ông phải luôn luôn quấn quanh cổ một cái khăn lông to tổ bố, khuôn mặt tái mét, hai mắt thâm quầng, đường núi mưa trơn trợt, dượng tao phải chống gậy và mang bao nhiêu là thứ, ba lô, bị gạo, soong chảo, nom đến tội. Thôi thế cũng hay, từ nay ông có thể yên ổn tuổi già, đến tụi mình mà cũng bị xếp vào xó rừng này thì ông cụ lận đận cho lắm làm gì. Sau đó chán quá tao mới đi lang thang một lúc, trở về lại chỗ tao đóng lúc trước vừa gặp Huyên và vợ Lương đấy chứ. Tao trở lên núi hai ngày sau thì bị bắt. Họ bảo rằng tao về nhà cô Thị tức là liên lạc với địch. Gia đình cô Thị bây giờ là địch rồi đó.

– À, ra thế.

Huỳnh lặng yên hồi tưởng những ngày nằm dưỡng thương ở nhà người cô của Trần. Đó là những ngày êm dịu nhất trong đời sống kháng chiến của Huỳnh. Khi đã lành mạnh trở lại cuộc sống xuôi ngược đó đây, luôn luôn trong lòng Huỳnh vẫn nghĩ đó là nơi chốn để ghé về tìm lại chút bóng mát ân cần trìu mến. Nhưng bây giờ anh đã bị giam cầm, nơi chốn đó cũng không còn nữa. Đột nhiên Huỳnh rầu rĩ:

– Buồn quá mày nhỉ?

– Ừ, buồn.

– Tao thấy mày không có vẻ gì buồn cả.

– Bây giờ thì hết rồi, tao trống rỗng, chẳng buồn cũng chẳng vui gì ráo. Đau khổ nó cũng qua rồi, cái tột đỉnh của đau khổ là trống rỗng. Tao như thế từ khi quyết định xin ra khỏi Đảng, kể cũng khá thảnh thơi.

– Ừ, khá thảnh thơi đấy chứ, tụi nó chưa dần cho mày một trận nào ư, trông mày còn sắc quá.

– Ồ, tao được coi là khách quý ở đây mà, hôm qua khi áp giải tao đến đây, thằng giám thị của trung tâm có vẻ nể tao ra mặt, nó ân cần bảo tao: “Tôi được nghe tiếng anh đã lâu, không ngờ gặp anh trong hoàn cảnh này, anh sẽ được đối xử tử tế khi anh ở đây miễn là anh tôn trọng kỷ luật của trại đừng làm gì gây khó khăn cho công việc của chúng tôi, dù sao anh cũng đặc biệt hơn những người khác.”

Tao bảo tao không đòi hỏi được sung sướng hơn các anh em tù khác, rằng tao chỉ xin được ở chung với mày, “vì người bạn tôi hay ốm đau, tôi muốn ở gần để săn sóc nó,” tao bảo thế nó biết ngay là mày, nó bảo: “Anh Huỳnh đang bị sốt rét y sĩ cho biết anh ấy còn bị đau tim nặng, tôi đồng ý cho anh ở chung lều với anh Huỳnh.” Đó mày thấy chưa, dù sao mọi sự cũng chưa đến nỗi dở, tao với mày còn gặp lại nhau, còn đốt chung với nhau điếu thuốc này, mày thấy tao đi tù mà có vẻ vui hơn ở ngoài ư? Có lẽ thế thật, tao lúc này dễ dãi với hạnh phúc lắm mày ạ. Điếu thuốc ngon quá, nhất là trong hoàn cảnh này, còn đòi chi hơn nữa, hử, mày nghĩ còn đòi chi hơn nữa?

Huỳnh yên lặng, anh nghĩ mình không đòi chi cả, ngoại trừ một điều, điều đó ám ảnh Huỳnh từ ngày Lương mất, Huỳnh rất sợ chết, anh có thể nói trắng ra như thế, mọi người quanh anh đều có thể thấy rõ điều đó. Nhưng nếu phải chấp nhận cái chết anh bằng lòng chấp nhận nó đến từ trước mặt. Anh vô cùng ghê tởm và kinh hãi với ý nghĩ nó đến đàng sau lưng anh lúc nào không biết. Cái chết của Lương làm anh nghĩ đến thân phận của mình, các bạn tù và giờ đây lại thêm Trần là người bạn mà anh thương yêu hơn cả chính mình. Huỳnh nghiệm ra không có một ai đã đến đây mà được trở về cả, nghĩa là không ai thoát cả.

Sau ngày Lương mất, nhân một buổi đi chặt cây trong rừng, một người bạn tù đã tiết lộ cho Huỳnh biết sáng hôm sau khi Lương trốn khỏi trại giam và bị bắn chết, người ta thấy cửa phòng giam Lương không khóa, người coi ngục không bị sự trừng phạt nào về tội bất cẩn bỏ ngỏ cửa cho phạm nhân trốn ra khỏi trại. Người bạn tù kể cho Huỳnh nghe và kết luận:

– Chẳng qua người ta muốn gieo ý nghĩ tuyệt vọng cho Lương với cái án tử hình thúc đẩy Lương đi đến cái chỗ liều lĩnh đem thân vào chỗ chết. Họ muốn giết người và phủi tay, đổ tất phần lỗi về Lương, xem như bắt buộc họ phải giết Lương, thế thôi. Tội nghiệp Lương như con thú bị dồn đến đường cùng. Và chúng ta đây nữa, chúng ta cũng như những con thú đang trên đường chạy đến ngõ cụt, nhưng không biết dưới hình thức nào đây. Chẳng thà bắn ngay trước mặt sau khi tuyên cái án tử hình còn hơn, lại bày đặt ân xá với chẳng ân xá.

Huỳnh âm thầm nhớ lại những câu người bạn nói, anh cảm thấy thân thể rời rã. Bất giác Huỳnh trở mình, nắm chặt lấy bàn tay của Trần, Trần ngạc nhiên hỏi:

– Mày sao thế?

– Bàn tay của mày, tao muốn nắm lấy bàn tay của mày. – Huỳnh lẩm bẩm.

Trần nhỏm dậy, sờ trán Huỳnh lần nữa, chàng lo sợ:

– Mày nóng quá, bị mê sảng mất rồi.

– Không, không đâu, tao đang sốt, nóng lắm thật, nhưng tao không mê sảng đâu. Bàn tay mày mềm và ấm lắm, tao muốn nắm lấy nó thế thôi.

– Thằng này điên rồi, mày lảm nhảm gì thế, bàn tay tao làm sao?

– Có một lần, cũng như bây giờ, tao thèm nắm một bàn tay thật mềm, thật ấm, thèm đến điên cuồng. Mày chưa bao giờ cảm thấy thế sao? Bàn tay Lương hôm ấy cứng và lạnh vô cùng, vô cùng.

Trần siết chặt tay bạn, tay Huỳnh ướt đẫm mồ hôi, nóng hổi, giọng Trần thương cảm, dỗ dành:

– Bây giờ mày hãy ngủ đi, mày cần phải ngủ, có tao bên cạnh mày đây này, mày hãy nhớ như thế, hãy luôn luôn nhớ như thế mới được.




Chương 31

Hiếu run rẩy đứng nép vào gốc cây to trước cổng Trung tâm Cải hối Tây Hạ. Mưa to quá, mưa giăng kín bầu trời không có một góc nào sáng cả, Hiếu cố thu chiếc giỏ xách trên tay vào chiếc tơi lá để tránh những hạt mưa tới tấp chảy ròng ròng từ trên những tàng cây xuống người nàng. Thỉnh thoảng một tiếng sét xé không gian, chớp nhoáng sáng rực cả khu rừng, nước mưa thấm vào người nàng. Hiếu đứng đây từ sáng cho đến bây giờ đã xế chiều để chờ người ta cho phép Trần ra gặp mặt, người nàng ướt sũng, lạnh run.

Mưa không hề ngớt.

Hiếu vẫn kiên nhẫn chờ đợi, từ ba tháng Trần bị giam tại đây, chủ nhật nào Hiếu cũng đi thăm Trần để bới xách cho chàng. Nàng phải đi từ tờ mờ sáng đến gần trưa mới tới trại Tây Hạ, thường tù nhân được ra gặp thân nhân vào ngày chủ nhật, Hiếu đến nơi là có thể gặp Trần ngay, nhưng hôm nay người gác cổng bảo trong trại có cuộc học tập bất thường, cổng trại đóng chặt nên nàng phải chờ đợi.

Tháng chín trời mưa liên miên, đường núi nhẽo nhoẹt trơn trợt nên sự đi lại của Hiếu càng ngày càng khó khăn, nhất là bụng nàng đã to và nặng nề. Mỗi lần nàng đến với mái tóc ẩm ướt, với nụ cười yếu ớt chiếu sáng khuôn mặt xanh xao mệt nhọc, với giỏ đồ nặng trĩu trên tay là Trần đau đớn buồn phiền, chàng căn dặn nàng đừng đi lại thường như vậy nữa, nhưng rồi chủ nhật sau lại vẫn có nàng trong số những người đi thăm tù nhân như thường. Dù bận rộn buôn bán đến đâu, Hiếu không chịu bỏ lỡ một chuyến viếng thăm nào cả, nàng biết trong cơn khó khăn này Trần rất cần có nàng. Ngay cả Huỳnh cũng cảm động vui mừng mỗi khi thấy nàng. Hiếu đã lo lắng thuốc men cho Huỳnh trong những ngày Huỳnh bị sốt rét và nhờ đó Huỳnh đã dứt hẳn được những chuyến lên cơn.

Trần thường trỏ Huỳnh bảo Hiếu:

– Thằng Huỳnh nó sợ chết lắm, sợ khiếp đi lận, em có lo thì lo cho nó chứ anh như thế này, có gì mà em lo.

“Chàng không mạnh khỏe như chàng tưởng đâu,” Hiếu nghĩ thầm như thế nhưng không nói ra, nàng lo sợ thấy Trần ngày càng héo hắt, mặt chàng trắng xanh dễ sợ, đôi mắt chàng lơ đãng như có một sự trống vắng mênh mông. Thỉnh thoảng chàng chú mục nhìn nàng như cố tìm tòi một cái gì vừa bị mất mát. Từ lâu Hiếu đã quen chịu đựng cái nhìn của Trần, điều mà nàng không hề chịu được ở bất cứ ai khác. Mặc cảm mình xấu xí với đôi mắt lé khiến nàng rất sợ bị người khác nhìn lâu. Nhưng đối với Trần cái nhìn của chàng có một sức mạnh khiến nàng không hề nghĩ đến sự xấu xí của mình nữa, nàng để yên cho Trần nhìn nàng thật lâu trong những lúc yêu đương ân ái, những lúc chàng bực bội trách cứ nàng, cả những khi chàng trầm tư u uất.

Tình yêu của Trần đã mang lại cho nàng một cảm ứng thần thông để hiểu rằng dung nhan xấu xí của nàng không làm giảm bớt lòng chàng yêu thương nàng, trái lại nữa là khác, nàng hiểu rằng những thiệt thòi mà nàng hứng chịu trong cuộc đời chỉ làm tăng thêm lòng ưu ái sâu sắc trong lòng chàng. Từ ngày chàng bị giam giữ, mỗi lần gặp nhau chàng hay bất thần nhìn nàng thật lâu như thế. Tuy đã quen với tính tình đột biến của Trần, nhưng lòng nàng vẫn lo ngại vô cùng. Những lúc chàng vui vẻ hiền hòa, chàng có vẻ thơ trẻ biết bao, dịu dàng biết bao, nhìn Trần cười nói, Hiếu thấy lòng mình như mở hội, nàng tưởng như hai người đang có riêng biệt với nhau một cõi đời, không hề có chiến tranh, không hề có những đau thương ray rứt, không hề có trại giam Tây Hạ. Đó là những lúc chàng nói đến đứa con sắp sửa ra đời của hai người.

– Em phải giữ gìn đi đứng cẩn thận nghe em, bởi vì con chúng ta và thế hệ của nó sẽ tạo lập nên một thế giới mới, một thế giới không hận thù, không chia cách. Con chúng ta sẽ làm nổi điều đó, bởi vì tuy nó có một người cha vô tích sự như anh, nhưng nó có mẹ nó là em thật nhân ái, thật hiền hòa, thật thuần hậu. Con anh sẽ một đời làm thơ yêu Mẹ, yêu Người, yêu cả những con người bội bạc, độc ác, bất nhân, tàn nhẫn phũ phàng. Không, anh không nói mê đâu em, đừng nhìn anh bằng đôi mắt lo âu như thế. Em, hãy nghe anh nói và em hãy nhìn cho rõ, hãy nhìn bằng tim chứ không phải nhìn bằng mắt đâu em.

Này nhé, con chúng mình rồi sẽ ra đời vào một buổi sớm mai, nó cất tiếng khóc chào đời giữa muôn ngàn chim ca hót, giữa lúc nhân loại đang bừng tỉnh giấc nồng. Tiếng khóc của thằng bé vang vang, chà, chú bé tí teo mà tiếng khóc mới lạ lùng cho chớ. Em có thấy lạ lùng không? Nó khóc như thể tình yêu của cả nhân loại này không đủ để làm yên lòng nó, như nắng hồng rực rỡ ngoài kia không đủ làm ấm hình hài nhỏ bé của nó, như góp hết trăng sao trong vũ trụ này không đủ thắp sáng mơ ước mai sau của nó. Mà nó mới xinh làm sao, em thấy không? Tóc nó như tơ lưa thưa có vài sợi óng nuột, trán nó rộng và cao vút, đôi mắt nó sáng rực mới tinh khôi, mũi nó thon và cao đấy chứ em, ai bảo dân da vàng thì mũi tẹt, ăn nói thật hồ đồ, à mà màu đỏ môi con mình mới lạ chứ em, nó chói rạng như luôn luôn có nắng mai chiếu lên đó, con chúng mình nó xinh đẹp như vậy đó em, em nghĩ coi có sá gì cái thân anh tù tội đâu em, anh còn có thể chờ đợi, còn có quyền mơ ước thật nhiều mà em.

Đấy, chàng ăn nói như vậy đó, giọng chàng thật du dương đầm ấm, nàng nghe say mê không biết bao nhiêu lần, và lần nào nàng cũng bị lạc vào một cõi mông lung nào đó không có lối ra.

Hiếu đưa tay vuốt nước mưa chảy ròng ròng trên mặt, mưa thế này biết bao giờ cho ngớt. Nàng không hy vọng có thể gặp được Trần hôm nay, đã chiều quá rồi, những người đến thăm thân nhân đã lần lượt ra về, Hiếu nghĩ đến đường về mà thấy nản lòng. Nàng phải băng qua khỏi cánh rừng trước khi trời đổ tối, phải lần qua một chiếc cầu bắt ngang con suối đổ về cuối thôn Mai Lĩnh, chiếc cầu thật cheo leo, vỏn vẹn một thân cây ngã dài từ bờ suối bên này bắt sang bờ bên kia, phía trên có tay vịn bằng một thân cây nhỏ hơn được nối liền hai bên bờ bằng những khúc cây gác tréo, người đi đường vịn vào đó mà đi trên thân cây cầu lâu ngày nên tróc vỏ trơn tuột. Mỗi lần đi thăm Trần, Hiếu phải vất vả lắm mới một mình lần qua chiếc cầu với cái giỏ nặng trong tay.

Hiếu cúi đầu, nhìn nước mưa xẻ con đường thành nhiều rãnh nước chảy băng băng như những con thác nhỏ. Nước mưa rơi trên mặt nước nổi lên những chiếc bong bóng ngũ sắc, thoắt tan đi, rồi thoắt hiện ra, những chiếc bong bóng mưa làm mặt đất như sủi bọt. Hiếu nghĩ thầm: “Mưa như thế này chắc còn lâu lắm.” Nàng nhìn về phía trại giam, cửa nẻo vào trại đóng im ỉm, nàng nhìn quanh, khu rừng bây giờ hoàn toàn vắng vẻ, chỉ còn lại mình nàng và cơn mưa như trút nước, không thể biết bây giờ là mấy giờ chiều, áo quần nàng ướt sũng dán sát vào người, nàng lạnh cóng, cố cắn chặt răng mà vẫn run cầm cập, tê buốt cả toàn thân. Cái thai trong bụng nàng chợt cựa quậy thật mạnh khiến nàng xây xẩm mặt mày, nàng cố gắng đứng tựa vào thân cây, cánh tay nàng bỗng rã rời, nàng không buồn nhấc tay lên vuốt nước mưa chảy ròng ròng trên mặt nữa. Chợt nàng thảng thốt buông rơi giỏ đồ trên tay xuống đất, nàng cúi gập mình lại, một cơn đau lạ lùng xoáy thẳng vào ngực nàng khiến nàng nghẹt thở, nàng lảo đảo bước tới vài bước, cơn đau như xé lại tiếp theo, lần này dữ dội gấp mấy lần trước, như có một con bạch tuộc cuốn tất cả gan ruột nàng dâng lên thắt chặt lấy tim. Nàng ngã vật xuống vũng nước mưa trộn màu đất sét đỏ au. Trước khi ngất đi, qua màn nước mưa chảy tràn qua đôi mắt, nàng còn thấy lờ mờ một cái bong bóng mưa trong suốt trôi lại gần mặt nàng, nó to dần, to dần, rồi úp chụp lấy nàng.

Khi Hiếu tỉnh lại, nàng thấy mình được quấn trong một chiếc khăn khô ấm bên cạnh một đống lửa thật to cháy rần rật. Trần ngồi bên cạnh nàng, chàng ủ hai bàn tay lạnh ngắt của nàng trong hai bàn tay ấm áp của chàng, mắt chàng đăm chiêu lo lắng. Thấy động dưới chân, Hiếu nhìn xuống, nàng thấy Huỳnh đang hơ tay lên lửa cho thật nóng đoạn chà xát hai bàn chân của nàng thật mạnh, mùi dầu khuynh diệp nồng hắc cả căn lều.

Thấy nàng mở mắt, Trần mừng rỡ, chàng la to:

– Hiếu tỉnh rồi, Hiếu, Hiếu ơi, có phải em tỉnh rồi đấy không?

Hiếu yếu đuối gật đầu, người nàng bải hoải, không cử động nổi, Trần ôm choàng lấy nàng, chàng úp mặt vào mặt nàng, lặng đi một lúc lâu, Hiếu nghe giòng nước mắt nóng ấm trên mặt chàng, chảy qua má nàng, người nàng chợt rung động, một nguồn sinh lực mới mẻ chạy suốt châu thân, nàng nhấc tay lên thấy nhẹ hẫng, vuốt ve mái tóc bù rối của Trần. Trần ngước lên, mắt chàng ướt đẫm nhưng sáng rực, chàng lẩm bẩm: “Tạ ơn Trời, xin tạ ơn Trời, nàng không chết, nàng không thể chết.” Chợt chàng la to:

– Em đừng chết, nghe em.

Nụ cười yếu đuối thoáng trên môi Hiếu, nàng lại gật đầu, đôi mắt nàng nhìn Trần tỏ vẻ âu yếm hân hoan.

Trần lại la to:

– Không, em nói đi, hãy nói cho anh nghe, em không chết chứ.

– Vâng, em không chết, không bao giờ chết được.

Tiếng nói của Hiếu bật ra, gọn và rõ ràng từng tiếng một, như tiếng học trò trả bài. Trần tỏ vẻ hài lòng, chàng lại lẩm bẩm: “Ừ, có thế chứ.”

Huỳnh cũng vui mừng, chàng nhẹ nhàng đắp chăn kín hai chân của Hiếu, lặng lẽ đi pha sữa vào cái chén bằng đất nung mang lại:

– Chị gắng uống tí sữa cho nó tỉnh táo nào, chị bị thấm lạnh nên bị ngất đi thôi chứ không sao đâu, cái thằng Trần thật ngu, chết thế nào được mà chết.

Trần đỡ Hiếu dậy ngồi tựa vào người chàng, cầm chén sữa nâng niu kề vào miệng Hiếu, nàng uống từng hớp nhỏ, lửa cháy to làm cho người nàng nóng đều, nàng bàng hoàng tưởng như mình nằm mê, nàng không thể ngờ được trong hoàn cảnh này mà nàng có thể được ở bên cạnh Trần trong căn lều giam này. Trời ngoài kia đã nhá nhem tối, cơn mưa vẫn ào ào không dứt, tiếng người qua lại xôn xao ngoài sân trại lẫn trong tiếng mưa rơi khiến Hiếu cau mày, lo lắng, nàng tỏ vẻ áy náy không yên. Trần hiểu ý, dịu dàng nói:

– Không sao đâu, em cứ yên tâm, em uống thêm một chút nữa rồi nằm nghỉ, anh đã xin ban Giám đốc cho phép em ở lại với anh đêm nay rồi.

Tiếng cồng tập họp tù nhân vang lên cuối trại rền vang qua tiếng mưa rào rào. Huỳnh đứng dậy, làu nhàu trong miệng những tiếng gì không rõ, đoạn đẩy cửa bước ra ngoài, Hiếu nhìn Trần:

– Anh không đi với anh Huỳnh à?

– Không, anh đã xin được miễn sinh hoạt tối nay để ở lại săn sóc em rồi.

– Anh đưa em vào đây từ bao giờ?

Trần rùng mình như chợt nhớ ra một điều gì thật ghê gớm, chàng cúi ghì sát Hiếu vào trong lòng, chàng bắt đầu kể:

– Học tập xong, chúng anh giải tán ra sân đã năm giờ chiều. Hôm nay có phái đoàn Việt Bắc vào phổ biến tin tức chiến thắng Cao Bắc Lạng, suốt ngày anh và các bạn tù phải ngồi yên nghe cán bộ nói mãi về thành tích chiến thắng của bộ đội ta cũng như những thắng lợi về các cuộc đấu tố tiêu diệt giai cấp địa chủ ở Việt Bắc. Dù sao anh cũng biết ơn họ, vì chính nhờ phái đoàn cán bộ này khi ra về họ mới phát giác ra em đang nằm bất tỉnh trên vũng nước mưa trước cổng trại. Nếu không có mấy người đó ra về thì buổi chiều gần tối trời mưa không ai ra khỏi trại làm gì, chắc em nằm chết cóng ngoài trời đêm nay luôn; khi mang em vào đây, anh thay áo quần cho em, quấn chăn, đốt lửa lên, em vẫn bằn bặt thiếp đi không biết gì cả. Y tá của trại có tiêm cho em một mũi, giọt cho em mấy giọt thuốc gì đó, em cựa quậy, mở mắt ra một chút rồi lại mê trở lại. Trời ơi anh không dám nghĩ là em có thể đi luôn, chao ôi, em ơi, nếu em có mệnh hệ nào thì anh biết sống sao đây.

Trần đặt Hiếu nằm xuống, nâng niu gượng nhẹ như một vật quý giá mỏng manh nhất:

– Em nằm yên, nghỉ một tí nhé.

Hiếu ngoan ngoãn gật đầu, nhìn Trần đăm đăm không dứt bằng đôi mắt tật nguyền buồn bã của nàng. Trần mang chén sữa Hiếu uống được lưng nửa để ở góc bếp, bếp là ba hòn đá chụm lại ở góc lều để nấu nước khi cần. Chàng bỏ thêm củi vào đống lửa yên lặng nghe mưa rơi trên mái lều, đôi mắt chàng chìm đắm vào một vùng u tối. Hình ảnh Hiếu khi chiều hiện lên rõ rệt trong trí chàng, những người bạn tù mang nàng vào trại, khuôn mặt trắng bệt lấm láp bùn đất, miệng nàng khẽ hé mở như một tiếng van xin mơ hồ, hai mắt nhắm nghiền ướt đẫm, mái tóc dài xõa ra bết lại rũ xuống lòng thòng nhỏ giọt nước mưa, áo quần sũng nước dính bết vào người làm nổi lên cái bụng có thai căng phồng, tròn trĩnh; khi nhìn cái bụng đột nhiên một ý tưởng xẹt qua đầu Trần khiến tim chàng nhói lên sợ hãi. Chàng thấy hình thù cái bụng chửa của người yêu trông như một nấm mộ nhỏ. Giờ đây ý nghĩ ấy lại trở lại với chàng, như một tương quan kỳ bí về sự sinh và tử. Tại sao lại có cái hình thức giống nhau giữa con người khi sắp sinh ra được che chở bằng cái bụng của người mẹ trong hình thái một cái bầu tròn hình bán nguyệt với con người khi đi vào lòng đất được đánh dấu bằng một cái gò nổi cao lên cũng giống một cái hình bán nguyệt hay dưới bất cứ hình thức nào thì cũng thế. Những điều ấy nói gì đây, nó chứng tỏ gì trong cái khôn cùng của đời sống này? Trần cúi đầu, lấy hai tay đỡ vầng trán mệt mỏi của chàng, chàng đã lo sợ đặt tay lên bụng Hiếu biết bao nhiêu lần, khi nàng còn mê man bất tỉnh, chàng vẫn nghe có dấu hiệu của sự sống cựa quậy nhè nhẹ dưới làn da bụng của nàng, không biết đứa bé có sao không, có bị ảnh hưởng cơn đau lạnh của mẹ nó không? Tự nhiên chàng thấy tràn ngập một nỗi xót xa thương yêu vô cùng đứa con chưa ra đời của chàng. Chưa chi nó đã chia sẻ đau thương với cha mẹ nó ngay khi chưa biết mặt cuộc đời. Rồi đây nó sẽ ra sao, khi cha thì tù tội, lạc lõng, mẹ thì yếu đuối, cô đơn? Nó sẽ ra sao khi sinh ra trên xứ sở ngùn ngụt căm thù và lòng người ngăn cách này?

Trần buồn rầu nhìn về phía Hiếu nằm trên giường trong chiếc chăn mỏng quấn lấy người, nàng yếu đuối, tội nghiệp biết bao, giờ này nàng còn có chàng bên cạnh, nhưng ngày mai, và những ngày sau nữa, nàng không có ai, không còn có chàng, trong những giây phút nguy nan như thế này, cả khi nàng sinh nở, rồi sẽ ra sao đây.

Trong khi đó, chàng vẫn ở lại đây, hai tay trống trơn, bình sinh trắng toát.




Chương 32

Huỳnh trở lại, cái tơi lá ướt nước chảy ròng ròng xuống nền đất, chàng đặt trước mặt Trần một gói cơm trộn sắn màu xám ngoét và một con cá mắm khô quắt đen sì:

– Ăn đi, nhà bếp nó cho lấy phần mày, cũng khá tốt đấy, ăn đi mày, cả ngày đói khát ngồi nghe giảng chiến thắng Cao Bắc Lạng trong khi bị cầm tù chưa đủ, tối lại cho ăn bữa cơm chết toi này xong là bắt họp kiểm thảo tư tưởng, hỏi cả ngày học tập tin chiến thắng ai có ý nghĩ gì hãy khai ra. Tao khai ngay là tao mệt mỏi, chỉ muốn ngủ, thế là cán bộ chủ tịch buổi họp lạnh nhạt nhìn tao bằng cặp mắt trắng dã của nó, và bảo: “Được lắm, vậy cho anh về lều đi ngủ.” Tao chỉ mong có thế, tao đứng dậy đi liền một mạch ra nhà bếp xin cơm cho mày rồi về đây.

Trần cau mày:

– Mày chọc chúng nó làm gì, lại thêm rắc rối chứ có ích gì đâu.

Huỳnh không trả lời; chàng đến gần giường Hiếu nằm, đặt tay lên trán Hiếu; thấy mái tóc Hiếu còn ẩm ướt, Huỳnh kêu lên:

– Thằng này thật không biết gì cả, sẵn lửa sao không hong tóc cho chị cho khô, để ướt như thế này nó thấm vào đầu không tốt.

Trần nghe lời, chàng đỡ đầu Hiếu gối lên đùi chàng, xõa mớ tóc dài của nàng ra trước ngọn lửa, chàng thong thả gỡ những lọn tóc ướt của nàng bằng cái lược thưa, buổi chiều khi người ta đưa nàng vào trại, mưa từ ngoài rừng cho đến căn lều này đã gội đi nước bùn đất dính trên tóc nàng, nên bây giờ được hong khô bên lửa, tóc nàng đã trở nên sạch sẽ óng ả đen mượt.

Như sực nhớ ra Hiếu nói với Trần:

– Sáng nay trên đường đến đây tôi có gặp anh Hòa, anh Thành và cô Huyên. Họ hỏi thăm anh và anh Huỳnh, họ có viết thơ cho hai anh nữa, ở trong túi áo của tôi đó, chắc bị ướt cả.

Trần quay lại bảo Huỳnh:

– Mày xem trong túi áo của Hiếu hong ở kia xem có thư không?

Huỳnh làm theo Trần bảo, lấy trong áo Hiếu ra ba cái thư, chàng mang lại bên lửa, định mở ra xem, bỗng chàng lim dim mắt có dáng tư lự:

– Tao nghĩ thật bậy quá mày ạ.

– Cái gì bậy?

– Thằng Hòa, thằng Thành dám viết thăm tụi mình cũng được đi, tụi nó đang có thế lực, người ta đang còn cần đến chúng nó, còn Huyên mà cũng cả gan bày đặt viết thư thăm tù Tây Hạ thì con bé quả thật là liều hết sức. Ai khiến nó không biết, thăm với viếng làm gì, đáng đánh đòn con bé về tội này.

Huỳnh lật ngắm nhìn phong thư nhỏ nhắn nhất:

– Lại ẩu nữa rồi, mày xem, bé Huyên nó đề bì thư như thế này: “Kính gởi anh Huỳnh và anh Trần, tù Văn Nghệ, trại Tây Hạ.” Có chết không chứ.

Trần bật cười:

– Đúng là chó con không biết sợ cọp, nó ngộ nghĩnh thế, chắc cũng chẳng ai làm gì nó đâu, mày đừng lo.

Huỳnh lần lượt bóc mấy cái thư, chàng vừa đọc vừa nói với Trần:

– Huyên đang lên tỉnh xin giấy tờ để đi học lại, có thể là sẽ vào Khu Năm, cô bé bảo có nhiều trở ngại nhưng cô bé cũng có nhiều hy vọng rời khỏi Thừa Thiên vào đầu năm tới, cô bé hỏi hai anh ở trong ấy có hay ngâm thơ với nhau không, nếu có thì vẫn vui như thường, ở ngoài này buồn và vắng lắm, mong hai anh chóng được ra để mọi người gặp lại. Còn thư của Thành và Hòa chúng nó bảo anh em ở ngoài đang lo vận động cho chúng mình ra khỏi đây, chỉ còn chờ thời gian, chúng nó chúc mạnh khỏe, chúc sáng tác thật nhiều, dặn chúng mình đừng quên Tổ quốc và nhân dân đang chờ đợi. Hừ, chờ đợi, chờ đợi những gì nhỉ, chờ những chiếc pháo bông chớp lòa rực rỡ cả bầu trời để rồi tắt ngấm, trả đêm về lại cho đêm chứ gì. Tụi thằng Thành thằng Hòa coi cũng khá mà bây giờ cũng dùng sáo ngữ với anh em. Nhưng thôi, cứ kể thì cũng có tình lắm mới dám viết cho mình trong lúc này.

– Chậc, mày khó tính vừa chứ, chúng nó không dùng sáo ngữ ấy thì làm sao mà viết được thư cho chúng mình?

– Ờ, cũng có lý.

– Huyên nó bảo ở ngoài buồn và vắng lắm, là sao nhỉ?

Hiếu cựa quậy trong lòng Trần, nàng trở mình nằm nghiêng, ngước mặt về phía Huỳnh:

– Cô Huyên bảo tôi nói lại với hai anh là ở ngoài ấy các anh Hoàng, Bửu, Hồ, Phong đã bỏ về thành hết rồi, không còn ai ở lại nữa.

Hiếu ngừng một chút để thở rồi nói tiếp:

– Mà không còn ai thật, dạo này họ về thành nhiều quá, anh Hoài cũng mang vợ ra Huế tháng trước, họ đi về ngã Cầu Đôi, anh Tùng về ngã làng Nguyệt, chú Thảo đi qua Tây Hồ lên Huế, còn nhiều nhiều lắm, tôi nhớ không xiết, toàn những người khá cả, thật là uổng.

Trần cười buồn cúi hôn lên mắt Hiếu:

– Thật uổng, thật uổng là sao em? Như Trần của em và thằng Huỳnh đó, bây giờ mang thân tù tội thế này có uổng không em?

– Ai cũng cảm thấy uổng cả đấy chứ, không biết sao họ để vậy. Anh Thành nói với tôi là anh em bộ đội bên trung đoàn xin cấp trên thả hai anh ra, họ đòi sự có mặt của hai anh bên cạnh họ. Ấy thế là những người chủ xướng một số thì bị đổi đi ra mặt trận Quảng Bình, còn số khác thì khôn hồn đi luôn về thành trước khi bị đẩy đi xa.

Huỳnh thở ra:

– Tụi điên khùng chúng nó còn lạ gì tình cảnh này mà làm vậy, chỉ thêm rách nát chứ ích gì đâu, hai thằng tôi thì đáng giá gì mà đòi với hỏi.

– Vâng, tôi nghe vậy cũng thầm lo cho số phận của những anh em thương mình, nhưng anh Thành bảo dầu sao việc đó cũng gây được tiếng vang đáng kể trong bộ đội và quần chúng bên ngoài và do đó người ta không thể bạc đãi hai anh quá ở trong tù, bởi vì người ta còn phải ước lượng phản ứng của chiến sĩ và nhân dân mến mộ tư tưởng và thi văn của hai anh.

Huỳnh cười chua chát:

– Chị chưa hiểu hết ý của thằng Thành muốn nói, nó nói vậy là nó không muốn nói rằng nhờ sự theo dõi và mến mộ của đám quần chúng và bộ đội đối với chúng tôi nên người ta sẽ không dám thủ tiêu chúng tôi một cách dễ dàng như xưa nay người ta vẫn thường làm vậy đó thôi.

Hiếu rùng mình, hốt hoảng, nàng quay lại ôm chặt lấy Trần:

– Không, không thể như thế được, đừng nói thế anh Huỳnh, không, không phải như vậy phải không Trần?

Trần siết chặt thân hình nhỏ bé của Hiếu vào lòng, vỗ về:

– Không đâu em, không phải vậy đâu em, đừng có nghe cái miệng của thằng Huỳnh, anh đã nói với em rằng nó sợ chết kinh khủng, nó sợ điên lên lận, cho nên cái gì cũng khiến nó nghĩ đến chuyện giết chóc. Em còn yếu, hãy nằm yên nghỉ cho khỏe, đừng lo nghĩ gì hết, không nên cho em, không nên cho con chúng mình nữa. Anh đang ở bên em, không đủ sao, hãy nhắm mắt lại đi em, anh ôm em và con như thế này suốt đêm nay, suốt cả đêm nay, còn hơn cả một đời, cứ nghĩ như vậy, vì một phút của chúng ta bằng một năm của cả đời người mà, em có nhớ không em? Em có nhớ có lần anh đã bảo em như thế rồi mà.

Trần ru đưa Hiếu trong cánh tay chàng, chàng nói bằng giọng nói trầm ấm cố hữu của chàng, cố ru ngủ tiềm thức bí ẩn hoang dại trôi nổi giữa hư vô, ở đó lô nhô những nấm mồ, những ánh thép lóe lên chớp lạnh giữa không gian, những giòng nước mắt đóng thành băng giá, những đôi mắt khép hờ để vậy ngàn năm.

Huỳnh lục đục trải chiếc tơi lá bên cạnh đống lửa, chàng ngả mình trên đó, lấy chăn đắp kín người, càu nhàu:

– Nó nói phải đó chị Hiếu, có lẽ tôi bị ám ảnh nên nói bậy đó, không có gì đâu, những thằng chúng tôi phải sống chứ, những thằng này phải sống thì đất nước này mới còn chứ, những thằng này mà chết đi để cho quê hương xứ sở này chúng nó đem làm mắm à. Tao có sợ chết là phải lắm chứ Trần, con người chỉ có một thân xác thôi chứ có bao lăm mà đem chấp cái chết. Xuống nằm dưới mộ cho dế nó kêu ri rỉ trên đầu, buồn nhức xương, mà tao lại hay buồn. Đêm kia tao nằm thấy Lương, tao thấy mắt nó thật buồn, thôi tao bắt đầu đi ngủ đây, mày đi ăn cơm đi rồi còn ngủ một chút, chị Hiếu cũng gắng ngủ một chút cho chóng mạnh. Ngày hôm nay, thế là quá đủ, thật quá đủ.

Huỳnh ngáp dài, nhắm mắt, nằm yên lặng.

Tóc Hiếu đã khô, Trần đỡ nàng nằm xuống giường âu yếm: “Chờ anh một chút,” đoạn chàng đứng dậy cầm một thanh củi khều ngọn lửa cháy bùng lên, vói tay lấy ba cái thư Huỳnh để gần đó. Chàng cầm nắm cơm Huỳnh mang về lúc nãy vừa nhai vừa soi thư vào ánh lửa xem lại một lượt. Xem xong chàng bỏ từng cái thư vào lửa, chàng ngắm những tờ thư lần lượt cháy sém ra tro, lòng chàng bỗng trở nên bình thản. Chàng nghe tiếng chân quen thuộc của người giữ tù đi lại dừng trước cửa lều, tiếng khóa xích sắt kêu rổn rảng, tiếng chân người đi xa dần, rồi lặng yên. Chàng nhai nghiền ngẫm miếng cơm trộn sắn với miếng cá mắm khô trong miệng, mắt đăm đăm nhìn ngọn lửa.

Cơn mưa đã dứt từ lâu, hơi nước trong không gian vẫn còn trĩu nặng, đâu đó những giọt tranh kêu tí tách, rời rạc, khiến chàng nhớ câu nói của Trường, một bạn tù, vào một ngày đi chặt cây trong rừng, thình lình trời đổ mưa, cả bọn phải chui vào một hốc đá dưới tàng cây rậm lá để ẩn cho qua cơn mưa. Gió tạt mạnh vào chỗ ẩn không kín đáo gì cho lắm cho nên cả bọn đều không tránh khỏi bị ướt. Có năm sáu người chụm lại trong một cái hốc không đầy một thước vuông, nước mưa từ tàng cây cao rơi xuống vòm đá nhô ra làm thành một cái rèm bằng nước, thỉnh thoảng gió thổi mạnh kéo dài rèm mưa từ bên phải sang trái hay ngược lại rồi đổ dồn về một phía, chảy dài xuống đất, để lại một khoảng trống ở giữa, mưa tha hồ tạt vào đám người trú ẩn. Trường lớn tuổi nhất trong bọn, vào khoảng bốn mươi, anh ta bị ướt như chuột lội, anh nhìn mưa đâm ra cảm khái:

– Nghĩ cái thân phận của một hạt mưa còn long đong như thế huống hồ cái thân tù của anh em mình, nước từ suối đổ ra sông, từ sông ra biển, từ biển bốc thành hơi nước bay lên trời, thành mây bay lang thang, chán mới tụ lại thành giọt mưa rơi trên ngọn lá, từ ngọn lá rơi xuống mái hiên này, lượn qua lượn lại kéo dày kéo mỏng còn chán khó khăn mới rơi được xuống để thấm vào lòng đất. Khó lắm anh em ơi.

Cả bọn vỡ ra cười. Trần nhìn mọi người lúc đó, những tiếng cười òa vỡ từ những khuôn mặt hốc hác vô vọng, trên đó có những đôi mắt im sửng, khô khan, tiếng cười phát ra từ những cái miệng há ra với một thanh âm mà người ta gọi là cười. Đã có lần Trần bực dọc vì những nụ cười đó, chàng nhớ không biết có ai đã nói: “Người Việt Nam mình cái gì cũng cười, vui cũng cười, buồn cũng cười, người ta tử tế với mình cười đã đành, mà người ta đá đít cũng cười, nản thật.” Hồi đó Trần đồng ý cho rằng nụ cười đó thật là ngu xuẩn, nhưng bây giờ nhìn những nụ cười của những bạn tù, những người đã hơn một lần kiêu hãnh chấp nhận nghiệp chướng của quê hương làm nghiệp chướng của mình, Trần bàng hoàng nhận ra rằng đó chính là nụ cười đích thực của người Việt Nam. Tất cả người Việt Nam đều cười như thế cả. Họ cười như thế khi bị chà đạp, bị lừa dối, bị đối xử tàn nhẫn phũ phàng, bị đem làm hình nhân thí nghiệm trăm ngàn mớ lý thuyết quái đản khác nhau. Họ đều cười như thế trước tham vọng của kẻ mạnh, trước đớn hèn quỳ gối của kẻ yếu, trước những giá trị không hề có thật.

Người Việt Nam cười, nụ cười như những giọt mưa mang biết bao ảo ảnh phù du trong bóng sáng của mình.

Trần ngoảnh nhìn Hiếu nằm ngửa trên giường với cái bụng nhô lên dưới lần chăn mỏng: “Rồi đây con ta cũng sẽ cười như thế, bởi vì ngay khi chưa ra đời, nó đã cùng cha mẹ nó sống qua cái đêm tù ngục này. Và mùa mưa trong rừng chỉ mới bắt đầu.”

Một nỗi ngậm ngùi thương xót thấm lạnh hồn Trần, chàng đứng lên, đến nằm bên cạnh Hiếu, chàng vòng tay ôm lấy người nàng, chợt nàng đưa cả hai tay níu chặt lấy cánh tay chàng, run rẩy siết vào ngực, cử chỉ yếu đuối, tội nghiệp như một nắm nuối vô vọng, như chới với ôm vào người một khoảng trống không. Lòng Trần rung động tràn ngập thương yêu, chàng cúi xuống đặt môi trên trán người yêu, nghe cơn mưa trở lại, rào rạt từ rừng xa đổ tới rõ dần.




Chương 33

Hiếu cựa mình trên cánh tay Trần choàng qua cho nàng gối, cánh tay yêu thương khép lại ôm kín thân hình nàng, bàn tay chàng thỉnh thoảng vỗ nhẹ trên người nàng. Nàng không biết Trần thức hay ngủ, cử chỉ vỗ về của chàng như lời ru trong tiềm thức.

Ngọn lửa giữa lều đã gần tàn, một chút lửa xanh yếu ớt liếm qua lại trên khúc củi tròn đen nám, mưa nhỏ hạt chỉ còn rả rích xa xôi. Bên ngoài trời còn tối lắm, rừng sâu bằn bặt trong giấc ngủ hoang liêu; hốt nhiên trong bóng tối Hiếu nhìn thấy rõ ràng hình ảnh chiếc bong bóng trong suốt loang loáng phản chiếu hình trời mây cây cối, nó trôi nhẹ nhàng tới sát mặt nàng, nó to dần, to dần rồi úp chụp lấy nàng. Một cơn gió hoang tàn nổi lên trong cùng thẳm tâm hồn khiến Hiếu cảm thấy cả người gai lạnh, nàng thảng thốt đưa hai bàn tay về phía trước như chống đỡ, như van xin. Thấy động Trần trở mình ôm chặt Hiếu, hỏi dồn:

– Em làm sao thế em? Em làm sao thế?

– Em sợ.

– Em sợ gì?

– Em sợ trời chóng sáng.

Trần nín lặng, chàng ôm thật chặt thân hình run rẩy của Hiếu trong tay, áp sát mặt nàng vào ngực mình, bàn tay chàng vỗ nhịp đều đặn trên lưng Hiếu, lời ru câm nín xót xa. Hơi thở ấm áp, mùi da thịt thơm nồng của Trần làm dịu đi nỗi đau đớn của Hiếu, chiếc bong bóng lãng đãng trôi xa dần vào một vùng mênh mông sáng chói, nó vỡ làm đôi, làm tư thành những bong bóng nhỏ đoạn ghép lại liền liền thành những hình kỷ hà trong như pha lê, trong mỗi hình kỷ hà biến chuyển không ngừng đó đều phản chiếu hình ảnh của chính nàng lang thang giữa khoảng không trắng ngời.

Giữa cơn mê tỉnh đó, vòng tay Trần bỗng dưng nới lỏng, chàng xoay người quay mặt ra ngoài nghe ngóng. Hiếu bàng hoàng định thần lắng nghe, có tiếng chân nhiều người đi lại phía lều này, tiếng người dừng lại trước cửa lều, ánh đèn pin quét một vệt sáng bên ngoài, chiếu lướt qua khe nứa. Trần và Hiếu cùng ngồi bật dậy, tiếng mở khóa xích sắt ngoài cửa kêu lách cách, cánh cửa vụt mở, ánh đèn pin chiếu thẳng vào chỗ hai người làm họ lóa mắt, cùng lúc tiếng người hỏi to, giọng cộc cằn:

– Phạm nhân Phạm Huỳnh, dậy mau, đi theo chúng tôi.

Huỳnh choàng dậy trên chiếc tơi lá trải dưới đất, chàng nhìn quanh ngơ ngác, cơn ngái ngủ còn vây bọc lấy chàng. Tiếng người lại thúc giục, gắt gỏng, mũi súng lạnh lẽo thúc vào vai Huỳnh:

– Dậy đi.

Huỳnh đứng lên như một cái máy, trong ánh đèn pin, chàng nhìn thấy người coi tù đứng trước mặt, tay cầm xâu chìa khóa, bên cạnh có hai người công an cầm súng chĩa mũi vào chàng, trong một giây, tim Huỳnh dội lên rồi lặng đi như ngừng đập, cả người Huỳnh tê dại.

Một trong hai người công an lập lại, giọng nghiêm trọng gay gắt hơn:

– Phạm Huỳnh, có lệnh cấp trên gọi, hãy đi theo chúng tôi.

Trong trí Huỳnh, tiếng chuông báo nguy vang vang từng hồi chát chúa, chàng cảm thấy nghẹt thở như muốn lịm đi, ý nghĩ trốn chạy vút ngang qua đầu chàng, không suy nghĩ, chàng dợm phóng tới trước, chiếc chăn vướng dưới chân làm người chàng chúi nhủi, loạng choạng suýt ngã nếu không có cánh tay Trần đưa ra đỡ kịp. Trần quay lại mấy người kia, ôn tồn hỏi:

– Xin các anh vui lòng cho biết, cấp trên gọi Huỳnh đi đâu trong giờ khuya khoắc như thế này?

Người công an trừng mắt gằn giọng:

– Tôi không có bổn phận phải trả lời câu hỏi của anh, lệnh gọi ai đi là người ấy phải đi, thế thôi.

Trần gật đầu thản nhiên:

– Nếu vậy tôi cũng xin đi theo.

– Không được, không có lệnh gọi anh.

Huỳnh đã bình tĩnh trở lại, chàng nói thật dịu dàng thân ái:

– Không, Trần không đi đâu cả, hãy ở lại săn sóc chị Hiếu, chị đang run lên vì lạnh kia kìa, hãy đốt lửa lên cho chị sưởi.

Huỳnh nhìn thẳng vào mắt Trần một giây, trong ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn pin, Trần thấy mặt Huỳnh xanh ngắt, nhưng đôi mắt thật xa vắng khôn dò. Huỳnh quay lại mấy người công an, nói rõ ràng từng tiếng một:

– Thôi, chúng ta đi chứ.

Huỳnh ngẩng cao đầu, quay lưng lại Trần và Hiếu, bước đi thật thẳng, tự để người lọt vào giữa hai mũi súng, đi thẳng ra ngoài. Người coi tù khóa cửa lách cách, những bước chân đi xa dần.

Căn lều vụt trở nên đen tối hoàn toàn.

Hiếu bám lấy cánh tay Trần run rẩy:

– Người ta mang anh Huỳnh đi đâu thế hở anh?

Trần đứng yên trong bóng tối, lặng lẽ đưa tay nắm chặt bàn tay Hiếu đang níu lấy cánh tay chàng, cúi đầu suy nghĩ. Bỗng chàng khẽ kêu lên:

– À, có thế chứ.

Chàng quay lại ôm choàng lấy Hiếu, cúi hôn trên tóc nàng, dìu nàng lại giường:

– Em ngồi xuống đây, ngồi yên đấy, đừng bước đi, tối quá dễ bị vấp ngã đấy. Để anh đi đốt lửa chờ Huỳnh về.

Hiếu nghẹn ngào:

– Liệu có trở về không anh? Đang giữa khuya thức tù dậy mang đi, có sao không anh?

Trần quẹt một que diêm, ánh lửa loe ra cho Hiếu thấy rõ nét mặt trầm lặng khắc khổ của chàng.

– Không sao đâu, anh vừa nghĩ ra rồi, em có nhớ không? Hồi đầu hôm Huỳnh đi ăn cơm trở về có kể cho chúng mình nghe cơm xong cán bộ bắt họp kiểm thảo, Huỳnh nói thẳng ra rằng nó mệt mỏi, muốn đi ngủ, cán bộ bèn cho nó về ngay. Anh đã lo ngại khi nghe Huỳnh về kể lại, thì bây giờ họ bắt đầu trị rồi đó, gọi dậy nửa đêm mang đi hành hạ về cái tội dám bướng bỉnh với cán bộ. Gia dĩ họ lại còn biết Huỳnh đau tim và rất sợ chết nữa, bằng cách này họ đánh mạnh vào tâm não của Huỳnh rất hiệu quả, kể cũng ghê gớm và tinh thật đấy. Em đừng sợ chuyện mang đi thủ tiêu, chúng anh không đến nỗi bị thủ tiêu dễ dàng như thế, tuy nhiên anh vẫn e ngại từ nay sẽ càng thêm rắc rối khổ sở với chúng nó nhiều.

Lửa cháy bùng trên mồi lá khô bắt vào củi cháy rực lên sáng cả căn lều. Trần bảo Hiếu:

– Em đến ngồi gần đây cho ấm, không biết sao em cứ run hoài, em run mãi như thế thì sợ con anh sau này nó sẽ rét mướt cả đời thì sao?

Hiếu lóng cóng đến ngồi cạnh Trần, nàng thì thầm như sợ ai nghe được:

– Vâng, thế thì anh Huỳnh sắp trở về với chúng mình đấy anh nhỉ, không biết giờ họ đang làm gì anh ấy, liệu anh ấy có chịu đựng được không anh?

Trần ngồi yên, ánh mắt chàng chợt sáng lên dữ dội, nét mặt chàng đanh lại khiến Hiếu sợ hãi không dám hỏi nữa, nàng ngồi cố thu người thật nhỏ bên cạnh Trần.

Đã hơn một tiếng đồng hồ mà chưa thấy Huỳnh trở lại, tâm trí Trần càng căng thẳng trong sự chờ đợi. Tuy chàng biết người ta mang Huỳnh đi để trừng phạt cái thái độ ngang bướng của Huỳnh hồi tối mà thôi, nhưng những bóng đen cứ lởn vởn trong trí óc của Trần mỗi lúc một quái đản hơn, mỗi lúc một to lớn hơn lên.

Một con chim lạ rúc lên một tiếng não nuột trong rừng sâu đen tối, cơn gió mang tiếng chim sầu não lướt qua làn nước mưa đọng trên những tầng lá trên cao rớt lợt đợt xuống mái tranh sũng ướt. Các lều bên cạnh có tiếng người nói rì rào, tiếng sột soạt của đồ vật bị xê dịch, Trần nghĩ là anh em tù bên các lều lân cận đều không ngủ, họ đều đã thức giấc khi nghe tiếng công an gọi Huỳnh dậy mang đi. Và giờ đây họ cũng đang âm thầm chờ đợi để biết số phận của Huỳnh, như niềm khắc khoải cho chính số phận của họ vậy.

Trần vụt đứng dậy, cơn giận âm ỉ trong lòng chàng chực bừng lên, chàng trút sự nóng nảy lên bước chân nện mạnh đi quanh căn lều chật hẹp như một con thú bị thương.

Cơn cớ nào mà chàng và các bạn tù phải rời bỏ cuộc đời yên vui để xông pha vào vòng chiến tranh gian khổ, để đi đến bước giam cầm tù tội bởi những kẻ ở cùng một chiến tuyến như thế này? Cứ thế ngày rồi đêm, mặt trời hiện lên rồi lặn xuống biến mất sau dãy núi phương Tây, đám tù nhân khốn khổ ở đây vẫn hoàn toàn vô vọng. Không một ai có hy vọng trở về.

Tin chiến thắng Việt Bắc vẫn tung bay, những chiến dịch dưới đồng bằng vẫn tiếp diễn, máu khắp nơi vẫn chảy, chảy vì đấu tranh chủ nghĩa, vì cốt nhục tương tàn nhiều hơn chảy vì chiến đấu chống ngoại xâm. Tiếng hoan hô đả đảo ngày đêm không dứt, đất nước vẫn điêu linh, Mẹ quê hương đã mỏi mòn kiệt lực.

Chúng nó nhân danh Mẹ giết dần mòn những đứa con yêu quý Mẹ mang nặng đẻ đau. Chúng nó múa may khắp nơi, những gót chân chúng nó không hề chạm đất, có những móng vuốt nạm vàng nạm bạc sáng lòa. Chúng nó rung những dây chuông trên những mắt xích vang lên từng tràng nhạc hấp dẫn yêu ma.

Tuy nhiên, đồng bào trên quê hương chưa nhận diện được chúng nó, chưa có một giới danh rõ rệt nào để đặt cho chúng nó, bởi vì kẻ thù xâm lăng của dân tộc đang sừng sững trước mặt choán lấp những hiện tượng quái đản, cái nguy cơ trầm trọng đó.

“Và ta thì bất lực đi quanh căn lều ẩm ướt này, và bạn ta thì tính mệnh không biết ra sao ngoài kia.”

Trần nắm chặt bàn tay lại, đấm vào lòng bàn tay kia, chàng muốn gào lên, thét lên, muốn giật tung căn lều khốn nạn này, cho hai bàn tay bật máu tươi ra, cho thịt da rách nát ê chề. Chàng muốn xông ra ngoài, chàng sẽ gọi đích danh chúng nó và chửi vung lên, hừ, chúng nó sẽ vớ ngay được dịp, khỏi cần phải mất công bày mưu tính kế thủ đoạn lôi thôi, những mũi súng sẽ chĩa theo kẻ điên cuồng, kẻ nổi loạn, những mũi súng sẽ nhắm thật trúng đích, bởi vì đó là những tay súng đã được huấn luyện thuần thục để bắn kẻ thù.

Nãy giờ Hiếu âm thầm buồn bã dõi mắt nhìn theo Trần đi đi lại lại, lòng nàng nặng trĩu lo âu và sợ hãi, thế này vẫn chưa đủ ư, còn phải chịu đựng thêm những gì nữa đây? Hiếu nhắm mắt lại, không dám nghĩ tiếp, nhưng trái tim khốn khổ của nàng vẫn vẽ ra trong trí tưởng tượng một đêm nào đó, đến lượt Trần bị người ta gọi dậy thúc mũi súng vào lưng mang ra giữa rừng tăm tối như Huỳnh đêm nay vậy. Nghĩ đến đó Hiếu cảm thấy máu trong người đông đặc lại, thân hình bé nhỏ của nàng run lên cầm cập mặc dầu ngọn lửa vẫn rần rật cháy to giữa lều, hơi nóng tỏa ra rát cả mặt mày.

Trần đang dằn dọc bước đi bỗng đứng dừng lại, có tiếng chân người ngoài kia, Trần bước nhanh về phía cửa hồi hộp chờ đợi.

Tiếng chân người dừng lại trước cửa, tiếng mở khóa, cánh cửa mở hé vừa vặn Huỳnh bị xô vào bước lảo đảo rồi đứng yên. Sợ dây xích kêu loảng xoảng, tiếng khóa kêu tách bên ngoài, cùng tiếng chân người rời xa.

Trần mừng rỡ, đưa tay đón lấy bạn, bỗng Huỳnh lùi lại, đôi mắt chàng tối sầm như không trông thấy ai hết, chiếc áo thâm cũ nát của chàng bị toạc một miếng trên vai trễ xuống lộ ra chiếc xương vai nhô lên.

– Huỳnh, mày làm sao thế hở? – Trần nóng nảy lo ngại hỏi to.

Tiếng gọi của Trần như đánh thức Huỳnh trở về từ cõi u mê nào đó, Huỳnh thõng tay xuống, nhìn Trần, ngu ngơ hỏi:

– Trần đấy à? Mày đang làm gì thế?

Trần đến sát bên Huỳnh, quàng tay ôm vai bạn, dìu bạn đến bên bếp lửa:

– Mày sao thế, chúng nó làm gì mày? Hả, chúng nó đưa mày đi đâu?

Huỳnh ngồi sụp xuống trước ngọn lửa, cười vu vơ thật hiền:

– Sáng quá nhỉ, ấm quá nhỉ, tuyệt thật.

Trần và Hiếu nhìn nhau, không ai nói với ai, họ cùng thấy nỗi lo ngại mỗi lúc một tăng. Trần nắm chặt cánh tay Huỳnh lay giật như Huỳnh đang trong cơn mê ngủ:

– Huỳnh, Huỳnh, hãy quay lại nhìn tao đây này, tao muốn…

Huỳnh chậm chạp quay lại, tầm mắt chàng lơ đãng lướt qua mặt Trần:

– Tao muốn gì đâu nào, à, ừ, tao muốn ngủ, hãy để cho tao ngủ.

Dứt lời, Huỳnh đặt mình nằm nghiêng xuống ngay trên nền đất lạnh lẽo ẩm ướt, hai chân chàng dính đầy bùn đất co lên tận ngực, hai cánh tay gầy guộc ôm lấy đầu, nhắm nghiền mắt lại.

Trần lắc đầu, chàng thở dài thật mạnh như muốn trút cả khối nặng đang đè trong lồng ngực chàng, chàng kéo cái tơi lá lại sát bên Huỳnh, đẩy người Huỳnh nằm lọt vào cái tơi, Huỳnh để mặc cho Trần day trở người mình, chàng vẫn nằm co quắp, mắt nhắm chặt như ngủ say.

Trong khi Hiếu loay hoay đắp chiếc chăn lên người Huỳnh, bỗng Huỳnh mở choàng mắt ra, nhìn Hiếu đăm đăm, chàng cất tiếng nói thật dịu dàng:

– Lan, em đấy ư? Anh chỉ là một kẻ hèn mọn, có đáng gì đâu, sao em cứ quanh quẩn bên anh hoài vậy?

Huỳnh sụp mi mắt xuống, giọng nói thoảng nhẹ xa xăm:

– Hãy hát đi em, hãy hát ru cho anh ngủ.

Hiếu trên tay vẫn còn nâng một mí chăn lên nửa vời, nàng ngây người, sửng sờ, đôi mắt nàng đẫm lệ nhìn Trần. Trần nhìn Hiếu gật đầu, chàng khẽ mấp mấy môi, đưa tay ra hiệu. Hiểu ý người yêu, Hiếu cúi xuống, kéo mí chăn lên đắp kín cổ cho Huỳnh đoạn cất tiếng ru nho nhỏ, lời ru nghẹn ngào, chìm xuống, tiếng đục buồn tênh thấm qua hơi ẩm của gian lều cỏ:

“Trăm năm dầu lỗi hẹn hò
Cây da bến cũ con đò khác đưa,
Cây da bến cũ còn lưa
Con đò đã thác năm xưa đi rồi.”




Chương 34

Tháng 10 năm 1951

Người ta giải đến trại thêm thật nhiều tù nhân, kể có đến hàng trăm, con số nhập trại cao nhất từ trước đến nay, công tác dựng thêm lều trại được tiến hành gấp rút, lều của Trần và Huỳnh được nhận thêm hai người nữa, một người đứng tuổi gốc Bình Định tên Liêu, và một người trẻ tuổi tên là Bằng, người Bắc.

Tuy những vết đòn vọt trên mình hai người tù mới chưa lành hẳn, sáng nay họ phải đi theo Huỳnh và Trần cùng các tù nhân khác vào rừng lồ ô để chặt nứa. Những ngày có nắng thật hiếm hoi trong mùa này, nhưng nắng lại càng làm hơi lạnh khí núi thêm rét buốt. Những tù mới đều ngạc nhiên khi thấy trời lạnh như cắt ruột mà đám tù cũ đều nhất loạt cởi áo nhét vào bụi tre gần đó để mình trần lạnh run mà làm việc, họ đốn ngã nhưng thân cây lồ ô già vàng cả gốc để về đập dập ra ráp lại thành những tấm phên để dựng lên những lều mới.

Huỳnh giải thích cho Bằng và Liêu, hai người mới đến cùng ở chung lều với mình nghe:

– Những cành lồ ô nó có mắt bén nhọn như dao, mình phải rọc hết cành lá nó đi để dễ vác cây về, có lúc cành nó bật lên móc vào áo rách nát tả tơi là thường, như vậy rất có hại các cụ biết không. Thà chịu lạnh một chút rồi làm việc, đẵn cây đều đều nó nóng người lên, chứ áo mà rách thì lấy gì mà vá, mùa đông còn dài dặc thế kia.

Bằng nhìn những vết xây xát chi chít trên mình Trần và Huỳnh, có vết sẹo như dao chém, nhíu mày hỏi:

– Những vết gì trên người các anh thế kia?

– Cành lồ ô nó bật lên, nó chém phải đấy.

Bằng chán nản.

– Nó không móc rách áo, mà nó chém bật máu mình ra thì cũng vậy.

Huỳnh bổ nhát rựa ngập sâu vào một thân cây lồ ô xanh ngắt:

– Cũng vậy sao được, da thịt con người bị rách thì còn mong ăn no ăn đói gì nó cũng liền lại, chứ áo mà rách thì còn nhiều khốn đốn. Hãy nhớ cho kỹ nguyên tắc đó mới mong sống qua mùa đông ở đây đó, các cụ ạ.

Trần giục giã hai người bạn mới:

– Thôi xin hai ông cởi phăng áo ra mà làm việc ngay cho con nhờ, kẻo tụi kiểm soát nó đến nó thấy các cậu ấm đứng phất phơ tán gẫu nó lại phạt nằm hầm tối đút chân vào cùm tha hồ cho rệp đói nó ăn thịt bây giờ.

Liêu nghe lời, anh ta cởi áo ra trước, vừa run lẩy bẩy vừa nói với Bằng bằng giọng đặc Bình Định của anh ta:

– Cởi áo ra đi em, không lạnh lắm đâu, lạnh như vậy thấm tháp gì, hồi trước mình đi hành quân đánh đồn nửa đêm tháng chạp có lúc phải lội qua suối, nước dâng ngập đầu lạnh như có ai cầm dao cắt ruột mà cũng chẳng chết ai, huống chi chừ, chừ thì ăn thua gì nữa, tới đây là cùng tận rồi, khỏe rồi, cởi áo ra đi em.

Nét mặt chất phác thật thà của Liêu không biểu lộ vẻ gì cả, người ta khó đoán được khi nói như vậy anh ta buồn hay vui. Trần nhìn da mặt rám nắng đã ngả màu tro của Liêu, đôi mắt thật tròn, thụt sâu vào, cái nhìn rụt rè lẩn tránh, sống mũi thô tháp gồ lên, miệng anh ta cong một tí đầu khoé môi khi cười có vẻ móm, chiếc cằm vuông đều đặn, người ta không thể đoán được Liêu bao nhiêu tuổi, từ ba mươi đến năm mươi, tuổi nào cũng có vẻ thích hợp với anh ta. Nghe giọng nói rặt thổ âm của Liêu, Trần nghĩ đến xứ dừa xanh ngắt, chàng đã từng ở Tam Quan một năm khi còn bé theo cha đến làm việc ở đó. Sau lưng người tù trung niên này có những hàng dừa xanh bát ngát trùng điệp, bóng mát rợp che chở quê hương anh, mái nhà, mảnh sân của anh im mát từ sáng đến chiều, có những cô gái má hồng môi thắm bện vỏ dừa căng dây dưới những gốc cây lả ngọn xanh mướt, hò hát qua những đêm trường, ánh trăng lọt qua kẽ lá dừa rơi vãi tung tóe loang lổ cả mảnh sân, bóng cành lá đu đưa theo câu hò giọng hát trong tiếng sóng biển rạt rào. Ở đó Liêu đã sinh ra, đã lớn lên trong bóng dừa im mát đó, trong ánh trăng câu hò điệu hát đó, trong tiếng sóng biển rào rạt muôn trùng đó. Trần nghĩ đến những cơ duyên phi lý và không kém phần thảm khốc của cuộc đời đã bứng con người ta ra khỏi cội rễ của nó, lăn nó qua ghềnh qua thác để đến đây, với thực tại một hình hài trơ xương gầy guộc đang run đây đẩy trước mắt chàng, trong khu rừng lồ ô nơi thâm sơn cùng cốc này. Người con trai xứ dừa Bình Định ngày nào đứng hiên ngang trên bãi biển quê hương cho nắng gió mang mùi trùng dương ươm lên tấm thân trai tráng, giờ đây chỉ còn là kẻ tội tù ngơ ngáo, cũng như Trần, cúi đầu đẵn những gốc lồ ô này vác về để dựng nhà giam chính mình, vót những vạt nhọn để làm những hầm chông gài bẫy chính mình.

Bằng vùng vằng cởi áo ra như muốn giựt đứt những khuy áo ra:

– Tôi đâu có sợ rét, nhưng khốn nạn, những vết thương trên người tôi nhức nhối quá, ừ, cởi bố nó ra lại đỡ vướng, đỡ đau, hừ, không gãy cái xương sườn nào cả thì cũng lạ. Hãy nhìn đây này.

Bằng trạc hai mươi tuổi, dáng người cao, mảnh khảnh vẻ thư sinh, hắn có một cái nhìn tăm tối, hoài nghi, đôi mày rậm, hai đầu mày gần như giao nhau, đôi mắt phủ đầy bóng tối dưới hai hàng lông mi dài thượt, sống mũi thanh tú, vừa vặn làm hiền bớt vẻ dữ tợn của đôi môi thật đẹp luôn luôn mím chặt. Y đột ngột quay lại hỏi Trần:

– Anh đã bị chúng lấy chày giã gạo tộng vào ngực anh chưa?

Trần điềm đạm trả lời: – Chưa.

– Thế chúng nó trị anh bằng loại gì?

– Không bằng loại gì cả.

Bằng bực tức:

– Như thế có nghĩa là anh không bị tra tấn đánh đập?

– Đúng như vậy.

Bằng nhìn Trần với ánh mắt thù nghịch, những bóng tối trong đôi mắt trẻ trung của y gần như tụ lại, y đổi giọng:

– Ê, tớ nói thật, người anh em ở cùng lều với tớ cứ tha hồ mà báo cáo với tụi cán bộ nhé, tớ đếch có sợ gì nữa. Hồi tớ hoạt động bí mật trong nội thành, tụi mật thám Tây nó bắt được tớ chúng nó nện cho tớ nhiều trận ra trò nhưng phải ra kháng chiến rồi bị kháng chiến bỏ tù tớ mới nếm cái trò lấy chày giã gạo mà tộng vào ngực đấy, làm như ngực mình là cái cối gạo không bằng. Trò này không vỡ tim thì cũng vỡ phổi, không vỡ phổi cũng vỡ mật, không vỡ mật cũng gãy xương sườn. Tớ thấy cấn cái trong này quá, – Bằng lấy tay chỉ vào ngực – chả biết trong này có cái gì đã nát ra thành cám chưa. Tớ đếch có đẵn cây, lỡ trong ngực tớ tim hay phổi nó đã long ra rồi nhưng còn dính lủng lẳng chưa rời ra, đẵn cây bổ mạnh xuống nó theo đà, nó rơi tuột ra luôn thì bỏ mẹ. Tội nghiệp mẹ tớ, níu lấy tớ khóc ròng mà tớ cứ dứt ra đi theo chúng nó cho bằng được, bây giờ tớ cố níu giữ cái tim phổi tớ thì cũng như vậy, mà nào có níu giữ được, nó cứ chực tuột ra đấy thôi.

Bằng ngồi bệt xuống đống lá ẩm mục, ôm ngực, mặt tái mét, lải nhải:

– Ừ, tớ đếch có đẵn cây làm gì cả, tớ bỏ nhà ra đây để đánh Tây, bảo tớ tiểu tư sản không cho tớ đánh Tây thì tớ về với mẹ tớ. Giản dị có thế thôi mà chúng nó cũng không chịu, lôi tớ trở lại đem bỏ tù lại còn lấy chày giã gạo giã vào ngực tớ, giờ lại bắt tớ đẵn cây cho tim phổi tớ nó tuột hẳn ra, thà không xài cứ việc bắn chết, so sánh thì tụi mật thám Pháp chúng nó còn nhân đạo hơn người kháng chiến đối xử với nhau như thế này nhiều. Tớ nói thế đấy, người anh em được chúng nó đối xử tử tế không đánh đập cứ việc đi báo cáo đi. Tớ thích một viên đạn vào đầu còn hơn cái chày giã gạo nện vào ngực tớ.

Trần nhìn bên ngực Bằng bầm đen một khoảng rộng ở giữa, trên vai, trên hai cánh tay hắn chằng chịt những vết roi lở loét mưng mủ, chàng nghĩ chắc sau lưng hắn cũng bèo nhèo không kém, những chỗ da còn lại thật mịn màng còn giữ sắc mơn mởn của tuổi trẻ mới lớn lên. Chàng dịu giọng nói với Bằng:

– Này chú bé, nếu chú thật tâm thích một viên đạn vào đầu thì rồi chúng ta hãy tính sau. Bây giờ hãy đứng lên đi, vắt nó bò đầy cả lên quần và chân chú kìa, giống vật nhỏ bé này nó cũng làm đổ máu không kém mật thám Pháp, không kém phòng tra tấn của trung tâm Tây Hạ này đâu. Ừ, phủi nó đi, còn hai con ở bên kia nữa, thôi hết rồi đấy, chú mày cũng khá đấy. Mặc áo vào kẻo cái rét này nó cũng rút được tim phổi chú mày ra ngoài được đấy, đừng có bày đặt. Này, hãy cầm cái rựa này cho sẵn trong tay, chịu khó đi quanh quất đâu đó, để chúng ta đốn cây cho chú, miễn có đủ số thì thôi, nếu cán bộ kiểm soát nó có đi trờ tới, xin chú mày chịu khó bổ vài nhát vào cây cho tôi nhờ, đừng làm rắc rối thêm, sức chú mày chịu đựng thêm nữa không nổi đâu. Tối nay về ta sẽ săn sóc cho chú mày, không chết đâu mà sợ, trông mặt chú mày không đến nỗi nào đâu. Đứng quanh quẩn đây thôi chứ đừng đi đâu xa, nhất là đừng nghĩ đến chuyện trốn, nhớ kỹ như vậy, chưa phải lúc, rừng quanh đây có rất nhiều hầm chông. Chúng ta xem như được tự do đi trong khu vực được chỉ định, nếu đi quá sẽ mất mạng như bỡn với hầm chông.

Bằng làm theo lời Trần nhưng vẫn giữ vẻ hậm hực, y hỏi gặng:

– Thế anh là cái thá gì, bộ anh là cha chúng nó hay sao mà vào đây không bị chúng cho nhừ đòn? Nếu không phải là chúng nó cho anh trà trộn vào chúng tôi để dò xét hành động ý nghĩ của chúng tôi để tâu lại với chúng nó, trò đó xưa nay ai còn lạ gì.

Huỳnh tự nãy giờ vẫn chặt cây đều đặn, bỗng dừng tay gọi:

– Ê, chú bé, thắc mắc hoài, để ta giải thích cho, thằng này không phải là cha chúng nó đâu, mà là ông cao tằng cố tổ của chúng nó lận, mà chúng nó thì mới đánh cha, tổ ông nội thôi chứ ta chưa thấy nói chúng nó tố khổ đánh đập đến ông cao tằng cố tổ của chúng nó được. Thôi, giải thích như vậy được rồi chứ, bây giờ chú xê ra chơi đi cho các anh làm việc, phải chặt thêm cho đủ số hai chục cây của chú mày không phải chuyện đùa. Hồi ta mới vào đây ta bị chúng nó tẩn còn kỹ hơn chú mày bây giờ nhiều, bằng lòng chứ. Thôi đi chỗ khác cho nó mát, mau lên, kẻo ta lại đập thêm cho một trận bây giờ.

Bằng vùng vằng xách cái rựa đi tới khóm lồ ô gần đó:

– Tôi cũng đi chặt cây đây, tôi đếch cần các anh chặt hộ, tớ không thích làm chứ tớ đếch sợ chết đâu.

Huỳnh hầm hừ:

– Hừ, ta cũng đếch cần biết chú mày thích hay không thích cái gì. Nói dai như giẻ rách, nhức cả óc.

Có đám mây đen đùn lên như một chiếc nấm khổng lồ che khuất cả mặt trời, một đường mỏng sáng chói viền quanh đám mây, khu rừng đột nhiên âm u như chiều gần tối; có tiếng trời gầm chuyển động khắp nơi, xế trưa không khí trở nên oi nồng ngột ngạt.

Trong phút chốc đám mây lan tỏa khắp bầu trời, những tia chớp sáng lòe giữa không trung, một cơn gió nổi lên ào ào, cả rừng lồ ô vặn mình kêu răng rắc, cùng lúc cơn mưa trút xuống, những giọt mưa thật lớn rơi xuống kêu bồm bộp.

Ngọn gió mãnh liệt cuốn màn mưa vút nghiêng quất xéo xuống khu rừng đang rạp mình như chịu tội trước cơn lôi đình của tạo hóa.

Thỉnh thoảng một lằn chớp xanh lòe, những tiếng nổ ầm tiếp theo một tiếng sét xé trời. Đám tù nhân không ai bảo ai, mọi người đều mạnh ai nấy chạy tìm chỗ ẩn núp. Khi Trần, Liêu và Bằng chui lọt vào trong một cái chòi bằng lá mà tù nhân che rải rác trong rừng để đề phòng những trận mưa bất thần, Trần quay lại kêu lên:

– Quái lạ, không biết thằng Huỳnh nó chạy đi đâu mà không có ở đây nhỉ, vừa mới thấy nó chạy sau chúng mình mà.

Liêu gật đầu:

– Tôi cũng thấy anh ấy chạy sau, chắc anh ấy tạt vào đâu đó, không muốn chạy xa, sợ ướt chứ gì.

Cả ba người đều bị ướt cả thật, tóc họ xõa xuống trán, nước từ mái tóc chảy giọt xuống mặt họ. Họ rũ những chiếc áo ra để mặc vào người. Khi chạy ngoài mưa họ vo tròn áo lại, ôm vào ngực cho khỏi bị ướt, những cái áo bây giờ mặc vào trông nhàu nát bẩn thỉu với những chỗ ướt chỗ khô lem luốc. Nhưng không ai chú ý đến điều đó. Trần nhìn Bằng lầm lì ngồi giạng chân trên một thanh củi cháy nửa chừng, gương mặt ủ rũ, miệng hơi há ra để thở vì phải chạy một quãng đường khá xa. Trần chú ý đến gương mặt đẹp trai và xanh ngắt thật trẻ trung của Bằng và đôi mắt u tối một cách lạ lùng. Chàng buột miệng hỏi:

– Bằng đi kháng chiến bao lâu rồi?

Không buồn quay lại, Bằng xòe ba ngón tay bỏ thõng xuống đầu gối, trả lời nhát gừng:

– Ba năm.

Một cơn gió xoáy mạnh vào chỗ ngồi của họ, tạt mưa và một luồng hơi lạnh từ dưới đất dội lên, hắt vào mặt họ. Mùi lá cây ẩm mục, mùi hơi đất khét lẹt, nhưng trong đó, còn trộn lẫn một cách mơ hồ, không phân biệt nổi, một làn hơi nồng ấm buồn buồn của mùa thu đã đi qua đây, hãy còn ngập ngừng luyến tiếc.

Trần đưa tay vuốt nước mưa tạt vào mặt, lẩm bẩm:

– Mưa thế này dễ thường đến chiều mới tạnh.

Chàng quay sang Bằng, hỏi tiếp như câu chuyện còn đang bỏ dở:

– Rồi sao nữa Bằng?

– Sao nữa cái gì?

– Chuyện ra sao mà Bằng đến đây?

Đôi mắt Bằng vụt lóe sáng:

– A, anh quan tâm đến chuyện đó lắm hả, vậy còn anh? Làm sao mà anh đến đây? Thì nó cũng giống nhau cả.

– Giống nhau thế nào được, mỗi trường hợp mỗi khác chứ.

– Khác thế chó nào được mà khác, – Bằng nhổ toẹt xuống đất – thằng nào cũng như thằng nào, bao nhiêu năm nhồi nhét vào trong sọ lui tới rồi cũng chừng ấy thứ kinh nhật tụng, nào quan điểm cách mạng, nào quan điểm quần chúng, nào học tập đấu tranh, tiêu diệt kẻ thù, tiêu diệt giai cấp, nào nuôi dưỡng căm hờn, nuôi dưỡng thù hận và cả trăm thứ y chang như vậy. Nhồi nhét cho lắm vào, xông pha tên đạn cho lắm vào để bây giờ chúng nó tống cha cả lũ vào đây, được nện chày giã gạo vào ngực, được đi chặt cây bằng thích. Thử hỏi anh khác cái gì nào, nói nghe, ừ, khác cái gì?

Người Bằng run lên, hắn nói như quát tháo, nét mặt khích động một cách bất ngờ. Hắn nhìn thẳng vào mặt Trần, đôi mắt sáng ngời nẩy lửa, bóng tối thường trực trong đôi mắt hắn xô dạt vào hai hàng mi dài thượt, hắn dang tay ra, trỏ thẳng vào mặt Trần, cao giọng kẻ cả:

– Nghe đây, muốn biết vì sao tôi đến đây hả? Vì không có con đường nào khác con đường đi đến đây, hiểu chưa? Còn anh, anh có con đường nào nữa không? Nói đi, ừ, có giỏi thì nói đi.

Bằng quát to hơn, vẻ chói lói gay gắt trưởng thành tương phản nét mặt còn in nét ngây thơ trong trắng. Trần sửng sốt và thú vị một cách bất ngờ với cảm tưởng trong cơn gió mưa sấm sét giữa rừng già này, chàng đã hốt nhiên chứng kiến một cơn thịnh nộ của thiên thần. Bằng càng hét to, phẫn khích:

– Không nói gì hả? Vậy còn hỏi nữa thôi, hãy để yên tôi, nghe không. Tôi thích vuốt ve đầu mũi chày nện vào ngực tôi ngàn lần hơn là lải nhải kể chuyện cổ tích, chuyện cổ tích nhàm chán của cái thiên đường ghê tởm, anh đã hiểu chưa?

Trần mỉm cười, yên lặng lơ đãng nhìn cơn mưa rầm rộ như ào tới từ bốn phía rừng, chàng nghe câu phàn nàn của Liêu với giọng nói đặc Bình Định của anh ta:

– Cái thằng, nói chuyện lúc nào cũng như muốn đánh lộn với ai. Anh em mình, trong cảnh tù đày, thương nhau không hết, gây gổ nhau hoài làm chi.

Trần tiếp tục đắm mình trong suy tưởng, trong khi cơn mưa vẫn nặng hạt. Quả thật nếu mọi sự việc trong đời đều do Trời sắp đặt thì Trời quả thật là một đại nghệ sĩ. Đấng Toàn Năng phải thật là nghệ sĩ mới tạo nên được những cơ duyên mang lại cái tư cách kiêu bạc khiếp đảm đến thế kia nơi một gã thư sinh mặt trắng. Cuộc kháng chiến này đã biến đứa trẻ Việt Nam thành chiến sĩ anh hùng, chưa đủ, Thượng Đế còn bắt người Việt Nam gánh chịu một thử thách đau thương vĩ đại, cuộc vật lộn cam go giữa con người thuần khiết Á đông gìn giữ giá trị chân tuyền của lẽ sống với con người tham vọng cùng những giấc mơ kỳ bí quái đản, nhưng đam mê dữ dằn khốc liệt của loài người.

Giữa một quê hương Việt Nam đang ê chề đau khổ bởi nô lệ, bởi chiến tranh và những con người tham vọng từ trong da trong thịt, đã mang dân tộc lầm than đói rách này ra làm thí nghiệm một lý thuyết chủ nghĩa. Giữa cuộc nước này và cơn đau nọ đã tạo nên cơn thịnh nộ của tuổi trẻ thiên thần, của tuổi trẻ khắc khoải cô đơn. Cơn thịnh nộ của Bằng làm Trần bàng hoàng như vừa chứng kiến một vẻ đẹp tinh khôi có một không hai. Vẻ đẹp đó chỉ có thể có bởi cơn tao loạn này, vẻ đẹp như một lằn chớp lóe sáng chói lòa giữa đám mây vần vũ xám xịt.

Trần kiêu hãnh nghĩ thầm rằng vẻ đẹp đó chỉ có người Việt Nam mới có, đó là vẻ đẹp của một loại cây nhân sinh mà nhân loại ra công tìm kiếm nhưng lại từ chối đau thương ngại sông ngại biển. Và Thượng Đế, vị đại nghệ sĩ đã chọn để gieo cái nhân quả đó xuống quê hương nhỏ bé này, đã tạo nên cái đẹp đích thực cho muôn đời.

“Ta mơ những chân trời thanh bình óng ả, những cánh đồng phì nhiêu thẳng tắp, những vườn cây trái ươm trĩu nặng. Ta mơ dân tộc ta được sống hài hòa an vui, tự chủ, tự cường giữa trời quê hương xanh biếc, giữa những đêm trăng nồng nàn câu hò tiếng hát xa đưa.

Bên cạnh giấc mơ bình dị nhưng chưa hề đạt được đó, ta sẽ không bao giờ quên vẻ đẹp chói chang kỳ lạ mà ta trót thấy hôm nay, vẻ đẹp không gì có thể sánh được trên đời.

Bởi vì đó là vẻ đẹp của đau thương, mà quê hương ta là Định Mệnh.”




Chương 35

Đang chạy theo các bạn tránh cơn mưa, Huỳnh bỗng đứng dừng lại, tim Huỳnh đập thình thình thình nhức nhối khó chịu, tiếng đập của tim vang lên tận đầu chàng thành những tiếng bình bình át cả tiếng giông tố và mưa rơi ào ạt.

Huỳnh bước chậm lại, đi thong thả như một người nhàn rỗi bách bộ ngắm cảnh. Huỳnh quay ngược lại con đường mòn các bạn chàng vừa chạy qua, đi về hướng bờ suối.

Nước từ trời cao giội xuống người Huỳnh, chảy xối xả trên mình trần của chàng, chàng cảm thấy thênh thang, nhịp tim chàng dần dần dịu lại, Huỳnh thấy dễ chịu sảng khoái một cách lạ lùng.

Huỳnh bước đi chậm rãi giữa cơn giông tố gầm thét xé toang rừng thẳm, Huỳnh cảm thấy bằng lòng lắm với thái độ yên hàn vô sự của mình như chế ngự được sấm sét mưa ngàn. Huỳnh không có gì phải vội vàng cả, tại sao phải vội vàng chạy trốn cơn giông tố nhỉ. Chẳng phải cuộc đời vẫn luôn luôn có những giông tố mà càng cố tránh bao nhiêu lại càng thảm hại bấy nhiêu. Tại sao không chấp nhận như đó là nguồn cội của giá trị đời sống. Cơn gió vùn vụt quất những hạt mưa trên đầu Huỳnh để trần, trên vai, trên ngực, lên lưng, lên hai cánh tay và hai chân trần trụi của chàng khiến chàng có một cảm giác tự hào lực lượng, bước chân chàng đi vững chắc trên đường đất núi trơn trợt như mỗi bước chân đều lún sâu vào đất. Huỳnh nhìn quanh, khu rừng trong cơn gió mưa sấm sét vụt trở nên đẹp đẽ dị thường. Sự đẹp đẽ đó xâm nhập vào da thịt để trần mỏng manh của chàng, thấm sâu vào từng thớ thịt khiến tim chàng ngây ngất rung động, tâm não chàng giãn ra trong một tiếp nhận khoái cảm dị kỳ.

Khu rừng như được tắm gội mới mẻ trẻ trung hẳn ra, tinh khiết, thanh tân như một trinh nữ trong cuộc dâng hiến trọn vẹn đang quằn quại vật vã khoái trá trong đôi cánh tay mê cuồng điên loạn của gã tình nhân bão tố.

Huỳnh chậm rãi đi, giữa cơn giao hoan của Trời Đất, trên môi chàng nở một nụ cười vu vơ say đắm, những hạt mưa quất vào mặt chàng, ngực chàng rát bỏng, Huỳnh càng thêm vui thú, chàng đi dần xuống bờ suối.

Huỳnh lội xuống suối, giòng nước dâng cao chảy cuồn cuộn gầm réo lên dữ tợn khi vấp phải một tảng đá chận đường. Trận mưa ồ ạt trên cao trút xuống gặp phải sự hung hãn mãnh liệt của giòng suối chảy xiết xô dồn tới trước, gầm réo như điên, đành phải nhượng bộ, những hạt mưa tự để mình tan biến không để lại dấu vết nào trên giòng nước lồng lộn như một con quái vật bất kham.

Giòng suối này thường ngày vẫn là nơi lý tưởng cho những giờ nghỉ ngơi tắm rửa của tù nhân Tây Hạ. Xuôi giòng độ một phần tư dặm rẽ khuất bên trái có một lòng trũng tỏa rộng như một cái hồ, giữa hồ rải rác nổi lên vài phiến đá phẳng nhẵn thín, nước mưa nhỏ giọt trên những tàng cây rũ xuống che kín mặt hồ xoi thành những vết rỗ thiên thu trên mặt những phiến đá. Giòng suối cuồng nộ gầm thét hỗn độn từ phía trên đổ xuống gặp mặt hồ tức thì biến dạng như có một phép lạ hiển nhiên nào đó, làn sóng đột nhiên uốn cao lên uyển chuyển múa lượn nhịp nhàng trước khi nghiêng xuống dàn trải ra mặt hồ, hài hòa đằm thắm như một bạo chúa hung hăng say máu, bất chợt để lòng mình ngây ngất trước một hình bóng giai nhân, đã tự biến mình thành tên nô lệ hiền lành vô hại dưới gót ngọc kiêu sa của nàng.

Những giờ nghỉ trưa tù nhân được phép lội xuôi giòng suối xuống lòng trũng này để tắm gội. Nước từ trên mặt hồ đầy tràn chảy xuống vực sâu bên dưới làm thành một giòng thác như một dải lụa sáng ngời vắt từ trên cao xuống đáy vực ước chừng ba chục thước, tự đó vẳng lên những tiếng ầm ầm xa xôi man rợ, hơi nước tung tóe bốc lên bao quanh ngọn thác một lớp bụi mờ, những ngày trời nắng, đứng trên tảng đá trên cao này nhìn xuống, nắng chiếu qua lớp hơi nước thành một cái cầu vồng ngũ sắc dâng lên cuốn quanh chân thác.

Vực sâu này còn là tử lộ chận đứng những cuộc chạy trốn của tù nhân Tây Hạ. Trên mặt đất trong rừng khắp nơi đều chi chít những hầm chông đủ loại, chỉ còn một con đường dọc suối là để trống mà thôi. Những tù nhân chạy trốn đều ôm mộng bám vào thành đá cheo leo từ trên mặt hồ trụt xuống đáy vực, nhưng từ trước đến nay chưa có ai thoát cả.

Huỳnh lội xuôi xuống lòng trũng, chàng để mình nằm đu đưa trên mặt hồ, một giọt nước rơi vào mắt khiến Huỳnh phải nhắm mắt lại, mưa vẫn tiếp tục rơi trên mình chàng.

Một cành hoa túy tử quét ngọn qua ngực Huỳnh, nhột nhạt khiến Huỳnh mở mắt nhìn những chùm hoa xanh nhạt có cái nhụy vàng giống hình vương miện rũ xuống trên người Huỳnh. Mặt nước quanh chàng rải rác những cánh hoa túy tử và những chiếc lá xanh vừa bị cuốn rụng sau cơn cuồng phong vừa qua. Gió đã dịu, nhưng những lằn chớp vẫn liên tục với tiếng sấm sét rền trời. Mưa vẫn càng ngày càng nặng hạt. Huỳnh trở mình xuống, chàng bơi nhẹ nhàng thong thả dưới những cành hoa túy tử xanh biếc trong khi cơn mưa rào rạt quanh hồ, chàng đưa tay rẽ một rèm lá rũ dày trước mặt để bơi tới một ghềnh đá gần đó. Thốt nhiên, Huỳnh lặng người, sự kinh ngạc lên đến tột độ.

Trên ghềnh đá mà Huỳnh đang định bơi đến, một người con gái không biết từ đâu đến đang ngồi thẳng tắp như một pho tượng nữ thần trang nghiêm. Nàng ngửa mặt lên trời như để hứng những hạt mưa từ trên cao rơi xuống, nét bán diện của nàng có một vẻ đẹp nửa hư nửa thực, lẩn khuất trong mưa, mắt nàng khép hờ, đôi môi mở hé, chiếc cổ vươn cao trong một tư thế khát khao kỳ dị, mái tóc dài đen buông thả sau lưng, ướt lướt thướt dán sát từng lọn trên làn da trắng muốt.

Nàng quấn một chiếc khăn màu xanh ngang ngực, nếp khăn nhô cao trên bộ ngực như khiêu khích đón mời, rũ xuống thành những nếp mềm mại quyến luyến buông lơi trên cặp đùi thon dài vắt chéo lên nhau duỗi dài trên ghềnh đá. Đôi cánh tay để trần trắng muốt của nàng chống ra sau như để giữ cho tấm thân mảnh dẻ của nàng ưỡn về phía trước một vẻ kiêu sa.

Huỳnh bàng hoàng, chàng nín thở, chàng sợ hơi thở cùng tiếng tim đập mạnh của chàng sẽ dễ dàng đánh thức cơn mơ mộng của nữ thần giòng suối hơn tất cả những tiếng gió mưa sấm sét của đất trời hiện tại. Quái lạ, sao lại có thể có một người con gái dám một mình ngồi trên mặt hồ trong cơn giông tố nơi chốn rừng sâu tù tội này được nhỉ. Vô lẽ ma quái hay thần suối hiện hình lên trêu ghẹo mình chăng. Được lắm, muốn là gì mặc lòng, miễn là nàng vẫn còn ở đó, trước mặt Huỳnh, đẹp một cách phi phàm, trong làn chớp giật loang loáng trên đầu nàng, trong cơn mưa vây phủ người nàng, vẻ đẹp của nàng manh một định mệnh tàn khốc quyến rũ tuyệt vời. Nước mưa chảy xuống mắt Huỳnh nhưng Huỳnh vẫn mở to mắt không dám chớp, Huỳnh sợ nếu chớp mắt chàng sẽ thấy lại ghềnh đá trống không, ý nghĩ đó khiến Huỳnh hoảng hốt, không kịp nghĩ thêm chàng vội lao mình tới trước.

Tiếng nước khua động làm người con gái quay lại, nàng không tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy Huỳnh rẽ nước tiến về phía nàng, nàng ngồi yên, có vẻ chờ đợi.

Huỳnh đến bên cạnh nàng, hai tay níu vào thành đá, ngước nhìn nàng bằng đôi mắt chiêm ngưỡng si dại. Nàng cúi nhìn Huỳnh lặng lẽ, đôi mắt có ý hỏi han, nhưng vẫn không chịu lên tiếng trước. Nàng đẹp quá, đẹp hơn cả chàng đang mong đợi khi nhìn nàng từ xa. Khuôn mặt nàng cúi xuống diễm ảo lạ thường, khuôn mặt đẫm nước mưa tươi mát đến rợn người. Huỳnh ước gì mình chỉ là giọt nước mưa đọng trên đôi mi dài rũ xuống của nàng kia. Miệng nàng ngậm lại như cố giấu một nụ cười, vành môi cong đều đặn nhếch lên một nét kỳ khôi bướng bỉnh.

Huỳnh thì thầm như một lời khấn nguyện:

– Xin đừng biến đi nhé.

Nàng nghiêng người cúi xuống gần Huỳnh, lắc đầu chỉ vào trời mưa, tỏ ý không nghe rõ câu nói của Huỳnh.

Huỳnh lập lại, la thật to, át cả tiếng mưa:

– Xin cô ngồi yên đó, đừng vội biến đi nhé.

Người con gái đã nghe ra, nàng ngửa cổ cười ngất, tiếng cười của nàng trong vắt như giọt mưa trên mặt, trên cổ, trên vai, trên một phần ngực để trần của nàng, trên đôi cánh tay ngà trau chuốt của nàng. Nghe tiếng cười của nàng, một làn sóng hạnh phúc vô bờ vô bến tràn ngập tâm hồn cằn cỗi của Huỳnh. Chàng bấu vào tay tự nhủ không biết hiện tại là thực hay mơ, Huỳnh tự biết vẻ mặt của mình lúc này trông lố bịch ngẩn ngơ như một chú mán rừng. Đợi nàng dứt tiếng cười, Huỳnh hỏi to:

– Tại sao cô cười, tôi xấu xí lố bịch lắm hả?

Nàng nhoài người, nằm sấp trên phiến đá, cúi hẳn xuống gần khuôn mặt đầy râu ria bao phủ của Huỳnh đang ngẩng trông lên, mắt nàng thoắt trở nên nghiêm nghị trong một giây, nàng cất tiếng hỏi, giọng miền Bắc khàn đục đầy nhục cảm:

– Anh là tù hả? Giờ này không ở trong rừng, sao lại ở đây?

– Tôi đang ở trong rừng, chính cô gọi tôi đến đây. Cô là ai mà dám ngồi giữa hồ có một mình giữa mưa gió như thế này? Cô là thần suối hay thần mưa, hãy nói tôi nghe.

– À, ra thế cho nên anh sợ tôi biến đi đó phải không? Anh muốn tôi là thần suối hay thần mưa nào?

– Tôi muốn cô chỉ là người thôi.

– Ồ, thật sao, nếu vậy dễ quá, – nàng mở rộng đôi mắt nhìn Huỳnh, có vẻ hài lòng và tự tín – chắc chắn tôi là người đây mà.

Nàng nhìn Huỳnh, cái nhìn nghiêm nghị một cách trẻ thơ:

– Anh không tin sao?

– À, à, tôi tin chứ, nhưng sao cô dám ngồi đây một mình như thế này? Cô từ đâu đến, không sợ gió mưa sấm sét hay sao?

– Sao không, tôi sợ lắm chứ, sao anh biết là tôi không sợ?

Mắt nàng bỗng lóe lên một tia sáng ranh mãnh tinh nghịch, cùng lúc một tia chớp lóe sáng rực trên đầu nàng, tiếp theo một tiếng sét rền vang như giáng xuống ngay trước mặt khiến Huỳnh tối tăm mặt mũi. Chàng nghe một tiếng thét thất thanh, vừa kịp thấy hai tay người con gái đưa lên cao chới với, cả thân hình nàng rơi tòm xuống nước chìm lỉm mất dạng. Huỳnh hoảng hốt, phóng mình lặn theo người con gái, chàng càng lặn xuống sâu càng lấy làm lạ không hiểu sao nàng vừa rơi xuống ngay đây mà chàng lặn xuống mãi chẳng thấy tăm dạng đâu cả. Đáy hồ thật sâu và khá rộng, tuy nhiên là một tay bơi lội giỏi có tài nín thở thật lâu, chàng tìm cùng khắp vẫn không hề thấy nàng. Huỳnh đành trồi lên mặt nước với nỗi đau đớn thất vọng trong ý nghĩ người con gái lâm nạn ngay trước mắt chàng mà chàng bất lực không cứu nổi nàng.

Vừa ngoi lên mặt nước, Huỳnh sửng sờ một cách sung sướng thấy người con gái đang ngồi trên một tảng đá, mấp mé bờ nước, ngay trước mặt Huỳnh, khuất sau chùm hoa túy tử. Nhìn vẻ mặt Huỳnh hớt hải lo sợ, nàng thích thú cười vang, nghịch ngợm. Lần này tiếng cười phá phách của nàng vỡ tan như những giọt mưa rơi trên mặt hồ, một vẻ nồng nàn say đắm trên đầu mày cuối mắt thanh tân. Hạnh phúc dâng lên trong người Huỳnh khiến chàng choáng ngợp.

Huỳnh trườn mình lên mặt hồ uyển chuyển mềm mại như một con rắn, làn nước tung tóe ra hai bên cho Huỳnh lấy đà phóng tới thật nhanh, trong phút chốc cả thân hình trẻ trung nóng hổi cuồng nhiệt của chàng phủ lên cả người cô gái.

Trước khi cả hai kịp biết việc gì xảy ra thì những đôi môi đã gắn chặt lấy nhau, mê cuồng dữ dội. Huỳnh vụt ngừng lại, nghiêng mình giật tung chiến khăn xanh quấn trên ngực thiếu nữ, thân thể cẩm thạch của nàng lồ lộ hiện ra, những hạt mưa rơi tới tấp trên mặt, trên cổ, trên ngực trên bụng nàng, trên đôi chân thon dài của nàng. Những hạt mưa cũng tham lam vội vã. Huỳnh úp mặt vào ngực thiếu nữ, nghe da thịt nồng ấm của nàng run lên mê sảng dưới đôi môi của chàng.

Và trong khi họ tìm lại môi của nhau, trong khi thân thể mảnh dẻ của nàng mở ra dưới thân thể phong ba bão táp của chàng, trong khi đôi cánh tay của họ quấn chặt lấy nhau, mưa từ trên cao vẫn ào ạt trút xuống, những chùm hoa túy tử rung rinh chiếc vương miện màu vàng nhụy hoa trên hai tấm thân đẹp đẽ, những cánh hoa trôi trên mặt nước quanh mình họ. Cả trời đất bềnh bồng điên đảo trong muôn ngàn tiếng hỗn mang của giòng suối bên trên đổ xuống, của ngọn thác phía dưới vọng lên ầm ầm lời xa xôi bí mật của vực sâu.




Chương 36

Bây giờ họ nằm song song bên nhau, ngửa mặt nhìn trời, cái đầu xinh đẹp của nàng gối lên cánh tay Huỳnh, mái tóc dài ướt đẫm nước mưa vương vãi trên mặt chàng.

Mưa đã ngớt hạt, những sợi mưa như tơ mỏng bay phơi phới giữa trời, một chút nắng ửng lên xuyên qua màn mưa bụi làm óng ánh những sợi tơ vàng.

Nàng cất tiếng hỏi:

– Sao anh biết tên em là Lan?

Huỳnh đang đắm mình trong khoái cảm còn dật dờ trên khắp châu thân, nghe tiếng “Lan,” chàng bàng hoàng hỏi giật giọng:

– Hả, tên em là Lan hả, tại sao?

– Thì anh vừa gọi tên em luôn miệng đấy thôi, lại cứ làm bộ không biết.

Nàng nguýt chàng, vẻ hờn dỗi đáng yêu trong giọng nói nũng nịu say mê. Huỳnh thẩn thờ.

– Thế ra em là Lan hả, làm sao anh không biết, anh biết em lâu lắm rồi em ạ, anh biết em từ kiếp trước kia lận.

Nàng xoay người, choàng cánh tay ôm ngang qua ngực chàng:

– Thế anh tên là gì nào?

– Anh tên là Huỳnh.

Nàng kêu lên:

– Huỳnh, Huỳnh, Phạm Huỳnh thi sĩ phải không?

– Nếu em muốn anh là thi sĩ, thì anh sẽ tập làm thơ, vì em là nữ thần, em muốn biến anh thành thứ gì chẳng được.

Huỳnh âu yếm hôn lên mái tóc ướt đẫm của nàng. Bỗng Huỳnh ngạc nhiên thấy cánh tay nàng ôm ngang ngực chàng tự nhiên siết chặt, run rẩy, nàng chống tay lên, khuôn mặt đẹp của nàng cúi xuống sát mặt chàng, đôi mắt nàng mở to chứa đầy vẻ kinh hoàng đau đớn, nàng la to một cách bất lực:

– Không, không, không phải tên anh là Huỳnh, anh không phải là Phạm Huỳnh, em không muốn thế, không thể như thế được.

Huỳnh ngạc nhiên:

– Tại sao thế hở em? Tại sao em không muốn thế, cái tên anh có gì làm em phiền muộn như vậy, nếu em không muốn anh sẽ bỏ quách cái tên đó ngay.

Nàng bật cười chỗi dậy, kéo tay Huỳnh dậy theo, cử chỉ vội vàng hấp tấp, giọng nói của nàng như đứt hơi:

– Trốn đi anh, hãy trốn ngay lập tức, em van anh, ngay bây giờ, đừng chậm trễ, nguy hiểm lắm anh ơi.

Huỳnh kéo nàng sát lại mình, quàng tay ôm đôi vai rung động của nàng:

– Nào, nào, em hãy bình tĩnh xem nào, tại sao em sợ hãi, tại sao em bảo anh hãy trốn chạy? Ở tù như anh để được gặp em như thế này anh tình nguyện ở tù mãi mãi, anh tiếc không ở tù sớm hơn nữa đấy chứ, trốn chạy làm gì, ở ngoài kia anh vô tích sự lắm em ạ.

Người con gái thổn thức, lắc đầu:

– Anh không thể biết được, em là em ruột của anh Châu, giám đốc trung tâm Tây Hạ, chắc anh biết. Em làm việc ở ngoài tỉnh nhưng gần đây anh Châu em bị đau nên em xin nghỉ một tháng vào đây săn sóc cho anh em. Anh Châu em bị sốt rét rừng nặng lắm, em vào đây mới mấy ngày, em ở mé rừng bên kia, nơi khu nhà cán bộ. Cách đây vài ngày anh Châu em lên cơn sốt nặng, có một cán bộ cao cấp ngoài tỉnh vào gặp anh em có việc gấp, anh em phải gượng ngồi dậy trên giường để nói chuyện với người cán bộ ấy. Em ở phòng bên cạnh ngăn bằng một tấm vách nứa nên câu chuyện giữa người ấy và anh em, em đều nghe rõ. Người ấy nói với anh em: “Thượng cấp phái tôi vào đây truyền khẩu lệnh cho đồng chí thi hành ngay kế hoạch thanh toán hai tên Phạm Huỳnh và Nguyễn Trần trong vòng một tháng. Điều cần thiết là phải hoàn tất kế hoạch cho cái chết của chúng nó gây ra hoàn toàn có tính cách tai nạn, bởi vì hai thằng phản động đó rất có uy tín và cảm tình trong hàng ngũ bộ đội, cán bộ của ta cũng như quần chúng ở ngoài. Nếu ta không khéo trong việc này e có hậu quả không hay về sau.” Lúc đó em chưa biết anh và anh Trần nhưng em đã từng nghe tiếng hai anh, có dịp nghe đọc thơ của hai anh trong những dịp liên hoan của tỉnh, vì vậy cho nên khi nghe người ấy nói như vậy tự nhiên em hồi hộp và chú ý vô cùng.

Huỳnh chăm chú theo dõi câu nói của nàng, chàng chợt rùng mình rất nhẹ, nét mặt chàng tối hẳn lại, Huỳnh ghì thiếu nữ vào ngực cho bớt cóng lạnh, giọng chàng vẫn điềm tĩnh.

– Rồi sao nữa em?

– Anh Châu em nói với người kia rằng: “Tôi cũng định bớt sốt sẽ ra tỉnh trình bày với thượng cấp về việc này. Tôi đã biết ý định của thượng cấp nhưng trong thời gian giam giữ họ ở đây, tôi nhận xét thấy họ biết tôn trọng kỷ luật, tỏ ra có tư cách, được mọi người mến chuộng, không ngại khó trong những công tác của trại, vả chăng họ là những người trẻ tuổi có thiên tài, tôi nghĩ không phải mỗi lúc mà đất nước có thể nảy sinh ra những thiên tài như vậy. Thế cho nên tôi muốn đề nghị với thượng cấp cho họ có thời gian để học tập thấm nhuần tư tưởng của chúng ta, cần kiên trì giáo dục họ để khỏi thiệt thòi nhân tài của xứ sở ta trong lúc này.

Ngoài ra tôi cũng biết rằng hai người đó không bao giờ phản bội ta mà về với giặc…” Người cán bộ cắt ngang câu nói của anh Châu em, hắn ta nói: “Thượng cấp đã nghĩ đến tất cả những điều đồng chí đã trình bày, vì vậy thượng cấp cho tôi vào giải thích với đồng chí rằng thiên tài chỉ có ích khi phục vụ cho Đảng và nhân dân, nếu thiên tài phản động thì nguy hiểm gấp ngàn lần những kẻ theo giặc, bởi vì nó lũng đoạn tinh thần hàng ngũ của ta, phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng từ trong xương tủy. Vừa rồi Đảng bộ nhận được báo cáo của cán bộ phụ trách học tập chính trị của trung tâm cho biết thằng Huỳnh vừa có thái độ chống đối rõ rệt, nó tuyên bố tỉnh bơ là nó buồn ngủ trong khi mọi người hoan hô chiến thắng Cao Bắc Lạng. Do đó thượng cấp ra lệnh tối hậu cho đồng chí thi hành ngay kế hoạch đã định, khai thác bệnh đau tim của thằng Huỳnh, loại trừ nó trước, rồi sẽ đến thằng Trần, thượng cấp sẽ chỉ thị cho biết kế hoạch tiếp theo.” Nói xong người ấy từ giã anh em rồi ra về ngay. Anh ơi, lúc ấy em chưa biết anh mà nghe vậy em cũng thấy buồn bã bải hoải cả người. Có lẽ vì cảm tình của anh em biểu lộ rõ ràng ý muốn che chở cho các anh, em đâu ngờ hôm nay em lại gặp chính anh trong hoàn cảnh lạ lùng này.

Huỳnh cười buồn:

– Định mệnh đấy em ạ, làm sao mà em một mình đến đây giữa cơn mưa như vậy?

– Sáng nay em ra suối giặt, suối vắng không có người, em giấu áo quần vào hốc đá trên kia bơi xuống đây để tắm, em vừa xuống đây thì cơn mưa giông đổ tới, em rất thích tắm mưa nên em lên ngồi trên ghềnh đá kia để cho mưa giội xuống thân thể thì thấy anh bơi đến, thoạt nhìn thấy anh em cảm thấy như quen thuộc lâu lắm rồi, em không hiểu tại sao. Em đâu ngờ anh lại là người mà tính mạng đang bị người ta mưu hại, ngay đến anh Châu em cũng đành tuân lệnh, không dám phản đối.

Nói đến đó nàng bỗng trở nên nóng nảy bồn chồn, nàng nhìn Huỳnh khẩn thiết:

– Xin anh hãy trốn đi ngay, hãy trốn ngay với bất cứ giá nào, chẳng qua số phận của chúng mình chỉ gặp nhau có chừng này mà thôi. Xin anh hãy hứa với em, hãy tìm cách trốn khỏi nơi này ngay lập tức.

Người con gái lắc mạnh vai Huỳnh, như cố đánh thức Huỳnh tỉnh dậy từ một cơn mơ nào đó, trong khi nàng nói với chàng câu chuyện lẽ ra phải làm cho chàng xúc động ghê gớm thì nàng thấy vẻ mặt của chàng dần dần trở nên trầm lắng xa xôi, đôi mắt chàng chìm đắm vào hư không dường như chàng quên hẳn có nàng đang ngồi bên cạnh. Khi nàng thôi thúc, kéo tay chàng giật mạnh, Huỳnh gắng gượng cựa mình để biết mình đang còn ở trong thực tại, chàng nắm lấy tay người con gái ôn tồn bày giãi:

– Em bảo anh trốn đi ngay, anh sẵn sàng làm theo ý em bất kể thế nào. Nhưng ngay bây giờ thì không thể được, em bảo anh chạy ngõ nào, trước mặt chúng ta là vực sâu, chung quanh rừng này đầy những hầm chông mà anh không thuộc nổi một đường lối nào cả, ngoại trừ con đường dẫn đến đây để được gặp em hôm nay. Những giờ phút được ở bên em như thế này là diễm phúc mà anh không dám ngờ là có thật, anh không có gì ân hận, cũng không có gì phải vội vàng. Vả chăng anh còn bạn anh, Trần đó, số phận chúng anh ràng buộc với nhau, và như em vừa nói, thì bạn anh cùng chung số phận với anh trong âm mưu của họ. Chúng anh như đã nguyện đồng sinh đồng tử, bạn anh bị ở tù một phần lớn cũng vì nó quá thương anh cho nên anh không thể trốn ngay như em muốn được. Tuy nhiên em hãy tin rằng con người đứng trước cái chết phi lý và oan uổng không ai ngồi yên mà chờ nó đến cả. Bằng cách này hay cách khác chúng anh sẽ tìm được lối thoát ra khỏi chốn này. Xin em hãy yên tâm.

Nàng nghẹn ngào:

– Từ nay không bao giờ em yên tâm được nữa.

Huỳnh nâng cằm nàng lên, áp khuôn mặt nàng giữa hai bàn tay nâng niu của mình; chàng nhìn sâu vào đôi mắt nàng chong chong nhìn chàng với vẻ say đắm tuyệt vọng:

– Khi anh nhìn thấy em ngồi trên ghềnh đá giữa hồ từ xa, khi anh nhìn thấy những tia chớp giật sáng lòa trên đầu em, cơn mưa vây phủ lấy người em, anh biết ngay rằng anh đã bắt gặp một định mệnh vô thường, nhưng anh không ngờ định mệnh ấy vụt trở nên đẹp đẽ một cách khốc liệt như thế này. Chỉ trong một buổi sáng mà choán hết cả đời người, đến thế này là hết rồi, dù anh có sống thêm một trăm năm nữa cuộc đời này cũng không còn gì để cho anh thêm được nữa. Em hãy nhìn quanh đây, để nhớ mãi đời đời, buổi động phòng hoa chúc của chúng ta trên đời này chỉ có một, ngàn năm trước ngàn năm sau Thượng Đế không thể tạo nổi một cuộc tao phùng kỳ diệu thứ hai.

Huỳnh buông tay nàng ra đột ngột, quay mặt đi, lẩm bẩm:

– Lan, Lan, em chỉ là một, không hề có hai, tại sao, tại sao khi người ta sắp giết anh em lại đến với anh, em báo cho anh giờ tận cùng của anh nữa, em là định mệnh gì mà lạ lùng đến thế.

Người con gái thõng tay, nàng cảm thấy hụt hẫng khi Huỳnh không ôm nàng trong tay nữa; nàng thấy mình lạc lối không hiểu nổi những điều Huỳnh nói; mưa nhỏ hạt vẫn rơi trên tóc hai người. Nàng từ từ đứng dậy, chiếc khăn quấn ngang ngực nàng rũ xuống tận đùi. Huỳnh ngẩng lên, dáng nàng cao vút choán hẳn một vùng hồ suối và cả mảnh trời bên trên. Trước mặt chàng, nàng vụt trở nên xa xôi bí mật vô cùng, vẻ đẹp của nàng biến đổi một cách không ngờ. Nét u buồn lặng lẽ trong đôi mắt nàng nhìn xuống Huỳnh như bao trùm lấy chàng trong một thâm tình trưởng thành và to lớn. Chỉ một giờ trước nàng còn là một cô gái bé bỏng ngồi nghịch mưa trên phiến đá, một giờ sau nàng là hiện thân cho người đàn bà đau khổ đến thiên thu. Hình ảnh của nàng trước mặt chàng phảng phất nét tượng hình của pho tượng đá câm nín khổ đau.

Huỳnh bàng hoàng tự hỏi: “Có thể đến thế được ư? Cuộc đời này có còn gì nữa chăng?”

Nàng nói, thật bình thản:

– Em phải về, trưa rồi.

Huỳnh nhìn mặt hồ quang đãng sau cơn mưa, một chút nắng rực rỡ đậu như cánh bướm trên ngọn cây cao, hình như đâu đó có tiếng xôn xao của chim chóc hay của loài người.

Người con gái lại nói:

– Em chờ anh ở đây, trưa mai, anh đến nhé.

Huỳnh gật đầu, chàng lấy làm lạ nghe âm thanh tiếng nói của nàng như vẳng lại từ nơi hư vô nào xa xôi quá, tiếng nói không có vẻ thiết thực chút nào. Và cả người con gái vừa ở trong vòng tay yêu đương cuồng nhiệt của chàng nữa, nàng đang còn đứng đó mà như đã xa lắm rồi, mất hút trong thời gian tro bụi.

Nàng quỳ xuống trước mặt Huỳnh, ôm lấy chàng, dịu dàng hôn lên mắt, lên má, lên môi, lên cổ Huỳnh, ở nàng bây giờ biểu lộ một vẻ yêu thương đằm thắm, buồn bã và cam chịu. Tim Huỳnh nhói lên, chàng ghì chặt lấy nàng, chua xót, câm nín, thiết tha. Chợt Huỳnh đẩy nàng ra, giọng nói của chàng khô khan một cách lạ:

– Thôi, em về đi kẻo trưa rồi.

Nàng ngoan ngoãn rời Huỳnh, chuồi mình xuống nước lặn mất tăm như một nữ nhân ngư chợt biến trong làn nước xanh, cho đến khi Huỳnh thấy nàng ngoi lên chống tay trên bờ đá bên trên giòng suối, nàng nhún mình, phút chốc đã đứng trên một tảng đá xanh rêu. Nàng đứng đó, quay lại nhìn Huỳnh một giây, đôi mắt nàng đăm đăm, môi nàng mím lại, tóc nàng dán bết vào má, vào cổ, chiếc khăn quấn trên ngực nàng ướt lướt thướt, dính sát vào người. Nàng lẳng lặng quay đi, nhảy qua từng phiến đá nhẹ nhàng như một con sóc. Đến chỗ rẽ sắp khuất mặt hồ, nàng lại ngừng lại, quay nhìn Huỳnh lần nữa, lần này thân hình nàng khuất sau một đám lá, Huỳnh chỉ nhìn thấy nàng ngoảnh lại sau những chạc cây ngang dọc như một cái khuôn hình đóng khung khuôn mặt buồn bã của nàng ở giữa. Nắng lọt qua kẽ lá rọi sáng hẳn một bên má nàng, cái nhìn của nàng âm thầm lặng lẽ.

Rồi nàng biến mất như một giấc mơ.

Lan, Lan em mãi mãi chỉ là một giấc mơ, nếu một mai anh chết đi, những giấc mơ và em sẽ cùng anh tan biến, vì vậy cho nên anh có thiết tha với sự sống cũng chỉ là vì em. Vậy mà người ta sắp giết anh, người ta nhất định giết một kẻ chỉ còn mong giữ gìn sự sống cho em. Vậy thì, hỏi còn chi để bày giãi, còn chi để biện minh? Anh chỉ còn lại một mình, đơn độc trên phiến đá trung trinh này, em chợt đến rồi chợt đi, em cho anh sống đến tận cùng để rồi em báo cho anh sự chết.

Tên em là Lan, phải không em, anh gọi tên em rồi đó, em hẹn anh ngày mai, phải không em? Anh sẽ đến với em ngày mai, vì em đã muốn, vì em hẹn hò. Anh sẽ không trốn chạy trước ngày mai đâu em. Tại sao em thúc giục anh trốn chạy, tại sao em lại hẹn hò? Tại vì em là Lan, phải không em? Là giấc mơ vô cùng vô tận của đời anh, giấc mơ duy nhất của một kẻ bị đồng loại săn đuổi đến cùng đường.

Ngày mai, em hãy chờ anh ở đây em nhé, em hãy chờ anh, trên bước đường của một kẻ tử tù, anh sẽ đến với em.

Anh sẽ đến, anh sẽ đến.




Chương 37

Trần ngồi trên đống thân cây lồ ô, chàng cầm một chiếc lá đưa lên miệng nhằn nát cuống lá, mắt chàng lộ vẻ mỉa mai phẫn nộ, chàng chép miệng chua chát:

– À thì ra họ không muốn cho mình sống nữa, thì ra họ đã chán cái bản mặt mình lắm rồi, không còn muốn thấy mình chường mặt ra trên thế gian này nữa. Chỉ vì quá nhiều người biết đến mình nên họ không thể thẳng thắn loại trừ mà thôi. Tóm tắt là như vậy.

Trần vụt quăng chiếc lá xuống đất, đưa tay làm một cử chỉ vẫy tay ngắn và gọn, chàng cao giọng nói như tuồng:

– A, đủ rồi, màn sắp hạ, tôi cho anh nghỉ, ha ha ha.

Tiếng cười của chàng ghê rợn:

– Huỳnh, tao không nhớ tên bạo chúa nào đã nói một câu tương tự như thế trong giờ lâm chung của nó, nhưng tao nghĩ màn sắp hạ rồi đó, mày nghĩ sao?

– Tao nghĩ đến nàng, đó là điều đáng nghĩ nhất đối với tao bây giờ, – Huỳnh mơ màng nói, trên môi thoáng một nụ cười đắm đuối, – tao sợ chết thật đấy nhưng tao vốn lười, mày biết rồi đấy, tùy mày muốn nghĩ gì thì nghĩ, tao kể lại cho mày nghe tất cả rồi đó, nàng bảo chúng nó kỳ hạn cho anh nàng thanh toán chúng mình trong vòng một tháng, vậy còn nhiều thì giờ chán để sống và để chết. Bây giờ hãy để yên cho tao với nàng ít nhất là phút này.

Trần tư lự:

– Mày bảo trưa mai nàng chờ mày ở ngoài suối hả, tao nghĩ có thể nhờ nàng giúp một tay để chúng mình thoát được nơi này.

– Không nên, mày quên rằng nàng là Lan đấy chứ. Không bao giờ tao để cho Lan liên lụy vì mình. Chắc chắn là một tiền định mà tao đã gặp nàng, nàng báo cho chúng ta cái lưỡi gươm lấp lánh trên đầu chúng ta kia, thế cũng đủ nguy hiểm cho nàng lắm rồi. Có lẽ để tránh nguy hiểm cho nàng, chính tao cũng không đến chỗ hẹn với nàng ngày mai nữa, sẽ không bao giờ gặp lại nàng nữa. Thôi thế cũng đành.

– À, thì ra người ta sợ chết kinh khủng, và người ta si tình còn hơn sợ chết nữa kia đấy, khiếp thật, – Trần mỉa mai bạn nhưng không giấu vẻ thương yêu trong giọng nói, – mày nói cũng phải, thế thì thôi vậy. Chắc có một cách nào đó, tao chưa nghĩ ra vì tin này đột ngột quá, nhưng rồi cũng phải nghĩ ra. Không dính đến Lan của mày, dĩ nhiên. Thôi hãy vác cái đống cây khốn nạn này về trại đi đã, chiều quá rồi, một ngày của kỳ hạn sắp qua. Lạ một điều là biết người ta sắp giết mình không biết bằng cách nào mà tao không thấy sợ, thấy buồn gì cả. Chỉ thấy ghê tởm chán chường, chán đến lộn mửa, thế thôi.

– Tao không muốn chết, tao sợ chết hẳn hòi, nhất là ngay lúc này tao đang bắt gặp hạnh phúc, hạnh phúc to lớn quá đối với tao trong khi tao chỉ là một tên tù, một tên tù biết mình đã bị lên án. Ghê gớm thật, cái gì cũng quá cỡ đối với tao hết. Một tử tội yêu em gái của viên giám ngục, viên giám ngục không ghét bỏ gì hắn, trái lại nữa là khác, vậy mà phải tuân lệnh cấp trên tìm cách giết hắn. Người ta có thể giết nhau không bằng căm thù đấy chứ, cứ gì phải học tập căm thù mới giết được nhau.

Tao thấy trong người tao ngây ngất sốt mày ạ. Cũng như mày tao kinh tởm và còn khiếp sợ nữa, vô lẽ gào lên hay thét lên thôi, nhưng thật tình tao cố nén để khỏi làm như vậy.

– Thôi đi về, còn chừng này cây để mình tao vác được rồi. Bây giờ mày hãy đến trạm y tế để khai bệnh, về lều nằm nghỉ trước đi, tao sẽ lấy cơm về cho.

– Không, tao có thể vác được, đây này, có sao đâu, tao còn mạnh chán, còn chịu đựng gian lao cay đắng của cuộc đời cho đến ê chề mà vẫn không muốn chết.

Huỳnh bước đi, với bó lồ ô nặng trĩu trên vai:

– Chết làm sao cho đành, hở Trời.

Hai người về đến cổng trại, có vài cán bộ của tỉnh từ phía văn phòng giám đốc đi ra, họ nhìn hai người một thoáng, rồi quay đi. Những người này đều có quen biết Trần và Huỳnh từ trước. Trước kia mỗi lần gặp hai người, họ đều có vẻ hãnh diện được bắt tay hai người, được chuyện trò chung với nhau, nhưng bây giờ họ nhìn thẳng ra cái điều không hề biết hai người bao giờ cả. Trần mỉm cười chua chát, chàng rất vui lòng mà làm kẻ lạ, cho đến lý tưởng mà chàng đã yêu quý bằng tất cả tâm hồn thanh xuân mê đắm trước kia, bây giờ cũng chỉ còn lại âm hưởng của một mùi vị nhạt nhẽo trống không, tuy nhiên vết chém của đau thương vẫn hằn lên da lên thịt. Từ ngày vào tù, tâm hồn chàng gần như lắng dịu, bởi công việc nặng nhọc, bởi rừng sâu như xa lánh cuộc đời, nhưng bây giờ, khi biết người ta vẫn không buông tha mình, khi bắt gặp lại những khuôn mặt đồng chí cũ, chàng không khỏi rùng mình ớn lạnh. Làm sao mà dửng dưng với cái chết của mình cho được.

Cuộc kiểm thảo buổi tối như thường lệ đã kết thúc.

Sau một ngày làm việc nhọc nhằn, Bằng và Liêu vừa nằm xuống đã lăn ra ngủ ngay ở cái sạp bằng nứa vừa làm thêm ở cạnh sạp của Trần và Huỳnh. Hai người bạn nằm yên lặng nhưng họ biết nhau vẫn còn thức. Trần nghĩ đến cuộc trốn chạy phải thực hiện bằng bất cứ giá nào, không thể để chúng giết hai đứa như hai con chó ghẻ được. Trần nghĩ đến Hiếu, chàng mong chóng đến chủ nhật, còn hai ngày nữa để được gặp nàng. Chàng sẽ cho nàng biết kế hoạch đào tẩu của chàng và sắp đặt cho nàng và hai đứa bé rời khỏi chiến khu trước. Từ khi nghe Huỳnh kể lại người con gái cho biết chúng không dám công khai giết mình, mà chỉ tìm âm mưu ám hại, chàng vừa ghê tởm nhưng cũng vừa hy vọng, nếu chàng và Huỳnh hết sức thận trọng có thể kéo dài cái giờ thảm khốc bị rơi vào cái bẫy của lũ thợ săn đã giương ra sẵn. Có lẽ quanh đây ngay bây giờ bẫy đã được giương ra rồi cũng nên.

Chàng vẫn biết rừng bao quanh đây đều dày đặc những hầm chông không thể khinh xuất liều mạng lẩn trốn vào rừng trong giờ làm việc được. Bề ngoài trông khu rừng thật vô hại, những con đường mòn lại có vẻ hiền lành lắm, đám tù nhân làm việc lẩn khuất trong những lùm cây đều có vẻ tự do thoải mái. Nhưng ai nấy đều biết cái số phận ghê gớm khắc nghiệt đang chờ họ trên đầu những đám cây xanh tươi kia, dưới những thảm cỏ nhung óng mượt rung rinh những hoa vàng nhỏ xíu. Cạm bẫy do bộ óc tinh tế của con người đã phô bày dáng vẻ kiều diễm mời mọc trên tấm áo khoác ngoài lộng lẫy uy nghi và kiêu hãnh của núi rừng.

Chỉ còn một ngã duy nhất, con đường chính trước cổng trại dẫn ra đường lớn mở ra nhiều ngã, một ngã đi đến chiến khu ở đó tập trung những cơ quan đầu não của kháng chiến tỉnh, một ngã băng qua dãy núi Trường Sơn để đi vào các tỉnh miền Nam Trung phần, một ngã vòng xuống thung lũng ngang qua lăng tẩm của một vị vua triều Nguyễn đổ xuống các làng tiếp giáp với vùng phụ cận thành phố. Cũng do ngã đó mà thân nhân của tù từ các nơi dưới đồng bằng lên chiến khu rồi theo đường đó đến trung tâm Tây Hạ bới xách cho người thân của họ bị cầm tù. Hiếu cũng đi lại trên con đường đó hàng tuần để đến thăm chàng, để nhìn chàng mà khóc, và để trở về vội vàng hấp tấp sợ cơn mưa, sợ trời sập tối giữa rừng. Con đường ấy được canh phòng nghiêm mật, cán bộ và thường dân ra vào đều bị kiểm soát gắt gao cả mấy trạm dọc đường. Trần nghĩ không còn cách nào khác, chàng và Huỳnh sẽ liều mạng tìm cách thoát ra ngay ở chính con đường ấy, bởi vì chưa ai dám nghĩ đến ngã đó trong kế hoạch đào tẩu cả. Ngày mai vào rừng chàng sẽ bàn với Huỳnh kế hoạch thoát thân theo con đường ấy.

Trần biết Huỳnh cũng không ngủ, chàng thấy bạn trở mình luôn, thằng này hỏng, ban chiều đã muốn sốt mà bây giờ cứ dằn dọc như thế lỡ đau nặng thì nguy. Cái khối gan lì câm nín ấy mà khi chiều đã kể chuyện gặp cô gái ngoài hồ nước cho Trần nghe một cách cuồng tín si mê, lại còn bị ám ảnh bởi cái chết, mối lo sợ thường trực của Huỳnh nữa thì không biết sẽ ra sao. Nếu Huỳnh lại đau ốm, Trần không thể bỏ Huỳnh được, Huỳnh cần phải được khỏe mạnh để đủ sức chịu đựng cuộc bôn tẩu chắc chắn là muôn phần gian lao nguy hiểm.

Trần trở mình, lấy khuỷu tay huých bạn, gắt khẽ:

– Này, mày cố ngủ đi chứ, mày cần phải…

Trần bỗng im bặt vì đúng lúc đó, một bàn tay của Huỳnh đưa ra níu chặt cánh tay chàng, cùng tiếng Huỳnh thì thào như muốn hụt hơi:

– Hãy yên nào, mày có nghe thấy gì không, đấy, chính chúng nó rồi đấy.

Tự dưng một luồng giá lạnh chạy suốt người Trần, không phải vì Trần đã nghe thấy gì mà chính vì trong giọng nói của Huỳnh khiến chàng linh cảm một điều gì đó lạ lắm, không thể phân tách nổi. Huỳnh bóp cánh tay Trần mạnh hơn, khiến chàng thấy cả cánh tay nhức buốt, tiếng Huỳnh lạc đi, gần như rên lên:

– Đấy chúng nó đến gần rồi đấy, mày nhớ không, chúng nó nhắm vào tao trước, vào tao trước.

Bàn tay Huỳnh bấu vào cánh tay Trần rịn mồ hôi ra ướt đầm, cả người Huỳnh run lên bần bật, cùng lúc chàng nghe tiếng chân nhiều người thình thịch tiến đến dừng trước cửa lều. Tiếng mở khóa lách cách, tiếng dây xích va chạm loảng xoảng, cánh cửa mở tung, ánh đèn pin rọi thẳng vào chỗ hai người, tiếng cò súng lên đạn bật đánh tách khô khan, một tiếng nói oang oang dữ dằn như xói vào óc, tiếng nói sắc lạnh xoáy mạnh vào bầu không khí cô tịch của đêm khuya:

– Phạm Huỳnh, dậy mau, có lệnh gọi đi ngay.

Trần bật ngồi dậy, bàn tay Huỳnh níu cánh tay chàng tuột ra, rơi bịch xuống chiếu. Trần nói, không biết mình đang nói gì:

– Dậy đi Huỳnh, không sao đâu.

Chàng quay lại, ngạc nhiên vì sự im lìm kỳ lạ của Huỳnh, trong ánh sáng của ngọn đèn pin rọi thẳng đến giường, bàn tay của Huỳnh nằm gọn trong luồng ánh sáng ấy, bàn tay vừa níu lấy tay chàng rơi tuột xuống kia, vẫn giữ nguyên những ngón tay co quắp trong một cử chỉ nắm níu bất động.

Một cảm giác ghê gớm dội lên như có mũi dao vô hình đâm suốt ngực Trần, chàng vồ lấy bàn tay Huỳnh, hốt hoảng:

– Mày làm sao thế, hả Huỳnh?

Chàng cúi xuống mặt Huỳnh, bỗng chàng lùi lại, không, không thể được, cái gì ở trước mặt chàng kia, không phải là Huỳnh, không thể là con người đã từng yêu thương, vui buồn, giận dỗi vô cùng mãnh liệt trước đây mới có một giây. Cái xác bất động không còn hơi thở này, đôi mắt mở to nhìn vào khoảng không kia, cái miệng há ra như một tiếng gọi nửa chừng. Một chất gì mằn mặn thấm xuống cổ họng khô đắng của Trần; chàng nghe tiếng nói của mình vỡ ra từng mảnh vụn:

– Huỳnh, có phải mày đấy ư?

Chàng thấy loáng thoáng những bóng người chạy lại, họ nắm vai chàng kéo giật về phía sau, Trần đứng yên ngơ ngác, toàn thân cóng lạnh, trí óc trống rỗng.

Có tiếng người nói:

– Chết rồi, thế là xong, đi gọi y sĩ tới đây.

“Chết rồi, thế là xong,” âm thanh đó như một tiếng reo đắc thắng, tiếng nói mới nhẹ nhõm làm sao. Trí óc mê mụ của Trần vụt lóe lên một tia sáng rọi thẳng vào hình ảnh của một cái bẫy đã sập xuống, con mồi đã đút cổ vào dây thòng lọng.

Cái bẫy là đây, bệnh đau tim của Huỳnh đó, với ấn tượng kinh hoàng về những đêm bị gọi dậy mang đi giữa khuya. Họ đã thành công rực rỡ với kế hoạch về Huỳnh, xảy ra đúng như dự liệu của họ.

Bây giờ đến lượt Trần, cái bẫy họ đặt cho chàng ở đâu đây, Trần lười lỉnh không muốn nghĩ tiếp, mọi việc đó dường như không còn liên hệ gì với chàng lúc này nữa.

Trần không biết người ta đã hỏi chàng những gì và chàng đã trả lời ra làm sao, chàng thờ ơ nhìn tờ biên bản của y sĩ làm ngay bên xác bạn chàng, dưới ánh sáng vàng bệt buồn thảm của ngọn đèn dầu. Tờ biên bản ghi vỏn vẹn:

“Bệnh tim. Tắt thở vì trường hợp bị kích ngất.”

Thì đúng qua rồi còn gì, mày đã bằng lòng chưa Huỳnh, người ta đã ghi nhận đúng cái chết của mày, không thừa không thiếu chữ nào cả. Mày hãy vui lòng đi đi, đừng ngoảnh lại, cãi vã lôi thôi, có ai vu khống cho mày đâu, mày chết có gì là oan uổng, bệnh đau tim nó vốn là của mày, nó lại càng không phải của những kẻ muốn mày rời bỏ cuộc sống đen bạc này.

Họ đã đi hết rồi đó, sau khi nhìn một cách chán chê thỏa mãn cái công trình của họ là cái xác của mày. Mày còn ở lại đây với tao và Bằng, Liêu đêm nay nữa trong cái lều của chúng mình. Không có gì thay đổi cho lắm, vẫn còn lại đủ bốn tên tù chúng mình ở đây đêm nay. Liêu và tao bắt đầu sửa lại thân thể chân tay mày cho ngay ngắn, tao muốn mày thật chững chạc đi đến trước mặt Thượng Đế để ca ngợi Người. Hồi sáng trong cơn mưa tao có ca ngợi Thượng Đế là đại nghệ sĩ. Tao vuốt mắt cho mày đây, tao không nhớ đã vuốt biết bao nhiêu đôi mắt như thế này, ừ, khép kín lại, như thế này vẫn hay hơn, trông mày bây giờ có vẻ thảnh thơi rồi đấy, tao thấy hình như mày mỉm cười, sao lại không mỉm cười nhỉ. Có còn gì ràng buộc khiến mày bận bịu nữa đâu, mày đã được giải thoát, số phận đen tối lầm than của Tổ quốc Việt Nam không còn can dự gì đến mày nữa, mẹ và người yêu không còn chờ đợi mày nữa, mày cái thằng lười biếng thành thần, tao không còn cằn nhằn mày ở bẩn nữa, không đôi co với mày về chuyện rửa mặt, đánh răng, thay áo quần nữa.

Cái gì nhỏ giọt trên tay mày như nước mưa thế này? À, nước mắt của tao, thế mà tao không biết đấy, nước mắt với nước mưa thì có khác gì nhau, trên quê hương này hằng hà sa số. Mày chết thế là phải, Huỳnh ạ, kiêu hãnh như mày, sống mãi làm sao khỏi có ngày bị sa một giọt nước mắt, mà một giọt nước mắt chỉ như một giọt mưa là cùng.

Bây giờ mày hãy ngủ yên, có bàn tay tao mềm và ấm siết chặt lấy tay mày, tao ngồi bên cạnh mày đây; mày hãy ngủ yên, nếu cần tao sẽ vỗ nhẹ để ru mày; mày hãy ngủ yên, tao sẽ ngồi đây với mày qua cái đêm âm u dài dặc này, tao nhất định không gục xuống bên xác mày.

Cho đến khi mặt trời thắp sáng nhân gian ngoài kia, cho đến khi chỉ một mình tao còn nhìn thấy mặt trời.




Chương 38

Hơn hai tuần rồi, mộ của Huỳnh, nấm đất đỏ au sẫm màu sau mỗi cơn mưa đã lấm tấm vài cọng cỏ xanh thưa thớt. Chiều nay sau giờ làm việc trong rừng, trước khi về trại như thường lệ, Trần tạt qua thăm mộ Huỳnh. Chàng lại thấy một cành hoa túy tử đặt ngay trên đầu mộ như mọi ngày. Chàng nhìn những cánh hoa màu xanh nhạt, trên đầu có điểm cái nhụy vàng giống như chiếc vương miện khiến chàng nhớ đến những tàng cây rậm lá tỏa bóng trên mặt hồ dưới giòng suối. Những chùm hoa xanh này đã từ đó rũ xuống mặt hồ, bỗng dưng chàng thấy ngậm ngùi thương cảm. Người con gái tên Lan ngày hôm sau đó có đến bên giòng suối để chờ đợi người đàn ông đã một lần đi qua đời nàng sẽ không bao giờ trở lại nữa không? Bây giờ thì nàng đã biết người ấy không còn trở lại mà đã trở thành của nàng vĩnh viễn, những cánh hoa xanh biếc này ngày ngày được đặt lên phần mộ như biểu tượng cho một sở hữu ân tình vô thủy vô chung.

Mộ Huỳnh nằm cạnh mộ Lương, nhìn hai người bạn của mình song song nằm yên nghỉ bên nhau, hai nấm mộ có cùng hình dáng giống hệt nhau, Trần nghĩ đến sự đồng nhất của tất cả những nấm mộ, lòng bỗng thấy bớt ưu sầu. Chàng nghĩ đến những ngôi mộ trùng trùng điệp điệp từ ngàn vạn năm nay, chàng nghĩ đến sự yên nghỉ vĩ đại của nhân loại, trong một thoáng trên bước đường tù tội, chàng bỗng thấy thân thể mình chếnh choáng một cảm giác nhẹ hẫng thênh thang.

Trần hy vọng sẽ gặp Hiếu trong lần thăm viếng chủ nhật ngày mai biết bao, hình ảnh Hiếu với khuôn mặt xanh xao nhợt nhạt của nàng, với đôi mắt lé cô đơn lạc lõng, với nụ cười hiền hậu trên đôi môi úa màu, với cái bụng nặng nề mang cái thai sáu tháng. Trần cảm thấy lòng nôn nao mong mỏi gặp nàng. Bây giờ Huỳnh không còn nữa, chàng chỉ còn mình Hiếu giữa cuộc đời này. Chàng chỉ muốn gặp nàng, nhìn thấy nàng để biết sự hiện hữu của mình có thật. Hai tuần nay không hiểu sao nàng không đến, chàng cảm thấy mình bị mất hút trong một làn sương khói dày đặc. Sau cái chết của Huỳnh, chàng làm việc, ăn, ngủ như một cái máy, nỗi ưu sầu nhận chìm chàng trong một thế giới vắng ngắt, mênh mông. Gần như chàng không nhận biết có Liêu và Bằng ở bên cạnh, cùng sinh hoạt với chàng trong một căn lều nữa.

Đã qua tháng chạp, lại một năm sắp qua, lại một năm sắp đến. Hình thù những đám mây của những buổi chiều này cũng lạ lắm. Mặt trời như ẩn mặt đâu đó sau những đám mây tháng chạp này, nó đùn lên từ sau rặng núi đen ngòm ở xa, tỏa ra cuồn cuộn giữa nền trời xám ngắt mênh mông, nổi hẳn lên từng đợt phản chiếu ánh sáng của thinh không, tự đó phát ra một âm thanh chới với giữa trời. Âm thanh treo lơ lửng dưới vòm mây qua những đường mây ngoằn ngoèo vần vụ cúi xuống thấp sà mặt đất như muốn mang đất trời nhập lại làm một.

Không khí buổi chiều mùa đông trong rừng giá buốt căm căm.

Trần đứng dậy thất thểu đi trên con đường trở về trại giam, các bạn tù về trước đã rải rác ra ngồi trên những phiến đá của họ ở góc rừng cuối trại như thường lệ. Trần đi thẳng đến phiến đá của Huỳnh, toan ngồi xuống đó, có tiếng gọi tên chàng khiến chàng ngoảnh lại. Một liên lạc viên trong văn phòng giám đốc trại giam chạy đến, y vừa thở hổn hển vừa cằn nhằn Trần:

– Tôi đi tìm anh khắp cả, anh làm gì mà về chậm thế, đồng chí giám đốc cho gọi anh đến văn phòng ngay có việc cần.

– Ngay bây giờ à?

– Ngay bây giờ, đồng chí giám đốc đang đợi.

Trần đi theo người liên lạc viên tiến về phía văn phòng, tự nhủ không biết có phải đã đến lượt mình không. Chàng ngạc nhiên thấy mình vô cùng thờ ơ đối với ý nghĩ chết chóc lẽ ra phải làm chàng khiếp đảm mới phải.

Chàng ngoái nhìn lại phía sau, cảnh những bạn tù rách rưới thảm hại đang ngồi co ro còm cõi lạnh buốt trên những phiến đá day mặt về phía Tây trong buổi chiều đông khiến chàng hiểu tại sao lòng chàng dửng dưng với mọi sự. Nấm mộ Huỳnh với cành hoa túy tử bên trên chẳng đã gây cho chàng một huyễn tượng sâu thẳm về cái chết đó ru, có chi mà khiếp hãi.

Viên giám đốc trại giam đứng đợi Trần trước thềm cửa văn phòng. Y chìa tay bắt tay Trần, nói bằng một thứ giọng dịu dàng thân thiết khiến Trần lấy làm lạ:

– Anh Trần, tôi chờ anh đây.

Y đưa Trần vào bàn giấy, mời Trần ngồi trên một chiếc ghế, y ngồi đối diện với Trần. Trần ngồi xuống, nhìn y chờ đợi, viên giám ngục có vẻ mặt xanh xao, tái mét, đôi mắt y buồn bã nhìn xuống, đầu y hơi cúi tới trước khiến Trần chú ý tới vầng trán cao, có vài đường gân nổi lên chạy dài xuống sống mũi thẳng, nét mặt có những nét sang quý hiếm có ở một viên giám ngục khiến Trần chợt có thiện cảm với y. Chàng nghĩ có lẽ vì y là anh ruột của người thiếu nữ Huỳnh yêu, và nhất là qua thiếu nữ mà Huỳnh và chàng biết được lòng dạ của y đối với bọn chàng không đến nỗi nào. Nhưng dầu sao y cũng không cứu nổi Huỳnh thoát chết, và giờ đây đến lúc y phải thi hành kế hoạch nhắm vào Trần. Có thể vì thế mà sự ân hận ray rứt đã in dấu lên nét mặt ưu phiền xanh mét kia chăng, hay đó chỉ là chứng bệnh sốt rét ngã nước?

Trần buột miệng:

– Huỳnh chết rồi, bây giờ đến lượt tôi phải không anh Châu?

Viên giám ngục ngẩng lên, đôi mắt y tối sầm; y đứng phắt dậy, thọc hai tay vào túi quần, cúi đầu đi đi lại lại trong phòng, vẻ bứt rứt khó khăn. Bất thần y đứng dừng lại ngay trước mặt Trần, y nhìn thẳng vào mặt chàng, nói nhanh:

– Tôi gọi anh đến để báo tin cho anh, chị Hiếu đã chết.

Trần tối tăm mặt mũi, như sét đánh ngang đầu, chàng không thể tin ở tai chàng được nữa, chàng lảo đảo đứng lên, viên giám ngục thấp hơn chàng nửa cái đầu, Trần cúi sát mặt y, đưa hai tay nắm chặt hai vai y, chàng hét to trong khi cảm thấy mình rời rã không còn chút sức lực nào nữa:

– Hiếu chết, tại sao, nói mau, chúng mày đã làm gì nàng?

Tiếng hét của Trần làm cánh cửa ăn thông qua phòng bên cạnh vụt mở ra, hai nhân viên của văn phòng giám đốc chạy vào. Khi họ thấy Trần nắm vai viên giám đốc của họ lắc mạnh, tức thì vẻ mặt họ đổi ra hầm hầm, họ vừa dợm bước tới thì viên giám ngục khoác tay ra lệnh:

– Hãy sang bên kia, tôi không gọi các đồng chí.

Hai tên nhân viên hậm hực tuân theo, họ biến ngay tức khắc sau cánh cửa khép lại.

Cử chỉ của viên giám ngục làm cho Trần tỉnh lại, chàng buông viên giám ngục ra, ngồi gục xuống ghế như một thân cây bị đổ. Chàng ôm đầu cúi xuống, nghe một cách mơ hồ tiếng nói của viên giám ngục đều đều buồn nản như tự biết mình đang làm một việc tệ hại nhất:

– Chị ấy bị tai nạn trong khi đi đến đây thăm anh ngày chủ nhật cách đây hai tuần, khi đi qua chiếc cầu phía trên thôn Mai Lĩnh, trời đang mưa to, thân cây cầu tròn và trơn nên chị ấy bị trợt chân ngã xuống suối, nước lũ chảy xiết, chị bị cuốn đi luôn, không ai biết cả. Mãi cách đây một tuần người ta mới thấy xác chị trôi vào bờ sông tận dưới làng Nguyệt. Có người nhận ra chị trước kia làm việc trên tỉnh nên người ta báo cáo về tỉnh ngay. Tỉnh đã ra lệnh cho ủy ban địa phương chôn cất chị tử tế ở cánh đồng phía bắc làng Nguyệt, ngay trên gò có cây bàng đó. Liên lạc viên ngoài tỉnh vừa vào cho tôi biết. Tôi phải báo tin này cho anh thật là một việc khổ tâm cho cả tôi vì trước kia tôi cũng có quen biết chị khi cùng chị làm việc trong những công tác nội thành. Đó là một người đàn bà rất đáng quý, tôi xin có lời chia buồn cùng anh.

Trần ngẩng lên, đôi mắt chàng dại đi, chàng hỏi viên giám ngục:

– Bây giờ tôi về lều được không?

– Được, nhưng hãy gượm, còn việc này nữa, suýt tôi quên, sáng mai anh sẽ ra trình diện ty Công an Tỉnh, vậy mai anh không phải vào rừng làm việc, anh sẽ đến đây vào lúc tám giờ, sẽ có người đưa anh ra tỉnh.

Viên giám ngục với tay lấy một tờ công văn đánh máy để trên bàn giấy giao cho Trần:

– Đây là lệnh của tỉnh gọi anh.

Trần cầm mảnh giấy trong tay, chàng không hiểu viên giám ngục đã nói gì, chàng cúi nhìn mảnh giấy, nhíu mày:

– Đây là cái gì thế này?

– Lệnh gọi anh ra trình diện ty Công an Tỉnh, – viên giám ngục kiên nhẫn nhắc lại với một chút lòng trắc ẩn – anh nghe rõ chưa?

Trần ngơ ngác nhắc lại:

– Trình diện, trình diện à, để làm gì thế?

– Rất tiếc tôi cũng không được biết rõ.

Mặt Trần đanh lại:

– Đúng, anh không thể biết rõ gì cả, luôn cả cái chết của Huỳnh, và có lẽ cái chết của vợ con tôi nữa. Các anh không bao giờ có thể biết rõ gì cả, các anh chỉ biết rõ con số xác chết như núi chồng chất quanh các anh mà thôi.

Viên giám ngục vẫn ôn tồn:

– Bây giờ anh có thể trở về lều của anh. Tối nay anh được phép nghỉ sinh hoạt.

Trần cúi đầu lảo đảo bước ra khỏi văn phòng, cùng lúc tiếng cồng tập họp nổi lên, những tù nhân lục tục đứng dậy chạy lúp xúp về phía cuối sân. Trần dừng lại ngơ ngác nhìn quanh. Nàng chết rồi thật sao, nàng với đứa con của tôi trong thân thể nàng. Tôi phải làm gì bây giờ? Bây giờ họ đã chết, tôi như thế này là sống đây à? Hiếu ơi, em đã nằm yên dưới đất rồi ư, làm sao anh có thể sống?

Trần lủi thủi bước đi, lần thứ nhất trong đời, chàng cam tâm cúi đầu trước số phận, lần thứ nhất trong đời, chàng ý thức được mình đang đi giữa khoảng không. Đất sụt dưới bàn chân trần trụi của chàng. Trên đầu chàng có đám mây sà xuống thật thấp, chàng nghĩ không biết đưa tay lên có thể kéo nó xuống, kéo sập luôn cả bầu trời này được chăng. Chàng ngẩn ngơ cười với ý nghĩ đó, chợt thấy dãy lều trong bóng chiều sẫm màu bỗng trở nên lờ mờ nhòa nhạt. Chàng đưa tay vuốt mặt để nhìn rõ hơn, chàng thấy tay mình ướt đẫm, chàng nhìn trời vu vơ tự hỏi. Trời không mưa mà sao thế này? Chàng lại nghĩ trời rét quá, mùa đông dài suốt đời như thế này chăng? Chàng nhìn thấy mùa đông dài trên những nấm mồ. Trên quê hương cả dãy mồ hằng hà sa số, cái nào cũng giống nhau.

Nước mắt của chàng nhòa nhạt giữa hư không, nấm mồ của Hiếu đang cheo leo giữa trời kia, nàng nhắm mắt không yên vì chàng bị giam cầm chưa tới được với nàng, nấm mồ đang đợi chờ thao thức, nấm mồ mang cả giòng suối quấn quanh mình, như gối lên giòng nước mắt của cuộc đời.

Trần biết rõ cái gò đất có cây bàng, nơi người ta chôn vùi nàng và con chàng ở đó. Nó nằm chơ vơ giữa cánh đồng rộng mênh mông bên cạnh giòng sông, gần đồn Tây làng Nguyệt, chỉ cách một cái lạch nước có hai hàng dương liễu hai bên giữa những cây dừa nước, những bụi ngâu dại len lách giữa đám lá xanh thẳm.

Huỳnh và chàng qua lại nơi đó biết bao nhiêu lần trong những mùa chiến dịch, họ đã có lần ngồi bên nhau trong một buổi chiều mùa xuân cách đây hai năm nơi gò đất có cây bàng đó.

Nơi đó từ nay nàng yên nghỉ, chấm dứt chuỗi ngày lận đận dầu dãi nắng mưa nuôi chồng tù tội. Trên nền trời giữa cánh đồng mây kia, nàng đang vỗ cánh bay đi, mất hút sau rừng cây rũ rượi, để lại phía sau nàng cả không gian vắng vẻ, chìm dần vào đêm tối.




Chương 39

Trần dừng lại trước cổng trại giam, chàng đứng yên một lát, mơ màng, chuyện này không có vẻ gì có thật cả. Chàng đã được phóng thích, thật vô lý, một điều chàng không bao giờ ngờ tới. Chàng không hiểu mọi sự xảy ra như thế nào, từ sáng hôm qua, chàng theo hai người công an cầm súng áp giải chàng ra trình diện ty Công an Tỉnh, chàng vẫn nghĩ rằng giờ của chàng đã điểm. Chàng cảm thấy không có gì quan hệ nữa, Huỳnh, Hiếu không còn trên cõi đời này nữa, chàng thờ ơ với tất cả mọi sự.

Tuy nhiên Trần không khỏi ngạc nhiên khi người ta đưa chàng vào giáp mặt Đoàn Việt, giám đốc sở Công an Liên khu. Đó là một người đàn ông trung niên, người tầm thước, hơi đẫy đà, khuôn mặt vuông có những nét đều khá đẹp, đôi mắt rất tinh anh, mũi cao, miệng rộng, nét môi cong đều đặn, tiếng nói ấm áp nhưng sắc gọn có sức thu hút người đối diện. Trong giới kháng chiến người ta thường truyền miệng nhau nghe một chuyện tình khá lãng mạn của ông ta với một nữ cán bộ mặc dầu ông ta đã có vợ con, đồng thời Đoàn Việt cũng nổi tiếng là một viên chức công an cao cấp tài ba lỗi lạc trong ngành.

Vừa thấy Trần, Đoàn Việt nói ngay:

– Tôi vừa ở khu vào, các đồng chí ở đây đã trình cho tôi xem hồ sơ của anh, tôi đã xem xét kỹ. Hôm nay tôi gọi anh đến để hỏi anh một điều.

Đoàn Việt ngừng lại, chìa bao thuốc lá hiệu Philips mời Trần:

– Mời anh.

Trần lắc đầu:

– Tôi không hút, cám ơn anh.

Đoàn Việt rút một điếu, thong thả bật lửa châm hút, thở ra một hơi khói mỏng, ông ta hỏi vẻ không quan tâm cho lắm:

– Thường ngày anh vẫn hút mà.

– Vâng, nhưng hôm nay thì không.

Đoàn Việt gật đầu, như cho đó là câu trả lời thỏa đáng nhất. Ông ta đưa điếu thuốc lên môi, rít một hơi, thở khói ra, làn khói thuốc xanh biếc quyện vào nhau quấn quýt trước mặt Đoàn Việt, ông ta ngồi bật ngửa ra sau thành ghế, nhìn Trần bằng đôi mắt bí ẩn sau làn khói thuốc:

– Anh Trần, nếu tôi gọi anh đến đây để nói cho anh biết rằng anh sắp được trả tự do thì anh nghĩ sao?

Trần hơi sửng sờ trong một giây, nhưng trước đôi mắt hòa huởn sâu sắc của Đoàn Việt, chàng biết rằng mình cần phải bình tĩnh và tự chủ. Chàng không muốn tỏ vẻ xúc động trước những kẻ giờ đây đối với chàng đã cách biệt lắm rồi, những người trước đã từng là đồng chí, đã tưởng cùng nhau đi cho hết đoạn đường chông gai gian khổ trên quê hương:

– Anh bảo tôi nên nghĩ gì, sau lưng tôi là sáu tháng tù, trước mặt tôi là những ngày trắng, xin anh cho biết tôi nghĩ gì bây giờ? Tôi không có gì để nghĩ nữa hết.

Hai bàn tay Đoàn Việt đang chắp lại vụt mở ra xòe rộng:

– A, anh có lý, nhưng nếu tôi nghĩ hộ anh vậy, tôi nghĩ rằng nếu tôi như anh, được thả ra có lẽ tôi sẽ trở về thành phố, anh nghĩ sao?

Trần mỉm cười chua chát:

– Xin anh đừng quên, trước khi vào tù tôi đã từng ở Vệ Quốc đoàn. Tôi yêu đồng đội của tôi và hơn ai hết tôi hãnh diện vì người Vệ Quốc quân bắn rất trúng đích. Dĩ nhiên không ai muốn chết bởi chính viên đạn của đồng đội mình bắn trúng vào đầu mình cả.

Đoàn Việt gật đầu tán thành:

– Anh nói đúng. Vậy anh có muốn trở lại phục vụ như trước không?

– Như trước, như trước, anh biết đấy, có cái gì như trước được đâu, – Trần lắc đầu, mệt mỏi – tôi chỉ muốn được yên để nghĩ đến những người đã chết.

– Tôi biết, tôi biết, tôi cũng rất buồn về cái chết của chị Hiếu, trước kia chị đã từng cộng tác với chúng tôi.

Đoàn Việt cúi đầu có vẻ nghĩ ngợi giây lâu, đoạn ông ta ngẩng lên, tia nhìn của ông ta như hướng về một cái gì đó, phía sau Trần, nét mặt ông ta khoác lại vẻ thản nhiên khôn dò:

– Thôi được, kể từ bây giờ anh được tự do. Anh có thể trở về trung tâm Tây Hạ thu xếp cho xong vài thủ tục giấy tờ. Ngay chiều nay sẽ có giấy phóng thích gởi đến anh. Sáng mai vào giờ này anh có thể rời khỏi trại giam.

Trần đứng dậy, dù sao chàng cũng không dám tin hẳn ở lỗ tai mình, có thể thế được chăng, người ta đã tuyên bố thả chàng về lại với cuộc đời, thế là không phải nhọc công tính chuyện đào tẩu. Chàng được tự do, muốn đi đâu thì đi, dù bây giờ Hiếu không còn khắc khoải mong chờ chàng nữa. À, có chứ, nàng đang chờ chàng đấy, dưới mồ, bên cạnh giòng sông, giữa cánh đồng quạnh quẽ.

Chàng đứng lặng, mơ màng một lúc, đoạn quay gót bước ra khỏi văn phòng không để ý đến Đoàn Việt vẫn lặng lẽ nhìn theo chàng, với vẻ mặt thản nhiên cố hữu.

Bây giờ, chàng đứng đây, trước cổng trại giam Tây Hạ. Chàng đứng đây, và tự do. Sau lưng chàng, lùi lại một bước là chạm vào mảnh đất tù đày. Chàng sẽ đi tới trước mặt, chàng ngoái nhìn lại sau trước khi cất bước. Mười giờ sáng, trại tù vắng ngắt vì tù nhân thảy đều đi vào rừng làm việc, toàn thể khu trại nằm buồn nản dưới ánh nắng cuối đông. Trần chợt thấy lòng chùng lại, nỗi buồn hanh hao dâng lên nhức nhối như một ung nhọt đang hành hạ.

Trần quay đi, chàng biết mình đang đi đâu.

Hai nấm mồ của Huỳnh và Lương đang nằm song song, có vẻ chào hỏi chàng. Nắng sáng trên đầu ngọn cỏ mới mọc trên mộ Huỳnh, màu đất đỏ tươi dậy lên. Trần chợt nhớ từ ngày chôn Huỳnh cho đến nay chưa hề có một nén hương thắp trên mộ này, ngoài những cánh hoa túy tử mà hiện giờ chàng cũng đang thấy đặt trên đầu mộ. Ý nghĩ ấy khiến Trần hài lòng vì khi sống Huỳnh rất ghét mùi trầm hương vì mùi hương gợi cho Huỳnh hình ảnh tang tóc chết chóc. Trần nghĩ sau này chỉ còn mình chàng biết chỗ của hai nấm mồ này mà thôi, rời khỏi nơi đây biết bao giờ trở lại, nấm mồ vô chủ sẽ theo thời gian, gió mưa dầu dãi mà bị thất lạc, nhường chỗ cho cây cối hoang vu vùi lấp. Lòng ngậm ngùi, chàng lủi thủi đi xuống suối cách đó chừng hai trăm thước khuân lên những phiến đá đặt quanh ngôi mộ để làm dấu. Làm việc đó xong, chàng vừa thấm mệt, chàng ngồi nghỉ trên một phiến đá nhìn mộ bạn, những viên đá to nhỏ ngoan ngoãn quây quần quanh nấm mộ khiến Trần cảm thấy an lòng, chàng nhớ Huỳnh thường tỏ ra yêu thích đá vô cùng, Huỳnh thường nói đến đài kỷ niệm sẽ được dựng lên ở nơi này.

Trong buổi sáng chỉ còn lại một mình trên đời, Trần đã khuân những viên đá đặt quanh mồ hai người bạn, trí tưởng tượng của chàng tha hồ dựng lên hình ảnh thành quách lâu đài trên những phiến đá xù xì hay mòn nhẵn phủ đầy rêu xanh này.

“Chỉ cần mình tao mang đá về đây chắn những nỗi ưu phiền cay đắng của cuộc đời cho mày cũng được rồi Huỳnh ạ. Đừng chờ hậu thế vì hậu thế chỉ là sự lãng quên đời đời mà thôi.”

Trần đứng dậy tần ngần một lát, rồi cúi đầu bỏ đi, qua một khúc rẽ ra con đường lớn, chàng bắt gặp một người con gái từ con đường dưới suối đi ngược lại phía chàng, khi ngang qua, thiếu nữ nhìn chàng trong một thoáng, có vẻ do dự một giây rồi đi thẳng. Khi nàng qua khỏi, Trần vừa kịp nhận ra rằng nàng rất đẹp. Chàng có linh cảm thiếu nữ là Lan đã gặp Huỳnh trên mặt hồ ngày nào. Bất giác Trần quay lại nhìn, vừa vặn nàng cũng đang ngoảnh lại nhìn theo chàng. Khi thấy Trần quay lại, nàng vội quay đi khuất sau chỗ rẽ của con đường. Trần thẩn thờ bước đi, cảm thấy đôi mắt buồn rầu lặng lẽ của người con gái lạ đang theo dõi cõi lòng tan nát của mình.

Trần đi mãi, về phía trước mặt, và chàng biết mình đang đi đâu.

Xế trưa, chiếc cầu bắt ngang qua giòng suối phía trên cánh rừng thôn Mai Lĩnh hiện ra trước mặt Trần. Từ xa, hình dáng chiếc cầu khiến tim chàng đập mạnh, trước kia trong những năm tháng ngược xuôi hoạt động, Trần đã đi qua chiếc cầu đó kể có hàng trăm lần. Thuở ấy chàng không hề lưu ý đến nó, gần như chàng không biết là có nó nữa. Thế mà bây giờ, càng đi đến gần nó, chàng càng xúc động đến nỗi bước đi không muốn vững, đôi mắt chàng nhòa lệ, ruột gan chàng bỗng thấy quặn đau khi bước chân lên thân cây tròn trơn bóng đã tuột hết lớp vỏ xù xì bên ngoài. Chàng vịn tay lên thân cây làm tay vịn bước ra giữa cầu, chàng đứng dừng lại đó, cúi nhìn giòng suối chảy nao nao bên dưới.

Ánh nắng lạnh lẽo lấp lánh trên mặt nước, giòng suối trong veo thấy rõ từng phiến đá, từng hòn cuội bên dưới, trong một hõm đá sâu vào lòng suối, có vài con cá nhỏ trắng bạc có tia sọc đen trên những cái vây tròn và to quá đỗi với hình thù của chúng đang cố gắng bơi ngược giòng nước, sự cố gắng phi thường đến nỗi Trần nhìn thấy tất cả bộ vây của chúng giương ra căng thẳng trong lúc thân hình của chúng vẫn đứng yên một chỗ bất động trong giòng nước, chỉ có những cái đuôi tỏa rộng uốn éo một cách kỳ khôi ở sau chúng. Cát hai bên bờ suối trắng phau, có

dấu chân một vài loại thú rừng in trên nền cát dẫn đến những lùm bụi quanh đó. Không có loài hoa dại nào nở được trong mùa đông này cả, ngoài một bụi xương rồng mọc lên đột ngột bên cạnh đầu cầu phía trước, thân cây gồm những cái vảy to nối tiếp nhau, màu xanh thẫm, hình bầu dục, dẹp và dày dặn mọc tua tủa những chùm gai nhọn hoắc. Đó là một loại cây gai xấu xí gây một ấn tượng gớm ghiếc cho người nhìn, nhưng trên đỉnh một cái vảy ở trên hết, nở ra, như một phép lạ, một cái hoa tuyệt đẹp ngự trị một cách hồn nhiên, trong sáng với những cành hoa thon dài trắng trong như tuyết. Trần nhìn cái hoa to lớn, mạnh mẽ khoe hết những cánh hoa trắng ngần cùng nhị hoa vàng óng ả của mình một cách thong dong giữa trời mùa đông lạnh buốt, bên giòng suối oan nghiệt đã cuốn trôi đi người đàn bà yêu chàng đến hơi thở cuối cùng.

Đột ngột, chàng buông tay, thả mình rơi tòm xuống giòng suối, một tiếng ầm, nước bắn lên tung tóe, Trần thấy mình lóp ngóp đứng dậy giữa giòng, nước chỉ đến ngang bụng, chàng bị một vết xước của một viên đá nhọn quẹt vào, rướm máu. Tóc chàng, áo quần chàng, chiếc ba lô đeo trên vai chàng ướt lướt thướt, nước chảy xuống ròng ròng. Chàng đứng trong giòng nước lấp lánh nắng quái chiều hôm, đau thương chất ngất, gào thét át cả tiếng suối:

– Nước chỉ đến ngang bụng anh mà sao em lại chết? Hiếu, Hiếu, Hiếu ơi.

Chàng lội ra khỏi giòng suối oan khiên, thất thểu bước đi, con đường rừng thật vắng vẻ trong buổi chiều tháng chạp.

Trần đi mãi, về phía trước mặt, và chàng biết mình đang đi đâu.

Trời vừa sập tối, ra khỏi cánh rừng, Trần nhìn thấy ánh đèn hiu hắt rải rác trên những ngọn đồi bên kia thung lũng trước mặt.

Thân thể chàng đã mỏi mòn, suốt từ sáng chàng chưa ăn một tí gì vào bụng. Khi lội ra khỏi giòng suối chàng chỉ nghĩ một điều là đi, đi mãi cho chóng đến nơi này. Thế mà khi rẽ xuống con đường thấp thoáng bóng tre dẫn đến căn nhà khuất bên kia triền núi, chàng bỗng thấy lòng run rẩy, hoang tàn. Hiếu không còn đó, chắc chẳng có ai ở lại đó làm chi, chắc người ta mang hai bé Hiền, Hòa đi rồi, không còn ở đó nữa. Nhưng khi đi hết con đường mòn, ngẩng lên chàng sửng sốt, một nỗi vui thê thảm lướt qua tâm hồn chàng khi chàng nhìn thấy ánh lửa thấp thoáng sau liếp cửa trong căn nhà cũ.

Dù ai ở trong ấy mặc lòng, miễn là căn nhà còn ánh lửa, hình như không có gì thay đổi cả, hình như Hiếu vẫn còn trong đó, sau cánh cửa, để đợi chàng. Chàng chỉ cần lên tiếng gọi, là có bóng nàng hiện ra trên khung cửa, phía sau nàng tràn ngập ánh sáng của ngọn đèn ấm áp. Ý tưởng đó mãnh liệt như có sức thôi miên khiến chàng hồi hộp, chàng như mê đi trước cánh cửa, bỗng chàng la lên thật to:

– Em, em ơi, hãy mở cửa cho anh mau lên.

Trong nhà có tiếng xô động mạnh rồi có tiếng người la lên:

– Anh Trần, anh Trần về đấy à?

Liền đó liếp cửa được xô qua một bên, Trần bước vào vùng ánh sáng trống không đó, người như mê mụ hẳn đi, một bóng người bé nhỏ ôm choàng lấy chàng:

– Anh Trần, anh đã về, em mừng quá.

Trần cúi xuống:

– Quý đấy à, em ở đây làm gì thế?

Quý, vì chính đó là Quý, chú bé liên lạc viên của Trần hồi trước. Quá mừng rỡ và xúc động, chú ngây người nhìn Trần, không nói được nên lời. Trần đưa mắt mệt mỏi nhìn quanh, căn nhà không có gì thay đổi từ ngày chàng đi, dưới bếp vẫn có ánh lửa chập chờn sau tấm phên tre, có lẽ Hiếu đang nấu một thức ăn gì dưới đó. Chàng buột miệng hỏi Quý:

– Chị làm gì dưới đó hả em? Các cháu đâu?

Quý nhìn chàng sửng sờ lo ngại, nó lắp bắp:

– Các cháu đang ngủ trong buồng kia, còn chị, thế…thế anh chưa biết gì sao?

Trần chợt nhớ ra, chàng gật đầu quay đi, bỗng thấy xây xẩm cả mặt mày, chàng lảo đảo bước tới vài bước, ngồi phịch xuống chiếc giường gần đó, ôm mặt gục xuống. Quý hoang mang sợ hãi, nó rụt rè đến bên Trần, vụng về tháo chiếc ba lô dính chặt trên lưng Trần, nó nhận thấy ba lô, áo quần chàng có vẻ ẩm ướt, Quý cất ba lô sang một bên, đỡ Trần nằm xuống giường, lấy chăn đắp kín mình Trần.

Trần nhắm nghiền mắt, chàng để mặc Quý săn sóc cho mình. Chàng không thiếp đi, nhưng người chàng bồng bềnh như say sóng, tứ chi chàng rã rời. Chàng không muốn dậy nữa, không bao giờ muốn dậy nữa.




Chương 40

Đã khuya lắm rồi, người đàn bà già nua có vẻ mặt buồn bã quen quen mang một tô cháo bốc hơi nghi ngút lên để bên cạnh Trần rồi lặng lẽ đi xuống. Thấy Trần nhìn theo, Quý giải thích:

– Đó là bà Tư bán quán, cái quán bán xôi, bánh trái và nước chè ở dưới con đường đi lăng Minh Mạng đó, anh quên rồi à? Bà có người con trai đi bộ đội bị chết trận Phú Vang mấy tháng trước. Cái chết của người con trai độc nhất khiến bà ngã quỵ, đau một trận thừa sống thiếu chết, mà không có ai bà con thân thích gì cả. Chị Hiếu mang bà về đây lo lắng thuốc men cho bà cả tháng trường bà mới dậy đi nổi đấy anh ạ. Từ khi lành mạnh bà đâm ra ngẩn ngơ ít nói, bà không đi đâu cả, ở lại đây quanh quẩn trông coi săn sóc hai bé Hiền Hòa trong khi chị Hiếu đi vắng. Hôm nghe tin chị mất bà khóc hoài, cái bàn thờ lập phía trong kia là do bà đấy anh ạ. Bà nói ở lại đây thắp một tuần hương cho chị rồi bà sẽ mang hai cháu Hiền Hòa về quán cũ của bà để mua bán qua ngày nuôi hai đứa bé.

Quý nhắc tô cháo lên nói với Trần như năn nỉ:

– Anh gắng dậy ăn một chút cháo cho nó đỡ mệt đi anh.

Đôi mắt van nài của Quý khiến chàng ngồi dậy, chàng múc thìa cháo đưa lên miệng đắng ngắt trong khi Quý nói tiếp:

– Bà Tư trìu mến hai đứa cháu lắm anh ạ, những lúc vui bà nói với em là cũng may mà có hai đứa bé nếu không chắc bà đã chết theo con trai bà rồi. Từ ngày anh bị bắt, tỉnh giao em về mặt trận đi liên lạc cho phòng Chính Trị, em đi theo chiến dịch ra tận Quảng Trị, phải đi luôn suốt tháng này sang tháng nọ cực lắm anh ạ. Vừa chấm dứt chiến dịch nên em được về lại đấy, em vừa về mấy hôm thì nghe tin chị mất. Mấy hôm nay em xin anh Đỗ, chỉ huy em, anh ấy tốt lắm, cho em về đây ngủ kẻo nhà buồn quá, không hiểu sao em cứ nghĩ là anh cũng sắp về. Ngày nào em cũng đi công tác cho đến tối mịt mới về, sinh hoạt đoàn thể xong mới qua đây được, ngày nào em cũng nghĩ là tối nay anh sẽ về. Em muốn đi thăm anh mà cứ bị giao công tác đi liên miên, thật buồn và nhớ anh vô cùng.

Những thìa cháo nóng làm cho Trần tỉnh táo lại dần dần, chàng chăm chú nghe Quý nói chuyện, chàng thấy Quý dạo này có vẻ người lớn chững chạc hơn trước nhiều. Quý nhìn chàng trìu mến xót xa:

– Anh gầy đi nhiều quá. Ở trong ấy cực lắm phải không anh? Em nghe nói phải ăn toàn cá mắm khô để quá lâu bị mục và thối phải không anh?

Trần khẽ lắc đầu, đôi mắt chàng mệt mỏi:

– Đừng nói đến chuyện đó nữa em. Nhắc đến những điều đó làm gì, anh muốn quên tất cả.

Quý nín lặng, nó muốn nói một chuyện gì đó, bất cứ chuyện gì, để cho căn nhà bớt lặng lẽ, nó có cảm giác như trong mỗi góc tối của căn nhà đều có một bóng ma đứng ủ rũ đang theo dõi mọi quang cảnh trong nhà. Cuối cùng nó không tìm ra chuyện gì để nói cả. Tất cả những câu nói nó đều cảm thấy không thích hợp. Trần đột ngột đánh tan sự yên lặng:

– Hai bé có biết mẹ nó mất không?

– Không anh ạ, người ta chôn cất chị dưới kia xong mới tin về đây. Em nghe bà Tư nói trong hai tuần chị bị mất tích chúng nó hỏi mẹ hoài, ban ngày chúng mải chơi, nhưng tối đến phải vất vả lắm bà Tư mới mang được chúng nó vào giường ngủ, chúng nó cứ đòi đứng trước cửa chờ mẹ về cho được. Người ta mới tin về cho biết cách đây hai hôm, cũng may lúc ấy chúng nó chơi ở sau đồi, khi về thấy bà Tư khóc lóc chúng nó kéo nhau đến dỗ bà, chả là bà ấy thỉnh thoảng lại khóc vì nhớ con, mỗi lần như thế bé Hiền lại dỗ bà bằng cách khóc theo bà mới nín. Em thấy quang cảnh ấy mấy hôm nay buồn quá anh ạ. Về đây lúc nào em cũng chỉ muốn khóc, em và bà Tư đồng ý với nhau đừng nói gì với các cháu cả, chỉ nói là mẹ bị kẹt ở đồng bằng vì Tây đi lùng dưới ấy nên có lẽ còn lâu mẹ mới về được.

Trần khẽ gật đầu:

– Ừ, như thế được đấy, để rồi anh sẽ liệu.

Chàng đặt tô cháo xuống:

– Anh ăn vừa rồi, em đi ngủ đi, mai còn đi công tác.

– Vâng, sáng mai em sẽ phải đi, nhưng gần đây thôi, em sẽ cố về thật sớm với anh, anh uống chén nước này đi, vâng, anh nằm xuống ngủ đi một tí, em cũng đi ngủ đây.

Trần thiếp đi trong khi Quý đang nói chuyện. Chàng tỉnh dậy vì có tiếng xì xào ngay bên cạnh chàng. Chàng nhắm mắt, nằm yên lắng nghe.

– Suỵt, – tiếng bé Hiền nói nho nhỏ, – mày nói to thế, chú Trần đâu có chết, chú đang ngủ đấy mà, mày nói to chú thức dậy bây giờ.

– Không, chú Trần chết đấy mà, mẹ nói ở tù dễ bị chết lắm, mẹ nói với bà Tư như thế, mà chú Trần ở tù mà, mẹ bảo thế Hiền không nhớ à?

– Mày không thấy chú thở à?

– Thở thì thở chứ.

Giọng bé Hiền chợt buồn xỉu:

– Không, không, tao thương chú Trần, tao không muốn chú Trần chết.

Lòng rưng rưng xúc động, Trần vụt mở mắt ra, bé Hiền reo lên:

– Đấy, Hiền nói đúng chưa, chú Trần thức dậy rồi đó, chú Trần đâu có chết.

Trần ngồi dậy ôm hai đứa bé vào lòng, hai tấm thân bé nhỏ cựa quậy trong ngực chàng mang lại cho chàng một niềm vui nhẹ nhàng mà từ lâu chàng không hề biết tới. Bên ngoài ánh nắng dịu dàng trải lên một vùng đồi núi, một ngày lại bắt đầu, hơi núi vẫn lạnh căm căm.

Hiền ngước lên, nó mở to đôi mắt sáng trong nhìn Trần:

– Thằng Hòa nó ngu lắm chú ạ, chú ngủ mà nó cứ bảo là chú chết rồi.

Trần cười nhẹ, cúi hôn lên mắt bé:

– Hòa không ngu đâu, nó nói đúng đấy, chú chết rồi và chú vừa mới sống lại đấy chứ.

Hiền vẫn chưa chịu:

– Chết rồi làm sao mà sống lại được hả chú?

– Có chứ, vì bé Hiền thương chú, Hiền không muốn chú chết thì chú phải sống lại chứ. Có phải không nào?

– Vậy hả chú? Vậy thì Hiền thương chú, và thương tất cả mọi người, Hiền không muốn ai chết cả chú ạ.

– Ừ, cháu của chú giỏi lắm, hai đứa đã ăn sáng chưa nào?

– Thưa chú chưa, sao chú đi ở tù lâu thế hả chú?

Bé Hòa chả chớt hỏi theo bé Hiền:

– Ở tù vui lắm hả chú? Sao chú ở lâu thế chú?

Trần gật đầu:

– Ừ, ở tù vui, nhưng nhớ các cháu quá chú phải về, các cháu thấy chú đi lâu lắm rồi hả?

Hiền ngây thơ đáp:

– Vâng, chú đi lâu quá, mẹ cũng thế, mẹ đi lâu quá, chú Quý nói Tây đi lùng trên núi nên mẹ chưa về được, bao giờ mẹ về hả chú?

Trần điếng người trong giây lát, nỗi đau đớn lại cựa mình trong tâm can, chàng đặt hai đứa bé ngồi xuống giường, xoay người ngồi đối diện với chúng, giọng chàng trở nên nghiêm trang:

– Ấy, chú vừa gặp mẹ cháu ở dưới đồng bằng, mẹ chưa về được, Tây nó chận mất đường nên mẹ không về đây được nữa, mẹ nhờ chú về đây mang các cháu gởi về nhà chú ở Huế, chờ khi nào yên thì mẹ sẽ về Huế thăm các cháu. Các cháu muốn về ở nhà chú ở Huế chờ mẹ về không?

Bé Hiền ngơ ngác:

– Sao mẹ về đây không được mà về nhà chú được hả chú?

– Thì thằng Tây nó chặn đường về đây rồi, nó có súng nhiều lắm, ai đi qua là nó bắn ngay, cháu có sợ mẹ bị chúng nó bắn chết không?

Cả hai đứa bé xanh mặt, chúng lắc đầu quầy quậy:

– Không đâu, không đâu.

– Vậy các cháu có bằng lòng về ở nhà chú để chờ mẹ về không?

– Nhà chú ở đâu? – bé Hiền hỏi.

– Nhà chú ở Huế.

Hiền ngẫm nghĩ, dáng vẻ quan trọng:

– Mẹ bảo thằng Tây ở Huế nhiều lắm, ai ở đó là làm nô lệ cho Tây, vậy cháu về đó có làm nô lệ không chú?

Trần cũng tỏ vẻ quan trọng không kém:

– Chính mẹ bảo chú về đây mang các cháu về nhà chú mà. Nhà chú làm gì có thằng Tây mà cháu phải làm nô lệ.

– Thế nhà chú có ai? – bé Hòa ngây ngô hỏi.

– Nhà chú có mẹ của chú, các cháu sẽ gọi là bà. Bà thương các cháu lắm, sẽ cho các cháu ăn quà cả ngày, ngoài ra có hai chị Thể My và chị Thương là cháu của chú nữa. Các chị ấy sẽ chơi với các cháu, bắt dế cho Hòa này, hái hoa cho Hiền này, bày cho Hiền chơi nhảy dây, chơi đánh thẻ, chơi đủ thứ này, vui lắm kia cháu ạ.

Bé Hiền ngẩn người:

– Thế thì vui thật đấy chú nhỉ.

Hòa xịu mặt:

– Không, Hòa thích ở đây thôi, Hòa ở đây chờ mẹ về thôi.

Trần làm bộ không chú ý, cứ kể tiếp:

– Nhà chú có một con chó cao bằng này này, nó sẽ chơi trái banh với Hòa cả ngày, như thế này nhé, Hòa cầm trái banh tung lên trời tức thì con chó nhảy lên đớp lấy ngậm chặt trong miệng ngay, Hòa phải năn nỉ xin nó, nó mới nhả trái banh ra trả lại cho Hòa.

– Hòa không thèm xin nó đâu, Hòa bắt nó phải trả trái banh lại cho Hòa, trái banh của Hòa chứ có phải của nó đâu. Bao giờ thì Hòa có trái banh hả chú?

Mắt Trần sáng lên:

– Ồ, ở nhà chú thì thiếu gì trái banh, muốn bao nhiêu cũng có hết.

Bé Hòa thấy đã xiêu xiêu:

– Vậy mẹ có về nhà chú không hả chú?

– Chắc chắn là mẹ phải về nhà chú chứ, vì mẹ dặn mang các cháu về đó mà.

Bà Tư, tự nãy giờ đứng gần đó, ẩn sau một tấm phên tre, chợt lên tiếng, giọng bà thật buồn:

– Anh tính như vậy cũng phải, tôi nghĩ chắc chị ấy cũng muốn như vậy lắm.

Trần giật mình vì câu nói xen vào đột ngột của bà Tư, chàng quay lại:

– À, bác Tư đó hả, mời bác vào đây.

Trần cúi hôn hai đứa bé:

– Bây giờ hai cháu ra ngoài chơi cho chú nói chuyện với bà Tư một lát nhé.

Hai đứa bé ngoan ngoãn vâng lời, kéo nhau ra ngoài sân.

Bà Tư chậm chạp bước vào, đứng gần chiếc bàn bên cạnh giường, Trần chỉ chiếc ghế:

– Bác ngồi xuống đây, vâng tôi đang định gặp bác để bàn chuyện này với bác. Tôi về đêm qua mệt quá mê đi, sau có nghe Quý nói chuyện về bác. Tôi còn nhiều việc phải làm, việc trước tiên là đi về làng Nguyệt thăm mộ Hiếu. Trước khi đi, tôi muốn thu xếp nhờ bác mang hai cháu về ở với mẹ tôi dưới Huế. Tôi được biết bác thương hai cháu và có lòng muốn mang hai cháu về buôn bán nuôi chúng nữa. Tôi rất cảm kích tấm lòng quý hóa của bác. Nhưng tôi nghĩ bác đã già mà các cháu còn bé quá, chắc chắn là bác không đủ thì giờ nuôi nấng chúng nó cho đến khi khôn lớn, vả lại chúng nó cũng đã đến tuổi phải đến trường, ở vùng ngoài này thì không thể lo cho chúng đến trường học được, nuôi cho chúng nó lớn là quý rồi. Theo tôi được biết thì bác rất thương mẹ chúng và muốn luôn luôn có chúng ở gần cho vui tuổi già. Vậy tôi xin bác giúp tôi mang các cháu về Huế ở với mẹ tôi, mẹ tôi cũng già lắm rồi, có bác bầu bạn chắc cũng vui và đỡ nhớ tôi, có hai đứa bé cũng vui cửa vui nhà. Bác nghĩ sao?

Bà Tư nãy giờ chắp tay trên gối lặng yên cúi đầu nghe Trần nói, đôi mắt bà nhìn xuống, yếu ớt mờ đục, khuôn mặt nhăn nheo của bà sầu thảm mệt nhọc. Khi Trần nói dứt, bà vẫn yên lặng ngẫm nghĩ, giây lâu bà mới ngẩng lên:

– Tôi cũng định thắp hết tuần hương cho chị ấy rồi mang hai cháu bé về Huế, ở đó tôi có người bà con, tôi và hai cháu có thể tá túc ở đó, tôi sẽ buôn bán rau cải, để nuôi chúng nó và cho chúng đi học, chứ ở đây không yên ổn gì để nuôi những đứa bé. Trước kia tôi ở đây là vì thằng con tôi đi bộ đội, phải có nơi để nó đi về mẹ con có nhau. Nhưng bây giờ nó đã chết, nó đã bỏ tôi rồi, tôi những tưởng chết theo nó, chị ấy đã hết lòng cứu tôi và cũng may mà có hai đứa bé. Bây giờ anh đã về đây, anh tính vậy cũng phải, tôi không đi theo hai đứa bé thì tôi biết theo ai bây giờ. Tôi sẽ mang hai cháu về nhà anh theo ý anh muốn, nếu cụ dưới nhà vui lòng nhận chúng nó thì hay, nếu không tôi sẽ nuôi chúng, dù sao ở với tôi thì chúng nó sẽ không sung sướng bằng được cụ nhà chấp nhận. Còn về phần tôi thì không sao, nếu cụ để tôi ở lại giúp đỡ cụ và gần hai cháu thì tôi ở lại, bằng không thì tôi phải về nhà bà con buôn bán thỉnh thoảng tôi ghé lại thăm chúng nó cũng được.

Mặt Trần tươi lên, chàng không ngờ được bà Tư nhận lời ngay như thế, chàng mừng rỡ:

– Được thế thì không còn gì bằng, tôi thật không biết nói sao để cảm tạ tấm lòng của bác đối với chúng tôi và các cháu. Có điều xin bác đừng ngại rằng mẹ tôi có chấp nhận hay không. Tôi tin rằng mẹ tôi sẽ rất vui mừng được có bác và hai cháu bé bên cạnh. Mẹ tôi chỉ có mình tôi là con trai và chìu tôi rất mực, cụ sẽ sung sướng làm theo ý tôi.

Bà Tư nhìn xuống, nét mặt âu sầu, bà nói khẽ:

– Vâng, tôi cũng nghĩ như vậy, – bà đứng dậy – tôi xuống xem nồi khoai chín chưa mang lên cho anh ăn sáng, chị ấy thường bảo anh thích ăn khoai nấu với nước dưa cải lắm, tôi đang nấu đấy.

Bà lão quay đi, không để ý câu nói của bà làm cho Trần chết lặng, chàng ngẩn ngơ nhìn quanh căn nhà đã chứng kiến biết bao ngày hạnh phúc lẫn đắng cay, biết bao vị mặn chát của nước mắt đã thấm trong không gian này cùng hương vị nồng say của một mối tình đã vượt ra ngoài bao nhiêu hệ lụy của thế gian.

Trần thẩn thờ bước ra sân, nắng đã lên cao, cây sầu đông bên hè nhà đã trút hết lá, nắng thật mỏng trên những cành cây trơ trụi, hai đứa bé đang lúi húi chơi bên hiên nhà. Chàng lại gần:

– Mộ con chim sẻ của cháu ở đây phải không?

– Không phải chú ạ.

Trần ngạc nhiên:

– Ơ, hồi đó chú thấy cháu làm đám ma cho con chim sẻ ở đây mà.

– Vâng, nhưng mẹ mang đi chỗ khác rồi.

– Sao mẹ lại mang đi chỗ khác?

– Tại cháu đấy chú ạ, chả là chôn chim được mấy ngày cháu nhớ quá, cháu đào lên để thăm, khi đào lên cháu lòn tay dưới bụng chim bế nó lên thì cháu thấy nó động đậy dưới tay cháu, cháu mừng quá tưởng nó sống lại vội mang vào khoe với mẹ. Mẹ hét lên, bảo cháu buông ra, cháu vội buông chim ra đặt giữa đất, nó ngã lăn ra, mẹ chỉ cho cháu xem cái bụng nó đầy cả sâu chú ạ, sâu nó nhúc nhích dưới tay cháu chứ không phải chim sống lại, sâu bọ nó khoét cả bụng chim mà ăn vậy đó. Mẹ khóc bắt cháu đi rửa tay thật kỹ rồi mẹ gói chim lại mang đi chôn thật xa. Cháu không biết ở đâu nữa. Tội quá chú ạ, ở trên này thì bị chim khác nó đánh cho, xuống đất thì bị sâu bọ nó ăn, buồn qua chú nhỉ.

Trần thấy tim mình nhói lên, câu nói ngây thơ của bé Hiền như khơi sâu vết thương trong ngực của chàng. Chàng cúi xuống xòe rộng hai bàn tay, ngắm nghía một cách lạ lùng như ngắm những vật không hề liên hệ gì đến mình cả.




Chương 41

Bà Tư và hai bé Hiền Hòa đã về Huế, Trần vui mừng thấy mọi việc đều trôi chảy như chàng mong muốn, Quý mang tin về cho chàng biết, người đưa đường đã trở về cho biết mẹ Trần đã bằng lòng nhận nuôi hai đứa bé và lưu bà Tư ở lại với bà.

Trước khi rời căn nhà của Hiếu để đi về đồng bằng, Trần dặn dò Quý:

– Thỉnh thoảng em tạt qua đây một tí nhé, anh về thăm mộ chị rồi anh trở lại đây làm rẫy sống qua ngày.

Quý buồn rầu lo ngại:

– Anh cẩn thận nhé, mộ chị ở gần đồn Tây, nguy hiểm lắm, em lo quá anh ạ.

Trần lắc đầu:

– Không sao đâu em, em quên rằng vùng đó anh em mình từng qua lại hằng ngày hồi chiến dịch năm ngoái à. Anh thuộc từng đường đi nước bước, em lo nỗi gì. Thôi anh đi nhé, em ở lại đó, anh sẽ về.

Quý ủ rũ nhìn Trần đi xa dần, tâm hồn non nớt của nó vẫn không thể hiểu tại sao nó vẫn yêu mến Trần tha thiết, mặc cho những giờ học tập, nó được cán bộ dạy dỗ cho biết rằng Trần là một tên phản động, một kẻ thù nguy hiểm cho nhân dân, một kẻ phá hoại cách mạng, nó vẫn cảm thấy một tình cảm chan hòa tươi mát tâm hồn bé dại của nó mỗi khi nó được ở bên cạnh Trần. Không một ai, từ ngày nó thơ ngây đi vào kháng chiến đã cho nó thực sự niềm thương yêu và tin cậy đến thế.

Chiều ba mươi Tết.

Trần đi ngược chiều gió lạnh căm căm dưới bóng tre trên con đường làng Thế Thượng để lên làng trên thăm một người bạn tên Đỉnh từ Việt Bắc mới vào thì gặp Huyên đang đi với một người bạn gái tên Loan, Trần cũng có quen biết cô ta trước đây. Huyên mừng rỡ rối rít khi gặp Trần:

– Trời ơi, anh Trần đây mà, anh được về rồi đấy à, anh về bao giờ thế?

Trần cảm thấy niềm vui bất chợt dâng lên như đón bắt cả một khung trời thoáng gió khi nhìn đôi mắt mở rộng mênh mông, cuốn hút của Huyên. Vẫn mái tóc dài, chiếc áo màu nâu, dáng gầy cao vượt hẳn Loan có tầm vóc bé nhỏ đi bên cạnh. Đột nhiên, chàng thấy mình rơi về một thế giới khác hẳn hiện tại, bao đau thương như chưa vướng bận đến chàng, chàng nhìn thấy trong đôi mắt trong sáng tuyệt vời của Huyên, in hình giòng sông Hương trải dài vô tận, chàng nhìn thấy bến đò Thừa Phủ thấp thoáng những bóng người phủ lên mình từng giọt nắng mai, chàng nhìn thấy tòa thành cổ, đền đài lăng miếu rêu phong trong mù sương bên cạnh giòng sông vàng óng, trên hết những cái đó, nổi bật lên giữa giòng sông, giữa bến đò mai, trùm lấp cả tòa thành cổ, là bóng người yêu xưa tóc dài áo trắng thầm lặng xa vời trên chuyến đò ngang. Niềm yêu của chàng suốt buổi thanh xuân, người yêu chưa một lần biết tên, chưa một lời thăm hỏi, như biểu tượng của cõi nguồn giải thoát thần tiên. Trần như một đãng tử đi hoang một đời, tình cờ gót phiêu bồng đưa chàng ngang qua khung trời cũ, bắt gặp cái hoang sơ trên dấu chân xưa chưa rỗ gót phong trần.

Tiếng nói của Huyên trong trẻo vang lên như thoát bay qua một chiều gió lộng:

– Bây giờ anh đi đâu đây, cho chúng em đi theo với.

Trần đáp những câu hỏi dồn dập của Huyên với một nỗi hân hoan thư thái:

– Anh ra khỏi nhà giam từ tuần trước, anh về đây tối hôm qua. Bây giờ anh đi lên làng trên thăm một người bạn, anh định qua cái tối ba mươi Tết này với Đỉnh, bạn anh và vị hôn thê của anh ấy cũng vừa ở Huế về thăm Đỉnh.

Loan tiếp lời Trần:

– Vâng, em có nghe nói về anh chị ấy, chị Hương là vị hôn thê của anh Đỉnh từ mười năm nay, vừa làm lễ hứa hôn thì anh ấy đi hoạt động chống Pháp từ thời kỳ bí mật. Chị ấy vẫn chờ đợi từ mười năm cho đến bây giờ. Anh ấy vừa từ Việt Bắc vào nhắn tin cho chị ấy về thăm đấy.

Huyên ngẩn người, thích thú:

– Tuyệt thật, chuyện đẹp hơn thơ đấy nhỉ.

Trần đột nhiên nhăn mặt:

– Em nói đúng, thơ văn thì ra cái quái gì, chả sánh được gì trong đời này cả.

Huyên cười trong vắt, hồn nhiên:

– Vâng, bằng chứng là nó làm cho các anh đi tù rồi đấy thôi, phải không anh? Nhưng anh đã về, đó là chuyện đáng nói.

Trần nhận xét:

– Hai cô đi đâu mà chiều ba mươi Tết còn lang thang như thế này?

Khuôn mặt rạng rỡ của Huyên xịu xuống, nàng phân trần:

– Anh nghĩ xem, chiều ba mươi Tết ở nhà trọ thấy mọi người trong gia đình sửa soạn Tết, em buồn và nhớ nhà quá nên đi lang thang ra ngoài, tình cờ gặp Loan cũng tâm trạng như em vậy, hai đứa họp nhau thành một cặp lang thang, bây giờ lại gặp anh, vị chi là ba kẻ lang thang.

Trần đề nghị:

– Hay lắm, vậy thì ba anh em mình cùng kéo nhau đến thăm vợ chồng Đỉnh một thể, để nhìn cuộc tái ngộ của họ mà mình vui lây một chút hạnh phúc của kẻ khác vậy.

Huyên chợt nhớ ra, nàng nhìn Trần e ngại, tự nãy giờ mãi mừng Trần được phóng thích Huyên quên nghĩ đến cái chết của Hiếu và Huỳnh. Nàng cảm thấy một nỗi xót xa đau đớn trong câu nói làm ra vẻ thản nhiên của Trần, đằng sau khuôn mặt thoáng một niềm vui xanh xao khắc khoải ấy.

Huyên và Loan cùng gật đầu đồng ý:

– Vâng, chúng em sẽ đi với anh đến đó cho biết mặt anh chị ấy cho vui.

Ba người rẽ qua một đường ruộng đi ra con đường cái quan chạy thẳng tắp giữa cánh đồng mùa đông có chút nắng chiều vàng vọt hắt xuống hai bên bờ cỏ một màu vàng héo úa. Cánh đồng chạy dài ra tận bờ sông, gió từ đó heo hút thổi vào làm mặt ba người tái đi vì lạnh. Bên kia sông là cánh đồng làng Nguyệt. Trần trỏ tay về phía đó:

– Tối nay anh sẽ bơi qua đó thăm mộ chị và con anh.

Huyên và Loan nhìn nhau, cả hai đều thấy mình quá nhỏ bé trước một nỗi đau thương mà họ đều biết rằng quá to lớn đến nỗi họ không biết nói sao cho phải trong khi đó. Huyên nhìn theo hướng Trần trỏ, nàng chỉ thấy cánh đồng tháng chạp mênh mông ngập nước, xa hơn nữa là làng mạc sẫm màu trong bóng chiều loang lổ những bóng mây xấu xí dị hình. Trong một lùm cây nhô ra giữa cánh đồng, Huyên nhìn thấy ngọn cờ tam tài của đồn Tây làng Nguyệt bay phất phới trên đỉnh cột cờ và tháp canh đen ngòm bên dưới. Cảnh tượng đó vẫn thường cho Huyên một cảm giác lạ lùng khó hiểu mỗi khi Huyên đi bên con đường làng Thế Thượng nhìn sang, nó gợi cho nàng một sự phi lý nổi lên giữa mây gió vô tư ngàn năm dàn trải. Luôn luôn mỗi khi đứng bên này hữu ngạn nhìn sang ngọn cờ địch mang dấu hiệu của một giống người phương Tây bay trên thôn xóm Việt Nam, Huyên không khỏi so sánh sự nghịch lý giữa những bước chân của loài người đi tìm hạnh phúc với ngọn cờ ba màu bay phơ phất một cách cô đơn lạc lõng kia. Ngọn cờ nào cũng tự biết mình là linh hồn, là biểu tượng cho một xứ sở đất đai nào đó, nhưng ở đây, giữa không gian này, nó không là gì cả, giữa những lũy tre xanh lam này, giữa cánh đồng làng ngập nước nghi ngút khói sương này, nó trỗi lên như một phím đàn lạc điệu, cung bậc dở dang.

Nhìn ngọn cờ, nghe Trần nói, chợt Huyên cảm thấy một nỗi lo sợ không thành hình dạng nào cả, nàng nói, thấy khó chịu vì sự vắn tắt của câu nói:

– Bên ấy là đồn Tây làng Nguyệt.

Trần cười:

– Anh biết, nhưng khuya anh mới bơi qua sông kia mà, huống chi anh rất thuộc lòng đường sá ở vùng này. Dù sao, đêm nay anh cũng phải đến với chị, anh không thể để chị một mình lạnh lẽo trong đêm giao thừa được. Chị đã khổ sở suốt đời rồi, từ ngày yêu anh lại càng khổ sở gấp trăm lần.

Huyên và Loan lại nhìn nhau, cả hai đều lo sợ, nhưng không ai có thể nói được gì. Trần bước đều trên đường, tầm mắt của chàng như bị thu hút về phía cánh đồng bên kia sông, chàng cười khẩy chua xót:

– Khi người ta sống người ta may áo cho mình, bây giờ người ta chết mình không thắp được cho người ta một nén hương.

Huyên rụt rè hỏi, mong kéo Trần ra khỏi cơn sầu khổ:

– Anh Huỳnh mất cách đây bao lâu hở anh?

Hỏi xong Huyên mới kịp nhận ra mình lỡ lời, Loan cũng nhận thấy thế nên nàng khẽ huých tay Huyên một cái.

Trần quay lại vừa kịp nhận thấy sự bối rối thảm thương trên gương mặt hai thiếu nữ, chàng hiểu và cảm động, bật cười:

– À, Huỳnh hả, để anh kể chuyện Huỳnh cho mà nghe, nó chết vì bệnh đau tim của nó. Ở trại giam thỉnh thoảng nửa đêm người ta cho gọi nó dậy mang lên văn phòng bắt nó ngồi một mình với ngọn đèn dầu để tự kiểm thảo tư tưởng đến gần sáng mới cho trở về lều giam. Huyên còn lạ gì trí tưởng tượng của nó, mỗi lần bị gọi đi giữa đêm khuya là người nó xám xanh, run lên bần bật, lần nào nó cũng nghĩ rằng đó là lần quyết định, người ta sắp mang nó đi giết. Cho đến một đêm khi người ta vừa đập cửa gọi nó đi thì tim nó từ chối không thèm đập nữa. Trái tim của nó không chịu theo kịp sức tưởng tượng của nó, trái tim nó muốn nghỉ ngơi cho nhàn nhã một chút, biết làm sao được.

Trần lại cười:

– Trái tim nó cũng lười biếng y hệt như nó vậy.

Huyên buồn rầu nhắc lại:

– Vâng, anh Huỳnh lười có tiếng đấy anh nhỉ.

Trần cười to:

– Còn phải nói, để anh kể chuyện này cho nghe, có một đêm, nó gọi anh dậy, nó bảo nó muốn đi tiểu, anh gắt bảo nó đi đến chỗ tiểu ra ngoài mà đi đi, xong anh ngủ lại, đang lơ mơ thì nghe tiếng gì rơi đánh bịch một cái, kế đó là Huỳnh nó kéo chăn anh vừa xuýt xoa “lạnh quá, cho tao đắp chung chăn với mày,” anh bực mình gắt hỏi “thế chăn của mày đâu,” thì nó bảo lạnh quá nó không thể bước ra khỏi giường được nên nó đi tiểu trong chăn nó luôn, nó bảo để mai nó giặt, em có biết ngày mai nó giặt cái chăn bằng cách nào không?

Huyên và Loan không ai nhịn được cười, tiếng cười của họ làm ấm lại không khí lạnh ngắt của buổi chiều đông.

– Nó mang chăn ra phơi trên một cái sào, nó lấy cái cây đập đập mấy cái lên cái chăn, thế là xong. Báo hại anh phải đích thân mang ra suối giặt cho nó. Thôi, bây giờ nó đã hết hệ lụy vì những cái lặt vặt ấy nữa rồi.

Trần quay lại Huyên và Loan:

– Nãy giờ anh kể chuyện nhiều rồi, chuyện anh buồn lắm, bây giờ hãy nói chuyện về Huyên và Loan đi. Em sắp đi đâu phải không Huyên?

– Vâng, em sắp vào Khu Năm để theo học một nghề chuyên môn, như nghề thuốc chẳng hạn.

– Đó là một điều hay, nhưng em có thấy đường đi nguy hiểm và xa quá không?

– Ở lại cũng không hơn gì anh ạ. Anh biết rồi đấy, loại con gái nhà khá giả như em ở lại quê mình không có chỗ dung thân, bị ghép vào thành phần cả mà anh. Loan cũng vậy, tuy hoàn cảnh có khác hơn em. Loan vừa bị biên chế ra khỏi cơ quan của Loan đang làm việc, bây giờ chưa biết về đâu, gia đình thì ở vùng địch, không muốn và cũng không dám về.

Trần thấy mình lại chạm phải một nỗi bất lực lớn lao, nó làm cho tim óc chàng nhức nhối, chàng cố gắng khỏa lấp, quay lại Huyên, vẻ điềm đạm:

– Sao em không nghĩ đến chuyện trở về với gia đình em ở trong thành phố? Em là con gái, về với gia đình là phải.

Huyên buồn rầu:

– Vâng, thì các anh Hoàng, Bửu, Hồ, Phong đã về hết rồi đấy. Nhưng em chắc họ đang khổ tâm lắm.

Trần ngẫm nghĩ câu Huyên nói, Huyên có lý, làm sao mà vui cho được. Những người ra đi đã trở về với gia đình, với cánh én bị bão đánh rơi xuống đất không còn mong bay cao trên nền trời xanh quê hương nữa, với tâm hồn bị thương, với thân tàn ma dại, tuổi trẻ của họ vẫn còn, nhưng tình đời đã khép kín. Thân thể hao mòn kia còn có ngày bình phục, nhưng trái tim thanh xuân không bao giờ còn đập lại nhịp điệu hoang dã trong sáng của những tháng năm kiêu hùng nguyên vẹn xa xưa.

Thảng hoặc gặp lại nhau, họ nhìn nhau cười lặng lẽ, thời gian có lẽ còn quá mới mẻ chưa đủ cho họ nhắc nhớ với nhau những kỷ niệm. Mặc cảm của sự bỏ cuộc khiến cho họ ngượng ngập khi nhìn lại mặt nhau, bởi vì người nọ như một tấm gương trung thực phản chiếu khuôn mặt định mệnh khốn đốn của người kia; họ hờ hững nhìn nhau, rồi quay đi như người xa lạ. Như chưa bao giờ họ đã từng chia nhau từng miếng ăn kham khổ, như chưa bao giờ họ từng nằm sát bên nhau tìm hơi ấm trong những đêm dài mùa đông rét buốt. Họ đã quá mệt mỏi, họ muốn quên đi có lần họ đã cùng chung hoài bão, đã cùng hát chung một bản đồng ca. Giữa họ từ nay, đường ai nấy đi, nhà ai nấy ở, cuộc sống hạn hẹp thu gọn trong những chu kỳ buồn nản cố định, thích nghi với xã hội họ đang sống. Nhưng Trần tin rằng, cũng như chàng bây giờ, từ cõi sâu thẳm của tâm hồn, những gợn sóng ưu tư sẽ mãi mãi nhắc nhở họ niềm tiếc thương một mùa lý tưởng đã đi qua, chỉ còn lại những cơn ác mộng triền miên trong những đêm dài vô cùng vô tận.

Thôi thế cũng xong, Trần thở phào, cố ngăn giữ cho niềm vui mong manh vừa nhóm khỏi chóng tàn lụi trong tâm hồn. Chàng lại cười lớn:

– Thôi hay là anh đề nghị như thế này, anh em mình chung nhau mở một cái quán, chia ra làm hai gian, một bên hai cô bán bún bò Huế, còn một bên kia thì anh hớt tóc. Anh nghĩ đó là cách tốt nhất cho những người đi kháng chiến bị bỏ rơi như chúng mình. Hai cô nghĩ sao?

Loan cười buồn trong khi Huyên vui vẻ tán đồng:

– Chuyện có vẻ thú vị đấy anh ạ. Anh mà hớt tóc thì tuyệt quá còn gì, em nghe đâu Phạm Duy ở ngoài Liên khu Tư cũng bán phở đấy anh ạ.

Trần nhìn vẻ thích thú rạng ngời trong đôi mắt đẹp lạ lùng của Huyên, chàng cảm thấy lòng thanh thản lâng lâng một cách không ngờ, chàng chỉ tay về xóm nhà trước mặt:

– Đấy, nhà anh Đỉnh, bạn anh ở đấy.

Tuy là bạn Trần nhưng Đỉnh đã lớn tuổi, anh ta trạc ngoài bốn mươi, người cao gầy, khuôn mặt xương xương, đôi mắt sâu, vẻ người khô khan. Hương, vị hôn thê của Đỉnh cũng ngoài ba mươi, dáng người đài các, mảnh mai, khuôn mặt nàng làm Huyên nhớ lại câu thơ của Hàn Mặc Tử:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn mấy hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền…”

Huyên thầm nghĩ:

– Phải có khuôn mặt chữ điền như thế kia mới yêu thương chung thủy đến như vậy được.

Huyên bật cười vì ý nghĩ ngộ nghĩnh của mình trong khi quan sát vẻ dịu hiền của chị Hương. Hương mang ra đủ thứ, nào mứt, bánh, nem chả tự tay nàng làm ở Huế mang ra. Huyên và Loan mê đi trước những miếng kim quất xanh biếc, mứt cam vàng tươi, mứt me trong veo, mứt gừng trắng muốt, những chiếc bánh đẹp đẽ, những miếng chả thơm lựng. Hai cô gái còn trẻ quá, lâu rồi họ không được thấy những bánh mứt như vậy, những thứ đó đối với miền kháng chiến như những hình ảnh lộng lẫy xa xôi trong thần thoại. Được sự khuyến khích của Hương, Huyên và Loan say mê tận hưởng mùi vị của những món quà ngày Tết đó. Huyên nghe tiếng Đỉnh bùi ngùi nói với Trần:

– Tôi vào đây mới nghe tin Huỳnh mất, tôi thật buồn và tiếc vô cùng.

Trần chua chát:

– Thế anh không nghĩ sao thằng Huỳnh chết đi mà thằng Trần còn sống đó làm gì à?

Huyên quay lại, thấy Đỉnh lắc đầu bất mãn, phân trần:

– Đừng, đừng, đừng nghĩ vậy về tôi chứ.

Trần cười lớn:

– Anh đừng quýnh lên như thế, lâu lắm tôi không có dịp nói đùa, nếu tôi nghĩ vậy thì đâu có tìm anh làm gì.

Đỉnh có giọng nói mau mắn gần như nói lắp:

– Phải rồi, phải rồi, phải như vậy chứ. Tất cả ở lại đây dùng cơm với chúng tôi luôn nhé.

– Vâng, vâng, tôi đang định xin ở lại với anh chị tối nay cho đến giao thừa mới đi cơ mà.

Đỉnh trợn mắt:

– Giao thừa rồi còn đi đâu?

Trần cười lặng lẽ:

– Đi thăm một người, đúng hơn là đi chúc Tết một người thân.

Đỉnh gật đầu, tỏ vẻ hiểu biết:

– Cậu cũng chịu khó với chuyện Tết nhất đấy nhỉ.

– Vâng, lẽ sống bây giờ có lẽ chỉ còn vậy.

Giọng Trần xa xôi thoảng đến tai Huyên đang chăm chú nhấm nháp một miếng mứt gừng. Huyên quay lại khi nghe tiếng Trần gọi:

– Huyên này, năm ngoái cũng chiều ba mươi Tết như thế này, anh về nhà cô anh ở thôn Nhất, tối như thế này anh ngồi nói chuyện với cô anh và hai cô cháu gái như em và Loan bây giờ vậy.

Chị Hương dịu dàng nói:

– Cách đây chừng một tháng, tôi có đến thăm bác, gặp Thương và Thể My, cả nhà đều nhắc đến anh, không ai biết anh bị giam ở ngoài này, tôi cũng thế, ra đây mới biết. Bác khóc khi nhắc đến anh. Thương năm nay lớn hẳn, hoa khôi Đồng Khánh đấy, nhưng cũng nổi tiếng là lạnh lùng khép kín, không hề để ý đến những người theo đuổi mình.

Nói đến đấy chị Hương mỉm cười ý nhị nhìn Trần:

– Chắc điều đó thì chỉ mình anh Trần hiểu là tại sao thôi.

Trần buồn rầu:

– Đó là do lỗi tại mẹ tôi gieo vào trí óc non nớt của Thương những điều như vậy. Mẹ tôi muốn tôi và Thương sẽ thành thân sau này. Nhưng chị thấy đó, lẽ nào tôi lại mang cuộc đời rách nát của tôi làm u ám tương lai của một người con gái trong trắng hồn nhiên thế kia. Một người đàn bà thuần hậu đã chết vì tôi không đủ rồi sao.

Hương toan nói nhưng Đỉnh đưa mắt nhìn khiến nàng không nói nữa, nàng cười gượng đưa tay xếp lại mấy dĩa mứt trên bàn. Trần lại hỏi:

– Con bé Thể My chắc cao lắm chị nhỉ, cao hơn Thương chứ gì?

Hương ngẩng đầu vui vẻ:

– Vâng, cô ấy cao lớn lắm và vẫn liến thoắng đùa nghịch như trẻ con, cô thấy bà ngoại khóc, cô ấy bảo bà đừng có khóc, cậu Trần không bằng lòng đâu, cậu sắp về rồi đấy, chiến thắng đến nơi rồi, Tây nó sắp rút về nước hết, mình sửa soạn treo cờ kết hoa đón cậu Trần về thì vừa đấy bà ạ.

Hương chợt im bặt vì Trần cười cay đắng, chàng đưa tay vuốt mặt vẻ mệt mỏi. Không khí yên lặng nặng nề. Hương lặng lẽ rút lui xuống dưới nhà để làm cơm.

Tối ba mươi Tết qua đi khá đầm ấm, mọi người ngồi sưởi quanh bếp lửa. Đỉnh hỏi Trần:

– Anh bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?

– Ngày mai tôi đúng hai mươi lăm tuổi rồi đấy, già quá phải không anh?

Đỉnh lắc đầu lẩm bẩm:

– Hai mươi lăm, hai mươi lăm, ồ, còn trẻ quá, quá trẻ là khác.

Trần nhún vai:

– Tôi thì thấy quá già, hai mươi lăm năm, quá đủ, thật quá đủ, hai mươi lăm năm sống trên quê hương này. Anh không thấy chúng ta đang có một quê hương kỳ lạ hơn hết mọi quê hương sao? Nó có những cái tuyệt đối mà không một vùng nào trên thế giới này có được. Tôi nghĩ rằng chỉ có chúng ta làm người Việt Nam mới biết đau khổ đến tận cùng, mới hưởng hạnh phúc đến ngất ngư. Này nhé, chúng ta đang quay cuồng trong một cuộc chiến tranh lạ lùng, ở đó, đói khát, lừa lọc, tham lam, bẩn thỉu, ti tiện, căm hờn, tàn bạo, cái gì cũng đạt đến mức tinh vi cả. Do đó chỉ có chúng ta mới biết thưởng thức đến tuyệt đỉnh hạnh phúc của tình yêu, của nước mắt, của lòng hy sinh, niềm chung thủy, và cả sự đau thương. Ồ, anh thấy không? Hai mươi lăm năm với tất cả những cái đó, đâu phải dễ dúng gì.

Đỉnh cúi xuống, giọng anh trầm trầm:

– Tôi hiểu, tôi hiểu điều anh muốn nói. Có điều tôi không biết nói sao, tuổi tôi gần gấp đôi tuổi anh, tôi cũng gian nan quá nửa đời người, nhưng tôi rất buồn mà nhận thấy anh già dặn hơn tôi, khổ sở hơn tôi nhiều quá.

Trần thản nhiên:

– Có gì lạ đâu anh, trong cơn mê này của nhân loại, mà quê hương ta là thí điểm, tôi nghĩ rằng những lớp trẻ sau tôi nữa, họ sẽ còn già dặn hơn gấp mấy lần anh và tôi nữa kia, bởi vì họ còn đau khổ hơn chúng mình nhiều. Có điều họ sẽ không biết mình già dặn, sẽ không ý thức được vì sao mà họ đau khổ. Bởi vì thế hệ của chúng ta từng đã nắm trong tay thật nhiều ảo vọng, chúng ta những tưởng rằng mình đã có thật nhiều, và chúng ta để rơi vãi trên con đường chúng ta đã đi qua. Chúng ta bị mất tất cả, nhưng chúng ta còn có cái để mà mất mát. Còn những lớp người sau chúng ta, họ sẽ không có gì cả để mà ảo vọng. Và họ vẫn bị mất mát như thường, có lẽ họ sẽ mất ngay chính con người của họ, đó mới chính là điều khủng khiếp.

Trần cười thê thảm:

– Cho nên đúng ra tôi phải vui mới phải, vì con tôi nó từ chối không chịu chờ góp mặt với mọi người trên xứ sở này, trên cuộc đời này. Nó từ chối cuộc đời là phải.

Tiếng gió rít qua cánh đồng lùa đến vườn cây sau nhà làm những ngọn cây quất trong không khí nghe vun vút. Trần ngưng nói, lắng nghe đêm ngoài kia mênh mông rì rào muôn ngàn âm vang bất tuyệt, đôi mắt chàng bỗng sáng lên, đầy mộng mị, đôi môi tươi đỏ của chàng chợt mấp máy, rồi ngừng lại phảng phất một nụ cười đắm đuối. Chàng đứng dậy, nhìn quanh mọi người một lượt, tay chàng đưa lên phác một cử chỉ vẫy chào:

– Thôi, tôi đi đây, xin chào tất cả mọi người. Chúc năm mới tốt đẹp.

Trước khi khuất sau cánh cửa, Trần quay lại nhìn Huyên:

– Huyên và Loan ở lại đấy, chờ anh về, anh em mình sẽ mở quán nghe. Anh sẽ về trước sáng mai.

Không ai nói một lời, tất cả như bị thôi miên bởi giọng nói huyền hoặc trầm ấm du dương của Trần, bởi một nỗi đau thương lạc loài khủng khiếp vang dậy trong tiếng gió ngoài kia.

Khi Trần đã khuất sau cánh cửa gỗ, khuôn mặt đẹp đẽ của chàng còn sáng lòa trên ngọn lửa của đêm trừ tịch.

Như sực tỉnh, Huyên hốt hoảng:

– Anh Đỉnh, xin anh gọi anh Trần lại, đừng để anh ấy đi, anh ấy định bơi qua sông thăm mộ chị Hiếu đấy.

Đỉnh tái mặt:

– Thật à, sao em không nói trước?

Đỉnh đứng dậy, chạy ra cửa, Hương, Huyên và Loan cùng chạy ra theo, ngoài sân vắng ngắt, làng xóm lặng trang. Đỉnh quay lại nói với Hương: “Anh chạy theo gọi Trần lại nhé.”

Hương gật đầu, Đỉnh vội vàng đi thẳng ra cổng.

Ba người đàn bà đứng lại trước hiên, chờ đợi, khắc khoải. Một lát sau, Đỉnh trở về một mình, anh buồn bã:

– Anh ra đến tận cánh đồng, đêm tối quá, chẳng nhìn thấy gì hết, anh gọi Trần khản cả cổ, nhưng chắc ngược gió nên Trần chẳng nghe được gì. Quái lạ, mới đó mà sao đi nhanh thế không biết. Thôi, chúng ta đành thức chờ Trần về vậy.

Hương nép vào Đỉnh, thì thào:

– Lạy Trờ,i lạy Phật xin phù hộ cho Trần.

Huyên ngước nhìn bầu trời tối đen như mực, có một vì sao lẻ loi ở cuối góc trời đang cúi xuống nhỏ một giọt sáng long lanh trên cánh đồng mịt mùng hiu quạnh. Giọt sáng tan đi nhòa nhạt vào bóng sương khuya trắng xóa mù khơi.

Mọi người trở vào nhà, không khí tẻ nhạt u buồn, bếp lửa đã gần tàn, không ai buồn nhóm lại.

Có tiếng chuông đổ hồi từ phía nhà thờ bên kia sông vọng lại, tiếng chuông ngân nga, lướt qua giòng sông khuya, lửng lơ trên cánh đồng, đậu trên từng đám cây ngọn cỏ, rồi tan loãng vào hư không.

Cùng lúc ấy, một tiếng nổ vang rền từ bên kia sông dội lại. Cả bốn người cùng giật mình, nhìn nhau, không ai dám nói ra ý nghĩ của mình, nhưng họ cũng biết là họ đang nghĩ giống nhau. Tiếp đó vài tiếng súng lẻ tẻ vu vơ về phía đồn làng Nguyệt.

Đỉnh lên tiếng giải thích, cố tránh những ý nghĩ đen tối đang vây quanh mọi người:

– A, giao thừa rồi đó, chắc tụi lính bên đồn làng Nguyệt nổ mừng năm mới đó.

Tiếng nói của anh vang lên lạc lõng, giữa tiếng chuông báo hiệu giờ trừ tịch vang vang mơ hồ trong không gian.

Trần không trở lại đêm đó.

Và những ngày sau nữa.

Chàng sẽ không bao giờ trở lại.

Ngày mồng ba Tết, Huyên bắt gặp những hàng chữ sau đây trên một tờ báo thông tin của kháng chiến tỉnh Thừa Thiên, tờ báo có những tin chiến sự trên những chiến trường toàn quốc, những tin tức thắng lợi về những đợt tố khổ của chiến dịch cải cách ruộng đất, những bài thơ ca tụng những anh hùng dân công, những anh hùng giết giặc, cả trăm thứ anh hùng được hoan hô không dứt.

Dưới những bài báo đó, trong mục linh tinh, tin về cái chết của Trần như thế này:

“Thông cáo chính thức của Tỉnh bộ Thừa Thiên

Nguyễn Trần, nguyên chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Quân Đội Nhân Dân, trước đây đã có hành động phản cách mạng, phản nhân dân, vừa được chính phủ khoan hồng phóng thích ra khỏi trại Cải hối Tây Hạ sau thời gian học tập cải huấn.

Đêm giao thừa rạng ngày mồng một Tết, tên Nguyễn Trần đã bỏ mạng trên cánh đồng làng Nguyệt vì dẫm phải mìn trong khi y đang tìm đường đi đến đồn Pháp gần đó để toan đầu hàng giặc.”

Đầu óc Huyên trống rỗng, không có cảm giác vui buồn gì cả sau khi đọc bản tin kia.

Một tuần sau, Huyên lên đường về phương Nam, hành trang nàng không mang theo chi nhiều. Trên đường đi, nàng vẫn còn nghe vang vang tiếng nói của Trần trước khi đi vào cõi chết:

– Chúng ta bị mất tất cả, nhưng chúng ta còn có cái để mà mất mát, còn những lớp người sau chúng ta, họ sẽ không có gì cả, và họ vẫn bị mất mát như thường…

Huyên đi về phương Nam, dọc đường nàng nghe nói ở Việt Bắc, chiến dịch Điện Biên Phủ đang mở màn, Tổ quốc Việt Nam sắp rẽ qua một khúc quanh lịch sử.

Và trên khúc quanh đó, những xác chết của người kháng chiến Việt Nam chồng chất trên quê hương này đang đi dần vào sự lãng quên của mặt trời mỗi ngày hiện lên lộng lẫy từ phương Đông để rồi lặn xuống âm thầm sau dãy núi phương Tây.


Viết xong tại Đà lạt ngày 27 tháng 5 năm 1971.
Nguyễn Thị Thanh Sâm