“Xóm Cùi!”. Không biêt cái xóm nầy ngày xưa có bao nhiêu người cùi cư trú, nhưng từ lâu suốt cả xóm, người ta không thấy một ai đang mắc chứng bệnh quái ác nầy! Bởi vậy ngày nay khi nói đến “Xóm Cùi, người ta không hề nghĩ về một xóm có nhiều người lở lói chân tay, máu me, nước vàng nhầy nhụa, hay những bộ mặt sần sùi nổi cục nổi nần gớm ghiếc; mà ai cũng nghĩ đó là một xóm lao động bát nháo, đầy đủ mọi thành phần bất hảo: Chôm chỉa, nhậu nhẹt, bài bac, số đề! Tiếng chửi mắng rũa xả mở hết vô lum xãy ra như cơm bữa đến nỗi đã làm cho mọi người nhàm chán. Tiếng chân rượt đánh nhau kêu la ơi ới cũng không ai thèm để ý, dù cho những kẻ hiếu kì!
Nói vậy Xóm Cùi không phải là không có người lao động hiền lương sinh sống. Họ sống bằng mọi nghề hạ đẳng mà số tiền kiếm được cũng chỉ đủ đổi gạo, lây lất qua ngày, nếu không bị bệnh hoạn yếu đau.
Xóm Cùi tuy xô bồ bát nháo nhưng ít ai để ý đến ai. Duy có một người, và nay là một “gia đình”, đã “được” mọi người luôn nhắc đến: Đó là chị Hạnh.
Chị là người con gái có gương mặt hơi thon, nước da hơi trắng, môi hơi đỏ, má hơi hồng, để lộ những tia máu li ti. Tóc chị cắt ngắn để lộ cái cổ tròn trịa nõn nà. Mắt chị lại đen láy, mày chị thon thon, mi cong vút. Đặc biệt cái miệng lúc nào cũng sẵn nụ cười chào đón mọi người. Gương mặt của chị mà “lên lịch” thì chắc hẳn phải ăn trùm những tấm hình của các “sao”. Mà có thể người xem lại thích hơn vì ảnh chị toát ra nhiều nét diệu hiền, hoàn toàn không pha tạp cốt cách kiêu căng khinh mạn!
Tạo hoá thật khéo trêu ngươi! Khoảng giữa xương sống chị từ nhỏ như bị bẻ gập lại một góc, đến nỗi người ta nghĩ chị không thể nào nẳm ngửa được. Có người cắc cớ hỏi, chị đáp tự nhiên: “Thì em chêm hai cái gối hai bên!”. Nếu chỉ như thế thì không có gì đáng nói. Đàng nầy hai chân chị dường như không có khớp háng. Chúng quặc quà quặc quại dính vào thân hình chị một cách vô tích sự, cho nên chị có thể giắt chúng lên cổ khi thấy cần thiết, như lúc chị “đi” qua vũng nước chẳng hạn!
Trông chi di chuyển, người ta vừa xót thương, vừa cảm phục: Hai tay chị cầm hai ghế cóc (loại ghế cao chừng một tấc mà các bà bán hàng dưới đất thường dùng). Bước một, chị để một tay (cầm ghế) về trước, vừa một bước chân, đồng thời lấy đà hất mình lên, sao cho mông chị ngồi trọn lên ghế ấy! Bước hai, chị để tay kia (cũng cẩm ghế) về trước, rồi cũng hất mình lên cho mông ngồi trọn trên ghế nầy! Lối đi độc đáo nầy rất có lợi là chị khỏi phải lếch, quần khỏi bị rách, và tất nhiên suốt ngày mông chị chẳng dính chút dơ!
Mọi thứ sẽ đở khổ cho chị hơn rất nhiều nếu chị không phải kéo lê theo hai khúc chân tong teo ăn hại!
Và nếu chỉ như thế, thì chị cũng như hàng trăm người tật nguyền bán vé số trên xe lăn, hay không xe lăn trên khắp nẽo đường, có gì khiến người ta đáng để ý, đáng quan tâm?
Điều khiến ai cũng biết chị, làm chị đột nhiên “nổi tiếng” như một người trúng số độc đắc cá cặp là chị…có bầu! Đó là tin giựt gân đến nỗi những người rỗi chuyện tìm chị để nhìn tận mặt xem có phải là tin vịt hay không! Cái bụng chị đã trả lời chính xác bao thắc mắc tò mò , và là sự phũ phàng cho ít kẻ có chút lòng nhân.: “Thằng nào mà ác dữ!”. Nhưng cái ác đâu chỉ là do hành động thủ ác, mà có nhiều cái miệng độc địa cũng góp phần không nhỏ, thậm chí có phần lớn hơn! Nó xuất phát từ đủ hạng người, mọi ngã đường. Chúng bàn tán xôn xao, đặt nhiều nghi vấn tưởng tượng, mỉa mai thô bạo, và tự đề ra một luật lệ nghiêm khắc là loại người như chị không được hưởng quyền đẻ cái nuôi con: “Cái thứ không biết thân còn bày đặt!”. “Bày đặt” theo ý họ là cái “chuyện ấy”chỉ có những người lành lặn như họ mới được độc quyền hưởng thụ, hay gì gì đó!
Mấy quán cà phê tồi tàn trong xóm luôn là tụ điểm của những kẻ rảnh nghề mà háo sự. Mấy tay xồn xồn không biết làm nghề ngỗng gì mà cứ la cà nơi đây suốt ngày tám tiếng để bàn chuyện năm trên, chuyện thiên hạ, mà không từ bỏ một lời lẻ nghiệt ngã nào, miễn sao chúng được vui với những trận cười hô hố: “Ê gù! (chúng gọi chị Hạnh) Mầy nói cho tao biết rồi tao mua cho tờ vé số: Cái lưng mầy gù một cục, làm sao mầy nằm ngửa mà “làm ăn” được vậy mậy?”. Một tên khác đưa tay lên diễn tả rồi hắng giọng: “Cái đó mới ngon à nghen! Nó giống như cái đu, chổng lên, chổng xuống vậy mà! hố hố…”. Cả quán cười vang, kể cả bà chủ quán. Mụ cười làm hai tảng thịt trên má mụ bạnh ra, lòi hai hàm răng lổn cổn, đen thùi nhựa thuốc. Mụ hỏi chị khi hai cục môi dày cộm, tím ngắt như hai lạng thịt trâu ế ở chợ chiều vừa khép lại, để lộ nét hung tợn, tràn trề vị đắng cay, độc địa:
– Cái thằng nào “có phước” dữ vậy mậy? Mà mầy cũng “có phước” lắm đó nghe! Ha ha!
Chị lặng thinh, nhẹ nhàng quay xe đi. chị thấy hai mắt của chị hơi cay. Dù chưa được đến trường ngày nào, nhưng với tuổi đời gần ba mươi, chị cũng thừa hiểu tiếng “ có phước” được lập lại hai lần nó mang ý nghĩa thế nào! Tiếng đầu là thuần mai mỉa, tiếng sau lại được tạt thêm bao vùa miệt thị chua chát đến xé lòng!
Chị âm thầm quẹt vội nước mắt.
Chị dừng xe lại, lặng im để cho lắng bớt những lời lẻ thô tục nặng lời phỉ báng, thẳng tay bôi nhọ nhân phẩm của chị. Gọi là “nhân phẩm”, vì dù sao trong xã hội nầy, chị cũng là một con người. Chị cũng đã lấy sức lao động chân chính của mình để đổi lấy miếng cơm trắng sạch. Nói cho cùng, chị cũng đã ít nhiều mang niềm vui, hay ít ra là niềm hy vọng tới cho mỗi người khi mua tờ vé số! Chị cũng biết buồn, biết khổ, biết vui sướng, biết suy tư, biết rơi nước mắt, và nhất là chị đang biết nói tiếng người! Thì chị phải là con người chính cống, không thể chối cãi, không thể phủ nhận! Nhưng với nhiều kẻ không còn sót lại trong cặp mắt họ một chút nhân tình, thì trong tim họ, trong đầu họ, dẫu bào cho mòn, dẫu vạch cho kỹ, cũng không tìm thấy một chút xíu lương tri. Trong lồng ngực họ, trái tim nhân ái đã biến mất, hay đã bị rơi xuống, lẩn lộn trong vùng bụng đầy chất cặn bả của đại tràng che lấp! Với họ, chị là con thú dị hình, may mắn mang được tên người, không hơn không kém!
“Thằng nào có phước vậy mậy?”. Câu hỏi đến tận cùng của sự mỉa mai, dư thừa sự tàn nhẫn và đầy rẩy sự khinh bỉ nầy dù cho chị có muốn trả lời, chị cũng không thể. Bởi chị có biết “thằng nào” đó là ai?!
Chị không biết là ai, nhưng chị không thể quên một chi tiết nào trong cái buổi định mạng ấy….
Như bao ngày, khi chị được tờ kết quả dò vé số, chị bương bả lăn xe, tranh thủ bán bớt những tờ vé số ngày mai cho tới sậm tối mới thư thả trở về theo ngả tắt nhị tì. Và cũng như mọi ngày, theo thói quen, khi đến đoạn đường dốc gồ ghề đá sỏi, chị thường dừng lại nghỉ…tay! Thì bất ngờ từ phía sau, xe chị được ai đẩy tới. Chuyện đẩy giùm lên một đoạn dốc của một tấm lòng nhân ái cũng đã thường xãy ra, nên chị không nhìn ra sau mà chỉ “Cám ơn”! Nhưng lần nầy xe chị lại bị đẩy nhanh về phía trong chòm mả lớn, rồi một cánh tay chắc nịch bồng chị chạy tuốt vào trong. Hắn để chị xuống…
Sự việc xảy ra nhanh chóng, bất ngờ. Chị loạn xạ thần hồn, muốn la, cũng không ra tiếng. Trong chỗ tận cùng của ý thức, đột nhiên chị biết sự việc sẽ diễn biến thế nào! Chị sợ sệt, lo lắng, hồi hộp, rồi phó mặc! Bao ý nghĩ lộn xộn trong đầu óc chị, mà sự phập phồng để đón nhận việc sắp tới đã chiếm phần ưu thế. Chị muốn hé mắt nhìn xem người ấy là ai, nhưng có nhiều thứ làm chị không dám, trong đó có việc sợ người ấy hoảng hốt bỏ đi.(!)…Mùi rượu nồng nực, làm chị muốn ngộp thở khi thân thể kia dán vào mình chị, tiếp theo là những cảm giác lạ kỳ…
***
Đứa con chị ra đời là cả niềm hạnh phúc, và cả niềm hy vọng lớn lao của chị. Chị đã có con, chị đã được quyền làm mẹ, được quyền thương yêu con mình như bao nhiêu người khác. Chị thỏa thê hôn hít nựng nịu, vuốt ve con mình như bao người. Chị không còn tủi thân khi phải chịu những lời lẻ, những thái độ khó chịu khi chị thuận tay nựng nịu những gương mặt các bé thơ ngây dễ mến. Thậm chí, khi chị khen em bé đẹp, dễ thương , họ cũng chẳng hài lòng! Họ nghĩ bàn tay chị như chứa đầy những vi trùng của bệnh nan y; và lời chị, dù là những lời chúc tụng tốt lành, cũng không khác những lời nguyền độc địa! Nhiều khi chị nghĩ lại, lời mụ chủ quán cà phê cũng có lý: “ …Mầy cũng có phước lắm đó nghe!”. Đúng vậy, chị rất may mắn, rất “có phước” khi đẻ một đứa con xinh đẹp, khoẻ mạnh, điều mà chị thường ước ao, nghĩ là vô vọng, mà nay mới được toại nguyền. Chị thầm cám ơn ai đó tại khu gò mả năm xưa.
Cô bé càng lớn, chị phải “làm thêm” để đủ sức nó ăn. Thân nó càng tròn, thì thân chị càng teo lại. Có nhiều khi nhường con ăn thịt mà chị thèm y như những ngày tháng cấn thai.
Cô bé càng lớn, càng trắng trẻo hồng hào, tóc càng óng ả mượt mà, môi càng đỏ thắm. Mười sáu tuổi thì nổi danh… “Hoa Hậu Xóm Cùi”!
Hoa đẹp dù mọc bất cứ nơi nào thì hương thơm vẫn quyến rũ được đàn bướm ong từ bốn hướng bay về.
Xóm Cùi lại một phen lé mắt khi mà căn chòi lá tồi tàn của chị được thay bằng ngôi nhà tường khang trang, mô đen nhất xóm; lại được chiếc xe tay ga đời mới cáu xèng trang điểm, làm tăng thêm phần uy thế.
Ở được nhà đẹp, nhưng chị Hạnh lại không thấy vui, bởi chị biết số tiền xây nhà con chị đã kiếm được từ đâu!
Thông thường trong gia đình, hễ ai có nhiều tiền thì được nhiều quyền. Sự hiện diện của chị trong ngôi nhà nầy không còn cần thiết, hay đúng hơn là chị đã mất hẳn chỗ đứng. Một lần khi về, chị thấy nhiều xe lạ dựng trước, nhìn vào thì thấy mấy gã sang trọng đang chè chén với con chị. Chị còn do dự, thì “Hoa Hậu Xóm Cùi” chạy ra xua tay, kèm theo cái nháy mắt khó chịu: “Không mua! Không mua!(vé số) Đi đi! Đi đi!”
Chị đã hiểu! Con chị đã không muốn thân thể tật nguyền của chị làm bẩn mắt những người bạn sang trọng của nó. Nó không muốn thân thể tồi tàn của chị làm mờ nhạt, hay bôi đen gương mặt diễm lệ của mình; dù gương mặt “hoa hậu” nầy được nuôi nấng bằng những giọt sữa chắt chiu bởi một thân thể gầy còm tàn tật! Thân thể nầy đã gánh nặng oằn cả cuộc đời gian khổ, tủi nhục. Đã nhịn ăn, nhịn uống. Nói mà không sợ xấu hổ, nhiều lúc nhìn con ăn mà nước giải chị trào ra vì quá thèm thuồng bởi từ lâu chị chưa hề nếm thịt!
Một lần người ta nghe trong nhà chị:
– Ngày mai tôi có khách suốt ngày, tối bà hãy về, nghen!
– Ngày mai là đám giỗ bà ngoại con …
Giọng bực bội:
– Ngoại , ngoại, ngoại! Giỗ, giỗ cái gì? Bữa khác đi!
Sáng hộm sau, tại một góc phố vắng, trên bàn bán vé số của chị người ta thấy một gói nhỏ thịt lợn quay, một chén cơm trắng và ba cây nhang cháy dở. Chị lâm râm khấn gì đó. Một kẻ qua đường vui miệng nói:
– Cha! Lúc rày làm ăn khá, “chơi” heo quay há!
Lại có người nhìn chị bĩu môi:
– Học làm sang!
Chị không để ý lời họ, mà nghe cay xè trên hai mắt.
Cuối phần đất nhị tì là một con mương giáp ranh với miệt vườn. Khi thuỷ triều xuống, nước cạn trơ tận đáy; khi thuỷ triều lên, nước xâm xấp cây cầu dừa bắt ngang. Tờ mờ sáng, một người hốt hoảng khi phát hiện xác chị nằm úp mặt xuống sình, cạnh bên là chiếc xe lăn. Mương không lớn, nước không sâu, không chảy xiết nhưng đủ dìm chết kẻ tật nguyền như chị!
Chị chết đi, những tủi nhục trần gian được xóa hết. Niềm hy vọng của chị theo đó cũng tiêu tan: Đứa con mà chị đặt tên là Hiếu, với bao kỳ vọng là nó trả hiếu cho một cuộc đời khốn khổ lúc về chiều, giờ cũng không còn!
Kha Tiệm Ly