có những điều không nói ra, chỉ ghi lại...
pn

Thứ Năm, tháng 6 20, 2013

Lớp lớp phù sa





– CHƯƠNG 1- 

Hò..ơ ờ ơ ớ…
(chớ) Phù sa nước đục khó dòm
Nhớ anh em khóc (ơ ờ)
Hò… ơ ờ ơ ớ..
Nhớ anh em khóc đỏ lòm con (ờ ớ..) ngươi …
Hò …ơ ờ ơ ớ…
Bao phen (mà) quạ nói với diều
(chớ) Cù lao Ông Chưởng (ơ… ờ…)
Hò…ờ ơ ớ…
Cù lao Ông Chưỏng có nhiều cá (ờ ớ) tôm…

Chú Ba ngưng mái dầm một chút chờ cho chiếc ghe cà dom lớn xẻ dòng nước đục băng qua trước mặt chiếc xuồng ba lá của mình và giọng ngân nga của người đàn bà giữ lái dứt câu hò ngọt lịm rồi cúi đầu bơi miết. Chiếc ghe cà dom khá lớn, sơn đen với hai tròng mắt đỏ trắng ngó trừng xuống dòng phù sa cuồn cuộn, bợn đất lợn cợn như huyết cầu phăng phăng trong dòng máu đang chảy xiết. Ghe chở lúa khẳm nặng, mực nước lé đé lằn giáp ranh giữa mui và thân ghe. Người đàn ông chống sào trên ghe đưa tay khoát khoát chào nhưng chú Ba vẫn tiếp tục bơi miết, không đáp lại. Chú không có thì giờ. Vợ chú đang nằm trong khoang xuồng, đau bụng đẻ rên hử hử. Cánh sông quá lớn tách rời cù lao với đất liền, mặt nước vang dội tiếng quạ quang quác kêu chiều. Trời sắp chạng vạng.

Những lượn sóng do chiếc ghe cà dom dấy lên đập lắp tắp vào mũi xuồng làm xuồng lao chao, chú Ba vội xoáy mái dầm để giữ thăng bằng. Bỗng thím Ba rên một tiếng lớn làm chú giật thót:

– Mình! Mình rán lên mình! Sắp tới rồi…

Chú đổi mái dầm qua phía bên mặt xô giề lục bình lớn đang tấp vô xuồng, những chiếc lá lục bình no tròn cạ vào thân xuồng rào rào. Giờ này con nước đang lớn, lục bình từng đám nặng hoặc lẻ tẻ theo dòng nước trôi lền khên vào sông. Nắng yếu dần. Thím Ba rên càng lúc càng lớn. Chú Ba quýnh quáng đổi mái dầm hết tbên mặt sang bên trái, hết bên trái sang bên mặt, nhưng dưới mắt chú chiếc xuồng ba lá vẫn như đứng chết trân tại chỗ.

Tiếng rên thúc bách. Chú quăng mái dầm lên xuồng, chồm tới:

– Mình! Mình có sao không?

Giọng thím Ba yếu ớt:

– Đau…đau quá mình ơi!…

Chú Ba xoè hai bàn tay quạt nước hai bên xuồng như cá lội dòng nước ngược:

– Mình! Mình rán lên! Đừng có đẻ rớt bất tử… Sắp tới rồi.

Chú ngó lên dãy cây lố nhố trên cù lao trước mặt, thấp thoáng có lũ quạ đen sà xuống. Chú chụp lại mái dầm cúi gầm đầu bới dòng sông từng nhát mạnh. Chú không dè vợ mình có thể đẻ sớm như vậy. Chỉ mới tròm trèm có bảy tháng. Dù trước đó bà con có nhắc nhở chú là thím Ba có chửa con so, phải coi chừng, sợ đẻ không đúng ngày. Chú nghĩ bụng chín tháng nếu rút lại tám tháng đi, cũng còn có thể qua được mùa gặt. Chú đã lãnh công với chủ điền rồi, một mình không cách gì làm cho xuể. Bữa nay vợ chồng chú vẫn gói hai mo cơm và mắm sống như thường lệ ra ruộng từ hừng sáng với hai cái lưỡi liềm mới vừa mài lại, bén ngót. Gặt từ sáng tới trưa cũng được bộn, thím Ba không có triệu chứng gì khác lạ. Nghỉ tay hấp tấp ăn trưa xong, thím Ba tự nhiên thấy uể oải. Tuy vậy hai vợ chồng vẫn lội xuống ruộng gặt tiếp. Phải làm mới có ăn. Phải làm, và làm vất vả đổ mồ hôi xót con mắt, như mọi tá điền khác. Mượn mùa trước trả mùa này, mượn mùa này trả mùa sau. Cứ như vậy, nợ kinh niên. Có người đã trốn nợ, dắt vợ con lén qua miệt khác làm ăn. Vợ chồng chú Ba hy vọng mùa này lúa trúng, may ra còn dư chút đỉnh sau khi góp lúa đong cho chủ điền. Nếu cả hai cùng làm, may ra…

Tới xế trưa, thím Ba bỗng đau bụng ngầm ngầm, như mắc mót, nhưng đi không được. Thím thầm nghĩ chắc tại ăn chuối sống còn dư lại từ trưa qua. Dù vẫn cúi lom khom gặt lúa như thường lệ, nhưng khi ngửng lên thím đau thắt ngang lưng khác hơn lệ thường, như thể trặt xương sống, mắt nổ đom đóm. Một hồi, chịu không nổi, thím buông lưỡi hái gọi chồng:

– Mình ơi! Sao tui đau bụng kỳ quá.

Chú Ba ngó cái bụng không mấy lớn của vợ rồi an ủi:

– Ối? Chắc tại ăn không chịu mới đau chớ gì. Mình lợi gốc trâm bầu ngồi nghỉ một lát chắc hết đau. Nhớ ngồi chỗ mát cho ráo mồ hôi.

– Không phải đâu mình à. Tui đau chằng chằng kỳ lắm.

– Thì mình nằm thẳng xương sống chớ đừng ngồi. Tui đương gặt lỡ tay, một chút tui lợi sau.

Tuy nói vậy chớ trong bụng chú Ba cũng hơi lo. Chú chưa chuẩn bi cho việc vợ mình đẻ chửa gì hết. Vợ chồng lại ở ngoài cù lao đơn chiếc, không có bà con với ai bên đó. Gia đình lớn của chú đều ở bên Thới Lai, gia đình bên vợ thì ở làng Cờ Đỏ. Chú gập thím trong mùa cấy, hai bên thương nhau rồi ở với nhau. Chỉ có một bữa ăn sơ sài đãi một ít người quen chớ không có đám hỏi đám cưới gì hết. Một mặt không có tiền, mặt khác phía bên gia đình chú cũng rắc rối lục đục, chẳng ai dòm ngó gì chuyện riêng của chú. Ông Đương, ba chú, có hai đời vợ và hai dòng con. Dòng lớn với má ruột của chú gồm sáu người: Trước, Khuôn, Thung, Dung, Huấn, Đãi. Chú là Ba Khuôn, Dung, Đãi là hai em trai. Dòng nhỏ, vợ lẽ là em ruột của má chú, cũng gồm sáu người: Tân, Xuân, Bằng, Cúc, Đảo, Lai, trong đó Bằng, Cúc, Lai là gái. Xuân hồi lên bảy tuổi đau một trận ngặt nghèo tưởng chết. Khi hết bệnh, Xuân trở thành câm và điếc luôn.

Má chú vì quá ghen với em ruột của mình, nhưng đồng thời cũng quá thương em, không mở miệng nói được, nên đau tâm bệnh ốm o gầy mòn hơn ba năm rồi chết. Lúc đó chú đâu được mười tuổi. Chú chứng kiến sự hấp hối kéo dài năm này qua tháng khác của má mình. Chú rất hận dì ruột của mình mà cũng là má ghẻ của chú, một người đàn bà có nhan sắc nhưng lòng dạ đanh đá, khắt khe, nhỏ mọn. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, má chú còn rán căn dặn chị Hai chú và chú rằng:

– Tụi con là đầu lòng, phải rán lo cho mấy đứa em nhỏ. Phải ăn ở có hiếu với ba của mấy con và tử tế với dì mấy con. Nhứt là Khuôn, con là đứa anh trai đầu đàn, con phải biết…

Bà nhắm mắt ra đi trước khi câu trối trăn chấm dứt. Chú ngậm ngùi chảy nước mắt, không bật khóc thành tiếng, răng cắn vào môi rướm máu. Chú thì thầm bên thi hài lạnh ngắt của má mình: “Má ơi! Con xin hứa”. Sau khi chôn cất chị mình, người dì ghê bỗng đâm ra khắt khe kịch liệt với đám con của chị mình. Bà chửi bới khi thấy chúng nó khóc lóc vì nhớ thương người mẹ đã ra đi vĩnh viễn. Bà muốn tụi nó cũng ra đi cho khuất mặt khuất mày. Ba chú thương đều cả. hai dòng con, nhưng khi có lời can gián dì chú thì lại như đổ thêm dầu vào lửa, bà la hét, dằn mâm xáng chén, trong nhà hửng hực như hỏa ngục. Thét rồi ba chú phải cất nhà cho đám con dòng lớn ở riêng, cũng gần đó. Nhưng đâu đã được buông tha. Bà dì vẫn tìm tới xéo xắc. Có lần bà nắm tóc thằng Đãi, đứa em út của chú và vả vào mặt làm đứa nhỏ sặc máu mũi. Chú đương chẻ củi, cầm rìu chạy tới hầm hầm, bà dì hoảng sợ chạy tuốt về bên nhà, vừa chạy vừa kêu cứu: “Bớ làng xóm! Thằng Khuôn nó muốn giết tui! Bớ làng xóm!…”

Khi chú được mười tám tuổi, chị Hai chú qua bên Cờ Đỏ gặt và cấy mướn rồi ở luôn bên đó. Thỉnh thoảng chú Ba qua bên tiếp tay với chị, rồi nhân dịp làm quen được thím Ba. Chú thường đi ngang nhà cầm cây roi mây quất vào tàu lá chuối bộp bộp khiến thím Ba đang làm cá hay giặt giũ ở sàn nước bên hè sau nhà giựt mình ngó ra, chú mỉm cười tình. Nhắc lại vụ này, thím Ba thường thêm câu thòng: “Cái thằng cha thiệt thấy ghét!” Sau bữa tiệc đãi người quen, chú đem thím về ớ chung với mấy đứa em mình bên Thái lai. Điều đó lại trở thành cái cớ cho bà dì dèm xiểm, nói ra nói vào với ba chú. Bà trách:

– Ông coi cái thằng Khuôn có coi tui ra gì đâu. Nó muốn đem ai dìaa ở thì đem, chẳng cưới chẳng hỏi, hỏng thèm nói qua với tui một tiếng.

Ông Đương giả lả:

– Thì bữa đãi tiệc nó cũng mời tui với bà tới chúng kiến cho tụi nó ăn ở với nhau, tại bà không chịu đi đó chớ.

Bà nguýt ông một cái:

– Xí! Nó nói với ông vậy chớ có mời thẳng tui đâu mà đi với hổng đi. Rủi tui tới đó nó không thèm bắc ghế cho tui ngồi rồi tui xách đít đi dìa mắc cỡ với bà con à?

– Ối cái bà này sao mà khó quá tay! Bà cứ tránh mặt nó hoài làm sao mà nó mở miệng mời bà đặng.

– Cái gì ông cũng binh nó hết. Nó đã qua mặt tui rồi, bây giờ ông bắc thang cho con vợ nó trèo lên đầu tui ngồi luôn đi.

Thiệt ra thì thím Ba cũng có bưng mâm trầu rượu theo chồng mình qua lạy bà dì ghẻ, nhưng đã ba lần, lần nào bà cũng ngoe nguẩy đứng dậy bỏ đi không chịu nhận. Bà xỉa xói:

– Mày với con nhỏ này có muốn lạy thì ra mả má mày mà lạy, đừng có lạy tao còn sống mà làm tao tổn hao âm đức, trù ẻo tao chết sớm tội nghiệp. Tao còn muốn sống để lo cho đám con tao, chớ ba mày thì chỉ biết lo cho tụi bây…

Sau cùng, thấy sự có mặt của vợ chồng mình chỉ gây phiền phức cho ba mình nên chú Ba quyết đinh dời qua cù lao Ông Chưởng cất chòi cho hai vợ chồng ra riêng, khỏi bi lời ong tiếng ve. Và cũng vì vậy mà ở bên cù lao chú Ba chỉ còn biết trông cậy vào chòm xóm, “bà con xa không bằng xóm giềng gần”. Giờ chú Ba cố gắng gặt rút, mồ hôi vã ra dưới trời nắng chang chang, gặt rút để còn tới coi thím Ba ra làm sao ở dưới bóng cây trâm bầu đằng kia.

Thím Ba nằm dã dượi, bụng đau càng lúc càng dồn thúc. Thím có cảm tưởng mình mắc tiểu mắc mót liền liền nhưng không có cách gì giải tỏa được. Thím úp chiếc nón lá rách lên mặt cho đỡ chói nắng, một hồi ngộp quá lại dở ra. Trên trời xanh cao ẩn hiện lờ mờ một con diều đang đập cánh đúng yên tại chỗ rình mồi. Nó đang chực xớt một con chuột dưới ruộng lúa đem về tổ xé ra đút cho con ăn. Bào thai chòi đạp làm thím đau điếng. Thím kêu ú ớ. Cánh diều xẹt xuống ruộng lúa như hòn đá nặng vụt rớt rồi vút lên, dưới bụng có bóng đuôi chuột ngoe nguẩy. Thím muốn lên tiếng kêu chồng mình, nhưng ruộng bỏ ai gặt đây? Thím ôm bụng cắn răng. Bộ con trai sao chòi đạp dữ quá. Vòm cây trâm bầu bên trên vụt chảy ra nhòe nhoẹt, tan loãng trong ngọn gió nóng sốt ùa tới. “Mình ơi! Đau quá “, thím Ba lí nhí trong cổ họng. Bên dưới thân người đàn bà chợt nứt hai, nước ồ ra lai láng. Thím Ba lí nhí…

Gặt được phân nửa công ruộng, chú Ba không yên bụng. Chú vội ngưng lưỡi hái chạy tới gốc trâm bầu. Thím Ba nằm không cục cựa, đôi mắt hé mở lờ đờ. Chú hoảng hốt lắc lắc vai vợ:

– Mình! Mình sao vậy? Bộ bị rắn cắn hả?

Chú ngó dáo dác, chợt thấy quần vợ mình ướt sũng. Thím Ba thều thào:

– Tui đau quá… chắc đau bụng đẻ. Làm sao bây giở?

Chú vội vàng luồn hai tay dưới cổ và nhượng của vợ mình xốc lên rồi chạy băng băng trên bờ đê, chạy riết bất kể quân thần. Người đàn bà rên hử hừ, tóc sút ra dã dượi, mặt mày xanh lét Nắng chiều đã xuống, bóng người đàn ông mấp mô ngả dài, gãy rách trên những gốc rạ mới cắt. Chạy ra tới bờ sông, chú đặt vợ mình nằm dưới khoang xuồng rồi nhổ dầm xô xuồng ra dông sông lớn. Cù lao bên kia biệt mù không ngó thấy, ngoại trừ vệt xanh của rặng cây trong ánh sáng nhá nhem. Dưới sức khuấy động của dầm bơi, xuồng phăng nước ồ ồ. Nước đang lớn, sông càng rộng thênh thang. Nước tứ bề, nước lênh láng. Những cánh chim đen trên cao bay lượn. Bao phen quạ nói với diều…

Thêm mấy nhát dầm xới mạnh, xuồng xáp lại gần bờ cù lao. Chú Ba phóng mái dầm ra phía trước cắm phập vào bãi sình rồi nhảy xuống nước xô lục bình dạt ra phía sau xuồng, đạp chân lên lòng sông đẩy xuồng vào bờ. Phù sa trơn nhớt dưới ngón chân như thoa mỡ. Xuồng vừa ghim mũi vào bờ, cạnh cây cầu bằng thân dừa có khứa nấc, chú Ba cất tiếng kêu lớn:

– Thím Tư ơi! Thím Tư!

Chú kêu như vậy mấy lượt. Một người đàn bà mặt dính lọ nghẹ chạy ra bờ sông ngó dớn dác, rồi chạy cẳng không về phía xuồng chú, la lớn:

– Cái gì vậy chú Ba?

Chú buộc dây xuồng vào mái dầm nói vọng lên:

– Mau đi thím Tư! Mau đí!

– Mau cái gì?

– Đẻ!? Đẻ!

– Hả! Cái gì đẻ?

– Tui nói đẻ, đẻ tới rồi…

Thím Tư ngó xuống xuồng phát thinh la lớn:

– Trời thần quỉ địa ơi! Bộ thím Ba đẻ dưới xuồng rồi hả?

– Chưa. Thím đi rước mụ lẹ lẹ đi, bể nước lồ ối rồi.

Thím Tư vụt chạy đi mấy bước rồi quay trớ lại:

– Để tui tiếp chú đem thím Ba lên đã.

– Tui biểu thím lẹ đi, để mình tui đem bả lên được rồi.

Thím Tư còn đứng xớ rớ. Người đàn ông bồng vợ lao chao trên cầu dừa. Thím la hoảng:

– Trời ơi! Được hông đó cha nội? Để tui tiếp cho. Té một cái là chết hết cả đám.

Chú Ba vừa bước chân lên cù lao, vội vàng thúc hối:

– Lẹ đi thím ơi! Rước mụ lẹ lên, không có bả đẻ trên tay tui bây giờ.

Người đàn bà tất tả chạy đi… Chú Ba bước vào chiếc chòi nhỏ của mình, đặt vợ nằm trên chiếc chõng tre. Trong chòi tối lù mù. Chú cầm con cúi bện bằng rơm qua nhà thím Tư nhúm lửa, đem về bẻ cọng lạt dừa châm ngọn đèn mù u. Ánh sáng tù mù không xô đạt được bóng đêm và đàn muỗi bắt đầu vo ve.

Thím Ba nằm thiêm thiếp không còn đủ sức để rên rỉ. Chú kê chiếc gối bằng cây dưới đầu vợ rồi tháo chiếc khăn bàn quấn trên tóc mình xua muỗi. Gió phất ra khiến ngọn đèn chập chờn. Chú hỏi nhỏ:

– Mình có sao không mình?

Im lặng.

– Bộ mình đau lắm hả?

Chú nắm bàn tay vợ:

– Mình rán thêm chút xíu, thím Tư rước mụ về tới liền bây giờ.

Chú ngó ra cửa chòi bồn chồn. Chú chậm mồ hôi vã ra trên trán của vợ. Trán người đàn bà lạnh ngắt. Thím Ba thều thào:

– Khát nước… minh cho tui chút nước.

Chú dợm đứng dậy thì bên ngoài chòi lố nhố bóng hai người đàn bà.

Chú mừng quýnh chạy ra:

– Lẹ đi mấy bà! Bả đau dữ lắm. Bả đòi uống nước.

Người đàn bà thứ hai, có lẽ là mụ vườn, bình tĩnh nói với chú:-

– Thôi chú ra ngoài kia cho trong này người ta mần công chiện.

Chú còn ngần ngừ:

– Nhớ cho bả uống nước nghe.

– Ờ! Biết rồi mà. Làm cái gì mà quýnh quáng vậy? Bả đẻ chớ bộ chú đẻ sao ? Tui nói chú ra ngoài kia chơi đi. Chỗ này là chỗ đàn bà.

Chú Ba đem con cúi đặt dưới chõng tre cho khói xông lên xua bớt đàn muỗi đói. Rồi chú bước ra ngoài chòi. Trời tối thiệt lẹ. Chú bước xuống cầu dừa buộc lại chiếc xuồng, sẵn tay với lấy bọc thuốc rê lên bờ cù lao ngồi trên một mô đất vấn thuốc hút. Chú bước vào chòi kiếm lứa. Vừa thấy mặt chú ló vào, bà mụ lại ré lên:

– Tui biểu chú ở ngoài kia mà…

– Thì biết rồi bà ơi! Cho tui mồi điếu thuốc cái đã rồi tui ra liền. Có điếu thuốc cho đỡ lạnh và đỡ bị muỗi cắn.

Chú trở ra ngồi ở mô đất, bập bập điếu thuốc. Chú lẩm bẩm :

– Mẹ tổ! Đẻ cái gì mà sớm quá, chưa đầy bảy tháng!

Chú đập cái chát trên đùi – đập muỗi? hay bực dọc? Gió trên sông thổi mát. Chú nhớ tới mẫu ruộng còn gặt dở dang. Mùa này tưởng đâu có thể dư được chút đỉnh mà rồi chưa chắc. Lại phải mượn lúa mà ăn nữa. Nợ. Lại nợ. Trên mặt sông ban đầu còn thấy dạng lục bình trôi lờ đờ. Chập sau, tất cả nhòe nhoẹt tan loãng trong bóng tối. Thỉnh thoảng thấp thoáng ánh đèn le lói của ghe xuồng đi lại trên sông, ơi ới những tiếng gọi nhau, xen lẫn tiếng cười. Có lúc chú cũng muốn đổi nghề, chèo ghe đi buôn bán. Họ cười cợt vui quá. Thay đổi đời sống, thay đổi vận mạng. Ở đây cày mướn gật mướn hoài sao ? Ông nội chú hết một đời, ba chú cũng đã gần hết một đời, công phát, công gặt, công cấy, giờ tới phiên mình, cũng sẽ hết một đời như vậy sao? Con đùm con đống, cày không đủ ăn. Hồi xưa lắm, dòng dõi chú hình như cũng đã có đất vua cấp thời đi khẩn hoang miền Nam Việt. Truyền qua mấy đời dần dà lọt vào tay người khác hết, lý do cũng mập mờ. Hình như tại làm ăn thất bại, hay chơi bời phóng đãng, hoặc bi lường gạt gì đó. Bây giờ trên răng dưới khố, chỉ còn có vậy. Ai hưởng đâu không biết. Ở đây hoài, tá điền hoài, cất đầu không nổi. Thà theo ghe thương hồ, may ra biết đâu gặp thời có thể khá khiển, làm nên sự nghiệp. Mà làm nghề đó phải đề phòng ăn cướp, coi chừng bợm bảy và bối ba cụm. Chú lại đập tay lên đùi cái chát.

Trên sông mái chèo khua nước bì bõm. Trăng lưỡi liềm cong sừng trâu nghé mọc rõ nét cạnh sao hôm vàng lớn trĩu nặng chực sa xuống nước. Nền trời trong vắt, xanh biệt mù, xanh cao vút như một ước muốn huốt ngoài tầm tay. Có giọng hò nữ cất lên rất nhẹ, nhưng quá xa, nghe không rõ, chỉ loáng thoáng rơi lại chút hò ơ ơ… ở đằng cuối. Rồi giọng hò nam đáp lại:

Hò… ơ ờ ơ ớ
Bớ chiếc ghe sau (chớ) chèo mau anh đợi (ờ ờ…)
Kẻo khuất khúc sông nầy (ờ ờ… )
(rồi) bờ bụi tối tăm… (ờ ơ ơ…)

Chú Ba vỗ đùi, thằng cha nào hò ác quá ! Con gái nghe chắc phải mê chết luôn. Chú bập bập điếu thuốc đã tắt ngấm. Chú định trở vô chòi mồi lại nhưng sợ bị bà mụ la nên thôi. Đẻ cái gì mà lâu lắc quá! Thường bể nước rồi thì đẻ luôn chớ có đâu cù cưa cù nhầy. Hay là hết nước như cái hột vịt sát? Nếu vậy thì nguy lắm, hay là phải… ý nghĩ của chú bị cắt ngang bởi giọng hò nữ bây giờ tới gần nghe rõ hơn:

Hò… ơ ờ ơ ớ…
Bên sông này bắc cây cầu mười tấm ván
(mà) Bên sông kia lập cái quán mười hai từng
Bán buôn nuôi mẹ (… hò ờ ờ…)
(chớ em) bán buôn nuôi mẹ
(để) cầm chừng đợi (ờ ớ…) anh (ờ ớ ơ…)

Chèn ơi! Cái giọng ngân nga sao mà mùi tận mạng. Điệu này nếu mà chú cầm chèo chắc sẽ bủn rủn hay cũng phải khoan mái chèo lại để mà nhìn cho rõ mặt con nữ. Hay ác! Chèo mãi, chèo hoài sẽ không biết mệt. Đi buôn bán như vậy không ham sao được? Tiếng hò theo tiếng mái chèo khuấy nước, sóng gợn lấp loáng xa dần. Tiếc quá. Chú rán nhớ “ . . bên này sông bắc cây cầu mười hai nhịp…” hổng phải vậy “bắc mười hai miếng ván…” ờ ờ, hình như còn có “…mười cái quán… ” trong đó nữa, giọng ngọt ngào như khoai lang đương ngọc, mà nhớ không nổi, tiếc hùi hụi. Chú Ba quăng điếu thuốc ướt mèm ra mé sông, đúng dậy phủi đít, bước rón rén trở lại chòi. Cửa khép hờ, ánh sáng yếu ớt phải cố gắng lắm mới lọt được một chút qua khe hở. Chú áp tai vào vách lá:

– Rặn, rặn!… rán rặn đi thím Ba…

Giọng bà mụ. Tiếp theo tiếng rên hừ hử của vợ chú:

– Hết hơi rồi… chắc tui chết quá thím Tư ơi!

Chú sốt ruột, bồn chồn muốn đẩy cửa vào.

– Cái gì mà chết! Con so thì nó đau như vậy. Rán rặn thêm chút nữa. Nó ló cái đầu ra rồi kìa…

Trái tim chú muốn khựng lại.

– Rặn… rặn… chút nữa… chút nữa… nín hơi rặn mạnh… mạnh chút nữa…

Chú Ba chợt thấy mình cũng đang nín thở và ép hơi trong bụng. Trời ơi, ước gì chú được rặn tiếp cho vợ một hơi dài. Chú giật thót theo tiếng la của bà mụ:

– Rồi!… nó ra rồi!

Bên trong có tiếng lép bép rồi tiếng khóc oe oe yếu ớt. Chú mừng quýnh.

– Thím Tư đưa miếng miếng sành cho tui cắt rún thằng nhỏ coi. Lẹ lẹ đi bà!

Tiếng oe oe lại ré lên tiếp theo tiếng bà mụ. Chú thấy đau nhói ở rún mình như bi cây đinh nhọn xốc vô. Lại có tiếng lép bép, oe oe rồi tiếng chân lẹp bẹp. Cứa chòi chợt bật tung ra rồi tiếng thím Tư hét vọng ra bờ sông:

– Con trai! Con trai chú Ba ơi! Vợ chú đẻ con trai!

Chú sướng ran, máu dồn lên đầu rần rần, chú đứng chết trân tại chỗ. Cửa chòi khép lại, nhốt tiếng khóc oe oe yếu ớt bên trong. Chú tưởng chừng như nghe tiếng thằng con trai đầu lòng đang ré gọi mình.



– CHƯƠNG 2-

Hò… ờ ơ ơ ớ…
Tay cầm sợi lạt đôi cua
Hỏi em làm mướn (ơ ờ…) một mùa bao (ớ ờ…) nhiêu
Hò… ơ ờ ơ ớ…
Trời mưa cho lúa chín vàng (ơ ờ…)
Cho anh gặt lúa (ơ ờ…)
(chớ) cho anh gặt lúa (mà) cho nàng đem (ơ ớ …) cơm (ờ ơ )

Chú Ba cúi xuống lom khom gặt tiếp. Vợ chú đẻ đã được ba ngày, chú nhờ thím Tư chạy qua chạy lại coi chừng dùm. Tuy vậy chú cũng không yên bụng. Thằng nhỏ sanh non ngày tháng có chút xíu, chú chưa đặt tên. Chú muốn hỏi ý kiến ba mình, nhưng chưa dám tới nhà, sợ lại sanh giặc với bà dì. Bữa nay chú có nhờ người nhắn với ông Đương ra ruộng cho chú gặp mặt. Bây giờ chú phải thay vợ làm công một lúc cho hai người, mệt ngất ngư. Chiều qua chú có ghé nhà chủ điền là thầy Bang để mượn một ít gạo dự trữ, phòng khi bất trắc, dù sao thì giờ chú đã có con rồi, phải biết lo xa. Thầy Bang là người rộng rãi, so với các chủ điền khác. Tên thiệt của thầy là Mậu, giữ chức bang biện trong ban hội tề. Bang biện Mậu, kêu tắt thành ra thầy Bang, kêu riết thành quen. Cô con gái của thầy là Hai Ngọc Lan, mười một tuổi, tánh tình đằm thắm, mặt mày đẹp đẽ. Nước da cô trắng trẻo, môi hồng đỏ, chân mày lá liễu, lớn lên liếc tình là con trai sẽ điêu đứng chớ không phải chơi. Vợ thầy Bang chết sau khi hạ sanh đứa con trai là cậu Út Vĩnh Đạt. Cậu này mới có tám tuổi mà thiệt là trời đánh thánh đâm. Tối ngày nó theo cậu Phú, thằng em cà nhỏng của thầy Bang học những thói trật búa trật rìu. Nhưng vốn là con trai độc nhút, lại thêm mặt mũi giống má nó nên thầy Bang cưng chiều hết nói, muốn gì cũng được. Chiều qua, khi tới mượn gạo chú Ba lại chứng kiến một màn ăn vạ của thằng quý tử.

Lúc chú tới, có nhiều tá điền khác cũng tới đong lúa góp ngoài sân, trên những tấm đệm trải lớn. Thầy Bang và cậu Út ngồi ở ghế bằng cây gụ đen có tay, cẩn xà cừ trên hàng ba. Thằng em ngồi ở bàn khít đó ghi chép. Tá điền lần lượt gánh lúa tới đong và trút lên đệm. Tới phiên con Hai Hường. Con nhỏ mới đâu được mười lăm mười sáu tuổi, da dẻ đậm đà, ngộ nghĩnh. Chú Ba lúc đó cầm bị gạo mới mượn ngồi chồm hổm ở hàng ba. Chú thấy thằng em thầy Bang khều khều cậu Út rồi gật đầu. Cậu út ghé tai thầy Bang nói nhỏ. Thầy ngó nó lom lom lắc đầu. Cậu Út nhảy xuống ghế dậm cẳng muốn làm trận làm thượng. Thầy Bang ôm nó vào lòng rồi cất tiếng gọi:

– Hai à! Lại đây cho thầy Bang biểu coi con.

Con Hai vừa trút xong thùng lúa đầu, ngó lên ngơ ngác.

– Lên đây thầy biểu.

Thầy Bang ngoắc tay. Con Hai chỉ thùng lúa kia nói:

– Dạ còn cái này…

– Ờ! thì để thủng thỉnh, mất mát gì. Lại đây cho thầy biểu chút.

Con nhỏ riu ríu bước lại gần hàng ba, cúi đầu ké né. Thầy Bang nghiêng mình tới nói nhỏ:

– Em nó muốn “coi”.

Con Hai ngẩng đầu lên lơ láo:

– Dạ…?

– Thì thầy nói em nó muốn coi.

– Dạ… dạ coi cái gì?

Cậu Phú chồm tới:

– Thì thầy muốn biểu em… tuột ra cho cậu Út “coi” một chút.

Con Hai thụt lui chới với. Cậu em nói thêm:

– Đâu phải ở đây mà em Hường sợ. Ra nhà tắm phía sau

Con Hai lắc đầu dụ dự, mặt ngó thầy Bang lấm lét.

– Dạ… dạ… cái gì kỳ vậy?

Thầy Bang mỉm cười cố trấn an con nhỏ:

– Em nó muốn coi thì Hai cho em nó “coi” một chút, mất mát gì. Ai ăn thịt ăn cá gì đâu mà sợ?

Cậu Út lại dậm cẳng lạch bạch. Thầy Bang xoa đầu nó, nói tiếp:

– Thầy cho Hai đem thùng lúa kia về…

Con Hai mắt mở thao láo.

– ..Thầy cho Hai lại luôn thùng lúa hồi nãy.

Con nhỏ cúi gầm đầu, mặt mày đỏ ké. Cậu Út lại dẫy lạch bạch như cá lóc mới câu bỏ trên mặt đất. Cậu em lại xía vô:

– Nghe đi Hai! Không có thầy Bang và cậu Út nổi giận thì khổ lắm đa !

Con Hai ngước mắt lên ngó thầy Bang. Thầy vỗ đầu cậu Út rồi nói:

– Thôi con ra sau nhà tắm đi con.

Cậu Út ngoe nguẩy đi ra sau. Thầy Bang nghiêng mình tới trước nắm tay con Hai kéo lại sát hàng ba rồi nói nhỏ:

– Thôi Hai vị tình thầy, cho em nó “coi” một chút đi, mất mát gì. Đi đi! Thầy thương…

Thầy kéo con Hai bước lên hàng ba, rồi nắm tay con nhỏ dắt ra sau, theo chân cậu Út. Con nhỏ cẳng chân quýnh quíu.

Chú Ba thấy trong người nóng ran, tức muốn bể phổi. Đâu phải đây là lần đầu. Năm ngoái đã bị cái nạn này rồi. Đàn bà có con cũng bị như thường. Chú muốn chạy theo vặn họng thằng nhỏ. Vừa lúc đó cậu Phú em thầy Bang cũng đứng dậy te te đi ra sau. Chú ngó theo lom lom, muốn lọt tròng té nổ. Cái quân trời đánh! Chú còn nghe nói thầy Bang lại mướn luôn đàn bà mới đẻ tới “nuôi” nhà mình. Sữa mẹ dường như bổ lắm và giữ cho người ta được trẻ măng. Nếu điều đó xảy tới cho thím Ba – nhất là sửa con so – chú mới phải tính sao đây? Chắc chú vặn họng thằng nhỏ lọi tuốt ra sau lưng. Chú đứng dậy. Rồi lại ngồi xuống, nhấp nhổm. Tá điền tiếp tục đong lúa góp ngoài sân.

Thầy Bang lúc đó đã trở ra ngồi lại chỗ cũ và tiếp tục ghi chép. Hồi lâu chú thấy con Hai từ nhà sau đi lẹ ra như thể bỏ chạy, nước mắt ràn rụa, kéo khăn che đầu xịt mũi, không dám ngó ai. Con nhỏ gầm đầu bước xuống hàng ba rồi đi thằng ra cổng. Chú Ba vụt la lớn, quên hết mọi người:

– Khoan đã cô Hai! Khoan đã! Cô còn quên cái gánh lúa…

Con Hai không ngó lại. Chú vội vàng nhảy xuống hàng ba chụp lấy thùng thiếc xúc đầy lúa rồi xỏ đòn gánh gánh luôn thùng lúa chưa đổ của con Hai, dợm bước đi. Chú nghiêng mình chớp bị gạo của mình rồi te te gánh hai thùng lúa bước nhanh ra cổng, miệng la chói lói:

– Bớ Hai! Bớ Hai! Chờ qua một chút!

Con Hai bước lẹ trên đường đất phía trước, chú lúp xúp chạy theo sau, bị gạo và gánh lúa không thăng bằng làm chú cứ tròng trành. Chú trợt mấy chỗ thiếu chút nữa đã té lăn đổ tháo hết trọi. Miệng chú vẫn không ngớt la bài hải:

– Hai! Bớ Hai ! Chậm chậm chờ qua theo với!

Chú lầm bầm:

– Mẹ tổ cái quân bất nhơn! Con gái người ta mới lớn mà đòi coi cho được! Sao trời không đánh cái quân chó đẻ đó?

Tới nhà, con Hai đi tuốt ra sau. Chú Ba đặt gánh lúa và bị gạo xuống mặt đất rêu. Chú vịn bàn thờ ông Thiên trước sân, gỡ khăn quấn đầu chùi mồ hôi thở dốc. Má con Hai trong nhà chạy ra:

– Kìa! Chú Ba, chú tới hồi nào vậy?

Bà ngó hai thùng lúa:

– Ủa? Hai thùng này hồi nãy con Hai gánh đi đong lúa cho thầy Bang mà mắc mớ gì lại gánh dìa? Còn con Hai nữa. Khi không chạy sầm saầm ra sau bếp khóc bù lu bù loa, hỏi gì cũng không nói.

Chú Ba thớ hổn hển một hồi:

– Hai thùng lúa này thầy Bang cho lại thiếm đó!! Cho cô Hai…

Bà thọc tay vốc lúa trong thùng, có vẻ không tin:

– Chú đừng có nói chơi. Khi khổng khi không mà cho lúa vậy à?

Chú nhách miệng cười chua chát:

– Tôi không nói chơi đâu. Không tin thiếm hỏi cô Hai thì biết. Nhờ cô Hai đó.

Chú Ba quay lưng văng tục:

– Đ. M! Sao trời không đánh cái quân bất nhơn đó?

Chú đấm tay lên bàn thờ ông Thiên rồi bỏ ra về. Người đàn bà ngơ ngác:

– Ủa chú chửi ai vậy?

Người đàn ông đi khuất, bà day vào trong nhà kêu lớn:

– Hai à! … Hai! Hường à!…


Tiếng kêu trên bờ đê làm chú Ba giật mình:

– Khuôn ơi Khuôn! Mày đâu rồi?

Chú ngẩng đầu lên, ngưng tay gặt:

– Khuôn ơi! Khuôn à!

Chú đứng thẳng lưng dậy, nhận ra tiếng kêu của ba mình, ngó dáo dác. Ông Đương mặc bộ bà ba đen, đầu quấn khăn ô vuông, tay kẹp cây dù dưới nách, râu dài dưới cằm phất phơ trong gió nóng, ông đứng gần gốc trâm bầu chỗ hôm trước thím Ba nằm chuyển bụng. Chú khoát khoát tay ra hiệu rồi bỏ gặt chạy về phía ba mình.

– Dạ, ba tới lâu chưa?

– Tao tới nãy giờ mà mắc đi lòng vòng kiếm mày. Tao nghe người ta nói mày nhắn tao ra đây, tao đi kiếm. Sao mày không ghé nhà? Mấy đứa em mày cứ nhắc mày hoài.

– Dạ… dạ… tại tui kẹt phải gặt gấp gấp cho kịp nên hổng có huỡn mà ghé ba đặng.

Chú Ba nói trớ. Chú đưa tay bới lại cái bí bo phía sau đầu đã sút sổ khi chú rút cái khăn quấn xuống lau mồ hôi ngực. Vai chú nóng rát:

– Ba vô chỗ bóng cây mà đứng cho mát. Bữa nay mắc mớ gì mà nóng quá xá cỡ.

Trên cao một con chim thầy bói đứng yên tại chỗ, như bị hơi nóng đóng dính cứng trên nền trời xanh không bợn chút mây.

– Trời có nóng như vầy lúa mới chín tốt và thơm, Có đập ra cũng dễ, cọng rơm đã dòn sẵn…

Sực nhớ ra điều gì, ông Đương vụt chuyển sang hỏi:

– À còn con vợ mày đâu hổng thấy? Bộ nó gặt ở ruộng khác hả?

– Dạ hổng có.

Ông Đương lo lắng:

– Hay nó bị bịnh? Đàn bà bụng mang dạ chửa phải coi chừng cẩn thận. Mày đừng có hờ ơ lắm nghe, nhất là con so.

– Dạ tui đâu có dám hờ ơ ba. Vợ tui… vợ tui nó đẻ… Dạ, vợ tui nó đập bầu rồi.

-Ý trời! Mới thấy nó có chửa đây mà đã đập bầu rồi!

– Dạ, vợ lui nó đẻ non ba à.

Ông Đương lúc lắc vai chú Ba:

– Sanh hồi nào? Có sao hông?

– Dạ, sanh được ba bữa nay, ở cù lao Ông Chưởng. Mẹ con nó cũng được vuông tròn, tuy vợ tui có hơi mệt vì mới sanh con đầu lòng.

– Rồi mày bỏ nó ở bên cho ai?

– Dạ, tui nhờ thiếm Tư ở lối xóm ngó chửng dùm.

Lòng ông Đương se lại. Tay ông run run mân mê chòm râu bạc, trong bụng bứt rứt:

– À! Mà sanh con trai hay con gái?

– Dạ, con trai ba à.

Mắt ông Đương rực sáng:

– Con trai hả ? Vậy thì có đứa nối dõi dòng họ Lê rồi ! Chèn ơi! Vậy mà mày hông cho tao hay sớm, thiệt là tệ quá!

Chú Ba chưa biết trả lời sao; ông già chú nói tiếp:

– Mầy chởtao đi thăm nó coi, tao nóng ruột quá! Đi liền bây giờ đi.

– Dạ! Tui đi rồi bỏ công cho ai gặt? Tui bây giờ phải gặt luôn cho vợ tui. Thôi để bữa khác ba à.

Một cơn gió trốt chợt nổi lên xoáy trên đám lúa ào ào. Ông Đương vịn cái khăn trên đầu sợ bay mất.

– Cái thằng nầy nói mới kỳ. Cháu đích tôn của tao mà biểu để bữa khác.

Ông ngẫm nghĩ:

– Thôi được rồi. Mầy để đó ngày mơi tao biểu con Thung với thằng Dung, hai đứa em may ra gặt tiếp tay cho mày. Tụi nó bây giờ cũng đã biết mần ăn…

– Tui thấy kỳ quá ba à. Tui là anh đáng lẽ tui giúp tụi nó mới phải, chớ đâu có lợi dụng tụi nó vậy kỳ cục quá! Thôi ba chờ ít bữa nữa tui có rảnh…

Ông Đương gắt giọng:

– Chờ . chờ cái khỉ khô gì ? Tao nói để con Thung với thằng Dung nó tiếp. Mày mà còn nói lộn xộn tao đập cán dù lên đầu mầy bây giờ.

Biết ba mình nổi giận, chú Ba giả lả:

– Thôi ba biểu sao tui hay vậy. Để tui gom lúa mới cắt bó lại đã rồi đi

– Máy để đó ngày mơi hổng được sao ? Tao nóng ruột muốn chết mà mày cứ cù nhây.

– Dạ, thôi thì đi.

Chú Ba nhảy phóc xuống ruộng, chạy băng băng đạp lên mấy gốc rạ.

– Khuôn! Khuôn! Mày chạy đi đâu vậy? Bộ hổng đi hả?

Chú ngoái lại:

– Tui đi lượm cái lưỡi hái đã. Bỏ đây rủi mất ngày mơi biết lấy cái gì mà mần tiếp.

Chú xỏ lên mình cái áo thung đã sờn rách, tay cầm lưỡi hái trở lại chỗ ông Đương đang đứng:

– Thôi mình đi đi ba.

Chú ngó xuống chợt để ý chân của ba mình bữa nay có vẻ khác lạ Hai bàn chân ông bó trong hai miếng mo cau, xỏ lên đôi guốc vông. Đi ra ruộng mà mang guốc, thiệt là dị hụ, ít khi thấy. Bi vướng víu ông Đương không thể đi lẹ được. Đi mấy thước ông lại kêu chú:

– Khuôn! Mày thủng thỉnh chờ tao với.

Chú không dằn được tò mò, lên tiếng hỏi:

– Bàn chân ba bị gì mà bó kín mít vậy? Lại còn mang guốc. Bộ ba bị ghẻ hả?

– Hổng phải. Tao sợ bị rắn cắn.

Chú không khỏi xịt cười. Ông Đương đâu phải là người nhát gan, ông vốn giỏi võ nghệ, nhất là đánh côn. Có lần ông đã vác côn đơn thân độc mã nửa đêm xông xáo đến giải vây cho thằng Ba Song Phi, đệ tử ruột của mình, và đánh tan bọn ăn cướp đến cướp bóc nhà thầy Bang cách đây năm, sáu năm. Vì vậy thầy Bang rất nể nang ông và có lần ngỏ ý muốn mời ông truyền võ nghệ cho cậu út. Nhưng vốn không thích gần gũi bọn nhà giàu nên ông một mực tử chối. Ông biết mình nóng tánh, sợ có ngày nổi xung, ông khện cho cậu Út một hèo ẹo xương sống. Đánh ăn cướp không sợ, mà bây giờ sợ rắn cắn mới thiệt là kỳ. Ở vườn ai mà không sợ bi rắn cắn, nhưng có ai bó chân dị hụ như vậy đâu.

Cũng biết mình có vé kỳ cục, nên ông Đương lên tiếng cắt nghĩa: .

– Mẹ tổ mày đừng có cười tao. Không phải tao sợ rắn cắn đâu mà là tao sợ bị rắn trả thù.

– Trả thù?

Ông Đương lập lại:

– Ờ phải, tao sợ rắn trả thù.

Chú Ba đi chậm lại cho ông già theo kịp.

– Số là cách đây hơn mười bữa tao phát cỏ sau vườn, chém nhằm con rắn hổ mây đứt mất cái đầu. Chừng cào cỏ lòi ra cái mình rắn tao mới biết. Tao hoảng hồn cởi cái áo đang bận bỏ ở góc vườn để dụ nó. Tao mang guốc lấy mo bó cẳng ra cào tiếp để kiếm cái đầu rắn hổ mà không thấy đâu. Tao trở lại lấy cây sào dở cái áo lên cũng không thấy đầu rắn núp trong đó. Thường thì nó đánh hơi chun vô nằm chờ cắn trả thù. Mày còn nhớ cái vụ rắn trả thù chớ?

– Dạ nhớ chớ ba. Ba có kể cho tui nghe cái vụ chú Tư hồi đó cũng đi phát cỏ chém đứt con rắn mà không để ý đề phòng. Sau mấy bữa bi đầu rắn trên mái nhà rình nhảy xuống cắn sôi bọt mồm cứu không kịp.

– Ờ tao cũng sợ như vậy nên kể từ bữa đó mỗi lần tử trong nhà bước ra hay bước vô gì tao cũng đội cái nia trên đầu để hứng rủi ro cái đầu rắn nhảy xuống cắn. Còn đáng sợ hơn nữa là bữa hôm sau dì mày đang nấu cơm dưới bếp chợt la lên: “Rắn! Rắn! ” Tao chạy xuống thấy trong đống củi có cái đuôi rắn ló ra ngúc ngoắc.

Chú Ba chắc lưỡi:

– Chà! Ghê quá hả? Rồi ba làm sao?

– Tao kêu mọi người tránh ra. Rồi bất thần tao nắm đuôi con rắn giựt ra thiệt lẹ, quay một vòng rồi đập đầu nó xuống đất Tao đập nó mấy lần như vậy chết ngắc, nó không kịp cắn. Té ra đó là con rắn hổ mây cái, chắc là một cặp với con đực tao phát đứt bữa trước. Tao độ nó muốn núp trả thù cho con kia. Tao chặt cái đầu nó ra bằm nát rồi bỏ vô lửa đốt cháy tiêu.

– Nhưng còn cái đầu con đực kia ba mới tính làm sao?

– Đâu biết nó ở đâu mà tính. Bởi vậy nên tao mới lo. Tao đốn hai cây chuối sau nhà cắt ra tấn hai bên mùng, sợ tối ngủ nó chun vô cắn bất tử không biết đường đâu mà rờ.

Chú Ba chợt lo ngay ngáy, ngó xuống bàn chân trần của mình. Lòng bàn chân chú xót xót như có gai chích. Chú rán đi lẹ lẹ cho mau ra tới bờ sông. Chú chỉ chiếc xuồng ba lá:

– Ba xuống trước đi, để tui bơi cho.

Ông Đương nhảy xuống khoang, xuồng lúc lắc, chú Ba níu tay ông già:

– Ba thủng thỉnh, gấp quá coi chừng lật xuồng chìm bây giờ.

Ông Đương giựt tay lại:

– Mày để thây kệ tao. Bộ từ nhỏ tới giờ tao chưa biết đi xuồng sao mà mày còn dặn dò? Mẹ tổ!

Ông chụp lấy bẹ chuối trong khoang tát nước ra ngoài xuồng:

– Thôi mày nhổ dầm đi.

Chú Ba xô xuồng ra khỏi bờ. Trong xuồng nước còn lình bình, bên trên nổi lêu bêu một cây dầm. Ông già tát nước thêm một hồi nữa rồi buông bẹ chuối cầm lấy mái dầm day ra sau nói:

– Mày bơi lái, tao bơi mũi cho mau.

Ông lột guốc quăng vô khoang. Dưới sức đẩy của hai dầm bơi, xuồng phăng phăng xẻ nước. Trên thinh không bỗng xé một tiếng trời gầm. Mây đen nghịt tử phía bên kia cù lao chợt kéo tới ùn ùn như khói bốc ra từ một đám cháy lớn, cuồn cuộn, hung hãn. Một lằn chớp xẹt, mặt nước ở cuối cù lao phựt lên sáng giới, tiếp theo tiếng xé của kim khí muốn tét lỗ tai. Giọng gầm gừ nhỏ dần, văng vằng. Rồi một tiếng kim khí khác vụt xuống, thịnh nộ. Lũ quạ bay chấp chới trong cơn cuồng phong đang lốc tới oang oác kêu vang dậy. Bầy le le trên mặt sông hụp lặn xuống mặt nước mất dạng. Trời ám tối mau lẹ. ông Đương day lại thúc giục:

– Máy bơi mau mau, coi chừng bão rớt

Sóng bắt đầu nổi dậy, đập vào hông xuồng lắp tắp. Thỉnh thoảng xuồng nhảy cỡn lên. Ông Đương xô giề lục bình vừa tấp vô mũi xuồng. Dưới làn nước phù sa đục ngâu ông chợt thấy một vệt đen bầu dục trôi lờ đờ xáp lại gần xuồng, một vật gì như thể… như thể…

– Rắn!!!

Ông Đương hét một tiếng lớn.

Tiếng hét làm chú Ba giật bắn người, chới với, thiếu chút nữa té ngửa xuống sông. Chú thấy ông già dơ mái dầm lên cao xáng xuống nước, nước văng tung tóe. Một vật dài, đen, lớn lộn người trên làn sóng đục ngầu rồi lặn biến dưới mặt sông khép kín.

– Mày đưa mái dầm cho tao! Lẹ lên!

Ông Đương tiếp tục la lớn. Chú hoảng hồn chồm người tới. Ông già giựt lấy mái dầm trên tay chú rồi dùng cả hai dầm gắp vật đen hình bầu dục bỏ lên khoang xuồng. Đó là một cái đầu rắn sắp rã, sớ thịt te tua xung quanh, hai nanh nhọn ló ra ngoài quặp xuống, đôi mắt tròn trắng đục lờ đờ. Chú Ba rùng mình. Ông Đương lên tiếng:

– Mẹ tổ! Mày đây hả? Mày theo trả thù tao phải không? Mày còn…

Một tiếng sét xé trời đen nghịt, dìm lời ông Đương trong tiếng loảng xoảng của kim khí va chạm. Ông ngó chú Ba:

– Nó nhờ thầy nó là con rắn nước tha đầu nó theo báo thù tao đây mà. Trời ơi! Thiệt may mà tao ngó thấy.

Một lằn chớp xẹt xuống mặt nước. Chú Ba vội úp hai bàn tay lên lỗ tai. Tiếng sét nhỏ dần. Mưa bắt đầu rơi lắc rắc. Trong khoang xuồng chiếc đầu rắn bầy nhầy nổi lình bình, đôi mắt trắng dã ngó ông Đương khiến ông chóng mặt, gai ốc nổi cùng mình. Đầu rắn vụt cử động rồi lội tới, miệng mở hoác, hai nanh nhọn vụt rớt xuống, nọc đen rỉ ra, đôi mắt thôi miên ngó ông trao tráo. Ông lấy dầm đẩy đầu rắn lui ra phía sau. Xuồng nhồi sóng tròng trành, đầu rắn tưởng chửng như lại vụt lội tới nữa rồi lại lui về phía sau lấy trớn… Chú Ba vội rút cẳng lên, ngó đầu rắn trân trân. Một hồi chú lên tiếng:

– Nó chết thiệt rồi ba à!

Ông Đương lấy lại bình tĩnh, đưa mái dầm lại cho chú Ba:

– Mày bơi rút rút đi. Mưa tới rồi đó. Để nó đó cho tao liệu.

Ông tháo mo cau ở chân mình, xé ra hai tép bên bìa để làm dây. Ông lấy tàu mo ốp đầu rắn lại, quấn dây xung quanh thành một bịch nhỏ, cầm đôi guốc dằn lên tấm ván nối liền hai be uồng bên trên. Ông vớ mái dầm ngoáy xuống lượn sóng đục đang xô vào mũi xuồng, bơi tiếp. Mưa vụt ào xuống một loạt, gió thổi ù ù rồi thoắt ngưng ngang. Mây có vé loãng ra, một đám mây khác đen nghịt cuồn cuộn kẻo tới, mưa lại vụt ào xuống đập rát vào mặt. Mưa vụt ngưng. Một vệt nắng xé mây chạy thoăn thoắt tử giữa sông tiến vô cù lao, biến mất. Trời đen kịt, gió thổi mạnh hơn.

Hai cha con gầm đầu xoáy mái dầm xuống nước liên tu như hai cánh quạt. Gió ngược vụt đổi hướng đẩy xuồng phăng phăng về phía cù lao. Chú Ba la lên:

– Ba đừng lo! Sắp tới rồi.

Trước mũi xuồng, mấy đầu le le chợt ló lên, lố nhố trên mặt nước, kêu lép kép. Xuồng trờ tới, mấy chấm đen hụp xuống biến mất. Một thân cây còn rễ tua tủa theo gió đẩy rấn vào hông xuồng khiến xuồng muốn lật nhào.

– Khuôn! Mầy coi chửng!

Chú Ba vội đưa mái dầm chống thân cây ra, lái xuồng đổi hướng, xuồng nằm xuôi theo thân cây, rễ cạ vào hông xuồng rào rào, thân cây theo ngọn nước xoáy một vòng rồi cuốn đi băng băng, nhánh rễ nhấp nhô dần dần xa khuất. Xuồng vừa cặp vào cầu dừa, mưa đổ ào xuống như xối nước. Khắp mặt sông lớn không còn thấy sóng dợn. Giọt mưa dội xuống mặt sông lỗ chỗ, bụi nước nẩy tung trùm tứ phía phù sa một làn khói mỏng như sương, mờ mịt, bâng khuâng, nhung nhớ…

Ông Đương vừa bước lên cầu dừa đã dụm chân nhảy phóc lên trên đất liền, ngó lại hối:

– Lẹ lên đi mầy! Tao đi trước à nghe!

Ông tất tả chạy đi. Chú Ba vội neo xuồng hấp tấp rồi bương bả chạy theo. Ông Đương xô liếp cứa bước vô chòi cất tiếng hỏi trỏng:

– Đâu? Đâu? Thằng nhỏ đâu?

Thím Ba đang nằm thiêm thiếp trên chõng tre giựt mình ngơ ngác. Lúc đó chú Ba vừa theo kịp, bước vô chòi:

– Mình à! Có ba tới.

Thím Ba gượng gạo chống hai cùi chỏ cố ngóc đầu dậy nói yếu ớt:

– Dạ thưa ba mới tới.

Chú Ba vặn lớn ngọn đèn hột vịt ở đầu giường cho có thêm ánh sáng.

– Ờ ba mới tới. Con mạnh giỏi? Còn thằng nhỏ đâu?

Thím Ba vén một góc mền lên:

– Nó đây nè ba.

Một khối đen nhỏ nằm cạnh bên thím Ba, bất động. Chú Ba cầm cây quạt mo lom khom quạt lò lửa dưới chõng. Ông Đương luồn hai tay trên chiếu, bỗng ông rụt về, chùi vội vàng hai bàn tay ướt lên góc mền rồi lại luồn hai tay bợ thằng nhỏ lên. Nó nằm gọn gàng trong lòng bàn tay trái của ông. Có chút xíu ông quì gối bên cạnh chõng, cúi mặt nhìn khối đen nhỏ nằm trong lòng bàn tay mình, phía trên le hoe một chút tóc măng thưa rỉnh, mỏ ác phập phều. Chú Ba cầm ngọn đèn dầu đưa lại gần. Ông Đương ngó thấy tấm vải đắp trên bụng nhấp nhô theo hơi thở của đứa nhỏ. Tay ông run run. Đời sống ông, dòng máu ông đang tiếp tục chảy kìa. Đó!

Ông đưa hai ngón tay nhẹ dở miếng khăn đắp. Đứa nhỏ đỏ hỏn. Ông lắp bắp:

– Trời ơi! Cháu đích tôn của ông đây sao?

Da bụng đứa nhỏ mỏng tanh như tờ giấy quyến. Ruột gan ẩn hiện lờ mờ bên dưới. Nó thở. Ông Đương thì thầm:

– Ông nội nè con! Trời ơi, cháu nội của ông sao có chút xíu tội nghiệp quá chừng!

Nước mắt ông ứa ra, tử tử lăn xuống gò má nhăn nheo, ngập ngừng trên các đường hũng khuyết rồi theo chòm râu đài nhểu xuống bụng đứa nhỏ. Nó cục cựa oe oe mấy tiếng. Ruột dưới làn da mỏng nhúc nhích ngó thấy. Ông vội đắp tấm vải lại, cúi xuống tính hun cháu nội mình, nhưng nó nhỏ quá, không biết đặt mũi mình lên chỗ nào. Chòm râu hoe bạc run run dưới sự cảm xúc. Nước mắt ông lại trào ra. Đứa cháu đầu lòng của ông, đứa cháu đích tôn của ông, nó đó, gọn lỏn trong lòng bàn tay chai cứng của ông, quá sức mong manh, nhỏ nhít. Giọng ông nghẹn ngào:

– Nội nè con!…

Đôi mắt đứa nhỏ nhắm nghiền. Ông vuốt chòm râu ướt dưới cắm. Chú Ba cảm thấy cổ mình se thắt như thể nuốt nắm cơm quá vội vàng. Chú chưa hề thấy ba mình khóc bao giờ. Cũng chưa bao giờ thấy ông quì gối, trừ phi lạy trước bàn thờ ông bà. Mắt ông già lấp lánh như sóng gợn dưới trăng. Người đàn ông già nua đang nâng niu đời sống mong manh trong lòng tay mình, bồi hồi. Thím Ba xịt mũi. Ông già đặt đứa nhỏ lại chỗ cũ, gần bên vú mẹ nó, kéo mền đậy lại, vẹt một góc chừa hơi cho nó thở. Ông đứng dậy, nói với thím Ba:

– Con nhớ úm thằng nhỏ cho nó ấm nghe con. Ờ.. nãy giờ quên má thằng nhỏ. Con thấy trong mình ra sao?

Thím Ba lại xịt mũi, đưa lưng tay quệt nước mắt:

– Dạ con cũng khỏe, ba đừng có lo cho con. Con chỉ lo cho ba thằng nhỏ, sợ ảnh một mình gặt không xuể ruộng đã lãnh của thầy Bang.

– Ối, tưởng gì chớ cái đó ba đã tính với nó rồi. Ngày mơi ba biểu con Thung với thằng Dung ra tiếp nó.

Thím Ba thở hắt ra nhẹ nhõm:

– Dạ, nếu được vậy thì vợ chồng tụi con xin cám ơn ba và hai em lắm. Con bây giờ bị kẹt thằng nhỏ…

Ông Đương ngắt ngang:

– Thằng nhỏ… thằng nhỏ? Chớ tụi bây đặt nó tên gì?

Chú Ba ứng tiếng.

– Dạ… dạ chưa đặt tên. Vợ chồng tụi tui chưa đặt tên cho nó. Bữa trước con vợ tui thiếu chút nữa đẻ rớt nó ngoài ruộng, bởi vậy tui tíính đặt tên nó là thằng… thằng Ruộng, nhưng còn chờ để hỏi lại ba, hổng biết ba…

– Ý, trời! Mày đặt cái tên Ruộng nghe.sao đặng. Cái tên đó ở miệt nhà quê người ta đặt thiếu gì. Thằng Ruộng, thằng Rẫy, con Xoài, con Cam… đặt tên trùng nhau tùm lum. Phải lựa cái tên gì cho hay hay một chút. Mày thấy hồi đó tao tính sống đời nhàn nhã nên mới đặt tên tụi bây là “Trước Khuôn Thung Dung…” đáng lẽ Dung là tên con gái, ai dè má mày đẻ con trai, lỡ rồi tao đặt luôn tên đó cho thằng Năm Dung.

Ông vuốt nước trên áo rồi nói tiếp:

– Tưởng đâu hết, dè đâu má mày cứ theo đà năm một đẻ nữa nên tao cho tiếp theo “Thung Dung” là “Huỡn Đãi”, từ từ, chậm chậm…

Ông ngần ngừ một lúc:

– Kế tới dì mày, sang một lớp khác. Vì vậy tao mới bắt đầu lại là “Tân Xuân”, thằng Tân đẻ cặp với thằng Đãi, rồi tiếp theo “Bằng Cúc”, !”Đáo Lai”, gái trai gì cũng thây kệ. Khi không sửa bất tử bong trẹo nghe nó không xuôi chèo mát mái.

Mưa tiếp tục đổ rào rào trên mái chòi lá. Ông cảm thấy lạnh:

– Mầy vấn cho tao điếu thuốc hút coi Khuôn. Để tao suy nghĩ tìm cảm hứng đặt tên cho thằng cháu đích tôn của tao.

Chú Ba kê ngọn đèn dầu tới gần. Ông già gác đầu điếu thuốc lên ống khói, bập bập, hít một hơi dài rồi le điếu thuốc dính trên đầu lưỡi. ông lim dim:

– Tao thấy vợ chồng tụi bây mần ăn chưa khá, bởi vậy tao tính lựa cái tên gì hay hay đặng lấy hên một chút cho tụi bây mần ăn phát đạt với người ta.

Ông bỗng dừng lại trầm ngâm:

– Phát đạt, mần ăn phát đạt… À, tao thấy hai chữ “phát đạt” nghe cũng lọt lỗ tai. Lấy hai tên đó mà dành đặt cho con tụi bây, một đứa tên “Phát”, một đứa lên “Đạt”, tao thấy đặng lắm đa bây. Mày thấy sao hả Khuôn?

– Dạ… đặng chớ ba. Phát? Nghe đặng lắm… ờ mà rủi cái đứa thứ hai nhè con gái mà lãnh cái tên Đạt nghe sợ nó không thuận.

– Ối! Tới đó rồi thủng thằng tính sau. Giờ thằng nhỏ đầu lòng này đặt cho nó tên “Phát” cái đã, tụi bây chịu hông?

Ông Đương ngó chú Ba, chú Ba gật đầu. Ông day qua ngó thím Ba:

– Còn con nhỏ này ?

Thím Ba cũng vội vàng gật đầu:

– Dạ, ai sao con vậy. Ba với ảnh tính sao cũng đặng.

Ông Đương dở góc mền lên, lấy ngón tay gõ nhẹ lên mỏ ác thằng nhỏ:

– Nội đặt cho con tên là “Phát” nghe chưa?

Đứa nhỏ cựa mình oẹ oẹ. Ông mỉm cười, râu rung rung trên mép. Ông vuốt râu cằm:

– Ờ chịu rồi hả con? Chịu rồi thì nhớ nữa sau rán mần ăn khấm khá nghe con ! Mần ăn khá đặng nuôi ba má với nuôi nội lúc tuổi già, nghe chưa?

Ông đậy mền lại day qua chú Ba:

– Mầy ra ngoài này tao tính chiện một chút.

Chú Ba vặn nhỏ ngọn đèn cho đỡ hao dầu rồi xách cái ghế đẩu độc nhất trong chòi đi ra phía trước theo ông già.

– Mời ba ngồi đây, trên ghế này nè.

Chú ngồi chồm hổm cạnh ghế bắc sát cửa chòi ngó ra. Chú cũng vấn cho mình điếu thuốc rồi xin ông già cho mồi. Khói thuốc tỏa ra cửa chòi, dội màn nước bên ngoài, chần chờ một lúc gió thổi tới cuốn đi, tan loãng. Nước mưa từ mái chòi đổ xuống mương nhỏ do nước lâu ngày chảy khuyết thành ra, tia nước rót trên đường nước đi làm bắn lên những vòng loe rách như miệng núi lửa. Những giọt nước trộn với đất ngoài hiên văng lên dính cẳng chú Ba từng chấm nâu. Ông già gỡ đuôi thuốc dán lên cột chòi, lên tiếng:

– Khuôn à! Tao thấy tụi bây ở bên cù lao này đơn chiếc quá

– Dạ…

– Mày lại đi mần ngoài ruộng tối ngày.

– Dạ… cũng có thiếm Tư lối xóm qua lại ngó chừng.

– Ấy! Đành như vậy rồi, nhưng hổng phải bà con thân thích, nhờ hoài nhờ hủy sao tiện. Mầy có tính trở về ở gần tao như hồi trước không?

Chú Ba ngập ngửng:

– Dạ, còn dì tụi con, chắc ba cũng biết? Vợ tui nó mới sanh non ngày tháng, sợ đôi co không dằn được nó giận lên, máu sản hậu chặn nghẹt họng bất tứ. Tui nói thiệt tình, ba hiểu đùm.

Lòng ông Đương se thắt:

– Ờ, máy không nói tao cũng hiểu. Thiệt tao cũng khổ tâm.

Trời chớp, hồi lâu nghe giọng gầm gừ từ xa vọng lại. Cơn bão rớt đang kéo đi nơi khác. Ông già chà hai bàn lay vào nhau, đưa lên miệng hà hơi cho ấm:

– Hay là mày đem vợ con mày dìa Cờ Đỏ, nếu ở bên Thái Lai bất tiện? Dù sao thì bên đó cũng có chị Hai mày với gia đình bên vợ mày. Huỡn huỡn tao qua lại bên đó thăm tụi bây… với anh chi suôi luôn cũng tiện.

Chú Ba hít một hơi thuốc, ngó lên ông già rồi cúi đầu trầm ngâm:

– Dạ, ba phân qua nghe cũng có lý. Tui cũng đã có nghĩ tới chiện đó. Nhưng chắc phải đợi qua hết mùa gặt mới rảnh tay mà dọn.

Ông già ngó quanh chòi:

– Mầy nói dọn nghe nó rườm rà. Chỉ cần một buổi là xong hết. Có lo là lo cho thằng nhỏ… ờ quên, thằng Phát, lúc chở tới chở lui chớ nhà của tụi bây gọn bân.

Một cọng lá dừa khô từ trên mái chòi tuôn theo giọt nước rớt xuống, trôi ngập ngừng trên mương. Mưa nhỏ dần rồi tạnh. Chú Ba đứng dậy bước ra xòe tay ngoài trời:

– Mưa tạnh rồi, để lui đưa ba dìa.

Ông già thở dài đứng dậy. Ông bước tới cạnh chõng tre nói với thím Ba:

– Thôi ba dìa nghe con!

– Dạ ba dìa.

Ông vén mền vuốt mỏ ác thằng nhỏ:

– Thôi nội dìa nghe con.

Ông nhoẻni miệng móm mỉm cười, dặn thím Ba:

– Trời mưa, con coi chửng thằng nhỏ bi lạnh. Thôi ba dìa nghe.

– Dạ…

Hai cha con bước xuống sân, các đầu ngón chân bấm xuống mặt đất sét trơn mềm cho khỏi trợt. Ra tới bờ sông, chú Ba ngó xuống nói:

– Ba chờ tui lắc nước ra khỏi xuồng cái đã.

Chú Ba nhảy xuống sình, lún tới ống quyển. Xuồng khẩm nước mưa ngập chìm hơn phân nửa, chỉ còn mũi xuồng ló lên dính sợi dây buộc vô mái dầm. Đôi guốc vông và gói mo cau đã cuốn theo dòng phù sa trôi mất tự bao giờ…



– CHƯƠNG 3-

Hò… ờ ơ ơ ớ….
(chớ) Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá (ơ ờ) về đồng ăn (ờ ớ) cua (ờ ơ…)
Hò… ơ ờ ơ ớ
Cái Răng Ba Láng (mà) Vàng Xáng Phong Điền (ờ ờ…)
Anh thương em cho bạc cho tiền
Đừng cho lúa gạo (ờ ờ…)
Hò… ơ ơ ớ…
(chớ) Đừng cho lúa gạo xóm riềng họ (ờ ớ) hay (ờ ơ ơ…)

Chợ Cái Răng nằm ở cuối con rạch mang cùng tên đổ ra Cần Thơ, chành lúa quanh năm nhộn nhịp, ghe thuyền lui tới bán buôn sầm uất. Hồi nhỏ thím Ba thường theo ba mình bơi xuồng từ kinh Cờ Đỏ đổ ra rạch Cái Răng rồi ghé chợ. Ba thím đi bổ thuốc ở các tiệm thuốc bắc, con nhỏ thì đi theo để được dịp ngắm chợ, ăn bánh kẹp tàn ong hoặc chuối nướng cơm nếp có xé ra ở giữa chan chút nước dừa béo béo. Mùi nếp cháy khét trên lửa than thơm phức, cắn vào bên trong nhân chuối nóng hổi ngọt xớt, thím còn nhớ hương vị đó cho tới bây giờ.

Từ ngày ông nội thím mất, ba thím bỏ nghiệp võ đổi sang đạo tu Tiên và chăm ngành y dược giúp đời. Năm nào ông cũng đi ngao du ba bốn tháng để lên núi hái thuốc, luyện khí và chẩn thuốc cho người nghèo. Có khi vắng nhà cả năm. Người nói ông lên Thất Sơn, núi Cấm, kẻ nói ông tu luyện bùa phép ở núi Tà Lơn, nhưng ông Thuần lạnh người kín đáo nên chẳng ai biết đích xác hành tung của ông. Chỉ biết khi ông trở về làng Cờ Đỏ thì lối xóm mừng lắm vì ông trị bệnh miễn phí cho mọi người. Mà ông cho thuốc thiệt là mát tay, trị đâu hết đó, ngay cả những con bệnh ngặt nghèo. Ông lại biết bấm độn xa quê nên người ta đồn ông trị bệnh có pha bùa phép. Ông nổi tiếng là “Lão Thần Y” – không biết vì trị bệnh hay như thần, hay vì chữ “Y” ghép vào tên ông, “Thuần Y” người nhà quê đọc trại ra thành “Thần Y”.

Trong nhà Lão Thần Y bày rất nhiều bàn thờ, trong đó có bàn thờ Ông với hình vẽ Quan Công mặt đỏ ngồi giữa, Châu Xương, Quan Bình cầm Thanh Long đao và xà mâu đứng hầu hai bên, cặp mắt Quan Công xuất thần nên đứng chỗ nào cũng thấy như bị ông nhìn, đi qua lại như có Ông ngó theo. Vì vậy thím Ba rất sợ sệt, mỗi lần đi ngang trang thờ cứ cúi gầm đầu, hễ lấm lét nhìn lên lại thấy ông trợn mắt ngó mình như thể sắp hét giận. Lại thêm vừa nghe kể trong truyện Tam Quốc, Quan Công chỉ cần vớt trái bóng của đối thủ là tướng địch cũng đủ rụng đầu nên thím càng sợ hơn nữa, đi ngang cúi đầu lại nghe rợn rợn ở cần cổ. Thành thử lúc nhỏ thím hay đi vòng qua phía bên kia để tránh. Nhưng đi vòng lại đụng nhằm cái trang thờ Bà Cửu Thiên Huyền Nữ. Tuy vậy cũng còn đỡ hơn vì tranh họa của Bà thụt vào trong, bên trên có màn đỏ phủ xuống, bên ngoài có treo đôi hài, rộng và quạt phủ giấy vàng óng ánh, khi gió lùa tới phe phẩy lại như sống thiệt. Mỗi lần bắc ghế thắp nhang, tim cô gái cứ đập thình thịch không ngớt.

Nếu ở Thới Lai người ta gọi thím là thím Ba thì khi về Cờ Đỏ lối xóm lại quen gọi thím là thím Năm, vì thím đứng hàng thứ tư trong gia đình, tên thím là Nguyễn Thị Dấu. Bắt đầu là Cậu Hai, trai đầu lòng nuôi không được, ông bà Thuần rất lấy àm thất vọng, buồn bã cả năm. Kế đến là Dì Ba, rồi Cậu Tư, tới thím, kế đó là một trai một gái đều chết lúc còn bồng, rồi cuối cùng là con trai út, cậu Tám. Dì Ba và cậu Tư đều đã lập gia đình và ra riêng ở Bình Thủy, nơi đó đất tốt, cao ráo làm vườn làm rẫy được, có huê lợi nhiều hơn là làm ruộng. Chỉ còn cậu Tám ở lại Cờ Đỏ, nhỏ hơn thím năm tuổi lo phụng dưỡng mẹ già. Vốn là người nhân hậu nên thím Ba rất thương và thông cảm tình cảnh nghèo túng của thằng em trai duy nhất của mình. Thím thấy anh chị tuy có phần nào khá giả hơn mà không có lòng bằng cậu Tám đứa em út.

Từ thuở nhỏ hai chị em đã khắng khít với nhau hơn chị Ba và anh Tư. Hai người này lúc lên mười lăm mười sáu đã phải đi làm công bên Bình Thủy để tìm kế sanh nhai. Ba thím thường hay ngao du đây đó.

Chỉ còn lại trong căn nhà lá quạnh quẽ bên bờ kinh Cờ Đỏ nước đục quanh năm hai chị em hủ hỉ với bà mẹ hiền từ, ít nói, giỏi chịu đựng, không hề than van trách móc bao giờ. Mẹ con thường ra đồng hái rau nhút, bắt ốc bưu ốc lát, mò cua, nôm cá hoặc cắm câu đắp đổi qua ngày. Thỉnh thoảng hai chị em sực nhớ ba bèn ôm nhau mà khóc. Đoạn đời thơ ấu tăm tối bên ngọn đèn mù u le lói trôi qua, trong tiếng chó sủa văng vằng ở đầu kinh, tiếng võng kẽo kẹt xa xa bên hàng xóm và tiếng xào xạc của bụi sả sau hè. Qua mùa gặt, chị em dắt nhau ra đồng mót lúa cho hũ gạo trong nhà đỡ vơi, và bà má đỡ lo âu.

Lúc thím được mười bốn tuổi, má thím chợt bịnh nặng. Ba thím đang trên đường hành đạo, trong nhà chỉ còn có đứa em chín tuổi ngơ ngáo. Anh chị của thím đều đi làm công ở nơi xa. Bệnh trở nên nguy kịch, qua ngày thứ ba người mẹ á khẩu không còn nói năng được nữa. Cô gái hoảng sợ vội vàng nhổ xuồng bơi ra tận chợ Cái Răng hốt thuốc. Cô còn nhớ tiệm thuốc bắc ba cô thường ghé qua. Hốt được thang thuốc, cô bơi rút dòng nước ngược để về cho kịp, mồ hôi ướt dầm. Bắt đầu vào kinh Cờ Đỏ cô thấy nhẹ nhõm đỡ mệt phần nào. Bỗng cạnh be xuồng một con cá lóc vụt tuổi lên rồi phơi ngựa bụng lờ đờ. Cô gái bật khóc nức nở. Điềm chim sa cá lị. Cô mếu máo:

– Má ơi! Con hốt thuốc về tới rồi, má ráng chờ con. Mô Phật, xin Trời Phật hộ độ cho má con. Nam mô A Di Đà Phật. . .

Cô vừa khóc vừa xoáy dầm bơi miết, thỉnh thoảng hỉ mũi rồi khoát nước ớ kinh rửa mặt.

Trời chạng vạng, vừa ghé xuồng vào bờ, đã thấy thằng em dại của mình ngồi ở đầu cầu đứng dậy la lớn:

– Chị ơi! Má chết rồi!… Hu hu… má chết rồi chị ơi! Em sợ quá ra đây ngồi chờ chị từ hồi chiều. Em sợ quá!

Cô gái la một tiếng thất thanh:

– Trời ơi! Má! Má!

Cô ôm em vào lòng, dở hổng nó lên chạy riết vô căn nhà tối om:

– Má ơi má! Sao má không chờ con dìa! Má ơi là má!

Hai chị em ôm chầm lấy thi thể người mẹ khóc rống. Tay chân bà đã lạnh ngắt.. Nhà không đèn đóm. Muỗi vo ve, bụi sả sau hè run đưa xào xạc. Chập sau, chợt như ý thức bổn phận mình, cô gái lò dò xuống bếp kiếm lửa thắp ngọn đèn mù u leo lét. Đôi mắt bà mẹ vẫn mở trao tráo. Cô đưa tay vuốt mắt. Mắt vẫn mớ trao tráo. Đứa em quíu người lại nắm vạt áo của chị mình. Cô lầm thầm:

– Vái hương hồn má có linh thiêng xin má hãy nhắm mắt về trời… Má đừng mở mắt như vậy em con sợ… tội nghiệp.

Cô lạy ba lạy, quẹt nước mắt rồi đưa tay vuốt mắt má mình. Trán và mũi người chết lạnh ngắt. Mắt vẫn mở trợn trừng. Đứa em nhỏ ôm cứng lấy chị mình:

– Chị ơi! Em sợ!

– Em đừng sợ, có chị đây nè.

Tuy nói vậy cô gái cũng bắt đầu run và khóc lớn hơn. Cô ngó lên trang thờ bắt gặp đôi mắt Quan Công trợn trừng nên càng thêm khiếp đảm. Một cơn gió thổi vào xô đạt ngọn đèn chập chờn chực tắt. Đứa em vụt chỉ tay lên trang Bà hét lớn:

– Kìa!

Trong bóng tối nhá nhem, tàng lọng vàng rung rinh, đôi hài đánh tòn teng, hai chiếc lục lạc nhỏ kết trên màn đỏ khua nhẹ run run mà tướng chừng như chuông vọng vang rền. Hai chị em chết điếng, càng ôm cứng lấy nhau, mắt không rời trang thờ. Bỗng đầu kinh có tiếng chó tru từng chập, nghe xoáy ruột gan, sau đó tiếng tru trở thành tiếng sủa quấu quấu, ban đầu một con, rồi hai con, rồi ba bốn con. Bao nhiêu tiếng động trong xóm đều như biến mất chỉ còn lại có tiếng chó sủa. Tiếp theo có tiếng chân ai đi trên con đường đất đắp dọc theo con kinh, mỗi lúc một tới gần, gần hơn, gần hơn nữa. Tiếng chân bước vào sân, tiếng chó sủa thưa thớt rồi im bặt. Chỉ còn lại tiếng bước nặng nề mà khoan thai, băng qua sân đất rồi dừng lại ở cửa căn nhà có người đàn bà nằm chết.

Hai đứa nhỏ nín khóc quíu lấy nhau run bây bẩy, răng đánh bồ cạp, ngó ra. Bóng người đàn ông đồ sộ. Tim hai đứa nhỏ khua trống chầu, mắt tét mớ, máu trên mặt mũi tay chân đã rút đi đâu mất. Người đàn ông bước qua ngạch của, dừng lại ở đầu hai chân người chết, cất tiếng trầm trầm:

– Má chết rồi phải không?

Lão Thần Y!

Phải, lão đã về, đứng đó, bóng đen cao lớn dong dỏng. Hai đứa nhỏ nhận ra tiếng ba mình, òa lên khóc:

– Ba! Ba! … Má chết rồi ba ơi ! rồi chạy tới ôm cứng lấy bóng đen. Lão Thần Y đặt cái túi lớn đang xách trên tay xuống nền đất xoa đầu hai đứa con mình:

– Tội nghiệp dữ hôn, hai đứa con tui!

– Ba, ba! Tụi con sợ quá ba ơi!

Hai đứa tranh nhau lên tiếng. Lão siết đầu thằng con út vào bụng mình:

– Thôi mấy con đang sợ, ba đã về tới đây rồi. Đừng sợ nữa.

Lão Thần Y gỡ hai đứa nhỏ ra, tìm thêm một ngọn đèn nữa thắp lên cho sáng. Lão đặt tay lên trán vợ mình. Lạnh ngắt. Tay kia lão nắm bàn tay người đàn bà ướm thử. Lạnh ngắt. Lão dời tay xuống, giữ lơ lửng trên mũi, khoa khoa tới lui. Không còn hơi thở. Không còn dấu hiệu hơi thở. Lão đặt tay lên ngực người đàn bà, ấn nhè nhẹ. Còn hơi ấm, hình như còn một chút hơi ấm, rất mong manh, chỉ có mình Lão Thần Y mới nhận ra. Lão khe khẽ gật đầu, chòm râu bạc dài run nhẹ như tơ như khói:

– Hai con đừng sợ. Chưa sao đâu.

Hai đứa nhỏ ngó ba mình trân trân, không hiểu Lão Thần Y muốn nói gì. Người đàn bà vẫn nằm đó cứng đơ, mắt mở trao tráo. Lão đứng dậy bước ra sau nhà, nơi đó lão có trồng một số được thảo để sắc thuốc. Lão hái một cọng “Chiêm tinh ngũ hổ” bước trở vào nhà, đứng ở đầu người chết, soi cọng dược thảo cạnh ánh đèn, ngắm nghía, bấm đốt ngón tay. Mày lão nhíu lại, chăm chú định thần. Bỗng lão vuốt tay lên chòm râu bạc, gật gù rồi thở phào một tiếng dài, mỉm cười:

– Má bây chưa tới số chết đâu!

– Hả?…

Cô con gái chưng hửng lên tiếng. Thằng em hết ngó ba mình tới ngó má mình, ngơ ngác. Không phải ngạc nhiên. Điều đó vượt ngoài sự hiểu biết. Nó vượt qua điều thường thấy, vượt qua đời sống mỗi ngày. Lão Thần Y lập lại, chậm dãi:

– Ba nói má chưa tới số chết đâu!

– Hả?… Má chưa chết thiệt hả?

Lão Thần Y không trả lời cô gái. Lão khom người mở cái bọc lớn lấy ra ba cái chén, một chén lớn và hai chung nhỏ. Lão thắp thêm một ngọn đèn cầy cắm giữa hai ngọn đèn đặt ở phía đầu người chết. Lão lựa nhổ một sợi tóc đen trên mái tóc hoa râm của người đàn bà, cắm dưới lòng bàn tay mình rồi buông ra. Sợi tóc dính lơ lửng. Đuôi tóc còn sinh khí. Lão gật gù. Lão quấn sợi tóc vào cọng chiêm-tinh-ngũ-hổ, úp dưới cái chén lớn đặt giữa hai bàn chân người chết. Đoạn lão úp hai chung nhỏ lên đầu hai ngón chân cái của thi hài. Lão lên tiếng:

– Hai con ngó chừng hai chén chung này.

Hai đứa nhỏ nhìn chòng chọc vào hai cái chung chờ đợi. Không có gì xảy ra hết. Lão đặt lên bụng vợ mình một lá bùa viết bằng mực son đỏ trên giấy quyến nền vàng, nét chữ buông sổ xuất thần. Lão thay áo thụng trắng vào người – cái áo mà hai đứa nhỏ chưa hề thấy ba mình bận bao giờ. Lão đi ra phía sau khu vườn dược thảo, trải ra một tấm vải dầy màu huyết dụ cắt theo hình bát quái, ở giữa có một vòng tròn vẽ nửa đen nửa trắng quấn vào nhau. Lão xóa tóc, ngồi xếp bằng trên tấm vải. Lão Thần Y bắt đầu tham thiền nhập đinh.

Xung quanh lặng ngắt như tờ. Mấy con đom đóm chớp tắt lập lòe trên bụi sả. Thỉnh thoảng có tiếng con gì trườn bò sột soạt trong lùm cây và bụi cỏ gần đó – tiếng rắn khua động hay chuột lủi chạy? Hai đứa nhỏ không rời mắt khỏi hai chén chung. Bỗng một tiếng oang oác nổi lên trên bờ kinh, hai đứa giật mình ngó ra, không thấy gì, chỉ kịp nghe tiếng đập cánh của một con vạc ăn đêm. Hai đứa lại dán mắt lên chén chung. Ba ngọn đèn ở đầu giường tre chập chờn, mấy sợi tóc bạc trên đầu người chết lay động, cảm tưởng như bà sắp ngồi đậy. Hai chị em ngó nhau, nỗi sợ hãi toát ra tròng mắt trắng dã.

Đến gần khoảng nửa đêm, Lão Thần Y bắt ấn đặt lên phía ngực bên mặt của mình lâm râm niệm chú một tràng dài. Đoạn lão đứng dậy. Chờ cho đám mây đen vén ra để lộ mặt trăng lưỡi liềm cong mỏng, Lão Thần Y hả miệng hớp ánh trăng mờ sáng, mật ấn linh hiển bắt chặt trên tay xẹt chớp về phía căn nhà lá có người nằm chết, đồng thời quát lên một tiếng đinh tai nhức óc:

– Nhập !!!

Bên lối xóm trẻ con vụt khóc rẻ. Từ đầu xóm tới cuối xóm, lũ chó bỗng lại bật lên tru réo âm u. Hai đứa nhỏ giựt bắn người kinh hãi ngó ra sau nhà nghe ngóng:

– Nhập! Nhập!!!!

Lão Thần Y thu tay về chấn thủy rồi tiếp tục hớp trăng, đồng thời điểm phóng mật ấn gọi hồn về phía căn nhà lá, như vậy cả thảy ba lần.

Đoạn lão chấp hai tay lên ngực xá ba xã, cúi đầu niệm những câu thần chú gọn ngắn, bí hiểm. Trong nhà đứa nhỏ chợt thấy chén chung động đậy rồi rớt xuống đất. Nó còn đang bàng hoàng, kinh tâm tán đởm thì bên kia chị nó lên tiếng:

– Coi kìa em! Coi kìa…

Nó ngó theo ngón tay chỉ. Chén chung bên ngón chân kia cũng động đậy, ngừng lại một chút rồi lay mạnh rớt xuống đất lăn lóc. Người đàn bà chợt thở khì một tiếng dài, nói ú ớ. Hai đứa nhỏ té ngửa ra sau bò càng, đoạn lồm cồm ngồi dậy dợm bỏ chạy. Từ phía sau nhà Lão Thần Y khoan thai bước ra:

– Hai con chớ sợ. Má con sống lại rồi đó!

Dừng tiếng một chút, lão trầm trầm nói tiếp:

– Má con sẽ còn sống lâu hơn ba nữa.

Người đàn bà trở mình, thều thào:

– Khát nước. Khát nước quá! Cho tui miếng nước.

Cô gái hoàn hồn chạy ra như sau múc chén nước mưa trong lu bưng lên, định đỡ má dậy cho uống. Lão Thần Y đưa tay cản lại:

– Khoan! Con cho uống như vậy má con sẽ mắc nghẹn. Má con hồn mới nhập xác, còn yếu lắm.

Lão ngắt một cái đuôi trầu chấm nước lên môi khô queo của vợ mình. Người đàn bà chắp chắp miệng. Lão nhiễu thêm vài giọt. Người đàn bà bắt đầu biết nuốt, trái cổ nhúc nhích. Hai đứa nhỏ mừng quính buột miệng la lên:

– Má sống lại rồi! Má sống lại rồi!

Cả hai ôm lấy má khóc sướt mướt. Người cha lên tiếng:

– Má con còn mệt lắm. Hãy để má con ngủ tiếp cho lại sức.

Người đàn bà sống lại ngủ li bì liên tiếp ba ngày ba đêm. Cô gái túc trực đổ nước cơm và thuốc vào miệng má mình. Lão Thần Y thỉnh thoảng bấm các ngón lên cổ tay vợ mình để chẩn mạch. Mạch mỗi lúc một mạnh lên và đều hơn. Lão rất ung dung, không lộ vẻ gì lo lắng. Qua ngày thứ tư, bà mẹ đã ngồi dậy được và nói chuyện lại được như thường. Cô gái tò mò hỏi má mình đã thấy những gì trong mấy ngày vừa qua, nhất là lúc bà “chết”.

Bà nói bà nằm chiêm bao thấy mình xuất hồn. Hồn bà xuất ra đứng ngó xác mình nắm nuối, quyến luyến và xót thương đứa con trai đang ôm xác má mình mà khóc kể. Bỗng có hai con quỉ sứ mặt xanh nanh nhọn xông lới lôi bà đi, nói có Diêm Vương đòi bà xuống hầu. Bà bịn rịn con mình, nhưng hai con quỉ sứ bắt bách lôi xểnh bà đi. Bà đi qua nhiều cửa địa ngục nhìn bên trong thấy lũ ma vương đầu trâu mặt ngựa cầm chĩa đứng canh gác bọn quỉ đói đầu lớn như đầu trâu, bụng to tợ trống, cổ nhỏ tợ kim đang bốc đồ mà ăn, nhưng khi đút vào miệng đồ ăn vụt biến thành than lửa. Bà lại đi qua nhiều cây cầu cao chót vót, ngó xuống bên dưới thăm thẳm có tiếng rên la, rắn rít bò lểnh nghểnh quấn lấy bọn ma bị xích xiềng, đứa ngồi trên bàn chông, đứa đang bị cắt lưỡi, đứa đang lặn ngụp trong chảo dầu sôi. Tới cửa thứ chín bà được đưa vào yết kiến Diêm Vương. Vị này ngồi trên ngôi quá cao ngó không thấy mặt. Ông quát quỉ sứ đem sổ bộ đời ra coi. Vị giữ sổ bộ tra cứu rất lâu, trình lại chỉ thấy tên bà trong bộ sinh mà không thấy ghi trong bộ tử. Diêm Vương khiển trách bọn quỉ vô thường đã bắt lầm người và dạy phải mau mau đem bà trả về dương thế. Ông căn dặn bà khi ra tới cổng chót đừng ăn “cháo lú”, nếu không khi trở lại trần gian bà sẽ mất hết ba hồn chín vía và quên hết mọi chuyện dĩ vãng. Và quan trọng nhất là có một điều bà đã thấy nhưng cấm tuyệt không được nói ra. Nói ra, bà sẽ ngã chết ngay tức khắc. Chỉ có thể trối trăn lại trước khi chết. Bà dập đầu lạy tạ Diêm Vương xin tuân lệnh rồi theo bọn quỉ sứ dẫn đường trở về dương thế. Tới cổng chót có quán cháo lú. Tuy đói lắm nhưng bà không ăn. Có nhiều người ăn trở nên lú lẫn hóa thành con nít.

Câu chuyện má mình thuật lại có vẻ hoang đường hầu hết giống như những điều trong kinh Phật đã hằng nói đến, nhưng cô gái tin chắc âm cảnh có đúng như lời má cô kể lại, không một chút nghi nan. Tuy vậy, còn cái điều “mật ước” giữa má cô và Diêm Vương khiến cô còn cứ thắc mắc hoài. Nhưng điều này mật thiết với mạng sống của má mình nên cô không dám hỏi thêm. Cô ao ước tới ngày nào má mình hấp hối cô sẽ có mặt ở bên cạnh để nghe lời trăn trối và biết rõ được điều “mật ước” sinh tử đó từ miệng má mình trước khi bà trút hơi thở cuối cùng.

o O o

– Má à! Má còn nhớ hông má?

Thím Ba xoáy ngược dầm cho xuồng chậm lại. Má cô bơi lái, thằng Phát ngồi trong lòng bà ngoại sật sừ:

– Nhớ cái gì?

Thím Ba chỉ mái dầm vô bờ kinh, chỗ đó khuyết sâu như đất lở, nước từ dưới dợn lên bợn uốn:

– Hồi đó má đi nôm cá ở chỗ này nè, má không nhớ sao?

– Ờ, ờ …

– Má mò hang ở đây bị con cá bông táp đổ máu đó, má không nhớ sao?

Bà già cúi xuống ngó vết thẹo hình vành cung trên bắp tay mình. Con cá bông giống con cá lóc nhưng lớn hơn, mình có vân bông ửng. Người ta nói nó do cá lóc lấy nhầm rắn đẻ ra. Cá lóc hiền lành bao nhiêu thì cá bông dữ tợn bấy nhiêu, nhất là khi nó chăn giữ bầy lòng ròng. Nó không ngần ngại tấn công mọi sự đe dọa từ bên ngoài. Nhiều người lội ở đìa hờ cơ bị cá bông táp sứt thịt bắp chuối hoài, dù chẳng có ý gì muốn bắt nó.

– Ờ hồi đó tao đâu có biết hang đó là hang gì. Tao tính mò được con lươn đem về kho sả cho tụi bây ăn. Ai dè có con bông núp trong đó. May mà nó không táp tao cụt ngón tay.

– Ờ cũng may thiệt! Con cá gì mà bự tổ chảng. Mà má cũng gan thiệt, rán bắt cho được.

– Gan khỉ gì mà gan! Cũng tội nghiệp nó đương giữ bầy con. Bắt nó rồi bầy lòng ròng bỏ ai nuôi?

Bà má bơi nhẹ một dầm, ngẫm nghĩ rồi mới tiếp:

– Mà tao thấy tụi bây ở nhà ăn cực ăn khổ quá, cứ cá lòng tong kho quẹt tối ngày, bởi vậy tao mới tính bắt nó cho tụi bây đổi bữa.

– Rồi má làm cách nào mà bắt được nó? Má không sợ nó táp má nữa hay sao?

– Ý sợ chớ! Bởi vậy tao mới bắt nhái tới câu nhắp nó. Mà nó cũng khôn lắm, đâu có chịu ăn liền. Sau tao phải móc lưỡi câu trên lưng con nhái, để nó còn sống lội qua lội lại con cá bông mới chịu táp nó chớ.

Bà khoát nước đục ngừ vua lên mặt cho mát.

– Tội nghiệp! Chắc tại nó đói quá… (bà nhỏ giọng)… cũng như gia đình mình.

Thím Ba chép miệng:

– Ờ hén … Nhưng mà tui còn nhớ bữa ăn con cá đó. Má ốp vô bẹ chuối rồi chất lửa rơm đốt. Con cá không bị mất nước, thịt còn ngọt sớt. Mở bẹ chuối ra, mùi bay thơm phức.

Thím Ba hình hình mũi.

– Cái mùi đó tới giờ tui còn nhớ.

– Tại bây chết thèm quá chứ gì?

– Hổng chừng vậy. Hồi đó tui sợ con cá bị mực, thường cá lớn hay bị mực. Vậy mà xẻ nó ra hổng có một chút mực nào hết. Chỉ có mang nó là bị mấy con bọ nước đeo ghê quá phải cắt bỏ.

– Ờ. cá lớn hay bị vậy. Có khi có đỉa mén chun vô mang hút máu nữa. Bởi vậy tắm sông bây phải coi chừng đỉa chun vô lỗ tai. Bây biết chuyện đó chưa?

– Chuyện gì má?

– Chuyện đỉa chun vô lỗ tai người ta chớ chuyện gì?

– Chưa. Đâu má kể nghe thử coi.

Thím Ba dừng mái dầm quay mặt lại. Bà má lại khoát nước xoa lên hai cánh tay cháy nắng và gò má nhăn nheo:

– Ờ chuyện đó tao cũng chỉ nghe đồn lại vậy thôi.

– Họ đồn ra sao?

– Ờ họ đồn ớ miệt U Minh hay Năm căn gì đó có một nàng dâu lúc nấu cơm cứ lấy cái nắp vung úp lên đầu mình… Chuyện đó hổng chừng mày có nghe rồi.

– Chưa, đâu má nói tiếp nghe coi.

– Bởi hổng có cái nắp vung nên cơm cứ bị sình hoài. Bây có nấu cơm rồi bây biết.

– Biết rồi mà. Sao nữa?

– Bà già chồng lấy làm lạ mới rình coi. Bữa đó bả mới thấy, bả thấy…

– Thấy cái gì?

– Thì bả thấy con dâu nó lấy nắp vung úp lên đầu chớ thấy cái gì! Mầy làm cái gì mà hối như giặc vậy? Để hổng thắng tao nói.

Bà phẹt cổ trầu xuống kinh.

– Bả rình như vậy nhiều lần, mà lần nào cũng thấy như vậy hết. Bả mới biết tại sao mà nhà cứ bị ăn cơm sình hoài. Cái bữa đó bả mới rình thấy con dâu cũng làm vậy nứa bả mới giận quá chạy ra giựt cái nắp vung rồi lấy đũa bếp khỏ lên đầu con dâu, con nhỏ té ngứa xuống đất…

Thím Ba dợm hỏi, lại thôi.

– Con dâu té xuống đất, da đầu tét làm hai, đỉa trong đó bò ra, đỉa mén có, đỉa con có, bò lúc nhúc.

Thím Ba rùng mình:

– Ghê quá há!

– Khi đó bả mới biết sở dĩ con dâu bả lấy nắp vung úp lên đầu là để có hơi nóng mấy con đỉa ở dưới đừng có nhúc nhích, nhức đầu.

– Rồi đỉa ra hết con dâu bả sống hông má?

– Chắc chết chớ sống làm sao nổi! Tao hổng nghe nói.

– Rồi bà già chồng có bị ở tù hông má?

– Tao cũng hổng biết. Ờ, mà sao con nhỏ này hay hỏi lắc léo. Thôi trưa rồi bơi rút đi. Mày lại bụng mang dạ chửa đừng có dang nắng lâu hổng tốt.

– Chà! Ghê quá hả?

Buông câu nói xong, thím Ba day người lại quơ mái dầm bơi tiếp.

– Giờ này chắc bên Bình Thủy chị Ba bây đương đợi cơm mình. Sợ nó nóng ruột. Đừng có dùng lắc ở đây hoài.

Bà bơi mạnh mái dầm. Xộn! Xộn! Nước vặn xoáy lên sủi hột xa dần sau đuôi xuồng. Thằng Phát nãy giờ ngủ sật sừ, giựt mình thức dậy dụi mắt:

– Bữa nay có thịt gà ăn hông hả ngoại?

– Ờ, chắc có. Con thức rồi hả?

Bà hun lên đầu cháu mình. Khét nắng. Bà khoát nước xoa lên đầu thằng nhỏ ba tuổi, tóc ra nhiều, biết nói giỏi. Nó thò tay rà rà trên mặt nước.

– Coi chừng bị cá táp nghe con.

Nghe ngoại nói, thằng nhỏ hoảng hồn vội rút tay lên. Bà mỉm cười.

– Gần tới nhà dì Ba chưa ngoại?

– Qua khỏi khúc này là tới rồi con.

Xuồng tấp vào gần một cây dừa mọc ngả dài ra bờ sông, chóp dừa ngóc cong lên, rễ lơ lửng một nửa trong không khí, phân nửa kia bám giữ đất, bờ khỏi bị lở thêm. Nước đang ròng, bày bờ kinh lút sình phủ một lớp phù sa nâu vàng trơn mướt. Xuồng cập vào một cây cầu ván nhỏ, có đóng những thanh gỗ dẹp vuông dài bên trên cho khỏi trợt chân. Một con cá thòi lòi giựt mình từ rễ dừa nhảy tòm xuống kinh trồi lên đập hai vi trước nhảy lách chách trên mặt nước một hơi băng qua tuốt bên kia rạch Bình Thủy.

Quấu! Quấu! Quấu! Con chó lông đen mướt trong nhà chạy ra, nhận được người quen, khịt khịt mấy tiếng rồi nín sủa, ngúc ngoắt đuôi, rên ư ử. Nó vươn người dài ra, hai cẳng trước khụy xuống, đuôi chổng lên cao ngoắt lia lịa, mừng đón người quen từ xuồng bước lên. Dưới hai mắt chó có hai bớt vàng tưởng như nó có bốn mắt. Thím Ba đứng trên cầu ván nói vọng xuống:

– Má đưa thằng nhỏ đây cho tui.

Thím xốc nách thằng Phát đặt xuống đất. Con chó chạy tới le lưỡi liếm, thằng nhỏ quíu tay lại chạy ra núp phía sau má nó, tay bấu ống quần đen. Bà ngoại vừa đặt chân lên mặt đất vội la lên:

– Mực! Mực! Dang ra coi.

Con chó ngó bà rồi chạy tới, đuôi phe phẩy. Trong nhà có tiếng huyên náo khuất sau hàng rào bông bụp, rồi liếng chân người đi ra. Con chó chạy vô, rồi chạy ra ngó ngó, xong chạy vô rồi lại lộn trở ra, kêu ư ử. Một người đàn bà xuất hiện ở cổng rào:

– Ngoại tới rồi bây ơi! Có dì Năm với thằng Phát nữa.

Con chó nhẩy cỡn, quấn quít.

– Mực! Mực! Làm cái gì chộn rộn vậy? Dang ra coi! Dang ra !

Con chó cúp đuôi, lấm lét, Quấu! Quấu! Quấu! sủa mấy tiếng chiếu lệ rồi theo chân đoàn người đi vô sân nhà. Một đứa nhỏ gái từ hàng ba nhảy xuống bồng xốc thằng Phát lên hun chùn chụt:

– Cưng ơi cưng? Sao cưng thấy ghét quá!

Dì Ba đưa hai ngón tay vét cổ trầu trên mép, lên tiếng:

– Chèn ơn Tui trông má muốn mút con mắt. Mần cái gì mà giờ này mới tới?

– Hồi nãy đi gấp quá bỏ quên đồ phải bơi trở dìa nhà lấy. Thêm con Năm lại ham nói chiện cù cưa thành thử mới cà rịch cà tang cho tới bây giờ.

– Thôi má với con Năm vô nhà đi, bộ tính đứng đây dang nắng hoài hay sao? À, còn con Ba ẵm thằng nhỏ chạy đi đâu mất rồi?… Ba à! Ba!

Có tiếng dạ văng vằng.

– Ờ chưa chi đã bồng thằng nhỏ ra quán rồi? Đố khỏi lại dộng cho thằng nhỏ cục kẹo. Tới giờ cơm rồi mà còn ăn tầm bậy.

Mọi người leo lên thềm bước vào nhà. Mát rượi. Thềm cao hơn mặt đất khoảng nửa thước. Bốn cây cột tràn bằng gỗ mun đã lên nước đứng chễm chệ trên bốn tảng đá xanh vuông vức, vươn sức chống đỡ mái nhà lợp ngói. Nền nhà lót gạch tàu vuông vức màu gạch cua. Một tủ thờ cẩn xà cừ dựa vào một vách ván, chình ình giữa nhà ngó ra sân. Lư đồng và cặp chân đèn bóng loáng. Trước bàn thờ, một bàn dài cũng đen bóng.

Hai bên, hai ghế trường kỷ, lấp lánh xà cừ. Bên trái một bộ ván ngựa dầy non một tấc, tẩm mồ hôi người lâu năm, đen kịch óng ánh như lãnh sa-ten. Trước bộ ngựa, một bàn nhỏ lêu nghêu trên cẳng cao, bên trên có để một ô trầu bằng đồng chùi bóng. Phía mặt, đối diện với bộ ngựa là một bộ vạc, dùng làm giường ngủ. Nhà ba gian rộng rãi, khang trang. Cặp liễn bằng cây trạm chữ nho thiếp vàng bám trên cột lớn dựng hai bên bàn thờ. Căn nhà vươn cánh xoài ra hai bên thành hai chái thấp, lợp lá, không có vách, khoảng khoát.

Dượng Ba từ sau nhà ở trần, quần đen xăn tới đầu gối đi ra, trên tay còn cầm cây mác:

– Dạ, thưa má mới tới. Dì Năm mới tới hở dì Năm? Cơm nước gì chưa?

– Dạ, chào dượng Ba.

Dì Ba xen vô:

– Cái ông này hỏi thiệt là lảng nhách. Mình chờ má ăn cơm từ sáng tới giờ mà còn đi hỏi má ăn cơm chưa.

– Ờ hén! Còn con Sam nó đâu rồi? Biểu nó chạy qua nhà kiêu cậu Tư mợ Tư qua ăn cơm. Mấy đứa nhỏ bên đó niếu không có mần cái gì thì biểu qua ăn luôn cho vui.

– Nó ở ngoài quán á! Ông ra kiêu nó đi. Để tui nói chiện với bà già. Mời má lên ngồi ở bộ ngựa cho khỏe. Còn con Năm nữa, ngồi đi.

– Thôi, để kệ tui mà chị Ba. Tui ngồi ở cái ghế đẩu này cũng được

– Mày để cái ghế đẩu tao ngồi. Tao biểu ngồi thì ngồi đi. Mắc mớ gì mà đứng hoài vậy?

Dì Ba mở ô têm cho bà già miếng trầu.

– Dạ, má ăn thêm miếng này nữa rồi súc miệng ăn cơm.

– Thôi để tao xuống bếp phụ một tay, chớ ngồi ở đây làm khách làm khứa kỳ quá!…

– Tui lo hết rồi, má khỏi lo, để cho tụi nhỏ nó dọn. Má ngồi đây nói chiện, mấy thở má mới qua thăm tui một lần.

Thím Năm rứt cục thuốc rê trong ô, vo tròn đưa cho bà già xỉa. Có tiếng dượng Ba ngoài cổng ngoài réo con Sam:

– Ba à! Ba! Về biểu coi.

– Dạ… ạ…

Con Ba ẵm thằng nhỏ từ bên quán chạy về, trên tay thằng nhỏ cầm cục mứt gừng nâu đen.

– Con bỏ thằng nhỏ đây cho ba rồi qua kiêu cậu Tư mợ Tư qua nhà mình ăn cơm. Dượng Ba nắm tay thằng Phát dắt vô nhà. Con Sam quay lưng chạy đi.

Ví dầu cầu ván đóng đinh, cầu tre lắt lẻo gập phình khó đi.. Con Ba bẹt hai chân bước chạy khập khểnh trên hai thân trâm bầu bắc song song qua mương. Nước ròng bày mấy cọng mái dầm ló chân lên khỏi mặt nước. Qua một đoạn đường đất, nó lại bước lên một thân dừa bắc qua một mương khác lớn hơn. Nó bước lên, thân dừa lúc lắc… Khó đi mượn chén ăn cơm, mượn ly uống rượu, mượn đờn kéo chơi.. Nó lượm cục đất cứng chêm ở đầu thân dừa lún trên mặt đất rồi chạy qua thoăn thoắt…

– À ba bốn bữa nay trời nắng gắt đỡ quá, chớ mấy bữa trước mưa dầm mưa đề tui rầu thút ruột, sợ vườn cam năm nay úng gốc bị trái chua.

Dì Ba cầm ống nhổ bằng nhôm trên bàn, phẹt một cái như gà ỉa.

– Ờ, chút nữa má dìa nhớ nhắc tui bẻ cho má mấy trái xài thanh ca đầu mùa ăn lấy thảo. Xài năm nay dòn xốp mà ngọt xớt lại thơm nữa. Trái nào trái nấy tròn vo, mập ú, thấy mà ham!

– Ờ sao con hông chiết nhánh cho thằng Tư nó đem về trồng thử bên nó.

– Có thử rồi chứ má. Nhưng đất ở bên đó thuộc đất ruộng, phèn quá nên trồng hổng đặng, cứ chết hoài. Họa may có sống đi nữa thì cũng èo uột, trổ ra trái nào trái nấy đẹt câm, chát ngắt, ai mà ăn. Thành ra bên nó chỉ có đắp rẫy trồng khoai mì với lại mấy ngọn mía thôi chớ làm vườn như bên này hổng đặng.

Thím Ba xen vào:

– Tui thấy ảnh có trồng chanh với quít, trái cũng sai lắm mà chị.

– Đành vậy, nhưng mà quít nó cũng chua lè như chanh. Tại cuộc đất nó như vậy. Vô phương! Thành thứ có tiếp tục làm thêm ruộng cũng không khá mấy. Khoai mì thì không có giá, thâu huê lợi chẳng đặng bao nhiêu. Vả lại…

Dì Ba với tay sứa đầu tóc đuôi gà bới sau lưng:

– Vả lại con vợ nó tánh cũng khó khăn, cứng đầu, chỉ cho hai đứa nó làm ăn mà nó hổng chịu nghe. Thằng Tư lại nghe lời con vợ nó. Tui nói ra nói vô sợ chị em thêm xích mích.

– Bề gì nó cũng là em út trong nhà mà con. Có gì thì con cũng nên khuyên bảo…

– Ối ! Má nói nghe dễ chớ con vợ nó hỗn dàn trời. Má nghĩ coi thở giờ ai mà cất nhà day cái hông ra sông. Ở Bình Thủy ai nấy đều cất nhà day mặt ra sông hết. Tui can tụi nó mà con vợ nó thiếu điều muốn chửi tui, nó nói tui ỷ quyền làm chị lên mặt làm tàng. Má nghĩ coi cất nhà trật địa lý như vậy làm sao mà làm ăn khá cho đặng? Thét rồi tui chán quá hổng thêm xía vô chuyện của vợ chồng tụi nó nữa.

Người đàn bà già nua chợt nghĩ tới thằng con út thứ Tám của mình. Nó còn ngất ngư hơn anh Tư của nó nữa. Chỉ còn có nó ở lại cầm cự với bà ớ Cờ Đỏ. Bà thở dài. Giàu út ăn, khó út chịu. Một công ruộng đủ ăn. Lèo tèo mấy bụi sả sau hè với đám dược thảo trồng để làm thuốc. Ông già nó thì rày đây mai đó ngao du sơn thủy. Con Năm giờ đã có chồng bên Thái Lai. Về ở tạm rồi mai mốt lại trở về bên chồng, không biết bữa nào. Bà buông tiếng thở dài kín đáo.

Dì Ba lại phẹt cổ trầu vô ống nhổ:

– Tui hy vọng thằng út của má mơi mốt lấy được con vợ hiền lành chớ gặp cái miệng như con vợ thằng Tư thì chỉ có nước…

Câu nói bị bỏ lửng. Thím Ba ngó má mình thăm dò. Coi bộ bà già không vui, thím đỡ lời:

– Úi, thằng Tám nó lờ quờ quá ai thèm lấy nó mà chị Ba lo

– Ấy! tại nó lờ quờ quá nên lao mới lo… nó bị xỏ mũi như anh Tư của nó.

Thằng Phát chạy lẩm đẩm trong sân rượt theo mấy chú gà con. Gà mẹ quay lại xửng lông tính mổ thằng nhỏ, mồng gà đỏ au. Bà ngoại thấy vậy vụt la lên:

– Diều! Diều!

Con gà mái kiểng đầu ngó trời, cất cổ kêu mấy tiếng: “Áu! Áu!…” rồi ngồi xuống xòe hai cánh rộng ra cho lũ gà con chạy ập vô ẩn núp. Thằng nhỏ đứng ngơ ngác trong nắng đã đứng bóng. Thím Ba chạy ra xốc nách nó ẵm vào nhà. Bà ngoại căn dặn:

– Trưa đứng bóng rồi, con đứng ra ngoài nắng hổng nên nghe con!

Dì Ba ngó thằng Phát:

– Đó! Tui nói có sai đâu, con Sam chưa gì đã dộng cho thằng nhỏ cục kẹo gừng rồi làm sao mà ăn cơm cho vô. Bây giở giựt ra thì thằng nhỏ khóc.

Dì xòe bàn tay ra:

– Con cho dì xin cục kẹo rồi chút nữa dì cho con ăn thịt gà.

Thằng nhỏ còn dụ dự, tuy con mắt láo liên. Dì nói thêm:

– Có thịt chuột muối sả ớt nữa.

Thằng nhỏ chớp chớp mắt coi bộ chíp trong bụng, nhưng còn e dè:

– Ớt cay lắm? Con ăn hổng được.

Dì Ba phá lên cười:

– Hổng có. Chuột làm cho con dì không có bỏ ớt. Dì biết mà.

Thằng nhỏ chịu quá, buông cục kẹo trong lòng bàn tay của dì Ba, cười toe toét. Dì ôm nó lên hun rồi đặt ngồi trên đùi mình. Từ ngoài sân có tiếng la vòng vọng:

– Má ơi! Má…

Con Sam ào ào chạy vô. Dì Ba nạt nó:

– Cái gì mà hớt hơ hớt hải vậy? Tao dặn trưa đứng bóng đứng có la coi chừng bị ông bà quở mà máy cứ ong óng cái bảng họng.

Bà ngoại can thiệp:

– Thôi con đừng rầy nó. Cái gì vậy con?

Con nhỏ thở lấy hơi:

– Một chút nữa… cậu Tư… mợ Tư… qua ăn cơm…

Dì Ba:

– Ờ ! có vậy mà mày làm tao tưởng đâu có ăn cướp tới. Thôi đi ra sau rửa mặt rửa mày rồi tiếp tay dọn cơm với tao. Bữa nay có ngoại tới chơi, rán giỏi một bữa coi.

Con nhỏ dạ một tiếng lớn, rồi chạy vù ra sau nhà bếp. Thím Ba đứng dậy đi theo chị mình.

– Má coi chừng thằng Phát để tui xuống bếp phụ với chị Ba.

Bà ngoại dắt thằng nhỏ ra sân lấy gáo múc nước trong lu đặt cạnh hàng ba: “Rửa đi con, rửa, rửa!” Bà xối nước, thằng nhỏ xoa hai bàn tay vào nhau. Bà vốc một ít nước vuốt lên mặt thằng nhỏ rồi rút khăn choàng cổ chùi mặt cho nó. Đoạn bà đưa gáo hớp một ngụm nước sụt sụt trong miệng phun ra, một ngụm khác ngửa cổ khò khò phun ra, đưa khăn lau miệng xong máng cái gáo trở lại trên cây trúc cắm gần lu, nước đọng chạy dọc theo cán gáo nhễu giọt xuống mặt đất ướt. Bà đặt thằng nhỏ lên hàng ba, hai bà cháu ngồi ở bậc thềm gạch tầu thòng chân đong đưa. Bà vuốt đầu thằng nhỏ:

– Tội nghiệp con thèm thịt gà lắm hả con?

Thằng nhỏ ngó ngoại rồi gật đầu. Ngoại hỏi tiếp:

– Con thèm thịt chuột lắm hả con?

Thằng nhỏ lại ngó ngoại, gật đầu, bà lẩm nhẩm, như nói một mình: “Tội nghiệp ! ở với ngoại ăn cực ăn khổ quá! …” Thằng nhỏ nắm lấy bàn tay ngoại mình, nghịch phá mấy ngón tay nứt nẻ, da dùng ở các đốt tay gồ lớn. Bà ngó ra trời nắng, mắt nheo nheo, hình ảnh ngoài sân như nhòe nhoẹt bởi hơi nóng hay bởi màng nước mỏng, rất nhẹ lung linh trên tròng mắt. Thằng nhỏ rờ lên vết thẹo hình vành cung trên tay ngoại:

– Ngoại ơi ngoại! Con đói bụng.

– Ờ, để ngoại bới cơm đút cho con ăn nghe.

Thằng nhỏ căn dặn:

– Ngoại nhớ lấy thịt chuột hổng có ớt nhe ngoại.

– Ờ, ngoại lấy thịt chuột hổng có ớt.

– Với lại thịt gà nhiều nhiều nữa nhe ngoại.

– Ờ, thịt gà nhiều nhiều nữa. Mà con đừng có ham ăn coi chừng…

Con chó Mực vụt chạy vọt ra sân sủa mấy tiếng rồi nín.

Theo chân nó, một người đàn ông mặc áo bà ba đen và quần dài đen xăm xăm đi vô. Tới gần hàng ba, chấp hai tay trước ngực xá một cái:

– Dạ, thưa má mới qua.

– Ụa ! Thằng Tư đó hả? Bữa nay mày hận cái quần dài làm tao tưởng ai chớ.

Sực nhớ điều gì:

– Ụa! mà còn con vợ mày đâu?

Cậu Tư ngập ngừng:

– Dạ… dạ… dạ vợ tui nó bị nhức đầu nên hổng qua đặng má à.

– Vậy hả? Rồi mày có cho nó uống thuốc men gì chưa mà qua dây, bỏ nó ở nhà cho ai?

– Dạ, có rồi má. Ở bển có hai đứa nhỏ coi chừng.

– Ờ.. quên há! Tụi nhỏ mạnh giỏi hết chớ?

– Dạ mạnh.

Thằng Phát kéo tay ngoại:

– Ngoại, con đói bụng.

– Ờ… nãy giờ quên thằng nhỏ. Tội nghiệp dữ hôn. Thôi để ngoại đi bới cơm cho con ăn nghe.

– Thằng con con Năm đây hả? Chèn ơi? Bây giờ thằng nhỏ lớn đại rồi. Mới bữa nào còn đi lẩm đẩm.

– Khoanh tay cúi đầu chào cậu Tư, giỏi đi con… Thôi, mầy vào trong này đi, tụi nó dang chờ cơm mày đó.

Vừa lúc dượng Ba đem chiếu ra trải ở bộ ngựa, dì Ba bưng dĩa thịt gà xé phai đứng chờ bên cạnh. Ngó thấy cậu Tư, dượng Ba lên tiếng:

– Kìa Cậu Tư mới qua? Còn mợ đâu?

– Dạ vợ lui nó nhức dầu nằm nhà, nhờ tui xin lỗi anh chị nó qua hổng đặng.

– Nhức đầu thiệt hông đó?

Dì Ba vặn hỏi. Cậu Tư:

– Thiệt mà chị. Bữa nay nhằm ngày của nó.

– Còn mấy đứa nhỏ đâu, hổng qua? Bộ cũng nhức đầu luôn hả?

– Dạ hổng có. Tụi nó mắc coi chừng nhà.

– Chèn ơi! Tao làm tới hai con gà giò, rồi ai ăn cho hết đây?

Thím Ba xen vô đỡ lời:

– Vậy để chút nữa chị sớt một dĩa cho anh Tư đem về bển cho tụi nó.

– Ờ, thôi vậy cũng đặng.

Dì Ba bưng nồi cơm lên rồi hối mọi người nhập bữa ở bộ ngựa. Con Sâm dành đút cơm cho em, nó một chén, thằng nhỏ một chén ra ngồi ở hàng ba. Má nó dặn vói: “Coi chừng em mắc xương nghe con.” Mọi người ngồi xếp bằng ở bộ ngựa, cầm đũa xá một cái. Chờ cho bà ngoại gắp trước mở màn, mọi người mới bắt đầu ăn. Thím Ba gắp một miếng đùi gà bỏ vô chén cậu Tư.

– Thôi được mà, mầy để thây kệ tao.

Chuột đồng chiến vàng đen dòn đầy ắp trong dĩa lớn, thơm phức mùi xả và mỡ chuột ngầy ngậy. Cậu Tư thò tay cầm lấy nửa con, lên tiếng:

– Ờ, năm nay anh chị tính sao cái vườn cam? Niếun tính ở nhà hái lấy chở ra chợ Cái Răng bán thì tui với mấy đứa nhỏ qua hái tiếp với anh chị.

Dượng Ba:

– Hông! Làm như vậy mất công quá. Năm nay chị Ba bây tính kêu thằng Ba Song Phi bên Thái Lai qua bán mão, rồi nó mướn bạn bẻ lấy, lời ăn lỗ chịu. Nó có ghe thương hồ, muốn chở bán đâu đó thì chở.

Dì Ba:

– Ông nói lời ăn lỗ chịu chớ dễ dầu gì mà lỗ. Anh Ba Song Phi buôn bán khôn đàn trời. Cam mình năm nay cũng đậu.

– Dù sao thì thằng Ba cũng còn đỡ hơn là mấy thằng chủ vựa ở chợ Cái Răng. Tụi đó trả giá trời ơi đất hỡi. Bán mão cho thằng Ba coi vậy mà được giá hơn.

Bà ngoại:

– Ờ nghe chồng con Năm nói thằng Ba Song Phi là học trò của anh suôi tao nên nó đối với người quen biết điều lắm. Phải vậy hông Năm?

– Dạ tui cũng nghe chồng lui nói sơ sơ thôi. Ảnh nói ba ảnh dạy cho anh Ba đá song phi tài dách, vì vậy mà lối xóm đặt cho ảnh cái danh hiệu là “Ba Song Phi” đó. Tành anh đó cũng dao búa lắm.

Dì Ba:

– Dao búa với ai không biết chớ gặp tao là ăn nói ngọt sớt, một điều “em Ba” hai điều “em Ba”.

– Bởi vậy mà chị Ba tụi bây chịu quá nên mới bán mão cam cho nó chứ gì!..

– Đọ, đọ… Ông nói bậy nữa đi. Với đàn bà con gái là anh Ba Song Phi đều ngọt ngào như vậy hết chớ đâu phải riêng gì tui

– Ờ ngọt ngào như vậy rồi bữa nào nó mới “song phi” cho một cái, mấy bà mấy cô sưng cái bụng thè lè, chừng đó mới biết ngọt hay mặn.

– Cái thằng cha này giỏi tài nói bậy!

Bà ngoại:

– Thôi mà, khi không rồi hai vợ chồng bây phát gây lộn nhau đi.

Dượng Ba xịt cười. Dì Ba còn nuối:

– Ăn nói thiệt vô diên hổng ai bằng.

Thằng Phát chạy vô xin ngoại cái đùi chuột không có ớt rồi cầm nhai ngấu nghiến. Nó thòng hai chân xuống hàng ba đánh đong đưa khoái chí tử. Con Sam đút cho nó muỗng cơm. Thằng nhỏ nuốt vội, sặc ho mấy tiếng. Con Sam trở đầu đũa lại dọng dưới chén cơm mấy cái lách cách.

– Vuốt nghẹn em tui! Vuốt nghẹn em tui!

Thằng nhỏ cố nuốt trôi, chảy nước mắt. Con Sam vuốt ngực thằng nhỏ, chùi nước mắt, múc muỗng cơm khác đưa lên miệng thổi:

– Nè cưng! ùm!… Vỗ tay đi.

Thằng nhỏ vỗ tay. Hai đứa ngó nhau cười híp mắt. Trong mâm cơm người lớn, cậu Tư lên tiếng:

– Má qua chơi rồi chừng nào má về?

– Tao tính ăn cơm rồi nghỉ một chút, về Cờ Đỏ coi thằng út ra sao.

– Làm cái gì mà gấp dữ vậy? Út gì mà út? Mười bảy mười tám tuổi, lớn cái đầu chồng ngồng rồi mà má còn lo cho nó. Ăn cơm rồi má với con Năm qua tui chơi, chờ nước lớn rồi hả dìa.

Thím Năm:

– Ờ má cũng chờ trời mát mát rồi hả dìa má. Tui cũng muốn qua thăm chị Tư để chỉ buồn. Con sợ chỉ phân bì…

– Thôi, tụi bây tính vậy cũng được. Mà dầu sao cũng đừng dìa trễ quá nghen, sợ trời tối. Bây giờ chắc nước đang đứng.

Dì Ba day qua chồng mình:

– Ờ ông cũng qua thăm vợ thằng Tư với má luôn thể. Để tui ở nhà rửa chén, còn con Sam đưa em cho thằng Phát ngủ. Con nít ăn cơm rồi hay buồn ngủ, nên để nó ở nhà.

Khi ăn xong, mỗi người vét đến hết hột cơm cuối cùng trong chén mình rồi cầm đũa xá một cái, gác lên miệng chén. Con Sam cầm miếng xoài dụ thằng Phát ra quán chơi cho người lớn và má nó qua nhà cậu Tư khuất mắt, nó không khóc đòi theo.

Dì Ba dặn: “Đừng có dắt em ra bờ sông nghe con.” Mọi người đi khỏi, trong nhà vắng lặng, dì Ba ngồi ăn trầu tóp tép một mình ở bộ ngựa. Bên chái, con gà mái dầu vữa đẻể xong, chạy ra sân nắng cvc tác inh ỏi. Con gà trống điều, đuôi đỏ cong dài mướt rượt, hứng chí ngóng cổ gáy một tiếng thanh tao: “Ò ó o!… o…o…o!” Con chó Mực nằm lim dim ở hàng ba, nhướng mắt, ngoắt tai, khịt khịt mấy tiếng rồi nằm im trở lại. Hai đốm vàng đuôi mắt của nó lúc nào cũng như thao thức.

Thằng Phát ngáp liên tiếp mấy cái. Con Sam ẵm nó vô chái, đặt lên võng có buộc sợi dây để kéo đưa. Nó dụ dự, bồng em lên rồi ôm em vào lòng, hai đứa ngả lên võng. Nó thò một chân đạp trên mặt đất lấy trớn. Cọt kẹt! Cọt kẹt! Con Sam cất tiếng ru em:

Ầu ớ ớ…
Ví dầu ví dẩu ví dâu
Ví qua ví lại ví trâu vô chuồng….(ờ ờ…)

Giọng ru non nớt ngọt ngào như bắp tươi mới luộc. Con rạch Bình Thủy đứng cơn nước lớn, thả phù sa lợn cợn bồi cho đất, cho cam, cho dừa, cho bắp, cho cây thù lù, cho đám ô rô.

Ầu ơ ớ…
Ví dầu tình bậu muốn thôi
(chớ) Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra…
(ầu ớ…) Bậu ra bậu lấy ông câu
Bậu câu …

Chợt có tiếng lạt xạt rồi hụych! một cái rung rinh sau vườn. Thằng nhỏ giật mình chấp chới. Dừa khô rụng ở bờ mương. Nặng nề. Im lắng.

Ầu ớ ớ…
Bậu câu cá bống ngắt đầu kho tiêu (ơ ơ…)
(chớ) Kho tiêu kho ớt kho hành
Kho ba lượng thịt để dành em ăn (ầu ơ…)

“Ò ó o!… o o o…” Con gà trống điều lại cất tiếng gáy thanh tao. Rồi im phăng phắc. Nắng rạng rỡ buổi trưa đứng bóng là chất keo dán cứng tiếng gà gáy và tiếng võng đưa vào tâm hồn phù sa lớp lớp. Đời đời.

Ầu ơ… Ví dầu …




– CHƯƠNG 4-

Hò …ơ ờ ơ ớ…
Miễu linh ai dám lợi gần (ờ ờ…)
Đứng xa nhà mà khấn (ơ ờ…) thánh thần chứng (ờ ớ..) tri…
Hò … ơ ờ ơ ớ…
Dang thay đánh thiếp sao đành (ờ ờ…)
(chớ Tấm rách ai vá (mà) tấm lành ai (ờ ớ…) may…

Người đàn bà đang nằm cứng đơ tóc rối bù chợt mở đôi mắt vàng khè ngó trân trân lên trời :”Ồm ma xơ rốp, ma ha xơ rốp…”. Hớp rượu từ miệng gã pháp sư phun tới toả thành bụi cay phả vào mặt …”ông chình cô rô bầm binh…” Người đàn bà nằm híp mắt lại, mày chau thành nếp nhăn thẳng đứng, rồi lại vụt mở ra, tròng mắt vàng lừ đừ, miệng nhếch nụ cười âm u, quỷ ám… “Tra ông bầm boul, tầm đóp…” Ngón tay ấn trỏ vào mặt người đàn bà gặt gặt, giọng pháp sư cất cao như ré khóc, trục rú âm hồn. Người đàn bà vụt ngồi bật dậy, ruột tràn xuống bụng, máu tuôn lai láng. “Pờ đây! Pờ đây!”, ông tướng thầy ba bằng vải đỏ đưa cao, run run trên tay pháp sư…”moul xốp rốp, chuồi pral anh hòng…” Người đàn bà bỏ hai chân xuống đất, đứng dậy, ruột chảy lòng thòng trên đầu gối. Gã pháp sư thối lui, trỏ tay ấn… “lục cu ru truy khà nhum, pol prốt vìa tế anh hong…” Người đàn bà rẻ cười ắc ắc, răng lấp lánh dưới ánh đèn cầy, đầu lắc lư tóc rối bù, mắt trợn trừng ngó trân tráo vào khoảng không, hai tay xương xẩu chụp tới. Gã pháp sư lật đật thối lui “Pờ đây!

Người đàn bà chụp hụt, ngã vật lên mâm nhang đèn, giấy vàng bạc, rượu, nến, lư hương, lửa khói, máu ruột văng tung tóe. Cậu Tám quăng cái trống cơm, vội vã nhào tới đỡ lấy chị mình. Thím Ba lăn ra bất tỉnh. Vị pháp sư liệng ông tướng thầy ba lên mình người đàn bà. Buổi trục quỷ đuổi tà chấm dứt ngang xương.

Cậu Tám lo lắm. Một mặt lo chị mình cứ đau mỗi ngày một nặng, mặt khác lo ông anh rể lại có dịp chửi mình mê tín dị đoan. Từ ngày sanh đứa con thứ hai, thím Ba cứ đau rề rề, như lãng trí. Cậu nghi chị mình bị “mắc đàng dưới”, mà nói không ai chịu tin. Ông anh rể cho là vợ mình bị bệnh sản hậu, cứ một mực hốt thuốc nam cho uống. Bệnh tà mà uống thuốc nam thì làm sao mà hết được. Thành ra cứ đau rề rề. Nói xàm, nghiến răng trèo trẹo. Cậu đã từng theo bác mình, cũng là pháp sư, chữa nhiều bệnh “mắc đàng dưới” nên ngó mặt con bệnh là biết liền. Mắt vàng, ngơ ngơ ngáo ngáo, nói xàm, ngồi đâu ngồi lì một chỗ, buổi trưa hay ớn lạnh, buổi tối đổ mồ hôi hạn, nhắm mắt thấy ma nhát, y chang bệnh đó. Hết xẩy. Vậy mà ông anh rể cứ nhứt định không chịu nghe. Thành thử chị cậu cứ bệnh thêm mỗi ngày một nặng. Thụt con mắt, lắc hồ bao. Vàng ẻo.

Tiếc quá ! Cực chẳng đã mới đi rước ông pháp sư người Thổ tới trị tà. Phải bơi xuồng mút con kinh Cờ Đỏ mệt ngất ngư, mới rước được. Nghe đồn pháp sư có học gồng, chém không đứt, bắn không lủng, bùa phép đầy mình, ma quỉ thấy dạng là dạt ra xa, đi chỗ khác chơi. Thôi thương chị cũng phải rán. Tiếc quá! Phải chi bác của cậu còn đủ pháp thuật thì sá gì mấy con quỉ mén chuyên môn hốt hồn đàn bà đẻ. Mà cũng tức chị mình thiệt. Đã dặn mới đẻ, chạng vạng đứng ra sông giặt quần giặt áo hay làm gì hết mà không chịu nghe. Bây giờ mắc đàng dưới, cái tụi cô hồn hà bá làm khó làm dễ! Gặp tay bác mình thì đừng có giỡn mặt.

Mà ông nội này cũng kỳ. Đã đành tay ấn ông cao, nhưng là để trị ma trị quỉ chớ đâu phải để giỡn mặt thánh thần. Đầu trên xóm dưới ai mà không biết tài ông, trị đâu hết đó, vẽ bùa trên tô nước lạnh cho con bịnh uống là ngồi dậy đi te te, cô hồn các đảng cuốn gói vọt gấp. Nghe đồn ông còn giấu mọi người ra nghĩa địa luyện thiên-linh-cái, ông tướng thầy ba có thể đi đứng một mình. Phép này mà thành thuộc thì bọn cô hồn, hà bá chỉ còn nước đổi nghề khác làm ăn. Tiếc quá! Khi không đi chọc ghẹo thánh thần làm chi cho hư sự. Số là một bữa tối nước lớn ông đi ỉa ở bờ sông. Ỉa thì cứ ỉa thôi đi cho yên chuyện. Đàng này còn ngứa nghề. Khi khổng khi không thấy Bà xẹt ngang, đưa tay bắt ấn phá chơi một cái. Bà đứng lại cái rụp. Như vậy mới kẹt.

Khi ỉa rồi, ông lơ đãng buông tay ấn ra khoát nước rửa đít. Chết ở chỗ đó! Thoát ấn chẹt, Bà nổi xung xẹt vô đầu pháp sư một cái bật ngửa, lọt xuống sông. Không chết là hên lắm! Nhờ có đứa con thời may ra ỉa thấy vậy tri hô ó trời, lối xóm tới vớt pháp sư lên. Khiêng vô nhà chập chô, pháp sư hoàn hồn, nhưng bị á khẩu. Sau đó phải rước sư phụ tới giải phép, ông mới nói lại được. Nhưng đồng thời, ấn pháp cũng tiêu tùng luôn. Thiệt tiếc hết sức! Đang làm ăn ngon lành, bỗng đùng một cái sập tiệm! Giải nghệ luôn. Đó cũng là câu chuyện cho ông anh rể châm biếm. Cái giọng ông nội này chỏi bảng họng là tức lộn ruột. Mà ổng cũng gan cùng mình. Nghe đồn ở Miếu Cô Hồn có ma không ai dám qua lại ban đêm, ông bèn vác củi bửa tới ởứng rình, chờ ma xuất hiện để khệnh cho một hèo. Một tối ông đập được một con mèo mun vô phước leo trèo ở cây dương sau miếu. Đem về bị vợ la, ông đem qua lối xóm kiếm ông bợm nhậu, hai cha nội xào củ hành… tiêu tùng con mèo ! Thiệt ngang hết nói. Vậy mà ma quỉ, Bà Hồng Bà Cố không bà nào dám quở. lvậy mới kỳ chớ!

Ông pháp sư người Thổ trị ma quỉ cũng đặc biệt lắm: phải kiếm cho được một con chó con. Không phải để nó cắn ma quỉ, mà là để pháp sư… cắn nó. Trước khi pháp sư lâm trận, con chó đã được cho nhậu rượu đến ngất ngư, đứng lên quị xuống, đứng bốn cẳng cũng té như thường. Đọc thần chú trị tà tới lúc ác liệt nhất, pháp sư cúi xuống, hai tay nắm bốn cẳng chó đưa lên mặt căng cho bụng chó ềnh ra. Pháp sư lâm râm thần chú mấy câu chót rồi hét lên một tiếng lớn, cắm ngập răng vào bụng chó, kéo ruột lòi ra lòng thòng, máu me lai láng. Con chó con say rượu chỉ kịp la “cẳng” một tiếng đứt ruột rồi dẫy tê tê chưa chịu chết liền. Ruột nó bị rứt ra đắp lên bụng người bịnh cho quỉ ăn và xuất đi với cơn bịnh. Người bịnh còn sống, con chó con cũng vậy. Ruột mất hết mà bốn cẳng nó còn quơ quào trên mặt đất lung tung, bọt mồm bọt mép sùi ra, kêu la không thành tiếng…

Sau khi ông pháp sư có học gồng rút lui, cậu Tám thu dọn chiến trường. Cậu xách con chó con ra bờ kinh, niệm chú vãn sinh cầu cho nó đầu thai kiếp khác làm ăn. Cậu quăng chó xuống dòng nước đục, xác chó chìm xuống, trồi lên cách đó không xa. Một con quạ chấp chới bay tới. Cậu la con quạ mấy tiếng rồi trở vào nhà. Cậu nhìn quanh ngao ngán. Mấy bữa nay ông anh rể đi làm công ở Thới Lai nên cậu mới dám đường đột tự ý rước thầy Thổ đến chữa trị cho chị mình. Dù ngán ông anh nhưng vì thương chị quá nên cậu xâm mình làm đại. Cậu Tám thở đài. Xị rượu đế còn nằm lăn trên nền đất dựa vách. Cậu lượm lên, rút cái nút giấy đã thấm ướt, đưa chai lên miệng tu một hơi, khà một cái dài cho hả men nồng. Đây cũng là thói quen khi theo phụ ông bác mình hành nghề pháp sư. Thỉnh thoảng cậu phải phun rượu cho hình nhân. Lúc đầu cay quá, phun hết. Sau đó phun gần hết. Rồi nửa phun nửa nuốt. Dần dần thành thói quen. Mười lăm tuổi, nuốt khơi khơi nửa xị là thường.

Đó lại là một đầu mối khác nữa cho ông anh rể yêu quí chọc quê. Nhà có hai công đất, ông anh nói thằng Tám cấy một công lúa, một công nếp. Công lúa để trả nợ chủ đất, công nếp để cất rượu nếp than uống cho quên… trả nợ. Được một cái cậu Tám không khi nào giận ai. Hiền như cục đất. Quá lắm, cậu bắt ấn niệm chú láp giáp rồi bỏ qua. Nhờ vậy cậu Tám chưa hề đôi co với chú Ba bao giờ.

Phần mình, chú Ba cũng rầu thúi ruột. Từ ngày đẻ thằng con trai thứ hai, vợ chú cứ đau rề rề. Chẳng những đau mà còn như mất hồn mất vía, đôi lúc tưởng như khật khùng. Thuốc men chẳng thấy thuyên giảm. Chú mắc đi làm ăn, giao hết vợ con cho bà già vợ và cậu Tám. Chú tính dọn về Thới Lai, nhưng lại kẹt bà dì. Công việc tới tấp, không tính gì được. Đâu có huỡn. Hồi đẻ thằng nhỏ sau, nhớ lờii bàn của ba mình lúc ở cù lao Ông Chưởng, chú cũng tính đặt cho nó cái tên hờ trước là Đạt. Phát – Đạt. Nhưng rồi sợ đây trùng tên với cậu Út Vĩnh Đạt, thầy Bang buồn lòng, sanh ra lôi thôi. Vì vậy vợ chồng bàn tới tính lui, lại vấn kế ông già. Ông Đương nói ông ngoại tụi nhỏ hay lên núi Thất Sơn hái thuốc, đặt cho nó tên Sơn cũng hợp tình hợp lý lắm vậy. Không phát đạt thì cũng phát sơn, khai sơn phá núi đâu có dở. Sơn thì Sơn, sợ ai! Vợ chồng chú Ba chịu liền.

Mấy bữa sau khi pháp sư Thổ gồng rút lui, chú Ba tạm ngưng công cấy trở về. Thím Ba coi mòi đau nặng hơn, trong đêm tối thường mê sảng và nói làm xàm. Sau đó, ngay cả ban ngày cũng nói làm xàm. Người thím rút lại, ốm nhom. Đứa nhỏ bốn tháng, không đủ sữa mẹ để bú, khóc đêm rát ruột. Bà ngoại phải lấy nước cơm khuấy chút đường nhểu dậm thêm cho cháu – thời đó chưa có sữa bình. Không quen, thằng Sơn lại ỉa chảy, lại đói, lại khóc ngặt nghèo. Đêm tối om, bà ngoại rán cất tiếng ru cháu:

Ầu ơ…
Em tôi khát sữa bú tay (ờ ờ…) .
Ai cho bú thép ngày rày mang ơn
(ầu ơ… )

Nằm bên cạnh chồng, thím Ba lại nói làm xàm với những hình ảnh u ám trong bóng tối. Chú Ba lăn mình thở dài sườn sượt. Thỉnh thoảng chó sủa mấy tiếng rời rạc ở đầu xóm. Bụi sả sau hè vẫn xào xạc như không bao giờ biết ngủ nghê là gì – y hịch chú Ba.

Phải chi có Lão Thần Y ở nhà lo thuốc men cho con mình cũng đỡ. Hồi hạ sanh thằng Sơn, lão bấm độn nói thím Ba sẽ lâm bịnh nặng. Đâu phải không biết trước, vậy mà lão vẫn te te lên đường hành đạo như thường. Lão nói tuy bịnh hung hiểm, nhưng rồi sẽ “động mà qua”. Tại cung số xung khắc, vận hạn. Tuy vắng mặt nhưng lão vẫn chữa trị được – nghe thiệt nghịch lý. Lão vấn một lá bùa nhỏ bằng lụa, xỏ chỉ đeo lên cổ thằng Sơn, gật gù: “Thằng nhỏ này kỳ lắm! Minh minh ám ám!”

Lão bôi một vết son đỏ lên mỏ ác đứa nhỏ mỉm cười: “Đã có ta đây!” Trong nhà chẳng ai hiểu gì hết. Lão tham thiền luôn hai ngày, nói là để “trấn”. Ngày thứ ba, Lão Thần Y từ giã lên đường. Bà ngoại có lẽ đã quen với hành tung kỳ lạ của chồng mình, không nói lời gì. Cũng không lộ vẻ buồn rầu. Rồi từ đó tới nay, lão đi biệt tăm biệt tích.

Sáng nay, ngó thấy mặt mũi vợ mình có vẻ tươi tỉnh, chú Ba lên tiếng hỏi:

– Mình thấy trong người ra làm sao?

Thím Ba trả lời yếu ớt:

– Cũng đỡ đỡ.

Chú Ba xề tới ngồi gần vợ:

– Niếu mình thấy đỡ thì để tôi đưa xuồng ra chợ Cái Răng cho thầy xem mạch hốt thuốc. Sẵn đó đem thằng Sơn cho thầy coi luôn. Nó cứ bị tướt hoài, sợ để lâu không tốt.

Chú Ba gãi đầu trầm ngâm:

– Tui cũng tính trên đường dìa ghé bên ba ngủ đêm rồi ở lại chơi ít bữa thay đổi không khí… Mình nghĩ sao? Lúc này tui cũng hơi huỡn.

Thím Ba thờ thẫn ngó chồng mình hồi lâu rồi nhẹ nhẹ gật đầu. Chú Ba thở hắt ra nhẹ nhõm:

– Mình chịu rồi thì tui nói lại với má để còn thu dọn lên đường sớm sớm.

Chú Ba vội vàng đứng dậy đi ra sau vườn kiếm bà già. Nghe ý định của chú, ngoại không cản ngăn:

– Mà vợ chồng bây có đi dìa bên Thới Lai thì để thằng Phát lại má giữ cho.

Chú Ba ngần ngừ:

– Thôi má à. Mẹ đâu thì con đó cho nó dễ tính. Thằng Phát ở lại nhớ má nó, ban đêm ban hôm khóc la phiền phức cho má lắm. Vả lại ông nội nó cũng nhớ nó nên cứ nhắc hoài. Thì thôi, một công hai chiện, sẵn đó cho nó về thăm nội luôn thể.

– Tụi bây tính vậy cũng được. Để má vô lo cho vợ chồng con cái tụi bây đi cho sớm, trời còn mát.

Bà ngoại cắm cây dao phay đang ôm trên tay xuống rẫy, đứng dậy theo chú Ba vô nhà.

Rời chợ Cái Răng, sau khi hốt thuốc, trời đã đứng bóng. Nắng gắt, nóng hực. Thím Ba choàng khăn tắm ngồi cú rũ giữa xuồng, tay chân bải hoải. Thằng Sơn khát sữa ré khóc. Nó nhả cái vú lép xẹp của má ra, dẫy nẩy. Chú Ba chụp nón lá quạt cho thằng nhỏ. Chú mở chai nước cơm pha đường nhểu vô miệng con mình mấy giọt. Thằng nhỏ chép chép rồi lại ré khóc. Thím Ba cố gắng thều thào “Ầu ơ… ví dầu… ầu ơ… ví dầu..” Đứa nhỏ chép chép thêm mấy giọt nước cơm nữa rồi dịu khóc. Thằng Phát ngồi sau lưng má, nhâm nhi cái bánh tàn ong mua ở chợ, nín khe, không dám hó hé. Nó linh tính điều gì đó không rõ, và sợ , mắt lấm lét.

Chú Ba mở cái mo cau vắt nắm cơm đưa cho vợ. Thím Ba lắc đầu. Chú đút nắm cơm vô miệng mình, xé thêm miếng khô cá sặt ăn qua loa thêm mấy nắm nữa, chú khoát nước sông rửa miệng. Chú vói tay lấy cây roi mây trong khoang xuồng nhúng xuống nước cho đỡ khô. Từ ngày đụng vụ rắn với ông Đương, chú lúc nào cũng phòng hờ cây roi mây. Đánh rắn phải quất bằng roi mây vào lưng rắn, roi mềm áp sát mặt đất dễ trúng hơn là cây cứng, chỉ đập được bằng một điểm ở đầu. Chú đưa tay che ngang mày, ngó mặt trời lóa choá rồi xô xuồng theo dòng nước xuôi bơi về Thới Lai. Chú mong về đó, thay đổi không khí, may ra vợ mình thuyên giảm được phần nào chăng?

Xuồng rời rạch Cái Răng đi vào kinh nhỏ. Trời nắng chang chang. Thím Ba thấy trong người càng lúc càng bứt rứt. Thỉnh thoảng thím mở mắt ngó dáo dác trên mặt kinh, miệng nói lầm bầm. Thằng Sơn đã thiếp ngủ trong lòng má nó. Chú Ba áy náy trong bụng, cố gắng bơi riết, chút chút lại ngó vợ thăm chừng. Bỗng thím Ba chỉ ngón tay lên mặt nước hét một tiếng lớn:

– Kìa! Chết!

Chú Ba giựt mình ngó theo ngón tay chỉ. Nửa trái bông gòn phơi ruột trắng đang trôi dạt đờ trên dòng nước.

– Chết rồi! Cà lị! Chết!…

Mặt thím Ba thất thần. Thằng Sơn bị tiếng la đánh thức, chấp chới ré khóc. Người đàn bà hất khăn choàng trên lưng rớt xuống khoang xuồng, tiếp tục hét lớn, kinh hoàng:

– Chết! Cá lị! Má chết…! Má chết rồi! … Má ơi má! … Đừng bỏ con…

Miệng thím Ba mếu xệch, mắt mở lớn ráo hoảnh. Chú Ba hoảng hồn lấy dầm đập lên trái bông gòn chìm ngấm, tả tơi. Chú cũng la lớn:

– Mình! Mình! Cái gì vậy? Cá đâu mà cá? Đâu có cá lị!

Thằng Phát mặt mũi xanh dờn, mếu máo. Thím Ba đưa thằng Sơn đang dẫy khóc trên tay ra xa, hét:

– Đồ quỉ vương! Tao quăng mày xuống sông!

Thím giơ cao thằng nhỏ lên…Thằng nhỏ khóc ngất. Chú Ba hoảng hồn liệng mái dầm chồm tới giựt thằng nhỏ trên tay vợ mình. Thím Ba ngả người ra sau, một tay vịn be xuồng, một tay chỉ mặt chồng mình:

– Máy nữa! Đồ quỉ chúa! Cha chả! Đồ ôn binh hốt hồn má tao, bây giờ còn muốn hại tao!

Người đàn bà bỏ tay xuống chụp lên be xuồng bên kia, nghiêng mình qua lại lắc lư, xuồng chòng chành:

– Cho tụi bây chết hết! Tao nhận chìm xuồng cho tụi bây chết hết!

Thằng Phát bật ngửa lăn lóc trong khoang xuồng, ré khóc thất thanh. Chú Ba mắc ẵm thằng nhỏ cũng chới với. Xuồng nghiêng dữ, nước ào vô. Thằng Phát la chói lói:

– Má ơi má! Con sợ!…

Nó khóc ngất:

– Ba ơi! Chết con ba ơi!

Mặt nó không còn hột máu. Chú Ba buông thằng nhỏ, cả khúc kinh vang dậy tiếng trẻ khóc, xuồng nghiêng bên kia, nước lại ào vô chú Ba nhảy xuống kinh đỡ lấy be xuồng để giữ thăng bằng.

– Đồ quỉ vương! Đồ quỉ vương!

Người đàn bà tiếp tục lắc xuồng, la hét vang rân. Chú gỡ tay vợ đang níu be xuồng, đẩy mạnh, thím Ba ngã bật ngửa ra sau đè thằng Phát. Thằng Sơn khóc hết ra tiếng. Chú đẩy cho xuồng tấp vào bờ kinh gần nhất bên tay mặt. Người đàn bà lồm cồm bò dậy chụp lấy bụi cỏ lông gà mọc ven bờ, vắt chân leo ra khỏi kinh, bò bốn cẳng một khúc, đoạn nhổm dậy ngó trở lại xuồng hét: “Đồ quỉ vương!”, rồi vụt bỏ chạy.

Chú Ba đẩy xuồng rấn vào đám cỏ lát gần đó cho xuồng khỏi bị nước cuốn. Chú quấn vội dây xuồng vô gốc bình bát mọc ven sông. Mái dầm đã liệng trôi mất. Chú chụp lấy cây roi mây leo lên bờ rượt vợ mình. Thằng Phát sợ quá hết dám khóc. Nó bò tới lượm em mình lên ôm vô bụng, run lẩy bẩy. Thằng Sơn vặn mình ặc ặc mấy tiếng. “Nín, nín! Em nín!…., vừa dỗ em, nước mắt lại lăn xuống gò má thằng nhỏ.

Chú Ba xách roi mây rượt theo vợ mình đang chạy loanh quanh giữa mấy gốc quít. Người đàn bà không ngớt la hét inh ỏi, tóc rũ rượi vướng vô cành lá thấp. Chú Ba rượt kịp, gỡ tóc vợ ra, người đàn bà cắn vào tay chú toan bỏ chạy nữa. Phần mệt phần lo sợ cho hai đứa con nhỏ còn bỏ ở xuồng, chú Ba giận dữ ghịt tóc vợ mình lại, người đàn bà trì kéo, chú đưa roi mây lên quất vô đùi vợ, người đàn bà chồm tới cào cắn, chú quất mạnh thêm mấy roi nữa vô chân. Người đàn bà run run cẳng, quị xuống, rên ư ử, từ từ gục té rồi lăn ra bất tỉnh nhân sự.

Chú Ba quăng roi mây, quì xuống đỡ đầu vợ mình lên. Mắt người đàn bà trợn trắng, bọt mép sùi ra. Chú bồng vợ mình trở lại xuồng.

Thằng Phát thấy chú xuất hiện mừng quá, mếu máo:

– Ba ơi! Con sợ quá ba ơi! Đừng bỏ con ba ơi!

Chú Ba thấy ruột mình đau quặn. Chú vội vàng lên tiếng:

– Có ba đây! Đừng sợ nữa con!…

Thằng nhỏ không khóc thành tiếng mà nước mắt nước mũi tèm lem. Chú đặt vợ mình nằm trên bờ kinh, còn đang lúng túng chưa biết làm sao bơi xuồng đưa vợ con về Thới Lai. Chợt có tiếng nước khuấy xa xa rồi một chiếc ghe nhỏ trờ tới. Chú mừng quá lên tiếng kêu và ngoắc ngoắc chiếc ghe cầu cứu.

Người đàn bà trên ghe vội xoáy mái chèo cho ghe trôi chậm lại, tấp vô bờ:

– Cái gì vậy chú? Có chuyện gì vậy? Bộ có người chết hả?




– CHƯƠNG 5-

Hò…ơ ờ ơ ớ…
Ngó qua chùa lớn làm chay…
(chớ) Thỉnh ông Tiêu Diện (ơ ờ…mà) thỉnh Ngài Quan âm (ờ ơ ớ )
Hò…ơ ờ ơ ớ…
(chớ) Nghiêng vai ngửa với Phật Trời (ớ ờ. ..)
Đương cơn hoạn nạn (ơ ờ…) độ người trầm (ơ ờ ớ…) luân (ờ ơ ớ ..)

Xuồng chìm. Chú Ba lẹ tay chụp được thằng Sơn. Đầu thằng Phát lấp ló trên đòng kinh, sặc nước, mắt thất thần, kêu cứu ba không ra tiếng, tay quào chới với dòng nước đục. Thím Ba trốn gần đó, tóc xõa lờ đờ trên mặt phù sa. Chú với tay níu tóc vợ. Thím Ba dẫy dụa, chú dằng co làm sút thằng nhỏ ra khỏi tay, chìm ngấm. Chú kinh hoàng buông vợ mình ra, lặn xuống.

Những hình ảnh thảm thiết đó cứ lởn vởn hoài trong đầu chú Ba khiến chú không khỏi rùng mình. Nếu chú không lanh trí nhảy xuống kinh giữ cho xuồng khỏi bị vô nước, chắc bây giờ chú chỉ còn cu ki trọi lỏi trên đời. Chú giận vợ. Chú thương vợ. Rồi lại giận vợ. Vợ mình đau bệnh gì chú không biết, nhưng nhất định không phải là mắc-đàng-dưới. Cho dù có phải vậy đi nữa, chú cũng sẽ không ngần ngại gì mà không khện cho hà bá một cây củi bửa – còn hơn là nhẫn tâm quất vợ mình bằng roi mây. Cực chằng đã!

Bữa chết hụt, chú nhờ ghe cho vợ mình có giang, chú bơi xuồng chở thằng Phát ôm em trong lòng cặp theo ghe, về thẳng Cờ Đỏ chớ không ghé Thới Lai như dự tính. Khi không chở vợ con ngất ngư về báo ông già và bà dì, chú không muốn. Về đó sanh giặc là cái chắc. Chửi chú chú còn nhịn được, chớ dằn vặt ông già mình là chú không thể bỏ qua. Tuy nhiên, đưa về nhà bà già vợ cũng không phải là thượng sách. Bà đã nghèo, lại ở nơi hẻo lánh, còn thằng em vợ thì theo thói tà mị, vợ chú không biết cách gì mà hết bịnh cho đặng. Chú đâu thể ngồi mà canh chừng vợ, rồi lấy cái gì mà ăn? Bốn miệng ăn chớ đâu phải ít. Chú bứt rứt. Chú rất khó chịu khi phải nương cậy, nhờ vả kẻ khác. Thà để cho người ta nương nhờ mình thì hơn. Chú nhớ lúc lâm chung má chú có dặn chú phải lo cho đàn em, chú thở dài. Chưa gì con Thung và thằng Dung đã phải ra gặt tiếp cho mình khi vợ chú đẻ. Rồi còn cái gì nữa đây?

Từ ngày bị đánh bằng roi mây trên bờ kinh, thím Ba nằm liệt giường liệt chiếu, bỏ mặc hai đứa nhỏ cho bà ngoại. Thằng Sơn chỉ uống nước cơm cầm hơi, lớn không nổi, da đùn lại nhăn nhúm không thua gì da của ngoại nó. Thằng Phát linh tính điềm không lành nên cả ngày không dám nhõng nhẽo khóc la. Ngay cả lúc vấp té nó cũng chỉ mếu mếu chảy nước mắt rồi ra sau hè ngồi ngó bụi sả hay tự động móc đất sét trong vườn vọc chơi một mình. Nhiều bữa xế trưa đói bụng, không có ai, nó cũng lại tự động dở nồi bốc nắm cơm nguội nhai tóp tép. Nó nhớ kẹo gừng và thèm bánh cốm ở nhà dì Ba. Trong trí óc non nớt, nó không biết sao lâu quá không thấy ngoại bơi xuồng chở mình ra nhà dì Ba chơi. Kẹo gừng, kẹo chuối, con Sam, gà con, thịt chuột, xoài, cam, thù lù, nước dừa… Nó chảy nước miếng. Mệt, nó ngủ gục lăn khoèo bên vách lá, mơ thấy thịt kho, đường sắc, kẹo mứt và bánh trái.

Ngoại vừa ru thằng Sơn ngủ xong, ra sau hè ngó thấy vội vã bồng cháu đem vô nhà bỏ lên chõng tre lấy khăn đắp lại cho cháu ngủ tiếp. Rồi xuống bếp lui cui nhúm lửa cho bữa cơm chiều. Khói táp vào mặt làm ngoại chảy nước mắt chèm nhẹp. Ngoại lấy tay quơ quơ đuổi khói trước mặt rồi chu miệng thổi phù phù vào cọng lá dừa khô cho bắt lửa.

Trời bắt đầu đi vào tháng chạp, gió thổi lạnh từ bờ kinh, mang theo mùi bùn đất và mùi Tết nhứt lâng lâng, lảng đảng. Cội mai trước nhà lất phất lá mới, màu lá xanh mướt ửng chút nâu non hòa theo âm hướng của đất trời. Đêm rộn rã tiếng chày giã nếp để chuẩn bị làm bánh tét, làm xôi cho ba bữa Tết. Có lẽ hương xuân và tiếng động đạt quen thuộc đánh thức trong tế bào thím Ba bản năng sinh tồn sâu kín, khiến cho mấy bữa nay thím cảm thấy trong người tỉnh mỉnh. Thím đã ngồi dậy được và biết đói bụng, đòi ăn đòi uống. Ngoại mừng lắm bồng thằng Sơn tới cho má nó vuốt ve. Người đàn bà nhận ra được con của mình, sa nước mắt. Nhưng thím còn quá yếu, không đủ súc bồng bế nó. Thằng Phát cũng đến bên cạnh má mình, nắm lấy bàn tay mân mê, cười nhăn mấy chiếc răng non, nhưng trong sự trìu mến có chút rụt rè vì từ lâu mối liên hệ mẹ con có phần nào gián đoạn. Bàn tay người bệnh run run xoa nhẹ tóc con mình, khám phá lại những cảm giác bồi hồi, thương mến, tần ngần. Môi khô mấp máy, nước mắt lăn tròn trên đôi má hóp sâu của người từ mẫu.

Một buổi sáng thím Ba đòi má mình nấu nước cho thím gội đầu và lau rửa mình mẩy. Tắm xong thím thấy trong người khỏe khoắn. Thím đòi được ra ngồi ở ghế đẩu bắt gần cửa, chỗ có nắng lọt vào thành vũng. Ngoại lấy lược sừng trâu chải gỡ tóc con mình. Người đàn bà lên tiếng yếu ớt:

– Ba xấp nhỏ đâu rồi hả má?

– Nó đi bạn rồi con à. Đi hơn mười bữa nay. Chắc mơi mốt nó về tới bây giờ.

Hơi nắng nóng xuyên qua vải áo thấm vào da thịt gợi thím Ba nhớ mùa gặt hồi thím còn mạnh giỏi. Thím thấy lo lắng và tội nghiệp cho chồng mình.

Con cò lận lội bờ sông,
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.

Nhưng con cò kia bây giờ không phải thím mà là chú Ba. Thím thở dài, nheo mắt hấp háy ngó ra sân. Gió đông lướt trên mặt con kinh Cờ Đỏ xô đẩy mấy đám ô-rô rì rào, mặt kinh nổi bọt dấu cá trồi lên ăn bóng. Giờ này chắc chồng mình đang lội trong nước xấp xải, nước lạnh dưới chân tê cóng. Vái trời cho đủ ăn. Lo quá. Còn hai đứa nhỏ, thằng Sơn thì thiếu sữa cứ hoặc hòa hoặc hoại. Thằng Phát ngồi ở ngạch cửa cầm con cào cào bằng lá dừa do cậu Tám xếp cho, thỉnh thoảng day lại liếc ngó má mình. Từ bữa thím Ba lắc xuồng tính nhận chìm ở kinh, mỗi lần tới gần má mình, bụng nó cứ thấp thỏm, lấm lét. Má nó mà la lên một tiếng là nó sẽ vọt chạy có cờ liền tức khắc.

– Má! Má!…

Chợt thím Ba lên tiếng lắp bắp. Thằng Phát day hết người lại ngó má mình, xanh mặt. Ngoại cũng dừng lược chải, hồi hộp, canh chừng.

– Má! Má!…

– Cái gì vậy con?

Thím Ba liếc ngó dáo dác:

– Má có thấy gì không?

Ngoại ngoái cổ ngó xung quanh, cảnh vật vẫn im lìm cố hữu.

– Thấy gì? Má có thấy gì đâu?

– Má! Má!…

Thằng Phát đứng dậy bên kia ngạch cửa, tay vịn cột tre ở cửa ló đầu vô ngó chửng má mình, con cào cào xanh bỏ rớt dưới đất Thím Ba nhìn mơ hồ ra khoảng xa, như nghe ngóng:

– Thơm! Thơm quá! Cái gì thơm quá?

Ngoại hỉnh hỉnh mũi dáo dác đánh hơi.

– Đâu có gì đâu mà thơm? Má có thấy mùi gì đâu!

– Thơm quá! Thơm như vậy mà không thấy!

Thím Ba lầm thầm như nói một mình, gương mặt người đàn bà xa vắng, như không còn ở đó nữa trên thân mình bất động. Thằng Phát mở mắt lớn láo liên, nó cũng hỉnh hỉnh mũi, không thấy mùi gì lạ ngoài mùi vách lá mục ẩm. Thím Ba tiếp tục lầm thầm:

– Thơm quá! Tới gần rồi. Có quái nhơn đang tới gần.

Thím đưa bàn tay gầy guộc đặt lên trán mình, cổ tay ốm nhom. Mắt thím định thần, chăm chú, môi lắp bắp nhưng tiếng nói không thoát ra ngoài. Ngoại và thằng nhỏ cũng nín khe, không ai dám hó hé.

Chợt bên hàng xóm có tiếng chó sủa. Một tràng ngắn ngủi rồi nín. Nắng đọng thành vũng rực rỡ, đặc cứng quanh người đàn bà ngồi bất động. Mọi người quay đầu về hướng chó sủa. Ngoại cầm cây lược sừng trâu bước ra sân ngó tìm, không thấy ai hết. Chó lại cất tiếng sủa rời rạc như tiếng mừng rỡ. Thêm mấy tiếng nữa, rồi im luôn.

– Thơm! Thơm quá! Tới rồi. Tới rồi kia kìa…

Ngoại nhướng mắt sục sạo. Chợt thấy trên con đường đất dọc bờ kinh một bóng áo nâu xuất hiện, hình dáng mỗi lúc một rõ dần, rõ dần, linh động.

– Tới rồi đó!

Thím Ba reo lên mừng rỡ. Bóng áo nâu rời con đường đất, quẹo vào sân nhà. Đó là một người đàn bà mặc áo nâu sòng, đầu cạo trọc tóc vừa nhú ra lún phún, tay chống gậy trúc, vai đeo túi đãy chầm bằng nhiều loại vải ô vuông khác nhau ghép lại như áo cà sa. Sư cô độ chừng trên năm mươi, mặt mũi hiền hậu, ánh mắt từ bi làm sung sướng lâng lâng người được nhìn. Bước đi vững chắc nhưng chậm chạp, ung dung. Sư cô dừng lại trước cửa nhà, lên tiếng nhẹ nhàng, thanh thoát:

– A Di Đà Phát! Bần ni kính bái gia chủ.

Qua hồi ngạc nhiên sửng sốt, ngoại mở lời đáp lại:

– Dạ… dạ dạ kính chào sư cô.

– A Di Đà Phật!

Sư cô chắp hai tay trước ngực xá một xá và cúi đầu. Thím Ba cũng lắp bắp mấy tiếng “nam mô”. Thằng Phát dựa lưng vào vách lá, hai bàn tay xòe ra hai bên áp sát mặt vách ngó lom lom người đàn bà áo nâu. Sư cô lại lên tiếng:

– A Di Đà Phật! Thưa thí chủ đây có phải là gia bổn của Lão Thần Y?

– Dạ thưa phải. Nhưng lão…, dạ thưa chồng tui không có nhà. Ổng đã đi ngao du gần cả năm trời nay.

– Bần ni đã rõ. Nhưng không phải ta đến đây để tìm lão đâu. Lão là đạo hữu của ta nên có nhờ ta một việc.

– Dạ thưa việc chi?

Sực nhớ khách còn đứng ngoài sân, ngoại vội vã thỉnh sư cô bước vào trong nhà và bắc chiếc ghế đẩu khập khểnh cho khách ngồi. Sư cô dựng gậy trúc bên vách, đặt túi đãy xuống đất. Sư cô mở túi lấy ra một gói giấy súc vuông đẹp trắng ngà bên trên có viết chữ son đỏ và dây lạt buộc chéo hình chữ thập:

– Đạo hữu có nhờ ta đem thang thuốc này về cho thí chủ, dặn rằng nhà đang có người bịnh nặng, nên ta dục tốc lên đàng.

Sư cô ngó qua thím Ba:

– Bịnh nhân có phải là tín nữ đây chăng?

– Mô Phật!

Thím Ba lên tiếng đáp lại. Sư cô đưa gói thuốc cho ngoại:

– Đạo hữu ta dặn thí chủ sắc thang thuốc này ba chén còn lại tám phân, cho bịnh nhân uống, tất bịnh tật tiêu trừ. Thôi thí chủ hãy đi sắc thuốc ngay đi, để ta lại đây niệm Đại Bi Thập Chú và Bạch Y Thần Chú nguyện cầu giải nạn tiêu tai cho tín nữ.

Sau khi bắc siêu thuốc lên lò, ngoại làm những thứ khác theo lời dạy bảo của sư cô. Ngoại trải xuống đất một chiếc chiếu hẹp khổ cho sư cô và thím Ba ngồi, cả hai đều xếp bằng. Sư cô trải một vuông vải trắng lên ghế rồi lấy trong túi đãy một tượng Phật Quan âm ngự trên tòa sen đặt trên ghế. Ngoại đem ra một chén gạo và một chén nước mưa. Sư cô trầm một cành dương liễu nhỏ vào chén nước và thắp ba cây nhang thơm cắm vào chén gạo. Hương thơm tỏa ra bát ngát, lẫn trong mùi trầm còn có hương gì thật thanh thoát mà thím Ba không xác đinh được, nhưng nó làm cho thím thấy trong người lâng lâng. Thằng Phát đến ngồi chồm hổm trong lòng ngoại, tò mò quan sát cảnh tượng đang diễn ra trước mắt mình.

Sư cô đặt giữa hai người một cái mõ và đặt lên hai tay chắp trước ngực của thím Ba một xâu chuỗi bồ đề màu nâu, hột chuỗi bằng cây tròn lớn đã lên nước, giữa chuỗi có buộc một chùm chỉ đỏ lớn sợi. Tay mặt cầm một dùi cây đầu có quấn vải đỏ, tay trái giữ một cái linh, loại chuông nhỏ có cán cầm bên dưới, sư cô gõ dùi lên linh và bắt đầu niệm tán Phật:

“Pháp vương vô thượng tôn, Tam giới vô luân thất
“Thiên nhơn chi đạo sư, Tứ sánh chi từ phụ
“Ư nhứt niệm qui y, Năng diệt tam kỳ nghiệp
“Xưng dương nhược tán thán, Ức kiếp mạc năng tận.. .

Tiếng linh gõ nhẹ thánh thót và tiếng niệm trầm trầm làm cho lòng thím Ba lắng dịu như con nước đứng, phù sa lợn cợn từ từ chìm xuống, đọng lại, im lìm. Tiếng tụng niệm tiếp tục tỏa đều:

“.. Thập phương chư Phật ảnh hiện trung.
” Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền…

Tiếng linh bây giờ đã dứt và tiếng mõ bắt đầu gõ nhịp chầm chậm, đôn hậu:

” Lư hương xạ nhiệt,
” Pháp giới thông huân.. .

Tiếng mõ như ru ngủ sự trằn trọc của người bệnh, mùi trầm hương chắp cánh cho thức giác của người đàn bà, thím Ba có cảm tưởng mình đang rời khỏi mặt đất và bay lên la đà:

” Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát..

Sư cô lập lại ba lần câu trên rồi niệm tiếp:

“Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm-đà-la ni. Nam mô hắc ra đát na da ra dạ da…

Những vùng tiềm thúc chằng chịt cỏ gai nhức nhối hé mở. Những cơn ác mộng kín sâu được cởi trói. Thím Ba thấy mình thất lạc trong một khu vườn đầy những kỳ hoa di thảo ngạt ngào, cuối vườn thấp thoáng một dị lão tóc trắng như mây, râu bạc dài phất phơ, tay cầm phất trần…

“Nẳng mồ tam mãn đa, màu đà nẩm. A bát ra đế, hạ da xá ta nẳng nẩm…

Lão di tiên luật nhẹ la đà trên ngọn cỏ tiến đến gần thím Ba, nụ cười trên môi từ bi vô lượng, phất trần phe phẩy mát rượi. Sư cô cầm lấy cành dương rưới nước mưa lên mặt người bệnh. Trời chợt đổ mưa nhẹ trong khu vườn dị thảo, thím Ba đứng yên hoan hỉ nhận đón những giọt thiên thâu dập tắt những ngòi lửa trong thân mình…

“Án ma ni bác di hồng, ma hắt nghê nha nạp (…) thưu thất ban nạp, nai ba lô kiết, thuyết ra da, tá ha…

Lão dị tiên thò trong tay áo lấy ra viên thuốc màu vàng chói lòa rực rỡ đưa cho thím Ba, phất trần quét nhẹ trên trán thím, mưa nhỏ giọt trên mặt mũi thánh thót. Người đàn bà đưa viên thuốc bỏ vào miệng, vị thuốc ngọt thơm như hương vị chiếc bánh tàn ong thím ăn hồi nhỏ khi theo Lão Thần Y ra chợ Cái Răng, nhưng lúc nuốt vào bụng, viên thuốc tỏa ra cảm giác mát rượi, sáng khoái…

“Nam mô a di đa bà dạ (…) A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tì ca lan đe71 (. . . ) Chỉ đa ca lệ ta bà ha. . .

Tiếng mõ dục thúc mỗi lúc một nhanh hơn trước. Tay thím Ba bắt đầu lần chuỗi tràng hại lúc nào không hay. Thím không còn ngồi đó. Sau khi nuốt viên thuốc vào bụng, người đàn bà chợt thấy mình đang đứng trong vườn quít, bông quít nở rộ thơm phức. Lão dị tiên đã biến mất. Từ xa một người đàn ông cầm roi hầm hầm chạy tới. Tiếng trẻ con ré khóc vang dậy bên bờ sông vọng lại từng chập. Nghe tiếng thằng Sơn ặc ặc, ngoại vội vàng đỡ thằng Phát đứng dậy rồi chạy vào buồng trong… Ầu ơ ví dầu... Người đàn ông hầm hầm chạy tới mỗi lúc một gần…

“Quán tự tại Bồ tát hành thâm Bát nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhật thiết khố ách…

Người đàn ông vụt đứng khựng lại trước mặt thím Ba, đưa roi lên cao, thiệt cao, rồi từ từ đập xuống, thiệt chậm. Người đàn bà ôm xâu chuỗi bồ đề đưa ra, miệng niệm “mô Phật”, hai mắt ngó thằng vào tam tinh người đàn ông. Chú Ba buông roi rớt xuống đất, đưa tay đón lấy xâu chuỗi trầm hương trên tay vợ mình…

“Vô biên thắng phước giai hồi hướng
“Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh…

Người đàn ông nắm lấy tay vợ mình dắt ra khỏi vườn quít. Hai người hấp tấp chạy ra phía bờ kinh, nơi đó vọng lại tiếng trẻ khóc như ri. Sư cô gõ lên linh mấy tiếng trong veo. Nước mưa từ cành dương tỏa lên gương mặt thím Ba tan thành bụi nhỏ.

“Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
“Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu
“Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ. . .

Thím Ba tiếp tục lần chuỗi. Những ẩn ức trong lòng theo kẽ hở của tâm thức trồi lên nổi bọt, bọt vỡ, hơi nóng tan đi. Hai vợ chồng đã ra tới bờ kinh. Thím Ba ngó thấy thằng Phát đang ôm em trong lòng mếu máo dưới khoang xuồng. Thím lẩm bẩm: “Trời ơi! Tội nghiệp con tui biết chửng nào!” Dứt hồi linh, một tay sư cô bắt ấn xòe xuống đất, tay kia đưa ấn ngang vai trỏ lên trời miệng niệm lớn:

” Tu lị tu lị! Ma ha tu lị! Tu tu lị! Sa bà ha!
” Tu đa lị! Tu đa lị! Tu ma lị! Tu ma lị! Sa bà ha!

Sư cô hét lớn như vậy ba lần. Thím Ba giật mình ôm lấy con trong khoang xuồng. Thằng Sơn ré khóc. Thằng Phát ôm cứng lấy má, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng, kêu nhỏ: “Má! Má! Má ơi má!” Nước mắt lăn trên gò má người bệnh, môi người đàn bà run run, trong lòng bừng bừng thương xót. Sư cô nện lên mõ những hồi dồn thúc:

“Nam mô Phật, nam thô Pháp, nam mô Tăng. Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát.

“Đát chỉ đá, án dà la phạt đá, dà la phạt đá, dà ha phạt đá, la dà phạt đá, la dà phạt đá, sa ha thiên la thần , địa la thần, nhân ly nạn, nạn ly thân, nhất thiết tai ương hóa vi trần. “

Niệm tới “vi” nhịp mõ chập lại, sư cô ngân nga một chút rồi xuống tiếng “trần”, cùng lúc gõ một tiếng mõ và một tiếng linh chấm dứt thần chú. Thím Ba vụt òa khóc sướt mướt. Không phải tiếng khóc đau khổ mà đó là tiếng cười hớn hở khi được đoàn tụ với con cái mình, được đoàn tụ với đời sống. Người thím gãy gập ra trước, vai run rẩy dưới niềm hân hoan trĩu nặng dưới cơn xúc động quá mãnh liệt bất thần. Chỉ còn khóc ngất mới biểu lộ được hết sự bộc tràn dũng mãnh đó.

Thằng Phát nãy giờ ngồi chồm hổm ngó trân trân cảnh tượng diễn ra trong nghi thức tụng niệm, bỗng vụt đúng dậy chợt tới đỡ đầu má mình dậy, gọi lớn:

– Má! Má! Dậy má! Dậy đi má!

Nó hết sợ. Nó thấy thương má mình hết sức. Nó linh cảm má nó sẽ không đột nhiên trở nên hung tợn như hồi đi trên con kinh từ chợ Cái Răng về nhà. Có tiếng trẻ khóc rồi từ buồng trong ngoại bồng thằng Sơn chạy ra. Thím Ba đã ngửng người dậy, mặt ràn rụa nước mắt, tay ôm thằng Phát:

– Con! Con! Trời ơi con tui đây mà!

Sư cô lượm xâu chuỗi rớt trên chiếu đưa lên ngực, bàn tay đặt thẳng đứng trên chớn thủy, các ngón tay khít vào nhau, bàn tay kia đặt ngửa trên đầu gối xòe ra, ngón cái bấm trên ngón trỏ xếp cong hình ấn:

-“A Di Đà Phật! Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát!

Sư cô tiếp tục niệm đi niệm lại câu đó nhiều lần.

Ngoại xề xuống ngồi bên cạnh con mình, miệng ngoại mỉm cười mà nước mắt rưng rưng. Thằng Sơn ngọ ngoạy toan khóc. Ngoại đặt cháu vào lòng má nó rồi đi ra nhà sau coi chửng siêu thuốc. Tay bồng thằng Sơn, tay ôm đầu thằng Phát, thím Ba thấy lòng mình tràn ngập trìu mến, sung sướng rạt rào, hoan hỉ lai láng như con kinh Cờ Đỏ trong bình minh nước lớn. Cảnh vật xung quanh đột nhiên trở lại trật tự thiên nhiên của nó trong lòng thím Ba. Như do một thần chú linh hiển! Như do một thuật phép nhiệm mầu!

Khi đó ngoại từ dưới bếp chầm chậm đi lên, tay bưng chén thuốc của Lão Thần Y, hương thuốc tỏa ra ngào ngạt, khói xanh bốc lên nghi ngút trên miệng chén,. uốn éo lững lờ.

Tay ôm hai đứa con mình, thím Ba bắt đầu niệm ê a theo sư cô:

“Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát!Nam mô đại từ đại bi …”




– CHƯƠNG 6-

Hò…ơ ờ ơ ớ…
Đêm khuya ra đứng giữa trời (ờ ờ)
(chớ) Giơ tay ngoắc nguyệt, nguyệt dời phương (ờ ớ) nao
Hò… ơ ờ ơ ớ…
(chớ) Ngó lên nhang tắt đèn lờ
Muốn nuôi cha mẹ (ơ ờ…)
(Hò… ơ ớ…) Muốn nuôi cha mẹ bây giờ còn (ơ ờ ớ…) đâu…

Chú Ba ngưng mái dầm khoát nước vừa lên mặt, lên cổ và lên tay của mình. Xuồng chậm lại ngang qua chỗ có đám lát và bụi bình bát, nơi chú cột xuồng leo lên bờ rượt theo vợ mình lúc trước. Thiếu chút nữa nơi đây đã trở thành nghĩa địa của con chú. Thiệt là may phước! Chú vói tay lượm cây roi mây nằm trong khoang xuồng nhúng xuống nước rồi đập vào đám lát rào rào. Chú nắm tay kia ở đầu ngọn roi, đưa lên gần mặt ngắm nghía. Chú lăn roi qua lại. Thím Ba đầu tóc bù xù, chân run run, nét mặt đau đớn, từ từ quị xuống bất tỉnh. Hình ảnh đó lại chợt lởn vởn. Dang tay đánh thiếp sao đành! Tấm rách ai vá tấm lành ai may? Chú lắc đầu rồi quăng cây roi ra xa, rơi chạm xuống dòng rạch trôi đi. Chú vói lấy mái dầm bơi tiếp.

Chú bơi xuồng ra chợ Cái Răng hốt thuốc cho vợ. Thím Ba coi mòi chịu thuốc của sư cô để lại nên chú hốt thêm, thang này nữa là thang thứ năm. Vợ chú đã ăn uống được nhiều và đứng dậy đi tới đi lui trong nhà, mặt mày tươi tỉnh. Lòng chú hân hoan sung sướng. Thím Ba nói là nhờ sư cô nguyện cầu Phật Quán Thế Âm hộ độ nên mới linh nghiệm như vậy. Chú cũng ờ ờ vuốt xuôi chớ thiệt ra trong bụng chú nghĩ là nhờ thuốc hay chớ ba cái thần chú bùa niệt chằng ăn nhập gì trong vụ này hết. Chú không tin. Nhưng miễn sao vợ mình hết bệnh là được rồi, ai muốn tin gì đó thây kệ. Thím Ba kêu chú đốt nhang lạy tạ ơn, chú ậm ờ rồi làm bộ quên. Lần trước, khi biết được chuyện Thầy Miên cắn đổ ruột con chó con để trị bệnh cho vợ mình, chú chửi cậu Tám một trận tàn mạt. Chú xỉ vào mặt cậu Tám: “Mầy mà còn rước thằng Thổ Gồng đó tới đây tao sẽ lấy búa chém coi nó có đứt không cho biết!”

Tới chợ Cái Răng chú tấp xuồng vào đống cây súc neo dưới nước của trại cưa “Tấn Phát”. Mùi vỏ cây rã bốc lên thum thủm. Nhưng chú Ba không thấy khó chịu một chút nào. Lần nào ra chợ chú cũng cột xuồng ở đây và đi băng ngang qua trại cưa ngó thợ thuyền làm việc. Không hiểu tại sao tự nhiên chú ham thích nghề này và muốn theo học. Khi về lần nào chú cũng hốt một bao mạt cưa đem về đốt ung muỗi trong nhà. Bữa nay tới sớm, có thì giờ nên chú la cà trong trại để quan sát và tò mò gợi chuyện. Thợ ớ đây đã quen mặt chú nên cũng vui vẻ.

Trại cưa Tấn Phát gồm một gian trại ở giữa rất cao, rất rộng, trống lổng, chỉ có hai hàng cột chống chỏi mái nhà. Thợ cưa xẻ cây ở đây. Bên trái là một gian thấp hơn, nơi chứa cây đã xẻ ra, chia làm nhiều tầng có đà gác ngang lót ván để chất ván, cột, kèo, nẹp… phân theo loại cỡ. Bên mặt cũng một gian y hệt như bên trái, dùng làm trại hòm và trại xuồng. Hòm chia làm nhiều loại: loại cẩm lai có chạm trổ vân vi, loại thao lao trơn tru sơn bóng, loại bằng sao thường chỉ bào láng mặt ngoài, loại bằng gỗ tạp như gòn, đênh đênh – bởi vậy khi nói đênh đênh kêu mầy!” ” thì kể như đi rước thầy chùa là vừa.

Trước khi cưa, hai người thợ kéo sợi nhợ từ trong bao bột huỳnh chu căng ra cho thẳng rồi nâng nhẹ sợi nhợ lên, buông xuống nẹt tách một tiếng nho nhỏ. Màu bột vàng đỏ in một đường thằng băng trên thân súc, thợ phải nhắm theo đó mà cưa cho khỏi lội. Ván cưa lội dợn sóng là kể như chỉ còn xài để đóng đồ tạp nhạp, bán rẻ. Thân cây nhỏ chỉ cần một người cưa. Thân cây một đầu kê trên mặt đất, một đầu gác trên một cái chân bằng gỗ, có móc sắt để giữ cho cây khỏi lăn. Người thợ đứng trên thân cây dùng sức đẩy và kéo cưa lên xuống xẻ cây một mình. Gặp nhằm súc lớn, phải dựng đứng thân cây lên, hai người thợ đứng hai bên để đẩy và kéo cưa, lúc đầu phải kê ván đứng cao lên mới cưa tới đỉnh súc, sau đó hạ thấp xuống dần dần. Thợ người nào người nấy ngực tay đều nở nang lực lưỡng do sự vận động đẩy kéo, ai nấy cũng chỉ bận có mỗi một cái xà lỏn đen, mình trần trùng trục, mồ hôi nhễ nhại. Vậy mà mấy người thợ cứ hát nghêu ngao và cười nói huyên thuyên. Vui hết sức.

Trong trại chú quen nhiều nhất với một ông già trạc tuổi ba chú, râu dưới cắm dài lấm chấm bạc, đầu búi tó có quấn khăn ô vuông. Quần dài đen cột dây lưng, xăn lên tới đầu gối. Mình mẩy gân guốc chắc nịch, bắp thịt bụng nổi có cục, không thấy dấu vết của một chút mỡ nào hết. Giọng nói ông rền rền nội lực. Thợ đứng cưa chung với ông phải ngang sức, nếu không hờ cơ ông đẩy cho một cưa là rớt đài. Điều đó không có gì lấy làm lạ, vì hỏi ra chú Ba mới biết ông là Ba Thiên, hồi trai tráng đã thụ giáo võ nghệ cùng một thầy với ông Đương, ba chú. Quyền cước hai người ngang ngửa, Ba Thiên chỉ nhường ba chú một đường côn mà thôi. Hai người cùng tuổi nhưng Ba Thiên lớn tháng hơn nên vai huynh, ông Đương vai đệ. Nhắc tới chuyện xưa, lão Ba Thiên ngửa cổ cười ha hả : “Chỉ có Ba Thiên này mới trị được cú đá song phi của thằng Đương mà thôi!” Hai người thương nhau lắm.

Bữa nay chú Ba vào trại gặp lúc lão Ba Thiên ngồi trên một thân súc uống nước trà hút thuốc lá xả hơi. Chú chắp tay xá một

– Dạ, tui xin chào bác Ba.

Ông ngó lên, cười miệng rộng tuếch:

– Ờ, cháu đó hả Khuôn? Bữa nay đi đâu sớm vậy?

– Dạ tui đi hốt thuốc cho con vợ của tui.

– Ụa, nghe nói con vợ của cháu đau lâu lắm rồi mà chưa hết sao ? Còn ba nó đâu? Mang tiếng Thần Y mà cứ để con mình bịnh rề rề vậy hoài sao?

– Dạ ông mắc đi hành đạo, nhưng cũng có nhờ người đem thuốc về. Bữa nay con vợ tui cũng đỡ nhiều lắm rồi bác Ba à. Chắc uống thêm vài thang thuốc nữa là mạnh.

– Ờ nếu vậy thì bác cũng mừng dùm cho cháu. Bịnh hoạn mà để lâu ngày quá nó trở thành kinh niên hổng nên đa cháu.

Nói xong ông với tay lấy cái ly cốc rót nước trà đưa cho chú Ba:

– Nè uống đi cháu. Bơi xuồng từ Cờ Đỏ ra đây chắc khát nước dẩu rồi phải hông?

Chú Ba đỡ lấy ly cám ơn rồi gợi chuyện khác:

– Dạ, làm cái nghề thợ cưa có cực lắm không bác?

– Ối! cực thì cũng có cực, nhưng đỡ một cái là khỏi phải dang nắng dầm mưa, lội sình như đi làm ruộng. Nhất là khỏi phải mượn gạo góp lúa năm này qua năm khác. Nghề cưa cây thì làm tới đâu ăn tới đó, không ai làm khó làm dễ.

Ba Thiên phà một hơi thuốc lá, đuôi thuốc dán tòn teng trên đầu lưỡi:

– Như bác đây làm ruộng gần ba chục năm mà không có một miếng đất cắm dùi, tá điền vẫn huờn tá điền. Vì vậy bác đổi qua nghề thợ cưa từ hai năm nay.

Chú Ba tợp ngụm nước trà:

– Mới đầu vô nghề chắc lựng bựng lắm hả bác Ba?

– Ờ nghề nào cũng vậy, vạn sự khởi đầu nan mà cháu. Nhưng nghề này học mau lắm. Chỉ cần có sức. Dợt chừng một tháng là rành rọt.

Chú Ba chắc lưỡi:

– Nghe bác nói mà ham!

Ba Thiên rít một hơi thuốc, trầm ngâm ngó chú Ba:

– Bộ cháu tính đổi nghề như bác hay sao?

Chú Ba gãi gãi lỗ tai:

– Dạ . dạ… Bây giờ thì chưa. Nhưng biết đâu. Tui hỏi hờ vậy mà.

Chú ngần ngừ một chút rồi hỏi tiếp:

– Ông chủ ớ đây là ai vậy bác?

– Là Sáu Huỳnh, Huỳnh Tấn Phát. Tiệm cưa lấy tên của ổng đó.

– Ổng có khó không bác?

– Không. Ổng tử tế lắm. Dĩ nhiên làm mà trật thì ông la. Nhưng tiền bạc rất sòng phẳng, cứ một từng lễ phát tiền một lần. Ai rủi có kẹt vợ con bịnh hoạn hỏi mượn là ông cho liền. Thợ thiền thương ổng lắm.

Chú Ba lại gãi gãi đầu:

– Mà ở đây có cần thêm thợ không bác?

Lão thợ cưa nhướng mắt ngó chú cười mỉm:

– Ụa, bộ thằng này tính đổi nghề thiệt sao mà cứ hỏi tới?

Chú Ba lúng túng:

– Dạ… dạ… tui hỏi hờ vậy mà.

Ba Thiên cười ha hả. Chú Ba cũng giả lả cười theo.

– Ối, ớ đây công chiến thiếu gi! Khách hàng nườm nượp. Cả chợ chỉ có một tiệm cưa này mà thôi. Trại hòm, trại xuồng thì có hai ba cái. Hồi bác vô tới giờ chỉ thấy Sáu Huỳnh mướn thợ thêm thì có chớ chưa hề thấy đuổi ai. Người nào muốn xin thôi thì tự ý chứ không có đuổi.

Ông nốc cạn ly nước trà:

– Sao? Muốn bác dắt vô giới thiệu với Sáu Huỳnh hông?

– Thôi để khi khác đã bác. Giờ tui phải đi hốt thuốc. Còn phải để cho bác mần công chiến chớ tui cứ ớ đây chàng ràng hoài. Dạ, chào bác tui đi.

– Ờ thôi cháu đi. Nhưng bận về nhớ ghé lấy bao mạt cưa bác dồn sẵn cho cháu nghe. Đem về mà ung cho vợ con khỏi bị muỗi cắn.

Lúc này gần Tết, trong chợ người ta lui tới ì ì. Ghe chở khẩm dưa hấu đổ ra đệm bày bán khắp nơi. Nào pháo đỏ, nào vải vóc, nào bánh mứt, nào liễn đỏ, nào thịt quay, nào bông hoa, mọi thứ mùi hương tạp nhạp trộn lẫn với nhau hăng hăng thành hương vị của Tết, gây cho người cái cảm giác ngất ngây lạ lùng chỉ dịp xuân về mới có. Mại vô! Mại vô! Dưa hấu cát vàng nề cô Hai! Mại vô! Mút bí mứt gừng hột dưa dòn rụm nè anh Tư! Vú sữa này đặc biệt, cô không có đâu cô Ba! Tiếng cười hô hố đuổi theo tà áo bà ba. Mại vô ! Nếm thứ quít ngọt nè thiếm Tư ! Cam đoan chua trả tiền lại. Một chục mười hai, một chục mười bốn, một chục mười sáu… Mại vô! rẻ rồi! rẻ rồi!

Chú Ba xách tòn teng thang thuốc đi một vòng chợ. Thỉnh thoảng chú dừng lại ngắm nghía thèm thuồng. Nhưng không dám hỏi giá! Hỏi mà không trả giá, cũng không mua, gặp bạn hàng chằng tinh gấu ngựa là bị chửi mạt kiếp. Trong túi chú chỉ rủng rỉnh có mấy đồng bạc. Chú thấy cái áo xanh đẹp quá muốn mua cho thằng Phát. Rồi cái khăn choàng tắm cũng ngộ hết sức muốn mua cho vợ mình. Rồi lại muốn mua cây dao ăn trầu mới tinh cho ngoại thằng Phát. Sau cùng, chú quyết đinh mua một cặp dưa hấu để cúng ông bà và để mọi người cùng hưởng. Còn chút tiền lẻ chú mua cho vợ mình cái bánh kẹp tàn ong và mua cho thằng Phát trái chuối nướng nếp. Rời chợ chú ghé tiệm cưa chào lão Ba Thiên, lấy bao mạt cưa rồi xô xuồng bơi về Cờ Đỏ.

Về tới nhà chú chúi mũi xuồng vào cây cầu dừa, cắm sâu mái dầm vào sình buộc xuồng vào đó. Chú khệ nệ ôm hai trái dưa hấu vừa bước lên bờ thì trong nhà thằng Phát chạy ra vụt la lên:

– Ba về! Má ơi ba về!

Thằng nhỏ te te chạy về phía chú Ba nắm vạt áo chú lắc lắc:

– Ba ơi! Có ngoại về.

Chú chưng hứng:

– Ngoại nào?

– Thì ông ngoại có râu đó ba.

– Vậy hả? ông ngoại về rồi hả? Về hồi nào vậy?

– Mới về hồi nãy. Con hổng biết…

Lúc đó trong nhà nghe tiếng láo nháo cậu Tám bước ra chạy tới đỡ hai trái dưa hấu cho chú:

– Anh để tui ôm vô cho. Có ba dìa đương nói chuyện với chị Năm.

– Vậy hả? Dữ thần hôn! Tưởng kỳ này ổng ở trên núi tu thành tiên luôn rồi chớ.

Chú dợm nối gót theo cậu Tám vô nhà, sực nhớ:

– Ờ khoan đã. Còn quên thang thuốc với bao mạt cưa và mấy cái bánh ở dưới xuồng. Cậu vô trước, để tui xuống lấy.

Thằng Phát vỗ tay reo lên:

– Có bánh hả ba? Cha ôi! Sướng quá ta, có bánh. Hì hì…

Nó cười nhăn hàm răng sún hết mấy cái, những cái còn lại bị xiết ăn thâm đen. Chú Ba đưa cho nó trái chuối nướng nếp. Nó hớn hở liếm nước dừa bên trên rồi mới bắt đầu cắn vào nếp. Chừa lại nhân chuối để ăn sau cùng. Chú Ba xoa đầu thằng nhỏ, hai cha con dắt nhau vô nhà. Vừa bước lên nền đất hàng ba thì Lão Thần Y cũng vừa xuất hiện ở ngạch cứa, đầu quấn khăn đống đen, mình vận áo dài đen, chân đi hài đen, râu dài trắng phau phất phơ dưới cắm. Hai người khựng lại ngó nhau trong khoảnh khắc. Chú Ba vội buông bao mạt cưa, chắp tay trước ngực xá Lão Thần Y một cái:

– Dạ thưa ba mới dìa. Ba mạnh giỏi?

– Ờ ba dìa nãy giờ. Cũng đang lóng nhóng chờ con. Thôi con vô nhà đi cho vợ con nó mủng. Nãy giờ nó nóng ruột.

Bước vô nhà chú thấy vợ mình đang ngồi trên be giường thòng hai chân xuống đất, mặt mày tươi rói, chú yên bụng. Chú đưa cho thím Ba chiếc bánh kẹp, hỏi thăm qua loa rồi trở ra ngồi trên chõng tre nói chuyện với ông già.

– À hôm trước có bà sư cô ghé thăm cho thuốc vợ con mà không nghe nói ba dìa gì hết. Thiệt là bất ngờ.

– Ờ lẽ ra thì ba đã dìa lúc đó để lo cho con Năm. Nhưng kẹt có hai người đương bịnh ngặt nghèo nên ba phải nán lại, cứu nhơn phải cứu cho trót. Vì vậy phải nhờ sư cô. Vả lại ba bấm tay coi sao biết là con Năm không mệnh hệ nào. Số trời còn dài. Chắc ở nhà lo lắm phải hông?

– Dạ lo chớ ba.

Lão Thần Y mỉm cười:

– Sống chết có số, lo khỉ gì con! Ba coi mòi con còn sống dai hơn vợ của con cả chục năm nữa là đằng khác.

Chú Ba chỉ dạ dạ đỡ lời ông già chớ trong bụng thiệt bán tín bán nghi. Có điều chú cũng hơi bực là Lão cứ lo chuyện ngoài đường, còn chuyện trong nhà thì bỏ phế. Chú gãi đầu gối sột soạt rồi hỏi:

– Ba dìa rồi chừng nào đi nữa?

Lão Thần Y có vê trầm ngâm:

– Ba dìa trước hết là để ăn Tết với gia đình. Chưa biết chừng nào đi…

Lão cúi đầu ngần ngừ, rồi nói tiếp, giọng không vui:

– Không chừng ở lại đây luôn, sẽ không đi nữa. Không đi đâu hết.

Đối với chú Ba, đó là tin mừng mà ông già có vẻ buồn rầu, chú không hiểu ý. Chú ngó Lão Thần Y:

– Ba mà ở lại luôn nhà này là má con với vợ con mừng lắm.

Lão thở dài:

– Không phải vậy đâu con!

– Dạ?…

Chú tưởng mình nghe không rõ. Ông già bước xuống đất vuốt lại tà áo:

– Thôi con ra sau hè lựa con vịt tơ và bắc nước đi. Có người đền ơn ba cặp vịt đem về ăn Tết. Ba biết con khoái ăn thịt vịt nên ba bỏ lại cặp gà. Nhưng họ cứ năn nỉ hoài nên ba phải xách thêm một con gà giò nữa họ mới chịu. Thôi cũng được. Con gà thì nấu cháo cho con Năm nó ăn. Còn con vịt thì biểu thằng Tám đi kiếm xị rượu đế về cha con mình thù tạc lai rai chơi.

Chú Ba đi rồi, Lão Thần Y bước vô buồng bồng thằng Sơn ra ngoài ánh sáng, soi ngắm. Thằng nhỏ chói mắt nheo nheo vặn mình, hai bàn tay nhỏ xíu nắm chặt dụi dụi dưới cắm, miệng thổi bọt cua. Lão mỉm cười hất hất mặt, râu cầm run run:

– Có ngoại dìa rồi, đừng hung dữ nữa nghe con. Hung dữ là ngoại đánh đòn đa nghe!

Đứa nhỏ ặc ặc mấy tiếng rồi nín. Lão bồng nó vô trả cho má nó. Lão ra sau nhà thấy thằng Phát đương ngồi nhâm nhi cái nhân chuối coi ba nó cắt cố vịt. Lão gọi:

– Phát lợi đây ngoại dắt cho đi chơi, con!

Thằng Phát đứng dậy bước tới nắm lấy tay ngoại mình. Một già một trẻ dắt nhau đi dạo xóm. Đi tới đâu bà con lối xóm cũng mừng rỡ ra vái chào Lão Thần Y vì hầu hết nhà nào cũng đã có ít nhất một lần được lão ghé qua chẩn thuốc. Thằng Phát được một bà cắt cho miếng dưa hấu, nó khoái chí tứ. Chỗ khác nó được tặng cho trái cam sành, ôm kè kè. Nó rủ:

– Ngày một mình đi nữa nhe ngoại?

– Ờ.. ờ mơi đi nữa.

Lão vuốt tóc thằng nhỏ, tội nghiệp chắc ở nhà thiếu thốn mọi mặt. Giữa hai ông cháu nảy ra mối cảm tình khắng khít, đằm thắm, trìu mến. Dù thằng Phát biết đi giỏi, nhưng thỉnh thoảng lão lại cõng nó trên lưng và xóc xóc như sải ngựa. Thằng nhỏ cười ngất khoái chí hèn gì! Bây giờ ba má nó la rầy nó là lão binh liền. Thằng Phát biết vậy nên cứ quấn quít lấy ngoại.

Năm đó gia đình thím Ba ăn một cái Tết thiệt là đầm ấm, đủ mặt mọi người. Đi thăm hết bà con, gia đình bên chồng ở Thới Lai, gia đình dì Ba, cậu Tư ớ Bình thủy. Sự có mật của Lão Thần Y khiến cho mọi sự hiềm khích gây cấn lặt vặt dịu xuống. Lão nhấm rượu bàn chuyện với ông Đương rất là tương đắc. Bà dì ghẻ cũng ra mặt niềm nở với vợ chồng chú Ba, ra về bà còn dúi vào tay thằng Phát một gói thèo lèo cứt chuột. Khi thím Ba hạ sanh thằng Sơn thì bà dì cũng cho ra đời một cô gái đặt tên Lai. Và đó cũng là cô gái út của ông Đương.

Ra giêng, đúng thọ sáu mươi, Lão Thần Y bày ra một tiệc nhỏ để mừng tuổi thọ lục tuần, có mời ông Đương sang chơi và ngủ lại đêm. Trong lúc mọi người chè chén, thằng Phát cứ cà rà bên ông nội và ông ngoại để được đút gan gà, mề gà và trứng non. Má no la nó:

– Đồ lòng là để nội với ngoại nhậu mà thằng nhỏ này cứ làm một hồi sạch trơn. Thôi dang ra chỗ khác chơi đi con.

Ngoại nó lên tiếng:

– Ối! thằng nhỏ nó thèm thì để cho nó ăn, chớ ba già cả rồi mà ăn uống bao nhiêu (rồi day qua ông suôi), phải vậy không anh?

Nội cũng tán đồng:

– Ờ anh nói vậy phải lắm đa! Còn kính lão đắc thọ thì tụi mình từng tuổi này kể ra cũng đã là thọ rồi.

Thằng Phát nghe hai ông già xổ nho không hiểu ất giáp gì hết nhưng nó cũng đoán lờ mờ mình có thể cà rà bên mấy cái gan gà mề gà thêm nữa cũng không sao. Rượu vào hừng chí, ông Đương bước ra sân đi một đường Mai Hoa quyền rất chi ngoạn mục, tay áo và ống quần ông phát ra tiếng phần phật theo những cú trảo thế cước. Để đáp lễ, Lão Thần Y sai đốt một ngọn đèn cầy đặt trên bàn. Đoạn Lão săn tay áo xòe bàn tay mặt bắt ấn từ từ đẩy tới. Ngọn lửa từ từ nghiêng xiêu theo ấn lực phát ra. Ai nấy đều trầm trồ thán phục. Chú Ba cũng không dè ông già vợ mình có nhiều tài lạ như vậy. Nhưng chú nghi ông già biết hát thuật. Thằng Phát cũng bắt chước ngoại mình xòe tay đẩy tới ngọn đèn. Ngọn lửa cũng xiêu xiêu – nhờ ngoại nó thổi tiếp sức – nó đắc chí lắm, nhăn răng cười. Ông nội lại thưởng một trái cật gà cho tiểu lực sĩ. Tàn tiệc, mọi người đi ngủ trước. Hai ông già còn thức chuyện vãn lới khuya.

Sau Tết, quả nhiên Lão Thần Y không hề đề cập tới vấn đề ngao du hành hiệp gì nữa cả. Nhưng lão vẫn tiếp tục đi hết đầu trên xóm dưới để chẩn mạch và hốt thuốc thí cho bà con láng giềng. Thỉnh thoảng lão lại đem về một con gà, một con vịt, con cá lóc hoặc trái cây của người ta đền ơn. Người mừng nhất trong nhà là thằng Phát. Vl vậy, chiều chiều nó lại ra lóng nhóng ở ngoài sân chờ ngoại về. Vừa thấy bóng ngoại thấp thoáng nó chạy ra ôm cứng, ngoại bồng nó lên ẵm vô nhà. Bữa nào không đi chẩn thuốc, Lão Thần Y lại dắt cháu ra vườn sau vừa chỉ vừa cắt nghĩa cho thằng nhỏ công dụng của từng loại dược thảo.

Thằng Phát cũng tò mò, hỏi nhiều câu ngớ ngẩn – như ai đặt tên cho cây, tại sao tên vậy mà không phải tên khác – làm ngoại nó cũng bí luôn. Một bận thấy một con cóc lớn nằm dưới gốc cây chanh, nó lấy cây khều khều, con cóc vẫn không cục cựa. Nó la lên:

– Ngoại ơi! Con cóc bị bịnh rồi, ngoại cho nó uống thuốc đi ngoại.

Ngoại nó cúi xuống gần, ngó kỹ rồi nói:

– Nó chết rồi con à!

– Vậy hả! Sao ngoại biết?

– Thì hết nhúc nhích cục cựa là nó chết rồi. Thú vật ít khi bị bịnh lắm, không phải như người ta đâu con.

– Vậy hả ngoại? Mà chết rồi nó đi đâu?

– Nó đầu thai kiếp khác, làm con cá hay con chim, tỉ dụ như vậy.

Ngẫm nghĩ một hồi nó hỏi:

– Nữa con đào thai làm con gì hả ngoại?

Lão Thần Y vuốt râu mỉm cười:

– Ngoại đâu biết được. Nếu con không làm ác thì con sẽ được đầu thai làm người nữa.

– Vậy hả? Còn ngoại, ngoại đào thai làm con gì?

Ngoại nó ngần ngừ. Thằng nhỏ hỏi tiếp:

– Mà ngoại có chết như con cóc này không hả ngoại?

Lão thoáng buồn, rồi lắc đầu đổi ngay sắc mặt vui:

– Không. Ngoại không chết đâu con. Ngoại sống với con hoài.

Thằng Phát mở lớn mắt:

– Vậy lúc nào già quá thì ngoại đi đâu hả ngoại?

Chợt ngó thấy bụi sả, lão chỉ tay vào đó nói:

– Lúc nào già quá thì ngoại chun vô bụi sả này trốn.

– Ngoại trốn thì con chun vô đó kiếm!

Nói rồi hai ông cháu ôm nhau cười ngất. Nó níu râu ngoại kéo lại gần hôn lên gò má nhăn nheo của Lão Thần Y. Mắt lão long lanh ướt…

Cuối tháng giêng, thím Ba đã đi đứng và làm được công chuyện lặt vặt trong nhà lại như thường. Nhưng tánh của thím háo động, nằm yên một chỗ hay lẩn quắn trong nhà hoài chịu không nổi. Vl vậy qua tháng hai thím bắt đầu lò dò ra đồng mò cua bắt ốc, hay xuống kinh Cờ Đỏ xúc hến, móc củ co về ăn dậm thêm. Bà ngoại có cản ngăn la rầy cũng không được. Một bận thím tình cờ đập được một con rắn bông sún khá lớn, bụng rắn phình ra như có chửa. Thím bỏ vô rổ đem về tính luộc xé phai cho ba mình nhậu chơi. Thím đặt cái rổ dưới nhà bếp, rồi ra trước sân ôm củi và xơ dừa vô nhóm lứa. Còn đang loay hoay, chợt thím nghe có tiếng thằng Phát trong nhà la lên:

– Má ơi! lươn má ơi! lươn nhiều lắm!

Thím giật mình quăng ôm củi tất tả chạy thẳng xuống bếp thấy thằng Phát đang chạy lăng xăng rượt theo đâu chừng một chục con rắn nhỏ, mỗi con bò một nơi, miệng la huyên thiên: “Lươn! lươn! ” Thím hoảng hồn ôm thằng nhỏ dở hổng lên chạy ra trước nhà. Thím đặt thằng nhỏ đứng xuống sân rồi xòe tay đánh vô đít nó mấy cái:

– Nè lươn! Nè lươn! Rắn đó chớ lươn đâu mà lươn!

Thằng Phát ré khóc. Lúc đó Lão Thần Y cũng vừa về tới, bèn vội vàng lên tiếng hỏi:

– Làm cái gì mà đánh thằng nhỏ khóc vậy?

Lão bước tới kéo thằng Phát ra và bồng nó lên. Nó càng khóc lớn hơn. Thím Ba phân trần:

– Ba nghĩ coi nó rượt theo rắn mà cứ la là lươn làm con sợ hết hồn!

Khi hỏi ra cớ sự mới biết con rắn bông sún mẹ chết rồi, lũ rắn con ngộp quá nên chui ra ở đằng miệng rắn mẹ, bò lểnh nghễnh. Thằng Phát tưởng là lươn con, rượt theo bắt. Lão Thần Y chùi nước mắt cho cháu:

– Thì lỗi tự con chứ thằng nhỏ đâu biết gì. Mà rắn bông sún đâu có độc, chết chóc gì ai đó mà con đánh thằng nhỏ?

Thím Ba đứng dậy chống chế.

– Đành vậy, nhưng thấy rắn cũng sợ chớ ba, phải đánh đòn lần sau nó mới nhớ mà tránh.

– Thôi hết rồi! Con đi vô đi.

Nói xong lão cõng thằng Phát trên lưng đi dạo xóm để dỗ dành nó. Chừng trở về, trên tay thằng nhỏ cầm phong bánh in. Đời sống đầm ấm êm trôi trong gia đình Lão Thần Y. Lâu lắm bà ngoại mới được hướng những giây phút gia đình sum vầy, lòng ngoại sung sướng lâng lâng. Qua tới tháng ba, trời chợt nắng hạn, sen tàn la liệt trong các hồ nước. Và bệnh thiên thời vụt phát hiện tại Cờ Đỏ và các vùng lân cận, lên tới tận Thới Lai. Con nít ỉa mửa một buổi là chết liền. Chết rất nhiều. Thím Ba hết sức lo sợ cho hai đứa con mình. Nhà nào thấy rắc vôi trước của là có người chết. Lão Thần Y lớp lội bộ lớp bơi xuồng đi chẩn thuốc đến tận cùng các nơi hẻo lánh. Lần nào về nét mặt lão cũng ưu tư. Rồi lão thức rất khuya để chuẩn bị dược thảo gói trong những bịch nhỏ. Trong vòng nửa tháng đã thấy gò má lão hốc hác, mắt có quầng thâm.

Một buổi tối sau khi chẩn y, lão bơi xuồng về trễ hơn mọi bận. Trời đã tối mịt. Lão bước vào nhà, mặt mũi xanh xao mệt mỏi. Bà ngoại lo lắng nấu nước trà nóng cho chồng mình uống. Vừa nuốt khỏi cổ là lão ói ra tức thì. Lão lại đau bụng ngầm ngầm bắt phải đi mót. Bà ngoại không yên tâm, lên tiếng:

– Niếu ông thấy trong mình bễ nghễ thì nên uống thuốc vô cho đỡ.

Lão ngần ngừ ngó vợ, lắc đầu:

– Thuốc tui chẩn cho bà con hết rồi bà à! Vậy để tui nấu nước gừng cho ông uống.

Lão dụ dự, râu dưới cằm run run:

– Không ăn thua gì đâu bà.

Bà ngoại quay lưng đi xuống bếp rồi, lão xòe bàn tay dưới ánh đèn dầu ngắm nghía. Các đầu ngón lay vọp móp. Lão thở dài đứng dậy thay bộ đồ trắng. Lão rửa mặt sạch sẽ, lên giường nằm. Càng lúc những cơn nôn mửa càng nhiều hơn. Chú Ba và cậu Tám cũng quấn quít bên giường bệnh, lo lắng, xao xác.

Tới khuya bệnh trở nên nguy kịch, lo Thần Y mất nước rất nhiều. Má khuyết sâu, mắt quầng thụt thất thần, môi khô nứt, đầu ngón lay ngón chân vọp móp, lạnh tanh. Mọi người luống cuống hoảng kinh. Trong xóm chỉ có mình lão là biết y dược, còn biết rước ai tới cầu cứu bây giờ. Chú Ba sực nhớ, lật đặt lôi cái túi đãy chẩn y của lão ra lục kiếm: sạch trơn! Chú trút túi xuống dũ. Một gói giấy dẹp rớt ra. Bên trong đựng thuốc nghiền nhỏ như thuốc tán. Không biết thuốc trị bệnh gì nhưng chú Ba túng thế cũng khuấy đại trong một chén nước trà ấm rồi đỡ đầu Lão Thần Y dậy kê miệng chén lên môi lão. Miệng lão ngậm cứng khò khè. Chú biết là đã tới hồi ngạch kéo, đờm chặn, á khẩu. Phải hành thủ cấp tốc, chậm một chút là vô phương.

Chú biểu vợ mình mau mau đem tới cây đũa bếp và cái muỗng nhỏ. Chú lấy đũa ấy miệng ông già ra để thím Ba múc thuốc đổ vào. Nhưng thuốc tràn ra ngoài: người bệnh đã hết biết nuốt. Chỉ còn một cách. Chú đuổi bà ngoại và vợ chú ra ngoài. Chú biểu cậu Tám lấy cái ống trúc nhỏ của Lão Thần Y đem lại. Hai người đỡ lão lật úp người xuống rồi đùng ống trúc đổ thuốc vào hậu môn – như chú đã có dịp chứng kiến Lão Thần Y chữa trị cho người khác. Chú kê miệng thổi vào ống trúc: thuốc lại tràn ra ngoài. Chú lắc đầu. Người bệnh nằm bất động, da toát hơi lạnh. Chú lật trở lại. Lào Thần Y nhắm nghiền hai mắt hóm sâu, một tay còn bắt ấn. Chú đưa tay lên mũi ông già rà rà một hồi, ngước lên nói:

– Ba đi rồi cậu Tám!

Cậu Tám vụt òa lên khóc mướt. Nước mắt rưng rưng, chú Ba sửa quần áo Lão Thần Y lại cho tử tế và thế nằm của lão lại cho ngay ngắn. Ngoại và thím Ba nghe tiếng cậu Tám khóc lớn, biết việc chẳng lành, vội vã chạy vào. Lão Thần Y đã hóa ra người thiên cổ. Thím Ba nhào tới ôm chầm lấy thi thể ba mình mà khóc ngất.

Đám ma chay của Lão Thần Y rất đơn sơ. Tuy nhiên người thọ ơn kéo tới lạy tạ rất nhiều. Có người khóc lăn bên quan tài, khiến ai nấy cũng mủi lòng tức tưới. Người người đều bùi ngùi thương liếc một bậc danh y tài ba, đức độ. Nhưng rồi cũng tự an ủi, như Lão Thần Y thuở còn sanh tiền thường nói: “Sống chết đều do mạng số”. Thi thể lão được vùi chôn ở một khuỷnh đất sau vườn. Một nấm đất đơn sơ, không có bia mộ. Chỉ có bốn cụm vạn thọ trồng ở bốn góc.

Đối với mọi người, LãoThần Y đã ra đi vĩnh viễn. Nhưng đối với thằng Phát, ngoại nó không thể nào chết được – như ngoại nó đã hứa với nó. Mỗi buổi chiều nó ra ngồi ở ngạch cửa mong ngóng. Nó ngóng đợi ông già có chòm râu bạc về cõng nó đi chơi. Một bữa, hai bữa, rồi ba bữa… Ngoại nó biền biệt. Một buổi chiều nó tới bên chõng tre chỗ ngoại nó thường nằm cầm lấy cây gậy trúc ngoại nó còn để lại. Nó đi vòng ra sau hè rồi dừng lại bên cạnh bụi sả. Nó giơ gậy trúc lên đập vào bụi sả, miệng kêu lớn:

– Sả ơi sả! Mầy trả ngoại lại cho tao! Sả ơi sả ! Mầy trả ngoại lại cho tao!

Thím Ba đang nấu cơm dưới bếp nghe tiếng thằng Phát kêu, bước ra ngó. Thấy thằng nhỏ đang đập gậy trúc lên bụi sả, miệng không ngớt kêu ngoại, thím chạy tới giật lấy cây gậy trên tay con mình quăng ra xa. Thím tính rầy nó. Thằng Phát ngước lên ngó má mình rưng rưng nước mắt. Người đàn bà bỗng ngồi thụp xuống đất kéo gấu quần lên sịt mũi. Thằng Phát nhào tới bấu lấy cổ má mình.

Rồi hai má con ôm cứng lấy nhau mà khóc mùi mẫn…




– CHƯƠNG 7-

Hò ơ ờ ớ ớ…
(chớ) Lục bình bát giác cắm các thứ bông hường
Cha mẹ em kén rể
anh tầm thường biết đặng (hay là ơ ờ ớ…) không ?
Hò ơ ờ ơ ớ…
Thấy cô nho nhỏ tui muốn bỏ cái nghề đờn
Theo cô mần tùng giả (ơ ờ…)
(Hò ơ ớ…) Theo cô mần tùng giả quánh quờn cho cô (ờ ờ…) coi…

Chiếc đầu cọp rằn xâm xanh đen trương ra trên ngực trái gân guốc cuồn cuộn theo sức vận nội công, năm chữ “Tứ Hải Giai Huynh Đệ” xâm trên cánh tay mặt rắn lại trên bắp thịt rạm nắng, cồn cào nhựa sống dũng mãnh, lẫm liệt, hơi thở xèo xèo đẩy dồn ra giữa hai hàm răng hé mở như gió rít, hai mặt định thần nhìn sòng sọc vào địch thủ tưởng tượng trước mặt.

Từ thế Thần Đồng Phá Thiên Môn, gã đàn ông cao lớn vụt chuyển mình bước chân mặt tới trước đinh tấn, đoạn bước chân trái lên trên đinh tấn, hai tay nắm cùng lượt đánh vọng xuống rồi từ dưới vụt móc ngược lên tiếp theo. Thế Sư Tử Giao Đầu chuyển theo chân mặt từ trong đưa ra chân đòn địch, biến thành Thiềm Thừ Quá Hồi tay mặt móc một đòn vào ngực địch, Tiên Cô Giải Tỏa hai tay từ dưới ngực sỉa lên mở gạt ra hai bên vai, hai cạnh bàn tay chặt vào cổ địch, chuyển sang Giao Long Ngộ Vũ chân mặt đá thốc vào sườn địch, đoạn hai tay chụp xuống như dợm bỏ chạy theo thế Ma Vương Trá Tẩu, nhanh như cắt mặt ngó ngoái về phía địch, chân trái trụ xuống Địa Hành Xà Vĩ, chân mặt vụt đá phóng cao lên bay vào mặt người địch tiếp theo liền tức thì bàn chân trái tạt ngang, vù vù Song Phi, gã đàn ông rớt xuống đất lộn một vòng rồi ưỡn bắn người lên đứng dậy gọn bân, chấm dứt bài quyền vô cùng ngoạn mục.

Ba Song Phi ngó mấy lá mận vừa bị hai cú đá liền nhau bay tơi tả mỉm cười khoái trá, ánh răng vàng lấp lánh lóe ở khóe môi. Nắng vàng hực hỡ trên thân thể cường tráng ở cái tuổi vừa ngoài ba mươi rần rần sung sức. Hắn cúi xuống lượm cái áo trắng bỏ ở gốc mận chậm mồ hôi mặc lại vào người. Ba Song Phi xỏ chân vô đôi guốc bước ra cổng ngó dáo dác hai bên có vẻ lóng nhóng rồi lững thững đi vào hàng ba ngồi lên chiếc ghế đẩu bắc ở đó. Hắn nghiêng mình với tay nắm cổ cây đờn kìm dựng dựa gốc cột đặt trên hai đùi tréo ngoảy, so dây lửng tửng, dạo vẩn vơ. Người đẹp chưa thấy bóng… Ba Song Phi cum tay gõ cộp lên thùng đờn tròn dẹp một cái, khảy miếng đồi mồi lên dây đờn nảy lên khúc Thủ Phong Nguyệt rộn ràng, réo rắt.

Lần này về thăm nhà, Ba Song Phi ở lâu hơn mọi bận. Mỗi năm hắn ghé thăm nhà hai lần, một lần để ăn Tết với ông già là Năm Thẹo – hắn mồ côi mẹ hồi mười một tuổi – lần kia vào khoảng giữa năm để nghỉ xả hơi. Quanh năm hắn chống ghe thương hồ đi mua bán, hàng hóa tùy theo mùa, tùy theo mối, khi thì trái cây, khi thì vải vóc, hàng lụa, đồ gốm, thực phẩm, đồ tạp hóa. Có khi hắn đi một mình, có lúc lại cặp với những người đàn bà thuộc hàng gió sương lăn lóc, được một mùa rồi bỏ. Hắn không thích bận bịu, không thích bị cầm chân, không muốn lụy vì đàn bà. Vậy mà lần Tết vừa rồi, ngó qua hàng xóm, hắn thấy trái tim mình xao xuyến. Con nhỏ ở tuổi mười bảy bước qua mười tám, trổ mã coi ngộ hết sức. Nhà hắn, vườn mận, cái mương, vườn trầu, rồi nhà con nhỏ. Quen mặt đã lâu, nhưng bây giờ trở thành con gái hơ hớ, con nhỏ mỗi lần “Chào anh Ba” lại đâm ra bẽn lẽn giọng oanh thỏ thẻ, má đỏ hây hây. Mới mệt cho anh Ba! Bới lẽ đó mà lần về này anh Ba mới cà rà lâu hơn mọi bận.

Tuy thế, chiều chiều máu giang hồ lại nổi dậy. Ba Song Phi bước ra sân đi một hai đường quyền cho dãn gân cốt và để giữ phong độ cho cú đá song phi của mình – và biết đâu người đẹp cũng chiếu cố thán phục thầm, chíp anh Ba trong bụng. Mỗi lần trổ cú đá ruột đó ra, hắn không khỏi nhớ tới sư phụ của mình là ông Đương. Hôm Tết rồi hắn có đem về hai cây dao “Con chó” bằng thép tốt, một cây tặng cho bà nhỏ của sư phụ để ăn trầu, cây kia hình con chó trên cán dao bị móp tặng cho thầy Bang để sưu tập. Thầy Bang nói chuyện nhiều khi hắn còn cãi lại, ba hắn nói có lúc hắn không đồng ý, nhưng hễ ông Đương nói gì là hắn đều dạ dạ nghe theo răm rắp. Sư phụ của Ba Song Phi còn là người cứu hắn khỏi bỏ mạng dưới đường mã tấu của tên chúa đảng ăn cướp đêm năm xưa, hồi hắn còn làm giáo đầu cho trại của thầy Bang.

Ba Song Phi có cái máu ngang dọc như ba mình. Ba hắn thứ Năm, có cái thẹo ân oán giang hồ trên mặt nên được mọi người biết dưới cái tên là Năm Thẹo. Năm Thẹo khi xưa cũng là dân thương hồ, nhưng nhờ biết võ nghệ nên đứng ra làm bảo tiêu hộ vệ cho những đoàn ghe đi buôn, những đám cưới trên đường sông hoặc những phú hộ cần chuyên chở các tài vật quí báu. Một bận vì bị đàn em tin cẩn phản bội Năm Thẹo ra tay trừng trị nhưng vẫn mang tai tiếng không tốt nên tấp về Thới Lai lánh mặt rồi trụ hình luôn ở đây. Lúc đó Ba Song Phi được đâu bảy tuổi. Năm Thẹo có chí tự lập nên gây vườn trồng cây ăn trái, xoài, mận, cam… tự khai thác thu lấy huê lợi chớ không chịu đi làm tá điền cho thầy Bang. Hồi mới về nghe tiếng ông Đương giỏi vó nghệ nên Năm Thẹo ghìm trong bụng có ý muốn thử. Võ của Năm Thẹo là võ giang hồ, không có bài bản nhưng rất hiểm độc và hiệu quả. Năm Thẹo có cú đầu gối bay và cú chỏ giựt bén ngót, để cho y nhập nội là kể như có chầu mất thở hoặc tét mặt, gãy sống mũi đo ván. Y chờ có dịp đi một loạt sáu đường chỏ liên tiếp bốn đường gối để xem ông Đương xoay sở ra làm sao.

Và dịp đó đã đến. Lần đó nhân dịp lễ khánh thành chợ nhà lồng và bến đò mới ớ Cái Răng, quan chủ tỉnh Cần Thơ có cho tổ chức võ đài ngay trước chợ nhà lồng. Năm Thẹo nhờ Ba Thiên đánh tiếng để cáp độ với ông Đương. Hiệp đầu, ông Đương bái tổ chưa xong là Năm Thẹo đã xáp vô đánh liền. Ông Đương chỉ tránh né và đỡ thôi để xem chân cẳng địch thủ. Hiệp thứ hai, ông Đương trả đòn mấy miếng khiến cho Năm Thẹo hơi gườm không dám hùng hổ nữa. Qua hiệp thứa ba, hai người đều có trúng đòn của nhau, nhẹ có nặng có, và cũng ước lượng được tài nghệ của nhau phần nào. Năm Thẹo nhận thấy ông Đương có mòi dai sức hơn mình nên nghĩ bụng càng chấm dứt sớm thì càng có lợi cho mình hơn, vậy cần phải nhập nội gấp và trổ món ruột cửa mình ra.

Bắt đầu hiệp thứ tư, Năm Thẹo tung quyền cước vài thế rồi dở ngón thực hiện dự tính của mình. Y cum tay trái thoi một hư chiêu cố tình đánh chậm vào mặt ông Đương. Ông vừa đưa tay mặt lên tạt ngang hất tay địch thủ thì bỗng y nương theo đà hất đó, lẹ làng xoay người nửa vòng đồng thời lướt tới giựt cùi chỏ mặt được dấu kín xẹt vào quai hàm ông Đương. Ông Đương chỉ kịp niểng đầu ra sau để né cú chỏ độc hiểm trong đường tơ kẽ tóc, còn nghe gió lướt dưới cắm, nhưng cũng vì né đòn vậy mà bụng ông để trống. Chỉ chờ có vậy, Năm Thẹo tung một đá thốc vào bụng địch thủ, ông Đương vội vàng vận nội công chịu đòn và cũng thối lui một bước cho đòn đá nhẹ bớt. Đầu ngón cẳng Năm Thẹo nhấn ông Đương bật vào góc đài, lưng ngửa lên cột nhưng không té. Dưới đài Ba Thiên buột miệng la lớn: ” Nguy tai”. Quả nhiên, lẹ như chớp, Năm Thẹo xông tới nhập nội đưa hai tay mình bấu lấy cổ ông Đương ghịt xuống để lên gối. Cổ bị kẹp cứmg, hết phương vùng vẫy địch thủ sẽ bị một loạt chín mười đầu gối vô ngực và mặt thì chỉ có nước ói máu nằm dài. “Chết!” Khán giả sành điệu đồng loạt la lên kinh hãi.

Cùng lúc với tiếng la, mọi người bỗng thấy ông Đương bắn vọt lên trên cao như pháo thăng thiên, hai chân ông chớp lia tợ điện xẹt, Năm Thẹo loạng choạng dạt ra rồi té bật ngửa trên sàn đài. “Song phi! Độc tuyệt!” Khán giả vỗ tay rần rần và la hét vang rân. Nơi góc đài ông Đương vừa rớt xuống đã rùn người bước chân bỏ bộ đinh tấn, bàn tay trái xòe chưởng thẳng ra trước ngực, bàn tay mặt nắm chắc lại đặt ngang hông khí thế vô cùng hùng dũng. Năm Thẹo vừa lồm cồm đứng đậy được thì phèng la cũng dóng lên một tiếng dứt hiệp. Năm Thẹo một tay nắm một tay xòe chắp lại để trước ngực xá ông Đương một cái rồi day qua trọng tài tuyên bố chịu thua luôn. Khán giả la ó phản đối. Chỉ có Ba Thiên là gật gù: “Thằng Năm Thẹo coi vậy mà điệu nghệ, biết người biết mình!”

Đúng vậy. Hồi đó tới giờ trong cuộc đời dao búa Năm Thẹo chưa hề thấy ai đá song phi mà không cần lấy trớn từ xa như ông Đương, dù kẹt ở góc đài mà ông vẫn sử dụng được hai cú đá hết sức thần tình. Ông Đương vừa vọt lên, Năm Thẹo đã cảm thấy bàn chân địch thủ chạm vào gò má bên mặt của mình, tiếp theo liền vai trái bị chân kia nhấn mạnh khiến y té chổng gọng trên đài. Nếu cú song phi đó sử dụng đúng mức, hai mu bàn chân đập vô hai bên hàm đúng cước lực, nếu y không trẹo quai hàm thì cũng gãy vài cái răng. Đằng này ông Đương chỉ phát nhẹ vào gò má y và nhấn cho y té ngửa là rõ ràng có ý nương tình. Thay vì nhấn đầu ngón chân lên vai, ông Đương chỉ cần xoay bàn chân chấn gót chân lên sống mũi là y cũng đủ sặc máu. Vốn đã nghe tiếng công phá của ngọn song cước thần diệu của ông Đương từ lâu, Năm Thẹo hiểu ý địch thủ muốn tha cho mình. Vì vậy y chịu thua, mặc tình cho khán giả không hiểu la ó hò hét chê bai y chết nhát.

Sau trận thử lửa đó, Năm Thẹo bái ông Đương làm đại huynh và đồng thời ngỏ ý cho con mình là thằng Ba, năm đó được mười bốn tuổi, theo học nghề võ với đại huynh. Ông Đương thấy Năm Thẹo tuy là dân dao búa, nhưng là dao búa với dân trong giới giang hồ, chớ đối với chòm xóm rất biết điều và hơn nữa biết phục thiện nên nhận lời cho thằng Ba thọ giáo. Đám con ông chỉ học quọt quẹt vài miếng võ để hộ thân thôi chớ không có đứa nào ham thích vô nghệ. Năm Thẹo dắt thằng Ba ôm con gà giò đến bái tổ ông Đương.

Theo đúng cổ lệ võ lâm, sau khi luộc con gà cúng tổ, người thầy võ xem thế nằm của mấy ngón cẳng con gà mà đoán tính nết của học trò mình. Thói thường nói “coi giò coi cẳng” cũng do cổ lệ đó mà ra. Gặp đứa có máu “phản sư” thì phải liệu dấu ngón ruột của mình để tri nó khi nó giở chứng trổ nghề đánh lại thầy – nôm na là: trả võ lại thầy. Những ngón tuyệt kỹ vì lẽ đó mà dần dần thất truyền.

Sau khi thằng Ba bái tổ, ông Đương dốc hết nghề chỉ dạy cho đứa đệ tử duy nhất của mình. Thằng Ba có khiếu nên học rất mau tiến bộ, nhất là cú đá song phi nhờ gân cốt trai tráng còn dẻo nên phát huy có mòi độc hiểm và lanh lẹ hơn cả sư phụ của mình. Do đó mà đệ tử được bà con ở Thới Lai tặng cho cái hỗn danh là Ba Song Phi. Từ lúc mười tám tuổi thằng Ba đã bắt đầu thượng đài, đá rớt đài nhiều tay cao thủ và chưa hề bị đo ván lần nào. Thầy Bang mến mộ tài nghệ nên rước Ba Song Phi về làm giáo đầu cho trang trại mình, lúc hắn được hai mươi mốt tuổi. Khi đó cậu Út Vĩnh Đạt vừa chào đời. Được đâu năm năm, em của thầy Bang là cậu Phú tấp về và làm nhiều chuyện lố lăng nên Ba Song Phi bất mãn xin giã từ trang trại để dấn bước thương hồ. Thầy Bang hết sức chiều đãi để cầm chân mà không được. Khi ra đi, Ba Song Phi cũng cam đoạn với thầy Bang là tình nghĩa hai bên không có một chút gì sứt mẻ. Thầy Bang có tặng cho hắn một món tiền làm vốn đi buôn.

Từ lúc Ba Song Phi dấn bước thương hồ đến nay, trải bao nhiêu mùa sương gió, cô hàng xóm lần lữa theo năm tháng trở thành một cô gái mỹ miều lúc nào không hay. Ba Song Phi vừa khảy đờn vừa miên man hồi tưởng. Trong cuộc sống va chạm lăn lóc, hắn đã học được cách chiều chuộng cũng như nắm giữ đàn bà. Đã có mỹ nhân đòi ôm gói trốn chồng để theo nhân tình nhưng hắn đã quyết liệt từ chối. Bận khác, cũng vì người đẹp mà một tay anh chị dắt đàn em tới bao vây hắn để xin tí huyết tại nhà ngủ. Hắn đã giải vây được và đem người đẹp tới một tỉnh khác an toàn.

Và bằng một lối hành xử hết sức mã thượng và lịch lãm, hắn đã đơn thân trở lại sào huyệt của tay anh chị để thông cảm, rồi hai tay tứ chiếng cùng nhau kết bạn giang hồ. Cả hai đồng cho xâm trên cánh tay mình năm chữ: “Tư Hải Giai Huynh Đệ”. Còn cái đầu cọp rằn xâm trên ngực lại là một sự tích khác nữa. ..

Khúc Thủ Phong Nguyệt chấm dứt. Ba Song Phi dựng cây đờn trở lại bên cột nhà, đứng dậy vươn vai, tiến ra ngoài rào ngó chừng. Vắng hoe! Em đi qua từ nãy tới giờ đã lâu mà sao vẫn chưa thấy trở lại. Ai cầm chân mà lâu lắc quá vậy? Ba Song Phi thắc mắc. Hắn trở lại hàng ba cầm cây đờn kìm nắn phím lửng tửng rồi cất giọng nói lối, bắt chước Năm Nghĩa: “Cúc Hoa hiền phụ em ôi! Nhớ những thuở hàn vi nơi chòi lá, nàng đã ăn rau nhịn gạo cho anh được no lòng hậu có dồi mài kinh sử. Đến nay anh đã công toại danh thành thì hởi ôi! Người hiền phụ đã hóa ra người thiên cổ… “ Ba Song Phi dừng lại mấy nhịp rồi cất tiếng xuống vọng cổ: “Nghĩ tức tối bấy thiên công cay nghiệt nỡ gây chi cho tan nát điệu càng (ớ ơ ơ…) thường…” Hắn khảy tiếng kìm đệm theo lửng tửng đinh hát tiếp, chợt có bóng ai ngoài rào, hắn vụt buông đờn xuống hàng ba, vội vàng chạy ra kêu vừa đủ nghe:

– Hường! Em Hường!

Người con gái giựt mình khựng lại ngó hắn:

– Kìa! anh Ba, anh làm em hết hồn!

Ba Song Phi nhoẻn miệng cười:

– Qua chờ em về ngang từ nãy tới giờ mà em đi đâu mất biệt làm qua chờ muốn hết hơi.

– Anh Ba chờ em chi vậy?

– Ờ thì cũng chỗ lối xóm với nhau, nên thỉnh thoảng qua cũng muốn gặp mặt nói chuyện chơi vài câu và hỏi thăm súc khỏe vậy mà. Em mạnh giỏi chớ?

– Dạ mạnh giỏi, cảm ơn anh Ba.

Hường vân vê vạt áo bà ba đen.

– Em đi đâu từ nãy giờ vậy?

– Dạ em qua nhà bác Đương để cho chè xôi. Nhà em bữa nay có đám giỗ cúng bà ngoại em.

– Vậy hả? Vậy mà qua vô tình không biết. Nếu biết trước qua đã ẵm con gà giò qua tặng hai bác làm thịt trước là để cúng ngoại, sau là nhậu chơi.

– Hôm trước khi mới về chơi anh đã có cho đồ nhà em rồi, bây giờ lại cho nữa coi kỳ chết.

– Ấy! Chỗ chòm xóm mà kỳ khỉ khô gì em. Vả lại… vả lại qua thấy em cũng dễ thương.

Hường ngước lên ngó Ba Song Phi rồi vội vàng cúi mặt xuống e lệ. Sực nhớ điều gì, hắn hỏi:

– Ờ cái xấp hàng Mỹ A qua cho em hôm trước đâu sao hổng thấy em may quần mà bận cho đẹp với người ta.

– Dạ em tính để dành tới Tết đó anh à.

– Chèn ơi! Để dành chi mà lâu dữ vậy. Thì Tết qua cho thứ khác còn tốt hơn nữa. Em cắt cái đó bận trước đi, đừng có tiếc.

Ba Song Phi trầm ngâm một lúc rồi lên tiếng:

– Ờ từ đây qua nhà bác Đương đâu có xa mấy mà em đi có hơi lâu. Qua đờn mấy bản rồi mới thấy em dìa.

– Dạ… dạ nhà ở bên có nhiều người kéo em lại nói chiện cà kê một hồi mới chịu thả cho em dìa nên mới trễ đó anh à.

– Vậy hả? Chớ hổng phải tại anh Bảy Đãi già chiện sao em? Qua coi chú em đó bây giờ cũng lịch sự trai hết sức.

Hường đỏ mặt:

– Ăn thua gì em, anh đừng có nói vô duyên.

Ba Song Phi cười toét miệng, răng vàng chói lấp lánh:

– Hổng ăn thua gì mà sao gò má em ửng đỏ… như ăn ớt?

Hường quầng quằng:

– Anh này nói chiện kỳ quá! Thôi… thôi trễ rồi để em dìa, hổng có má em trông.

– Nhà em ở khít bên, em làm cái gì mà gấp gáp quá vậy? Hay là tại qua ăn nói hổng có duyên bằng anh Bảy Đãi?

– Anh mà còn nhắc tới anh Bảy nữa là em dìa liền đó nghe.

Ba Song Phi cười xòa, rồi bỗng nghiêm giọng:

– Mà em Hường này!

Hắn ngập ngừng. Cớ gái ngước lên ngó chờ đợi:

– Dạ?

– Qua muốn hỏi thiệt em chớ bên thầy Bang có còn làm khó làm dễ gì em nữa không?

– Khó dễ là làm sao hả anh?

– Ờ qua muốn nói là như hồi em đang gánh lúa đong cho thầy Bang cách đây hai năm đó.

– Thôi đi anh ơi!

Hường vò nát bâu áo, mặt mày đỏ lơ đỏ lưỡng:

– Anh nhắc chi nữa?… Em muốn độn thổ luôn.

Ba Song Phi đưa tay vỗ nhẹ lên vai người con gái an ủi:

– Chiều đó xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật trước mặt bá quan, ai mà không biết mà em còn phải giấu giếm hay mắc cỡ. Qua hỏi em tình thiệt, em chớ nghi nan.

Hường ngước mắt lên long lanh rồi lại cúi gầm đầu xuống. Ba Song Phi nhắc lại câu hỏi:

– Có ai kiếm chiện với em nữa không?

Hường lắc đầu, tóc kẹp uốn éo. Ba Song Phi thở phào một cái:

– Em nói thiệt chớ? (Hường gật đầu). Qua nói thiệt với em chớ thằng nào láng cháng, bất kỳ thằng Phú hay cậu Út cậu Yết gì là qua cũng vặn họng ráo trọi.

Hắn đấm thụp lên ngực, bên có xâm đầu cọp rằn:

– Đù quả! Cái quân xỏ lá chỉ giỏi tài ăn hiếp đàn bà con gái ! Phải chi lần đó có mặt qua là dễ dầu gì xảy ra chiện như vậy. Dầu cho có thầy Bang xen vô qua cũng sẽ phân trần một hai điều phải trái, bất quá…

Hường ngắt ngang:

– Thôi đi anh ơi! Anh mà làm lớn chiệ càng thêm mang họa.

– Thôi sao được em ! Thử thời… qua nói xin lỗi, thử thời có ai đòi tuột cô Hai Ngọc Lan ra “coi” một chút để coi thầy Bang mới tính làm sao? Đù quả!

Ba Song Phi cum tay đập lên hàng rào bông bụp, lá rụng lả tả

– Thôi mà anh Ba. Sao anh nóng quá vậy?

– Em mà cứ hiền hoài tụi nó càng ăn hiếp tới. Qua ở đây chống mắt coi cái bọn ỷ chúng hiếp cô đó còn dở cái trò gì nữa. Đứa nào láng cháng với em là chết với qua đó! Qua không nói giả bộ đâu.

Một người đàn bà chợt xuất hiện thấp thoáng bên kia vườn trầu, ngó qua phía nhà Năm Thẹo cất tiếng kêu:

– Hường à!

– Dạ!

Hường luống cuống liếc mau Ba Song Phi nói nhỏ:

– Thôi em dìa nghe anh, má kêu.

– Ờ thôi em dìa đi. Mơi mốt nói tiếp.

Nói xong Ba Song Phi bước về phía mương giáp ranh lên liếng:

– Dạ chào bác gái. Nãy giờ tại tui cầm chân cô Hai lại nói chuyện chơi nên mới trễ đó. Lỗi tại tui, bác đừng có rầy cô Hai tội nghiệp.

– Ờ, chú Ba đó hả? Có gì đâu mà rầy rà chú Ba. Thấy em Hường là con gái mà đi lâu lắc, trong bụng tui hơi lo nên mới kêu nó dìa đó chớ.

Trong khi đó Hường đã đi vào sân đất. Hường níu cánh tay má mình kéo vô nhà. Bà má lên liếng hỏi:

– Mầy mần cái gì mà cà rà lâu lắc với thằng Ba Song Phi vậy?

– Dạ đâu có lâu má. Tại con kẹt bên bác Đương nên mới trễ đó chớ. Khi về ngang nhà anh Ba, ảnh mới kiêu con lợi nói vài lời thăm hỏi.

– Ờ, mày liệu hồn đó nghe! Thằng Ba là thằng trật búa, mầy mà lảng vảng với nó là không có tốt đâu. Mầy là con gái mới lớn nhẹ dạ, thằng Ba là đứa lão luyện nó rù quyến mầy có ngày.

– Ối! mới nói chiện với ảnh có chút xíu mà má đã lo chiện bao đồng…

– Chớ đợi tới sanh chiện thiệt rồi tao mới nói hay sao? Tao nói thằng Ba là đứa rành đời, thiếu gì lời đường tiếng mật. Tao thấy thằng Bảy Đãi thiệt thà coi bộ dễ thương hơn. Mầy với nó lóng rày ra sao?

– Má hỏi gì kỳ cục quá. Ảnh dễ thương thi thây kệ ảnh chớ.

– Ờ ờ để rồi coi. Trai gái mới lớn nói tới chiện đó là ngoe nguẩy, chứ trong bụng thì như đã mở cờ.

– Má này kỳ quá!

Sực nhớ điều gì, bà lên tiếng hỏi:

– Ờ mà rồi may có gặp vợ chồng chú Ba Khuôn hay không?

– Dạ có. Vợ chồng chú từ Cờ Đỏ mới dọn đìa, nhà cửa còn lựng bựng lắm. Con có nhắn là má muốn gặp chú Ba để nói chiện. Chú có hứa lúc nào huỡn huỡn chú sẽ ghé thăm má.

– Thiệt tội nghiệp! Vợ chồng chú thím là người tốt hết sức. Ông già thím là Thần Y, người hiền đức mà là vắn số, chắc thím Ba đau khổ lắm.

– Thím nói là tại mạng số, tránh sao khỏi.

– Cũng biết vậy. Nhưng mà… (Bà già thở dài), thôi mầy ra sau bếp lo dọn cơm nước đi, tối rồi!

Hường dạ nhỏ một tiếng rồi ra sau bếp thổi lửa hâm lại ơ cá kho và nồi canh bầu nấu tép.

Sau khi Hường ra về, Ba Song Phi còn đứng ngẩn ngơ ngoài cổng. Một cảm giác rất kỳ lạ dâng lên bứt rứt trong lòng gã đàn ông tứ chiếng. “Từ ngày qua với em xa cách đôi đàng, cơm ăn chẳng đặng con bạn vàng biết chăng?” Hắn lẩm nhẩm câu hò còn thuộc được khi xuôi ngược trên dòng thương hồ. Và lõm bõm vài câu tình tứ khác: “Ra về ruột nọ quặn đau, nhơn sâm sắc uống mấy tàu cho nguôi?”. Mặt trời vừa khuất, trời sầm sập tối, nóng sốt trộn lẫn hơi nước hâm hấp. Ba Song Phi mở áo thả hai nút ngực trên, lững thững đi ra mé kinh Thới Lai hứng cơn gió mát hiếm hoi. Dưới lùm cây cóc um tùm, ghe hắn cắm sào ở đó. Năm Thẹo ngủ trên ghe để coi chừng luôn thể. Cứ ba bốn ngày hai cha con lại luân phiên nhau một lần. Hắn thả bộ đi ngang nhà Hường, ngó vô không thấy bóng con bạn vàng, Ba Song Phi quay gót đi trở lại, không chủ đích rõ rệt.

Đi được một đoạn, chợt Ba Song Phi đổi hướng, quẹo sang con đường đất dẫn tới nhà thầy Bang. Khi còn cách mục tiêu độ hai năm thước, trong ánh sáng nhá nhem vụt xuất hiện hai bóng đen, một cao một thấp. Tới gần mới rõ ra là Út Vĩnh Đạt và cậu Phú đang dắt một con chó bẹt-giê to lớn đi dạo mát. Ba Song Phi lên tiếng:

– Chào cậu Út.

Hai bóng đen khựng lại, con chó gầm gừ, cất tiếng sủa vang ran chồm tới, cậu Phú nắm dây xích gắn lại. Nhận ra người quen, cậu Út nạt con chó rồi đáp lại:

– Kìa! Chú Ba đó hả? Chà, lâu quá không gặp chú, chú mạnh giỏi chớ?

– Cảm ơn cậu Út, mạnh thì tui vẫn mạnh, còn giòi thì chưa chắc tui đã giỏi hơn khi xưa.

Cậu Út đang còn phân vân về câu trả lời thì Ba Song Phi đã nói tiếp:

– Cậu đang đắt gia nhơn đi chơi đó hả?

Tên Phú cảm thấy nhột nhạt lên tiếng:

– Kìa! Thằng kia dám nói ai là gia nhơn? Giả bộ không biết tao là em thấy Bang hay sao?

Ba Song Phi vẫn ngó một mình cậu Út mà nói:

– À xin lỗi cậu Út. Bây giờ ngó kỹ mới thấy cậu Út đang dắt hai con chó đi dạo mát.

Tên Phú sừng sộ:

– Nè nè! Thằng kia đừng có hỗn láo. Mầy nói ai là chó?

– Tao nói chó là cái quân chuyên môn cắn gấu đàn bà con gái kẻo xuống để “coi” lén.

– A! mày dám cả gan chửi tao là chó hả? Tao cho chó cắn mầy cho mầy biết tay!

Dứt câu, tên Phú buông dây xích và xịt con bẹt-giê xông vào Ba Song Phi. Hắn lùi lại một bước thủ thế. Con bẹt-giê sổ lồng nhào tới chồm lên đứng trên hai cẳng, nhe răng nhọn lểu. Đợi con chó phóng tới, Ba Song Phi xòe tay trái chộp ngay lấy yết hầu của nó mà siết cứng ngắc. Con bẹt-giê nghẹt cổ cố thở khẹt khẹt, nước dãi và bọt phèo ra ở mép, hai chân trước quơ quào cấu trên vai Ba Song Phi. Hắn đưa tay chụp lấy một chân chó đẩy ra xa, tay trái tiếp tục siết trên yết hầu của con bẹt-giê như cái kềm sắt. Con chó rên ăng ẳng yếu dần. Ba Song Phi nghiến răng phóng một đá trời giáng vào bụng con chó bẹt-giê đồng thời buông hết hai tay ra. Con chó bị văng lên cao rớt xuống rung rinh mặt đất, nằm im lìm, chỉ có cái mõm còn cố ngóc lên để lấy hơi thở.

Ba Song Phi nạt lớn:

– Còn con chó thứ hai đâu? Có giỏi nhào vô coi chơi!

Tên Phú xanh mặt thụt lùi mấy bước rồi cúi xuống chập chộ cho con bẹt-giê. Cậu Út cũng xúm lại bên con chó. Ba Song Phi ngửa cổ cười ha hả, răng vàng le lói. Hắn cum bàn tay mặt thoi một cái chát thật mạnh vào lòng bàn tay trái xòe ra rồi quay lưng bỏ đi.

Ba Song Phi cởi hết nút áo, lững thững trở lại dọc theo con kinh về nhà. Gió từ giữa kinh thổi lên hiu hiu, không đủ xoa dịu lòng hậm hực của hắn. Hắn nhớ tới Hường, hắn tưởng tượng cái cảnh cô em bị “coi” bởi cậu Út và tên Phú chó chết ba năm về trước. Hắn buông lớn một tiếng chửi thề: Đ. m. ! Chợt gã đàn ông dửng lại bên một thân dừa ven sông và cúi xuống lượm trái dừa khô đét nằm ở gốc. Thẩy trái dừa lên cao, chờ cho rớt xuống vừa tầm, Ba Song Phi vọt người lên, chân trái hất nhẹ trái dừa, chân mặt phóng tiếp liền một đá thần tốc. Trái dừa bắn ra xa giữa kinh, rớt xuống dòng phù sa cuồn cuộn cuốn đi mất hút trong bóng hoàng hôn đang xõa tóc hâm hấp giữa hai bờ…



(còn tiếp)