có những điều không nói ra, chỉ ghi lại...
pn

Thứ Ba, tháng 9 15, 2009

Xứ động vật mưa hồng




I. MƯA CÔ HỒN TRÊN XỨ TOÀN-CHUỒNG


01.

Tảo còn nhỏ nhưng có khuôn mặt già dặn một thanh niên chừng ba mươi lăm, vừa lùn vừa ốm quắt queo, da màu gỗ khô.

Đặc biệt Tảo có đôi mắt sáng đến kinh dị, làm ta nhớ tới đôi mắt thi sỹ Bùi Giáng. Toàn tròng đen. Tròn như mắt rắn. Hoang mơ. Mê hoặc. Khó phân biệt giữa điên, tỉnh. Nhưng người đời thường, rất tĩnh trí, có nhiều cảm tình với loại mắt điên điên ấy. Không dễ ai cũng có được hai cái lỗ đen tịch mịch minh triết như thế.

Tảo dùng dằng giữa trẻ thơ và già dặn, nửa tỉnh nửa ngây. Phải cảm ơn số phần đã gia cố cho cái xác lùn này căn bệnh đờ-mi-điên. Vì nếu bình thường chưa chắc Tảo thông minh, láu cá, lắm trò.

Trên cái bộ xương cách trí của Tảo, nơi khuôn ngực có một gò những xương xẩu đùn đống nhô cao; sau gáy có một gò xương thứ hai, dùng ngón tay ấn vào nó như một lớp sụn; hỏi Tảo vì sao mày có cái cơ thể quái gở làm vậy; Tảo trả lời hồi nhỏ em suy dinh dưỡng, thịt teo mà xương thì mọc ra mất trật tự, thiếu độ cứng. Ánh mắt của Tảo như có một phản hồi của một phần đời khác, đã cũ nát. Có phải vậy mà tôi đã dây dưa, mất nhiều tháng ngày vào cuộc điên tà sau này.

Bọn la cà chúng tôi thường ngày ngồi cà phê vỉa hè, nơi tiếp cận tạp nhạp tầm phào, nhưng nhiều chất sống, và rất tự nhiên sống. Có thể bàn đủ thứ chuyện trên trời ngoài biển. Khi hả hê câu tiếu lâm, châm biếm thời sự, có anh cười nắc nẻ như đươi ươi. Nghìn chuyện lạ lùng, trong đó câu chuyện hấp dẫn lẫn đau đau, là chuyện đời thằng Tảo. Đây là một câu chuyện dài, chứa cả thế gian gỏn lọn trong lòng câu chuyện.

Hôm qua Tảo nói với tôi:

“Sắp tới rằm tháng bảy, mùa cúng cô hồn rồi, anh cho em vài cái vỏ bao thuốc lá, loại nào cũng được. Em cần ‘à lố’ nhiều lắm.”

Mặt trời lên cao. Hôm nay tôi ngồi nán lại chỗ hàng cà phê, có ý đợi Tảo.Từ ngã ba đường, Tảo xăm xăm băng tới. Lặng lẽ cười tình, tinh quái đảo mắt, Tảo chỉ nhìn bao thuốc lá trên bàn. Tôi nhặt mấy điếu thuốc lá lẻ bỏ ra, cho Tảo cái bao rỗng. Tôi biết rõ việc nó xử dụng bao thuốc lá.

Tảo cầm bao thuốc rỗng bóp nhẹ phần giữa cho tóp nhỏ lại. Áp bao thuốc rỗng vào vành tai, điệu nghệ như ta dùng điện thọai cầm tay, Tảo nghiêm chỉnh gọi:

“À lố 113 đâu, ở đây có một bầy thú đang nhâm nhi."

Một anh bạn tôi nóng mặt, chưởi thề đm thằng nhóc này dám gọi bọn mình là bầy thú. Tôi cười trả lời không phải đâu, nó hiền ngoan lắm, nhưng với nó quanh đây đều trâu bò chó ngựa cả. Nó người cõi trên.

Cần nói rõ, 113 là lực lượng cảnh sát chạy mô tô tốc độ cao, thường can thiệp những việc cần kíp. Như có hỏa hoạn, giết người, tai nạn xe cộ, trộm cướp, say sưa gây rối, xì ke ma cô đĩ điếm bất hợp pháp – đương nhiên là có đĩ điếm thượng thừa hợp pháp. Nói chung bất cứ sự vụ gì nguy hiểm mà thường dân không thể can thiệp bằng lời can gián nhân nghĩa, theo lẽ đúng sai, thì gọi 113 đến dọn dẹp.

Đi quanh quanh một lúc, không thấy xe hụ còi nào chạy tới, Tảo lại đưa cái bao thuốc lá rỗng lên mồm, nghiêm giọng gọi liên hồi:

“À lố 113 tới gấp nhé. Lại có thú già thú phụ nữ thú trai tráng đang nhởn nhơ chỗ siêu thị đây. Một bầy đực lẫn cái đang hát karaoke, hớt tóc ôm đây, à lố... à... à tới lẹ lẹ nhé."

Sinh hoạt thường ngày của Tảo là dạo quanh quanh, xem chỗ này xây nhà, nơi kia đào đường đặt ống cống. Công viên mấy chị sồn sồn đánh cầu lông đùa vui nhố nhăng. Chán, Tảo nhìn các cô gái ngồi câu khách chỗ cà phê đèn mờ.

Mặt trời sáng quắc, nơi đây càng mờ tối. Có khi Tảo bị ăn đòn dập mỏ vì mãi dòm chỗ lỗ rốn hoặc vùng da thịt trắng trắng hồng hồng. Nhìn cũng được thôi. Con gái ngon ơ mà ăn vận lòi ngực chìa mông thế này chỉ để câu đàn ông. Nhưng thằng nhóc nhìn lâu quá. Lại nằm ngửa nhìn lên. Cười đuời ươi. Lại móc điện thoại gọi: “Alô 113 nơi đây có con thú trong lũ thú mặt người.”

Nhiều hôm, trời ráo quạnh, Tảo ngơ ngác nhìn xe cảnh sát rượt đuổi đám người bán hàng rong. Những xe tải to đùng thu gom loáng một quảng đường là đầy nhóc những thứ tài sản rẻ mạt của đám dân đen dài dọc vỉa hè, mà theo luật định là kinh doanh trái phép, chiếm dụng lòng lề đường, cần cho lên xe cây mang về bót cảnh sát.

Đã gọi là buôn bán chụp giựt lòng lề đường nên món gì cũng tạm bợ, sơ sài. Xe nước mía quay tay, không có máy ép. Các bảng hiệu nét chữ nguệch ngoạc viết tạm dựng ngả nghiêng quảng cáo tô bún riêu đĩa cơm tấm bình dân. Bàn ghế soong chảo thùng nuớc lèo bị cảnh sát giựt gom thu đổ vỡ lung tung, khi anh chị, khi lão già đang ngồi chồm hổm, húp xùm xụp, cho đáng cái đồng nát bỏ ra. Có khi chiếc xe đạp dùng bán hàng rong, hình nhân vàng võ sống qua ngày đoạn tháng nhờ dăm trái cốc vài chục ổi. Những thằng nhóc bụng ỏng lưng trần chạy lon ton theo mẹ bên chiếc xe ba bánh cọc cạch, bán khoai lang củ mì bắp nướng.

Bị tịch thu mớ đồ lôm côm tuy ít ỏi nhưng là cả một gia sản, bọn nghèo khó nổi máu điên nhào vô dành giựt, bất kể chết sống, chúng vác đòn gánh đánh rượt cả cảnh sát. Lúc đó, thằng Tảo hối hả gọi qua bao thuốc lá rỗng:

“A lô 113 đâu, đến can thiệp ngay cho. Nơi đây một bầy thú đang ác chiến.”

Tảo thức trắng những đêm lễ lạc. Xứ sở này quanh năm lễ lạc, cái gì cũng có thể dựng tiệc ăn mừng, kỷ niệm. Thắng một trận bóng đá chẳng hạn, bọn thanh thiếu niên, cờ xí trống cơm phèn la, gõ inh ỏi lên nồi niêu soong chảo, cười la rách mồm, lái xe hết tốc độ từ đầu hẻm ra đại lộ reo hò. Tảo lại dựng bao thuốc lá lên vành tai gọi:

“À lố 113 đâu, bọn chiến thắng đang là bọn thú lên cơn.”

Quả thực bọn người chiến thắng cũng bậy thật. Vui quá hóa rú. Tai nạn ì xèo. Bệnh viện qua đêm mừng vui đã tăng bao ca bể sọ não, gãy tay cưa cẳng, tê liệt ngồi xe lăn chỉ là những đứa còn tươi xanh tóc, đang ghế nhà trường.

Nơi đây bọn người ung vữa sứt mẻ não bộ chẳng phải là ít. Ngó ngon ơ vậy chớ chỗ cái trán cao thông thái là một miếng nhựa trơn láng lót bên trong lớp da đầu thời hậu phẫu.

Cái nơi mà Mẹ Âu Cơ xưa kia bỏ chồng, chôm bốn mươi chín cái trứng ra đi không cần tòa thiên địa xử ly hôn – cái trứng thứ năm mươi có thể là thằng Tảo điên tà – tới hôm nay, những sai lầm tội lỗi cứ ác chiến phình ra. Năm nay tiến triển hơn năm trước. Năm trước, mô Phật, lại hơn năm trước nữa. May thay, mỗi thu đông trời đất lên cơn mưa bão tẩy rửa phần nào tanh tưởi. Biển đông rộng lòng nhận cả thứ nước rửa tận cùng đen thối từ cái xác phàm hình chữ S gầy nhom. À lố...


02.

Một ngày tháng Bảy, mưa bụi mờ trắng phía nhà thờ Cha Tam, tôi bất ngờ gặp Tảo ở đường Hải Thượng Lãn Ông, một khu phố sáng trưa chiều tối thơm mùi thuốc Bắc.

Thằng nhỏ tài tình. Hóa ra Gò Vấp Bà Chiểu Bến Thành Bà Quẹo Củ Chi nơi mô nó cũng đặt chân tới.

“Mày vào Chợ lớn này mần cái chi?"

Hai con mắt rắn đen ngòm mở rộng, Tảo cười tình trả lời:

“Coi người Tàu cúng cô hồn ngày rằm tháng Bảy. Tàu cúng mới ngon. Dân An Nam coi thường âm hồn, cúng kiếng ba củ khoai lang, đốt mía, bánh vụn, kẹo thèo lèo, toàn thứ bần cố nông. Tàu cúng heo quay, đốt vàng mã sang trọng, đốt xe hơi nhà lầu xiêm y, hình mỹ nhân, đốt bà Dương Quý Phi, hóa vàng bà Tây Thi."

“Thằng này ngộ. Hóa ra mày cũng biết nhiều."

“Năm nào em cũng vào đây mà. Kìa bà Dương quý Phi óng ánh giấy màu kia kìa... Ê anh xem, cúng xong chỗ này chú Ba tàu bụng bự sẽ đốt một cái xe mercedes vàng mã xuống âm phủ tặng thằng con trai xưa kia mê xe hơi nhân gian."

Trong khói hương mờ ngạt Tảo rủ tôi đi giựt đồ cúng âm hồn cùng bọn trẻ. Ngoài lễ tết nguyên đán, tết trung thu, bọn trẻ có được mấy ngày hạnh phúc là làm âm hồn sống đi giành giựt đồ tế cúng ngày rằm tháng bảy.

Nếu ai vào thăm Chợ lớn khu phố Tàu trong những ngày này sẽ thấy một quang cảnh lạ lùng. Người ta cúng tế khói bay kín ngập những lầu phố. Nhà nhà bày hương án, vật cúng tạ trước cửa hàng cao hơn đầu người. Cúng xong người ta thành tâm đốt quà cúng gởi xuống âm ty hai ba tiếng đồng hồ cháy chưa xong. Khói đen vần vũ. Tro tàn ngập cả phố.

Tôi có người bạn Tàu thương gia ở Chợ lớn. Anh ta bảo ông bà ông vải anh ta bỏ nước ra đi thời phản Thanh phục Minh. Khi đặt chơn tới xứ An nam đã biết ngay xứ này rất nhiều âm hồn. Không cúng cho người sống, không tế lễ kẻ khuất dương gian, là cái cấn cổ không còn khả năng đưa cơm xuống bao tử.

“Nị hà, ở nước Diệt nam của nị thời nay cái Mặt chận Âm Hồn nó dộng dãi lắm. Đâu phải thằng đói cơm lạt mắm chết bờ chết bụi mới là cô hồn. Cho nên ngộ cúng bái hết thảy, tế lạy van vái chọng thể lắm.”

Phải khen đáo để nghệ thuật làm đồ mã của nghệ nhân Tàu Chợ Lớn. Từ hình dáng đến màu sắc, từ đại thể tới chi tiết vụn vặt đều như thật. Chỉ kích thước nhỏ hơn. Nhìn cái nhà lầu bốn tầng giấy mã trong phố xá nguy nga có thực, tôi lại nghĩ tới chùa Một cột ở Thăng long. Chùa của hiện tại sao chỉ như một đóa sen nhỏ nhoi, như hàng mã, làm ta nghi ngờ tổ tiên, làm đau thầm hay đây chỉ là một mô hình, một phó bản của một chùa Một cột to lớn đến huyền hoặc mênh mang đâu đó, trong chiều dài giống nòi.


03.

Thằng Tảo hỏi tôi anh không đi giựt dọc hà? Tôi bảo mày đi phần mày, tao vào quán nhậu vài phát, khói hương buồn chết mẹ. Tảo nói rượu tàu Chợ lớn toàn rượu bổ cường dương, mà này, ngồi một mình anh coi chừng lũ thú; anh cần thì em gọi 113 cho. Tôi nạt tao không ăn thịt người thì thôi thú nào dám xơi tao.

Thằng Tảo đi thẳng đến chỗ một cửa hàng đang đốt giấy mã. Quả thực là người ta đang đốt hình một mỹ nhân, có lẽ xuống âm phủ cho thằng con trai chết non chưa kịp yêu chỗ dương thế. Hình vàng mã đẹp lạ, mà thằng Tảo gọi là Bà Tây Thi.

Vừa ngây rượu, vừa rong ruổi với chiều mưa ngâu, tôi bị cô hồn ám... “Tôi bước vẩn vơ nghĩ vơ vẩn. Khơi khơi, tầm phào. Tôi hiểu trên cần cổ của mình hãy còn một cái đầu din. Đây chỉ là cái đầu xơ-cua, mà din. Chẳng là vài thập niên trước tôi có một số sáng tác đăng trên các báo nước ngoài, điều tối kỵ ở nơi này, xứ Toàn-Chuồng, lại công khai in sách tại nước ngoài, nên nhà chức trách mượn cái đầu sáng tác của tôi về tra cứu. Rồi đề nghị tôi nhận ân huệ bổ sung một cái đầu khác, đúc sẵn định hướng, lễ phép hơn. Tôi đâu có nhận. Nên bí mật giữ được y chang não bộ riêng mình."

“Ngồi trước cái lát tốp tôi đã tiên tri việc này. Đúng ra là khi cặm cụi sáng tác, xong, tôi tháo cái đầu din cất, bèn tức tốc đội trên cần cổ cái đầu xơ cua sao y bản chính ra phố phường. Cả khi ăn giỗ kỵ ông bà ông vải, khi dự tang lễ, khi đi bầu cử, tôi xem cái đầu bản sao này như cái nón bảo hộ."

“Đó là đầu, còn cu giái thì sao? Tôi hiểu rằng giữa cái háng của tôi còn một bộ sinh khí có vai trò sinh tồn không kém bộ não."

“Lại hiểu rất rõ dưới hai đầu gối là hai cẳng chân chưa bị tê liệt. Nhưng đôi chân nơi đây được khoanh vùng để bước tới bước lui, bước qua bước về, ra vô, bước ngăn dài, cao thấp, vừa bước vừa thở, vừa suy nghĩ ta nên kịch liệt phản động hay hồ hỡi phấn đấu ủng hộ hoan hô. Đương nhiên dừng lại có thể tự do đái bậy. Nói chung được cả, nhưng trong khoanh vùng. Tôi có thể hăng hái cùng mình, phóng nhanh vượt ẩu, nhưng là trong một con đường vòng tròn, bụi bặm, của trường đua ngựa; trong tự do của xứ Toàn-Chuồng, được theo dõi khá kỹ lưỡng bởi các ống nhòm kiểm soát. Có thể được trao giải thưởng, bằng khen, nếu ngoan ngoãn nghe theo lệnh cây roi của tên tuyệt phích sai khiến ngự trên lưng; hay đôi khi vô hình nhưng sắc lạnh, rặt mùi âm binh."

“Tôi nhớ là mình còn một đôi mắt, chưa đui mù, hôm qua hãy còn nhìn thấy em. Rõ đến sợi lông măng. Nhưng bạn ạ, tôi luôn bị mờ đen trước máy vi tính khi tiếp cận với tin tức, với văn minh mạng. Tự do đã bị thiêu hủy ngay trong đôi mắt vì lửa của một bức tường thường trực lửa."

“Tôi không hề chọc quê các bạn vì cạn láng riêng mình. Giữa rừng vàng biển bạc hôm nay có hằng triệu thiếu niên vừa nhú tương lai đã cạn láng ráo.”


04.

Tôi nghĩ miên man bậy bạ trong ám khói âm hồn xứ mưa ngâu. Thằng Tảo làm tôi rối loạn? Có phải mình là con thú trong bầy thú? Tôi ngồi xuống vỉa hè đếm một hai một hai, lại đếm hai một một hai, kiểm tra xem mình hai hay bốn chân. Đồ khùng điên, mày chỉ hai chân. Vậy thì hiểm ác hơn thú bốn cẳng.

Cây thánh giá nhà thờ Cha Tam Chợ lớn sao buồn quá đổi. Dưới cõi thế, bên tượng Chúa, nơi đang mưa mù ngâu này đây, xưa kia Tổng thống Diệm và cố vấn Nhu bị bắt mang đi, bị bắn nát người trong xe thiết giáp trên đường Trần hưng Đạo. Hai xác máu tươi nằm lẻ loi trong nắng trưa chỗ bộ tổng tham mưu. Rồi được chôn tạm. Rồi lại bị đào lên để chôn một nơi nghiêm chỉnh hơn. Nghĩa địa này từ hơn thế kỷ là nơi an nghĩ của toàn các quan lại, cả quan Tây, công chức cao cấp các triều đại, các nhà tư sản có máu mặt, các tướng lĩnh. Sau 1975 nó không được quyền là nghĩa địa. Nó bị san bằng bốc dời đào bới. Hôm nay nó là một công viên, mang tên một đấng anh hùng con nít, được nhặt ra từ một nhân vật hư cấu của một câu chuyện vặt.

“Thời gian đầu không ai dám tới cái công viên còn ma tươi nghĩa địa. Người ta đồn rằng xương tàn cốt rụi được đào xới mang đi nhưng hồn người còn ở lại. Đã là âm linh hiển lộ, thì người sống quanh đây nghe ra tâm sự. Đâu phải anh thắp nhang đèn, cúng một con heo quay chỗ đền đài là các hồn linh trên quê hương này Good bye để anh phè phỡn lĩnh xướng cái dàn nhạc thời thế.”

Tôi vẫn vừa bước vừa thở cầm chừng trong mưa mù ngâu. Ê coi chừng có ngày tao cũng lột cái đầu não sao y của mày tao bỏ lò nung.

Thằng Tảo tách khỏi đám trẻ giựt đồ cô hồn, lôi tôi chạy chí mạng. Một đổi đường nó khoe giựt được cái điện thọai vàng mã. Hóa ra chủ đích nó vào xứ cúng cô hồn chỉ để chụp giựt một thứ nó cho là cần thiết, để loan tin à lố... nơi đây có bầy thú. Tôi bảo:

“Nếu cần tao sẽ cho mày một cái điện thoại Nokia, không bao tiền. Đừng chơi trò dỏm quen thói."

Tảo thao láo mắt rắn trả lời:

“Không cần. Anh ạ, chơi với cái thật có khi dập mỏ, sặc máu mũi không chừng. Cứ dỏm mà dài dài."

Lần này nó vui vẻ đứng yên cho tôi chụp mấy tấm hình. Tôi chụp rất gần, cố ý ghi nhận đặc trưng của Tảo, là đôi mắt, tròng mắt, cái nhìn. Không ngờ những tấm hình chụp vô tình này lại một chứng cớ khốc liệt, khe máu sau này.




II. BÊN NÀY NÚI SƠ SINH


01.

Một hôm Mắt Rắn năn nỉ: “Anh Cung, anh về quê em chơi.”

Từ trung tâm Sài gòn tôi và Tảo vượt non năm chục cây số, đến phía bắc huyện C, quê mẹ Tảo. Thời Cộng hòa, tôi là sĩ quan trung đoàn 10 thiết giáp thuộc Sư đoàn 25 Bộ binh, đã qua vùng này nhiều lần.

Thuở ấy nơi đây, cách con đường cái quan không bao xa, là những đồi hoang với rừng trơ, thoai thoải đất trắng bụi. Vườn không nhà trống. Cách nhau vài trăm mét, thậm chí vài chục mét là hố bom sâu rộng đến khiếp. Nước mùa thu cô đặc những rêu xám đen, của máu pha thuốc nổ. Ở ngả ba đường đất lưa thưa dăm cái quán lá. Bày những chiếc bàn tre, quày nước. Không có thiếu nữ thanh niên trong quán. Chỉ mấy bà già gầy guộc, lơ láo, ánh mắt lạnh lùng nhìn đoàn quân đi qua. Đám trẻ nít lưng trần bụng ỏng nhi nhô. Tôi hiểu là những nam nữ thanh xuân nơi này đang ở trong lòng đất địa đạo. Ở dưới ấy là kho lương thực, đạn dược, và lòng căm thù.

Một hôm dừng quân chiều, lính Cộng hòa căng cái lưới đánh bóng chuyền trên bãi cỏ xanh tưởng bình yên, đã vướng ngay một trái mìn. Một cụt chân, một chết hai hôm sau.

Trên mặt đất vùng C thuở ấy, từ một bãi cỏ xanh tươi, một lùm cây bóng mát, một cụm hoa dại ven đường, thãy đều có thể là một trái nổ đã chôn giấu trong lòng. Khắp nơi, chúng tôi đều phải rà mìn nếu muốn trải một chiếc poncho trên nền đất tưởng là bình yên để nghỉ ngơi. Tất cả, cả hơi thở đều nằm sâu bên dưới một mặt đất bên trên phó mặt cho hoang trụi.

Xa xa, là đồn lũy quân đội Mỹ, quân Cộng hòa. Những cụm khói lơ lửng trong bầu trời là hiệu lệnh chỉ tọa độ cho những tràng pháo. Xa xa có thể là đoàn tăng với những lính viễn chinh mệt mỏi dưới sức nắng khắc nghiệt hành hạ. Trong cái âm vang lạ hoắc ấy, xa hơn chút nữa là đô thành Sài gòn. Cái tên khá êm đềm nhưng đời thường của nó không bình yên tí nào.Trong lòng đất Sài gòn bấy giờ đã có những hang hố tư tưởng sâu dài nối với địa đạo vùng C này.Có những thầy chùa, linh mục, những trí thức, tuổi trẻ, sinh viên đang đi trong đại lộ Sài gòn mà có ngay ý nghĩ địa đạo bí mật trong tư tưởng.

Hôm nay chiến tranh đã qua, tôi và Tảo trở lại con đường đỏ máu, bụi vàng xưa. Nó đã được nới rộng ra, tráng nhựa bằng phẳng. Hai bên đường là nhà hàng quán nuớc. Nhưng toàn cảnh còn nghèo nàn thấy rõ. Cuộc sống nói chung là cầm chừng, cà thọt, cách biệt giàu nghèo, quan dân, thôn quê thành thị. Chỉ con sông bên dưới là man mác, bày ra những xóm làng đồng bằng ngát xanh. Xa xa thị trấn Bình dương như một bản vẽ phác thảo của một họa sĩ chưa có ý định phúc thảo.

Tiếp tôi là một bà cụ ngoài tám mươi tuổi. Lưng còng mắt mờ. Bà ngoại nuôi của Tảo. Giọng nói run run nhưng lộ tấm lòng chân thật, tha thiết. Bà sờ đầu nắn tay Tảo. Bà bảo bây giờ tôi nhìn nó lờ mờ như nhìn cái hình trên bàn thờ khói hương kia kìa.

Tôi nhìn lên bàn thờ, thấy trên ấy đơn sơ tấm hình một phụ nữ trạc ngoài ba mươi. Sinh thời người này hẳn đẹp lắm. Bà cụ nói:

“Mẹ thằng Tảo đó."

Bà cụ khóc rấm rức. Lại đưa vạt áo nhàu cũ lau mặt. Tảo rút cái khăn trong xách tay ra sau hè nhúng nước, vào lau mặt bà ngoại. Nhìn thằng tâm thần chăm sóc một bà già đơn côi tôi muốn khóc. Bà lại than van:

“Trên bàn thờ là mẹ thằng Tảo đó. Nhưng là mẹ nuôi. Số thằng này trời ơi, không biết cha mẹ đẻ của nó ở đất trời nào. Tám năm trời mẹ nuôi ra công tìm kiếm cha mẹ thật, mà công cốc. Rồi mẹ nuôi chết. Mười mấy năm sau chẳng thấy ai đến tìm nhận con trai của mình."

Ngưng một chút tay lau nước mắt, bà cụ tiếp:

“Sao mà mau, lúc nó ngo ngoe tôi vừa sáu mươi tuổi mà bây giờ… mà bây giờ tôi sắp xuống lỗ nó lại về… mà bây giờ tôi tuy mòn mỏi hãy còn tính trí, nó trẻ trung lại điên… mà bấy giờ…"

Con sông dài bị chắn ngang bởi cây cầu xa nối bên này tâm sự với bên kia vùng Bình Dương Bến Cát. Bà già bảo Tảo thắp một nén nhang trên bàn thờ mẹ nuôi.

Bức màn mở dần ra, theo khói bay, câu chuyện lạ lùng đã bày tỏ.


02.

Hồi ấy, cô Hiền, mẹ nuôi Tảo, ngoài hai mươi tuổi, khỏe mạnh, đẹp, thông minh. Học xong tú tài, theo học đại học Văn khoa Sàigòn. May mắn kiếm được việc làm, cô không trở lại vùng C. Cô vui vẻ sống bên này ranh giới. Cô có một người yêu sắp cưới, đại úy quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Chiều ngày hai mươi chín tháng tư năm một chín bảy lăm, Sàigòn như một cô gái chuyển đẻ đứa con đầu lòng. Quặn thắt. La thét. Đau tới phải buộc miệng chửi yêu cái thằng đã thọc cây gậy hạnh phúc vào âm hộ để bụng phình. Bây giờ chỗ ấy rỉ máu. Tử cung nở…

Đường sá loạn lạc, chật ních người. Vũ khí đạn dược của lính bại trận ném dọc dài. Khoảng ba giờ chiều, cũng màu nắng vàng Sàigòn có tự hôm xưa, hôm nay pha mùi khét, hôm nay lạnh, cô Hiền rời sở làm về sớm.

Người ta xao xuyến bỏ sở. Người ta sợ hãi bỏ đi. Người ta hoảng hốt quay nhìn quá khứ. Kiểm điểm tức tốc đã nợ nần gì quê hương. Phải trả giá gì cho tương lai. Phải tìm gì trong sắp tới. Đâu là lối thoát cuối cùng.

Cô Hiền quen thuộc con đường Sàigòn, nhưng sợ hãi quang cảnh xảy ra trên mặt đường hôm nay. Bất ngờ cô nghe trong cái đống hỗn độn là quần áo lính, nón sắt, súng trường, bi đông nước, huy chương, máy truyền tin, cả những chùm lưu đạn, có tiếng khóc một trẻ sơ sinh. Nó khóc thét trong một cái bọc vải.

Hiền dừng lại men mò trong đống lựu đạn để nhặt cái bọc lên. Tay cô chạm những cái khóa sắt, cái cò súng nguy hiểm nhưng không sợ hãi. Có một mãnh lực thúc giục cô từ tiếng khóc.

Một cái bọc rất đẹp, vải gấm đỏ, có thêu hoa văn vàng kim tuyến. Cái bọc được may theo kiểu túi xách liền lạc, túm đầu lại bởi một sợi dây rút, rất gọn. Một hài nhi chừng ba bốn tháng tuổi, tròn trĩnh, đẹp lạ. Nhưng da mặt em đã tái, người co thắt. Em nằm trong bọc, trên một chùm lựu đạn bầm tê lưng và sọ ót. Ai vô tình ném cây súng trường M.16 đè ngang ngực em.

Cô vội vã ẳm cả bọc vải lên, quay quắc về nhà. Lúc đầu cô định đi ngay tới bệnh viện nhưng lại thôi. Giờ này chắc là thiếu vắng bác sĩ.

Nhà bị cúp điện. Hoàng hôn chật và nóng. Hoàng hôn rên rĩ. Bằng cái âm vang vàng vọt của giờ hóa thân. Cô nấu một ấm nước, lau người thằng bé bằng nước ấm. Đặt nó nằm yên trên giường, lấy gối chèn chung quanh.

Hiền không hiểu lắm việc nuôi một đứa bé ra sao, nhưng cô rạo rực, cô nghĩ làm sao cho bầu vú có sữa.

Đêm ấy cô ru con. Đêm ấy cô nhớ người chồng sắp cưới đã kẹt lại chiến trường. Cô hiểu anh lắm. Bao nhiêu lần anh cùng đồng đội mở đường máu tới viên đạn cuối cùng.

Đêm ấy Sài Gòn chờ giờ phút đinh mệnh. Sàigòn đóng chặt trong một không gian im bặt tiếng thở.Tiếng quạt động cơ trực thăng của hải quân Mỹ, chiếc cuối cùng, thật sự là vĩnh biệt, đã tắt.

Tiếng động rền rĩ đó đã chuyển ra biển khơi. Không hiểu làm sao đêm ấy cô hát ru con: “Ngày mai đi nhận xác chồng, say đi để tưởng mình không là mình."




III. DẤU ẤN KHI LÊN TÁM


01.

Nhiều năm qua Hiền nuôi thằng nhỏ bằng niềm thương yêu trong những tháng ngày khắc nghiệt, đói nghèo. Cô đã mang em bé bốn tháng tuổi về ở chung với mẹ già, trong một xóm làng hãy còn đầy dấu tích những hố bom, những vườn tược bị khai quang chưa tìm lại màu xanh.

Bà con cô Hiền không còn ở dưới lòng địa đạo bí mật. Cuộc sống lộ diện. Tiếng nói lớn hơn. Cái nhìn rõ hơn. Chiến tranh đã qua nhưng họ rất dai dẳng, mãi mãi phải cảnh giác ai là bạn là thù. Họ đẩy cuộc chiến ngoài chiến trường xưa kia vào đáy lòng. Khá bảo thù và trì trệ, họ nấu cao căm thù trong tận sâu tâm não.

Cô nhiều lần vào nội ô, đi qua con đường cũ, nơi xưa kia tìm thấy cái bọc, dò la tung tích. Cô rất muốn biết cha mẹ thật của Tảo. Nhưng đi mãi tìm mãi. Sau cùng, chỉ giữ cái bọc gấm đỏ hoa văn kim tuyến như một kỷ niệm. Một vật chứng cho tông họ, lai lịch Tảo sau này.

Cái tên Tảo do Hiền đặt, là rong biển. Lại là trôi nổi, bươn chải tảo tần. Môt vật vờ chịu sóng. Thuở ấy, trong bọc vải không một mảnh giấy ghi địa chỉ cha mẹ, ngày tháng sinh, tên họ đứa bé. Với cái bọc vải sang trọng này, lúc bế thằng bé lên Hiền còn nghe thoáng mùi xà phòng thơm, mùi nước hoa. Thằng bé không phải con nhà nghèo khó mẹ nó đành bỏ bụi ném bờ. Thế làm sao nó lại là của rơi? Câu hỏi không dễ trả lời.

Vùng C lúc này có quá nhiều ân huệ của chế độ dành cho xứ anh hùng. Nhưng Tảo tám tuổi đã bị suy dinh dưỡng trầm trọng. Người nó vàng vọt, ngực gồ nhô những răng cưa xương. Lưng thằng Tảo nhi đồng đã còng. Người nó xiêu vẹo, khi bước tới tưởng thụt lùi.

Tảo tám tuổi ra rừng hái củi, lúc cả thành phố thiếu gạo mất điện. Nó theo các bà các chị ra chỗ hợp tác xã lượm mót những phần gạo nát, những củ khoai sâu sùng, những củ mỳ cong vẹo như như rễ cây. Nó sắp hàng thay mẹ. Gánh nước thay mẹ. Nó ngồi chỗ đà cửa mài củ khoai mỳ thành bột trắng ngà pha với chút đường làm sữa ngọt. Mãi sau này khi được uống ly sữa bò, sữa thật, nó vẫn cười ngất, nó bảo sữa này là sữa dỏm, chỉ biết sữa củ mì.

Cũng năm ấy Tảo hụt chết trong hố bom.Trời tháng mười mưa lũ, ba bốn hố bom liền nhau đã tạo thành một hồ nước mênh mông. Bọn lớn đầu đánh bóng chuyền toát mồ hôi, nhào tỏm xuống tắm hồ chiều. Tảo lon ton theo, một thằng lớn đầu ôm Tảo nói nhảy ùm xuống hồ. Rồi, bọn lớn mãi đùa vui bơi lội, lát sau, thằng nhỏ được vớt lên khi bụng đầy nước.

Cô Hiền được báo tin con mình chết chìm. Người ta không cho cô tới gần con. Theo lệ, trong lúc cấp cứu kẻ chết nước, người bà con thân thuộc nạn nhân không ai được tới gần. Mười lần như chục, nếu cha mẹ xáp lại gần thương khóc, nạn nhận sẽ hộc máu mũi, sùi trào máu miệng máu tai, chết tốt.

Hiền tức tưởi đứng xa xa nhìn bọn thanh niên thay nhau ngồi trên bụng thằng Tảo dằn lên nhịp xuống cho phọt nuớc hồ. Có đứa nhe răng cười như khỉ.


02.

Vài tháng sau vụ Tảo chết hụt, người mẹ nuôi gặp cơn hoạn nạn. Tấn tuồng diễn ra như trong một cõi đời khác. Hiền hộc ra một đống máu tươi, tức tưởi qua đời. Tảo từ đó trở nên côi cút.

Những rừng sau chiến tranh đã trải kín những ngọn đồi xưa kia khô trọc. Những vườn trái chín đã cho bóng mát. Một nửa đêm Hiền nghe có tiếng gõ cửa.

Đêm thanh vắng lạ thường. Tiếng gõ rất nhẹ, rụt rè. Nhưng âm thanh thì thầm này có thế những tai vách mạch rừng nghe thấy. Vào cái thời trong buồng kín nhà anh thừa một ký gạo người hàng xóm đã biết. Vì sao thừa? khi mọi người đều xếp hàng mà gạo ăn bữa đói bữa no. Buôn lậu chăng. Tôi từng lận một cái ống vố trong thắt lưng đã bị chặn lại khám xét. Súng lục chăng. Một người lạ đến nhà anh, tức tốc vài phút sau đã có người hàng xóm giả bộ sang mượn cái hộp quẹt, để có dịp vào nhà anh quan sát, theo dõi.

Cuộc sống đã được cái lưới an ninh thắt chặt, bủa vây từng ly hiện hữu vật chất đến sợi mơ tưởng trong tâm hồn mọi người. Cuộc sống thành thật là toàn bộ trần truồng. Bày ra trước đám đông cả cái lỗ chân lông riêng tư. Phải làm sao mọi người hiểu rằng trong đầu của anh là cái khuôn đúc cài sẵn, tư tưởng được phát đều chỗ công cọng.

Trăng hạ tuần trắng bạc. Vài tiếng gà lẻ loi báo tin sáng. Nghe tiếng thì thào, Hiền nhỏm dậy quan sát qua khe cửa. Một người đàn ông gầy gò, khuôn mặt nhăn nhúm những lạch khô. Đôi mắt buồn rượi nhưng còn rất tinh anh. Tóc râu lốm đốn trắng. Đây là một con người khác, trong một thế giới cũ. Ông ta mòn mỏi, tay ôm chặt cái bọc vải đựng dăm món đồ phòng thân. Hiền nghe tiếng thì thầm:

“Anh đây mà Hiền."

Hiền hoảng hốt nhìn quanh. Có đốm lửa đâu trong đầu. Những vệt sáng xẹt ngang. Những cái chao nghiêng bạc màu trăng. Cô mở cửa. “Chao ơi anh. Là anh đây sao.”

Người đàn ông ra dấu nói nho nhỏ. Nhỏ hơn chút nữa. Rồi anh bất giác ôm chầm người vợ sắp cưới đã bỏ biệt bao năm.

Hiền dìu anh ngồi xuống ghế.

Trước mặt anh ly nước được rót ra từ cái nồi nhôm tái chế méo mó. Mái nhà lá thưa, rui mè lợp bằng tre nứa. Qua mái nhà, thấy trời vàng, ánh trăng trắng nỏn xuyên khe lá.

Một căn buồng che chắn bằng mành tre mỏng, cửa ra vào không có cánh cửa. Treo dọc bờ vách mấy tấm áo nhàu cũ, cái khăn bạc màu. Nhà trên thông xuống nhà dưới chỉ mỗi bóng đèn tròn, dòng điện đủ sức làm cho bóng đèn lờ mờ. Cái bếp chỉ cách chỗ tiếp khách chừng ba mét. Một bịch khoai lang rơi vải trên mặt đất.Nhìn thằng Tảo ngủ vùi trong đống giẻ rách anh nghi hoặc nhìn, nhưng cố giữ vẽ bình thản. Hiền của anh già quá. Cô giáo ngày xưa đau đớn quá. Nàng là trĩu nặng gió mưa...


03.

Họ ngồi một lát trong đêm thâu. Uống một ngụm nước, người Đại úy vừa thăng lon Thiếu tá cũng là lúc bỏ căn cứ miền Trung, rút chạy về Xuân Lộc lập chốt chặn tử thủ, cẩn trọng nhìn quanh rồi nói vội với Hiền:

“Anh trốn trại. Anh đập một thằng chết."

Giọng nói buồn bã, nhưng cương nghị. Bây giờ Hiền thấy mối nguy này to quá. Dư vài chục đồng bạc giấu trong người đã khó. Nàng nhìn ra sau vườn, lại nghĩ tới một căn hầm bí mật để cất giấu anh. Anh thều thào:

“Về thăm em là anh đi ngay. Anh có bạn chờ ngoài bến. Cẩn thận, có thể một mũi súng đang dõi sau lưng anh."

Tức thì có động. Cánh cửa mành tre lỏng lẽo bị bất ngờ tung mở.

Với phản ứng lẹ làng của một người từng hành quân đường rừng và từng bị lao tù trong rừng, người thiếu tá trốn trại phóng vụt ra sau vườn. Nhưng đông quá. Cả một rừng người tứ bề tóm ngay anh.

Người ta thèm xử tội. Muốn thể hiện uy lực. Bọn địch phải đền tội trước Ta. Không cần đợi trời sáng mới ra công lý. Mở ngay đòn thù trong đêm. Không hề chờ một phiên tòa. Không phải. Nơi đây có ngay một phiên tòa theo cách riêng đám đông.

Không ánh đèn. Không bàn ghế. Dưới trăng nhợt nhạt về sáng người đại úy Cộng hòa bị trói chặt bằng dây thừng, ném trên mặt đất. Rồi nghìn xỉa xói. Nghìn tia mắt dao găm. Sao người ta không đập chết ngay anh đi. Không. Thế nó không đau. Không thỏa bằng sự hạ nhục. Mà da diết. Mà cay nghiệt dằn dai. Là bão lũ ác xít thù hằn.

“Mày là con thú."

“Mày là thú trong lũ thú."

“Xưa kia mày lạ gì từng hang cùng ngỏ hẻm cái Vùng C này. Mày từng ngồi xe tăng Mỹ xịt xuống miệng hầm quanh đây bao là khói độc."

“Chính hắn, thằng ác ôn trong trận càn 67."

“Sao mày không chịu học tập cải tạo đủ tháng ngày để rụng sạch cái đuôi thú của bọn mày đi."

“Không muốn làm người ư?"

“Trốn trại được sao mậy?"

“Vượt biên dễ lắm hà?"

“Bỏ tổ quốc thân yêu mà theo giặc được sao thằng ngụy mặt người dạ thú."

Trong nền công lý đỏ tươi dưới ánh trăng bạc quê hương về sáng, lúc đám đông xỉa xóa, bất ngờ có một lời hô hoán. Một giọng nói lanh lảnh, đanh như thép:

“Phải đập nó một trận thôi bà con ơi. Thằng ngụy này da thịt bằng sắt như vỏ xe tăng Mỹ.”

Chỉ một lời hô hoán bất ngờ là biển bão trở nên sóng thần. Một lúc thôi không ai nhận ra anh. Chỉ loáng, người yêu xưa của Hiền, thần tượng một thời bỗng hóa màu. Con người khốn khổ như bức tượng sáp bôi kín máu là máu.

Người ta lôi anh xềnh xệch qua về trong lúc hành hình. Máu vẽ hình chữ S. Máu chữ Z. Máu từng vũng dưới trăng nghiêng

Những phần da thịt anh vỡ ra dính lại trên tay, trên mặt đám người thực hiện công lý.

Mà ai xa lạ đâu? Chỉ là hơi thở quanh đây. Là hôm qua có thể thân thiết. Là bà con, người chòm xóm với cô Hiền cả thôi.

Dù phải rình mò dòm ngó kiểm soát bần tiện lẫn nhau nhưng đó đây hãy còn le lói một chút tình lân bang. Mới hôm kia Chú Tám Mâu cho cô Hiền mấy viên vitamin C bảo mang về cho thằng Tảo. Chỗ quầy thịt, chị Tư xẻo thêm ngoài tiêu chuẩn một lạng thịt trâu -con trâu già hợp tác xã hết khả năng chỉ đạo nó cày bừa- bảo mang về cải thiện bữa ăn cho thằng Tảo, nó suy dinh dưỡng quá rồi.

Một năm nay cô Hiền gầy đi bốn ký vì lao phổi mấy lần mửa máu xối xả. Thím Bảy cho mượn hai chục bạc đi bệnh viện. Hiền ơi cháu lao kinh niên rồi, chạy chữa đi, thằng Tảo ai nuôi. Chao ơi, tất cả niềm thân thiết ấy đêm này đã trở nhọn. Dưới ánh trăng tàn, căm thù không tàn. Chinh chiến qua rồi nhưng bóng ma đã thành tượng đài vĩnh cửu.Tất cả đã đồng loạt đứng hẳn sang bên kia dòng thù hận. Một đường vạch sắc rõ, một hàng ngũ gươm đao. Bỏ lại bên này mỗi cô Hiền lao phổi.

Hiền ôm lấy xác người. Những giây thừng quấn quanh anh nhuộm đỏ. Tóc đỏ. Áo quần đỏ bầy nhầy thịt nát. Mà làm sao thế này? Làm sao lúc đầu chỉ một đôi mắt sáng, rất buồn, cũng rất hờn căm; nó cô đơn nhìn một rừng mắt cũng rực hờn căm. Mà làm sao? một mái đầu trung niên sớm bạc trắng vì lao tù trong núi trời phương Bắc, giờ đây phải chịu đựng nghìn xỉa xói chửi bới. Bỗng cái làn tóc sương ấy, từ đôi mắt rực lửa hận cô đơn ấy thét lên: “Chúng mày giết tao đi. Chúng mày mới chính là thú. Giết tao đi. Tao không bao giờ đội trời chung với chúng mày.” Mà chao ôi, từ lời nói chửi suông của đám đông chuyển nhanh qua thoi đấm; thoi đấm tập thể rồi ai xui dùng cán cuốc lưỡi sắt; từ quằn quại với một ít máu bầm chuyển qua máu vọt thành vòi; thay vì thấy thịt nát đã chùng tay, lại cuồng máu say thù bằm thêm cho nát, cho vụn cái khúc ruột không đâu xa nghìn dặm, mà ngay đây, cái đống đồng bào đã máu nát thịt tan...

Cô Hiền gục xuống. Đôi ba lần gắng gượng dậy ôm anh. Bỗng cô hộc ra một dòng máu xối xả lên cái xác người cạn máu.

Thằng bé Tảo được moi ra từ đống vũ khí vất bừa quân bại trận chiều hai mươi chín tháng tư một chín bảy lăm; thằng bé Tảo tám tuổi suy dinh dưỡng, hụt chết dưới hố bom; thằng bé Tảo có gò xương ngực nhô cao, gò xương ót xương sụn chưa đủ cơm mắm để cứng thành xương; thằng tám tuổi Tảo hôm nay mơ hoang đôi mắt rắn, à lố 113 đâu nơi đây có bầy thú trong lũ thú; đã nhìn thấy trọn vẹn cảnh thú và người này; đã hiểu làm sao một con người mới cười cười nói nói đó mà ra ngay cái đống máu sông thịt gò này; trong đêm trăng nghiêng quê nhà này.




IV. CÒN MỘT SỰ THẬT BÊN KIA BỜ


01.

Cuộc đời không đơn giản như tiểu thuyết phô bày, dù dưới ngòi bút của một nhà văn lớn. Chữ nghĩa cổ kim chỉ mô tả cái vỏ của từng số phận người. Lắm khi tô màu một cách vô tội vạ lịch sử, chỉ làm con người mủi lòng, khóc đau chốc lát, hoặc kiêu hãnh trong ngu mê dại muội. Mỗi việc riêng của thằng điên Tảo, hậu trường chưa muốn khép. Nó mở dần, mở dần những hang động.

Có một chi tiết nhỏ. Hôm tôi tới thăm, bà ngoại Tảo đã mở cái hộp đặt gần di ảnh của Hiền. Bà từ tốn lôi ra một một cái túi vải gấm màu đỏ, những hoa văn chỉ vàng kim tuyến.

Bà cụ khá buồn bã, nói với tôi:

“Đây là cái bọc gói thằng Tảo ba bốn tháng tuổi năm xưa. Mẹ nuôi nó giữ lại để mong một ngày trao cho một người. Nhưng chưa tìm ra ai là cha mẹ thật của nó. Nay con gái tôi không may chết rồi, tôi cũng không còn bao ngày nữa. Thấy anh thương yêu đùm bọc, xem thằng côi cút điên tà này như anh em trong nhà, tôi cảm động lắm. Tôi xin giao cái bọc này cho anh. Mong anh giữ đời. Sẽ có một ngày vật này làm tin để thằng Tảo có tổ có tông.”

Tôi cầm xấp vải cái bọc. Bà cụ khóc mưa bão.

Lại một chi tiết tầm phào nữa. Tảo rất khoái tấm hình phóng lớn tôi đã chụp cho hắn ở Chợ lớn trong mùa cô hồn trước đây. Hắn mang ra khoe với bà ngoại, và đề nghị:

“Bà đặt tấm hình này lên bàn thờ. Ông này chụp hình con đẹp lắm. Bà coi, hai con mắt đen tợn, tròn din. Bà ngoại ơi, bà thờ con chung với mẹ con cho tiện."

“Mô Phật thằng khùng này ăn nói dại dột." Bà ngoại mắng.

Tảo lại hỏi:

“Làm sao đêm cầm thú ấy người ta bỏ con lại."

Bà ngoại thều thào:

“Mày mắc mớ chi trong đám đó. Có dây mơ rễ má chi với giáo gươm đâu."

Tảo than van:

“Nhưng sống vầy chết sướng hơn."


02.

Về Sàigòn tôi đi chơi với Tảo một thời gian, cốt để moi thêm chút gì trong cái kho tàng bi hài. Nhưng một hôm thằng cà chớn biến đâu mất. Như làn khói.

Tôi có cái duyên quen biết, cả đời thân thích với mấy anh khùng điên. Hình như có cái đồng khí tương cầu sao ấy. Tôi đi tìm quanh quất nhiều nơi không thấy Tảo. Phố phường đã vắng thằng bé mắt tròn như mắt rắn, mồm luôn alô 113 đâu nơi đây có bầy thú.

Buồn lắm, mỗi tuần một vài sớm mai tôi đến nhà hàng Brodard, Givral ngồi uống cốc cà phê nhìn phố phường. Lại đêm đêm vào các phòng trà với cốc rượu ngồi mỗi mình nghe đêm qua mau. Đêm của Sài Gòn áo mới. Diêm dúa. Lắm trò.

Một tối cuối tuần, trong một quán bar nhiều khách nước ngoài thường lui tới, tôi bị lôi cuốn bởi một thanh niên trạc ngoài hai mươi tuổi. Cậu ta tác người to lớn, tóc hớt cao, khá điển trai. Đặc biệt cậu có một đối mắt tròn, sáng quắc giống hệt đội mắt Tảo.

Chỉ nhìn khuôn mặt cậu thanh niên này tôi có cảm tưởng đó là anh em sinh đôi với Tảo; hoặc thằng Tảo đã hóa phép, bỗng trắng ra, mập lên, bơ sữa bất ngờ.

Đêm khá khuya cậu ta còn ngồi đăm chiêu bên quày rượu, đầu nghiêng, gối trên một bàn tay mập mạp, những ngón thon múp. Cậu nhìn ra đường khuya như muốn tìm một người thân quen.

Vì đôi mắt của Tảo quyến rũ, tôi đến bên cậu gợi chuyện.

Cậu chuyện khá buồn, khá dài. Làm cầu nối tôi với người trai trẻ này gần gũi nhau mấy tháng liền.

Cậu tên là Jim, Việt kiều quốc tịch Mỹ. Nói tiếng Việt không sỏi lắm. Cậu rời Việt Nam vào một ngày tháng tư một chín bảy lăm.

Jim hiểu biết lờ mờ về quê cha đất tổ. Cậu có một giọng nói ấm áp, hiền hòa; một thái độ khiêm tốn, đặc biệt rất tôn trọng những tin tức mà cậu cần tìm tại Việt Nam.


03.

Câu chuyện về người mẹ nuôi của Jim:

Nhờ một cuộc sống suốt đời sung túc, vợ một nhà đại tư bản trùm xuất nhập khẩu, nên nay đã ngoài tám mươi tuổi bà hãy còn khỏe mạnh, rất minh mẫn.

Một chi tiết khá đặt biệt: lúc năm mươi chín tuổi, tuổi không còn sinh đẻ bà phải nuôi một đứa con mọn. Hơn hai mươi năm qua bà rất thương yêu cậu con út này. Di chúc bà để lại một nửa tài sản dành cho cậu. Đó là Jim.

Tháng tư bảy lăm, miền Nam bại trận, bà rời khỏi Sài Gòn. Bạn bè của bà, các nhà tư bản, tướng tá, vợ bộ trưởng, ra đi rất sớm khá an toàn. Bà nấn ná, trễ nãi vì hãng này còn nợ vài trăm nghìn đô la, đại lý kia nợ năm bảy chục cây vàng. Chờ gom tàm tạm đã là ngày xe tăng quân giải phóng tràn ngập Biên Hòa, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo, máy bay không cất cánh được. Chỉ còn mỗi đường biển nhưng các tàu lớn đã ra khơi.

Bà xuống được chiếc tàu gần như cuối cùng, đã là xế chiều ngày hai mươi chín. Sàigòn bị đóng kín bưng trong hoang mang.Chừng như lúc này cô Hiền đã nhặt được Tảo nằm trên bãi lựu đạn, hài nhi khóc oa oa bên vệ đường.

Bà ngồi thu mình nhìn ra ngoài một cảnh tượng vô cùng hỗn độn. Có tiếng súng tranh cướp nhau lên tàu. Rồi chiếc tàu quá tải nằm ụ không thể rời bến.

Bà ôm chắc một cái bọc toàn đồ tế nhuyển, vàng và kim cương. Chúng được niêm phong trong những chiếc hộp nhỏ bằng kim loại, hàn chì những khe hở cẩn thận. Bà ngụy trang bằng một bọc vải thô thiển, nhìn qua khó ai nghĩ đó là gia sản của một nhà tư bản.

Không khí trên tàu lúc này nóng bức không chịu nổi. Bà chưa từng chịu đựng một đám đông hỗn tạp và nháo nhác thế này. Đây là con tàu tuyệt vọng, không giống chuyến tàu được tổ chức ra đi có trật tự, rời cảng Hải Phòng vào Nam hai mươi mốt năm trước, 1954, theo hiệp đinh Genève, chia đôi Nam Bắc.

Có tiếng khóc nhỏ nhoi, tức tưởi, của một phụ nữ ngồi cạnh bà.

Tiếng khóc lớn dần, chì chiết, kể lể. Người phụ nữ ôm một cái bọc vải quý bên trong là một đứa trẻ. Nước mắt ràn rụa, cô gục đầu lên vai người chồng. Một trái lựu đạn nổ vang chỗ vọng gác bến cảng. Đám lính giữ cổng khóa cổng không cho người di tản xuống tàu. Thế là lựu đạn nổ. Một tràng súng tiểu liên.

Chiếc radio một người mang theo nghe rõ bản tin đài phát thanh Sài Gòn loan đi quân Giải phóng đã có mặt bên kia cầu Sài Gòn. Nhưng tất cả không át được tiếng khóc than của người phụ nữ mất con. Cô rên rỉ. Cô than phiền chồng cô nhẫn tâm không nghe lời cô quay lại tìm đứa con rơi dọc đường lúc tháo chạy.

Nghe khóc than hoài mãi, một người chỉ vào cái bọc màu gấm đỏ sang trọng có tiếng khóc oa oa của trẻ, hỏi cô đang ôm con trong lòng mà mất con là làm sao. Người chồng trả lời thay vợ:

“Đây là thằng em, thằng anh rơi mất tiêu dọc đường rồi. Hai đứa sinh đôi. Mỗi đứa một cái bọc giống y chang nhau."

Mọi người thở dài. À ra thế...

Anh chồng lại mắng vợ:

“Cái chết đang quần thảo trên đầu mà khóc than hoài. Bây giờ xem như bà không đẻ sinh đôi. Còn một thằng chèm bẻm ôm trong lòng đó."

Có một giọng nói từ loa phóng thanh vang động, vừa lo lắng loan báo, lại vừa có nội dung như một lệnh ban ra:

“Bà con tràn lên tàu quá hỗn độn. Tàu bị mắc cạn rồi, không thể rời bến được. Mọi người nên cấp tốc tìm mọi cách để rời tàu. Tìm phương tiện khác mà ra đi. Sài Gòn hấp hối rồi.”

Bây giờ trên mặt sông chiều thẩm bóng tối có một vài chiếc ca nô của hải quân miền Nam lướt nhanh trên mặt sóng, cố tìm vớt những nguời cuối cùng.

Một chiếc ca nô bỗng cặp ngay hông tàu. Lẹ làng một người nhái đã xuất hiện ngay bên người đàn bà ôm chặt cái bọc vải thô bên trong đựng toàn vàng và kim cương.

Người nhái nói nhỏ, rất hối hả:

“Xin lỗi, bà có phải chị ruột của trung tá Mâu hạm trưởng?"

“Vâng tôi đây."

“Bà theo tôi xuống ngay ca nô bên dưới. Hạm trưởng đang đợi. Phải nhanh. Phải tất tất nghe theo lệnh tôi. Không thì chết. Tôi hộ tống bà."

Tức khắc, anh người nhái to lớn bê ngay người đàn bà gọn nhẹ như ôm một đứa bé, lao ra cái thang dây được thòng từ boong tàu. Nhanh đến nỗi bà không kịp một phản ứng nào. Chỉ tích tắc đã có một dòng năm bảy thanh niên liều mạng lao theo cái thang dây. Từ ca nô một loạt tiểu liên bắn chỉ thiên hăm dọa.

Khi vừa lọt vào trong khoan chiếc ca nô bà sực tỉnh, thét lớn:

“Cái bọc của tôi, bọc gia sản của tôi."

Tức thì một cái bọc đẹp đẻ vải gấm thêu kim tuyến được ném ra từ boong tàu. Đó là cái bọc có đứa bé bốn tháng tuổi bên trong, Ai đó ném lộn, không phải cái bọc xấu xí bên trong đựng vàng và kim cương của nhà tư bản. Người nhái đã tài tình nhặt bọc đứa bé ngay từ trong không, khi chưa rơi mạnh xuống sàn tàu. Chiếc ca nô phóng nhanh với hết tốc độ, để tới kịp chiếc chiến hạm hướng biển.

Cái bọc ấy chính là Jim sau này.

Như vậy chiều tàn cuộc chinh chiến ấy có hai cái bọc lạc loài. Một cái rơi trên đống lựu đạn ven đường Sài gòn. Một cái bọc khác được ném ra trên mặt sóng để theo con tàu biệt ly.


04.

Hơn hai mươi năm sau, cái khối băng lý lịch ấy mới bắt đầu tan chảy.

Sau khi Jim tốt nghiệp bằng MBA, một ngày sinh nhật, một đêm vui vẻ, bà mẹ từ tốn bảo Jim ngồi nán lại. Bắt đầu dòng tâm sự.

Bằng một giọng ấm áp của người mẹ ngoài tám mươi bà kể hết nguồn cơn. Vào một hoàn cảnh, bằng một nhầm lẫn giữa hai cái bọc, thuở xưa, bà đã đánh mất một gia sản nghìn cây vàng cùng đồ tế nhuyển, nhưng có một đứa con mấy tháng tuổi. Giữa bao la biển, con tàu lênh đênh, trong cảnh ngộ bỏ quê cha đất tổ, tiếng khóc trẻ thơ làm bà nức nở. Mẹ tưởng nghĩ con chưa đủ tháng ngày để chịu đựng cuộc hải trình sóng gió. Con sẽ chết trên tay mẹ. Ở vào tuổi sáu mươi thuở ấy, việc phải cưu mang, mớm sữa, hát ru, là ngoài tưởng tượng của mẹ. Vậy mà con đã sống. Đã thành niềm hy vọng của mẹ nơi đất khách quê người.

Bấy giờ Jim khóc. Một sự thế hoàn toàn đảo ngược trong cậu. Bà mẹ tiếp:

“Từ lâu mẹ đã chôn đi một sự thật để bày ra một sự thật. Hơn hai mươi năm qua là một thực tại có thật, con đinh ninh mẹ là mẹ đẻ của con. Tất cả chỉ là ngụy trang cho một sự thật.

Có một sự thật khởi nguồn nghìn sự thật. Cất biệt nó đi là mẹ có trọng tội với con Jim ạ. Con không phải là đứa con do chính mẹ đẻ ra. Mỗi con người có chung một dân tộc nhưng riêng mỗi dòng tộc. Nó chia phân rạch ròi nguồn cội, để tránh những sai lầm, vi phạm đạo lý nhiều đời sau.

Mẹ thương yêu con nhất trên đời. Từ đáy lòng mẹ không hề nghĩ con là con nuôi của mẹ. Nhưng nay mẹ đã già, mẹ cần giải bày một sự thật. Mẹ tin ngoài hai mươi tuổi con đã đủ bản lĩnh, đủ tâm huyết nhìn thẳng vào nhân thân chính mình.”

Bà lấy ra một cái bọc bằng vải điều có hoa văn thêu bằng kim tuyến óng ánh vàng. Bà nói:

“Mẹ cất giữ vật này như một báu vật nhiều năm qua. Nó chính là cái bào thai trôi nổi nhiều ngày trên mặt biển, đây là phận người.

Bây giờ mẹ trao lại cho con. Con hãy về Việt Nam tìm người Mẹ đã mang nặng đẻ đau. Không hiểu sao mẹ có linh cảm là Mẹ của con hãy còn sống, dù phải trả cái giá không nhỏ cho những nhục nhằn khốn khó mấy mươi năm qua. Mẹ tin như thế, vì nếu đã ra nước ngoài bà ta đã đăng tin đó đây tìm hạt máu thất lạc của mình.”

Cái bọc gấm từ nhiều năm được cất giữ trong một hộp sơn mài vẽ phủ. Trên nắp hộp có hình lưỡng long chầu nguyệt. Hai con rồng được giát vàng. Bà mẹ tiếp:

“Theo lời người đàn ông khuyên vợ trên chuyến tàu di tản năm xưa, thì con còn một người anh sinh đôi thất lạc. Trong lúc tháo chạy người mẹ hốt hoảng đã đánh rơi người anh của con ở dọc đường. Ngày ấy đau lắm. Ngày ấy não nùng lắm. Vội vã làm sao, trốn chạy thế nào mà đánh rơi mất tiêu một trong hai đứa con sinh đôi. Đứa còn lại, là con, bị ai đó ném nhầm vào tay mẹ từ boong tàu.

Phải về thôi con ạ."

Là một công dân Mỹ nhưng mẹ bảo con “Về” chứ không phải “đến" Việt Nam.




V. NHỮNG BỌC


01.

Jim đã “Về.”

Cuộc gặp gỡ tình cờ giữa tôi và Jim hóa ra thân thiết, dài dặc. Jim tâm sự rất nhiều. Tha thiết tìm mẹ và một người anh nào đó theo lời dặn dò của người mẹ nuôi.

Jim là một thanh niên của một nếp sống đã quen với suy nghĩ hợp lý, việc gì làm cũng phải có mục đích rõ ràng, không tin vào những điều huyễn hoặc.

Dẫn dắt Jim đi tìm Tảo cùng những liên hệ mà nay mơ hồ như khói biển khơi, thật không phải dễ. Giàu tưởng tượng lắm cũng chẳng hình dung ra cái dây liên hệ chiều thất lạc hai mươi chín tháng tư xưa, giữa ba cái bọc.

Một bọc vàng, đồ tế nhuyễn cùng kim cương, bây giờ không biết đã vào tay ai. Một bọc nay lưu lạc điên tà, nhìn đâu cũng thấy bầy thú, lũ thú nhởn nhơ phố thị. Một bọc là một thằng Mỹ con gốc Đại cồ Việt.

Một hôm tôi đưa tấm hình Tảo cho Jim xem, và hỏi Jim em có thấy người này giống em không? Jim giật mình như nhìn thấy khuôn mặt chính mình trong gương soi. Bàng hoàng Jim nói chao ơi giống như khuôn đúc. Nhưng sao gầy gò quá, kích thước bé tẹo. Tôi đùa:

“Cùng hai con công, một con ở đúng nơi có điều kiện sinh tồn thì lông ngũ sắc vũ múa tươi vui. Con ở trong lồng sắt sở thú thì trơ cành mất máu xám màu, vũ múa cà thọt thôi."

Nhanh chóng, tôi có một so sánh giữa hai anh em sinh đôi:

Jim em : cao 1 mét 77, nặng 70 ký, tốt nghiệp đại học, da trắng màu bơ sữa.

Tảo anh: cao 1mét 47, nặng 40 ký, học lực đủ chữ để có thể ký tên vào tờ giấy xin tạm trú, vào biên bản vi phạm trật tự. Da màu gỗ nâu của gỗ còn nguyên xơ, chưa bào.

Jim em, thiếu hiểu biết về quê cha đất tổ, không sành tiếng mẹ đẻ, nhưng đã từng du lịch khắp thế giới.

Tảo anh, quá thừa hiểu biết về xã hội quanh đây, biết cả những điều phi lý tàn độc trẻ em không cần biết, đã từng dun rủi khắp cõi cô hồn mộng mị.

Jim em dùng điện thoại cầm tay loại xịn, có thể xem bóng đá, máy Fax.

Tảo anh thường trực dùng điện thoại dỏm đồ mã cúng âm hồn.

Jim em rất thực tế trong đời sống, mọi việc luôn được lập trình, hợp logic.

Tảo anh hoang mơ, mong ngóng ngày tháng mưa ngâu đi hòa mình cùng cô hồn thất thểu, rất mê muội khói hương.

Lời cầu nguyện của tôi nhân mùa Cô hồn:

“Rất mong hai anh em cùng bào thai, mau chóng gặp nhau, hợp lưu trong-ngoài. Nếu hóa công còn công bình hóa công hãy chịu chơi bỏ hai thằng Đại cồ Việt nội-ngoại này vào cối giả nhuyễn, rồi chia đều nặn làm đôi 50/50, cho bớt đau lòng.”


02.

Những ngày đầu Jim rất sợ phải ngồi xe gắn máy. Rồi quen. Tôi chở Jim đi tìm Tảo khắp nơi. Chợ Lớn. Biên Hòa. Bình Chánh. Long An. Chúng tôi về vùng C, bà ngoại Tảo đã chết. Bà con chòm xóm không ai thấy Tảo về chịu tang. Chỉ thấy cái hình Tảo hồi tặng ngoại, và bắt buộc ngoại phải thờ khi hắn còn sống nhăn.

Tìm không được anh Tảo, Jim ngày ngày ngồi quán nước chờ Mẹ. Tối lang thang phố phường mong gặp Mẹ. Thuê xe ra Đà nẵng Huế. Đáp máy bay đi Hà nội. Hay Mẹ đang ở Cần thơ? Jim xuống miền tây ngồi Bến Ninh Kiều nhìn sông nước Hậu giang mang mang.

Jim mua vé xem chương trình duyên dáng Việt Nam. Sân khấu đèn màu hoa hậu, người mẫu, ca sĩ toàn giai nhân. Nhưng không phải Mẹ. Bây giờ mẹ không còn trẻ thế đâu. Thế mẹ đã già cỡ nào? Có phải ốm o nhăn nhúm người đàn bà vừa chìa xấp vé số trước mặt Jim. Như người hoi hóp chỗ âm ty, nón lá chụp mái tóc trắng, cây gậy tre chống lưng, xin đồng tiền bố thí. Nhiều mẹ quá nhưng không phải Mẹ. Mẹ tôi đâu trong triệu mẹ này?

Nước Mỹ mênh mông. Việt nam càng mênh mông trong cuộc dò tìm một người xưa không hề để lại một di ảnh, một mẫu khai sinh, không người quen biết, không rõ họ Trần họ Lý. Phải chi tôi được nhặt ra từ một cô nhi viện, nay may còn phần hồ sơ, lý lịch. Đau lắm, nhưng ước gì tôi là con hoang một người lính viễn chinh Mỹ, Phi, Úc, Marốc, Senegal, Thái Lan, Đại Hàn. Nay hãy còn dính cội cha, dù cha hãm hiếp, để lần ra tông tích mẹ.

Mẹ tôi hơn hai mươi ba năm xưa bây giờ chắc không còn trẻ, để ngồi trong công sở. Hay mẹ đang buôn bán ngoài bãi chợ?. Bán rau. Bán vải. Xì dầu tôm cua rùa ốc. Mẹ đang ngồi chỗ quầy thịt hàng cá với con dao to bự bằm con vật sống máu me, xẻo mớ thịt ôi ôi ruồi nhặng bu đầy, mồm vang dội mắng mỏ. Mẹ Việt Nam đâu tệ hại vậy. Nhưng vẫn còn hơn mấy mẹ nơi bến tàu hôm kia. Dưới lùm cây bóng mát mấy mẹ hút thuốc lá đánh bài, chung quanh là bọn xì ke ma điếm. Mẹ bắt cóc trẻ em cho thuê. Bọn thuê trẻ nít bỏ chúng trong bọc vải, lại những bọc, đi rong sáng chiều xin tiền bá tánh. Mẹ thu bộn tiền khi đứa bé đã bốc mùi sau một ngày say nắng.

Jim vào siêu thị, tần ngần giữa bến đò sông nước. Jim lặn lội trong chợ cá bầy hầy tanh tưởi. Lại dừng hằng giờ bên lề đường quan sát từng khuôn mặt những người đàn bà lượm ve chai. Jim vào các chùa xem các ni sư ai là Mẹ. Nửa đêm chiêm bao Jim mong thấy Mẹ về.

Mẹ nơi đâu trong triệu triệu phận người này. Trong cái bùng cháy thôi thúc miếng áo mảnh cơm. Mẹ hiền cũng đâm ra dữ dằn. Mẹ khôn ngoan cũng đành câm nín trước thực tế hiểm nghèo.

Sao mẹ tôi ở Cali hôm nay bắt buộc tôi về tìm Mẹ-Việt-Nam hôm xưa. Mà không bảo tôi tìm Cha? Hay Cha là cái gì quá thừa. Là kẻ đi qua tình cờ.

Tôi đi qua năm tháng, tình cờ tìm kiếm mà băng suốt xứ sở Việt tổ tiên. Mà lặn lội, chạm gặp nghìn mảnh đời của những mẹ mà không bao giờ gặp Mẹ.

Tôi thuê thuyền đi dọc biển Nha trang, cát thơm mùi Mẹ. Vào động Phong nha, tiếng thời gian thì thầm trong hang hốc. Nhẹ nhàng, phiêu nổi. Có đâu đây một hồn Mẹ sơ khai. Xa lạc. Tôi đứng lặng dưới trời trăng ngoại ô. Mẹ đâu trong gió ngàn.

Hôm kia tôi qua sông Tiền. Mẹ đâu trong lục bình trôi…




VI. MỘT NGÀY TRÊN QUÊ HƯƠNG TOÀN-CHUỒNG


01.

Tảo hôm nay thay đổi nhân dạng một cách lạ lẫm. Điên chuyên nghiệp rồi. Gầy, đen hơn. Đôi mắt lửa hận thù. Đầu đội chiếc nón chỉ mỗi vành nón bằng cái đai nhựa, phía sau ót cắm một chùm lông gà. Chắc là lông đuôi một con gà trống hùng mạnh ở trường đua gà, màu sắc rất đẹp.

Tảo bận nhiều lớp áo rách rưới chen nhiều màu sặc sỡ, như màu cờ Phật giáo. Bốn lớp quần màu sắc chỏi nhau.Trong cùng là quần tây dài tận gót. Ngoài quần tây dài là một cái váy phụ nữ ngang đầu gối. Ngoài nữa là một cái quần đùi. Cái xì líp rộng thùng thình ngoài cùng.

Cách pha màu khá hiện đại. Trông Tảo gồ ghề nghệ thuật trình diễn. Xa xa trông thằng điên non tuổi như một cái chấm hào quang nhỏ nhoi trên đường phố Sài gòn.

Vật thể lạ ấy di chuyển chậm rãi, nghêu ngao. Nó là câu hát đồng quê lẻ loi trong quãng phố chiều.

Hôm nay trời đẹp. Hình như một ngày lễ lạc gì đấy. Tảo đi rong trên bến sông Sài gòn. Đến chân tượng Trần Hưng Đạo to lớn ở công viên Mê Linh hắn ngồi bệ đá nhìn vị anh hùng tay cầm kiếm tay chỉ xuống sông nước. Cha này chơi ngon. Chỉ đạo nhân dân giềt quân thù nào nữa đây.

Đi một thôi đường, là chợ Bến Thành. Tượng nữ sinh Quách Thị Trang trắng thạch cao nhỏ nhoi dưới chân tượng Trần Nguyên Hãn thả bồ câu tìm tin tương lai nhiều trăm năm trước. Khối cờ ngũ sắc Tảo lê la qua các nhà hàng khách sạn to lớn là đến ngã sáu Sài Gòn, tần ngần nhìn tượng Phù Đổng Thiên vương. Thằng chả mới vừa thôi nôi được đúc bằng bê tông cỡi con ngựa tương truyền ngựa sắt, cần cái chổi chà tre, phóng hỏa đốt quân thù như anh hùng niên thiếu đốt kho xăng thực dân Pháp trong tiểu thuyết viễn tưởng.

Thằng Tảo điên tà đi tà tà tiếp. Chiều tà. Chỗ ngã tư đường Lê văn Duyệt và Phan đình Phùng thời Cộng hòa có cái miếu thờ một vị hòa thượng hóa Bồ tát xưa kia tự thiêu chống chế độ độc tài. Toàn là xưa kia. Thành phố hôm nay đầy rẫy anh hùng hóa đá.

Thằng Mắt rắn định vào Chợ Lớn. Đã tới mùa cô hồn. Khói hương gọi rưng rưng máu me. Nhưng trời bỗng thét giông tố, đổ mịt mùng cơn mưa lớn. Sét đánh sập hàng trụ điện chỗ đường Huyền Trân Công Chúa, một cây sọ khỉ hơn trăm năm tuổi ngã đổ, xe cộ dập bể, có một thằng người vong mạng tích tắc. Thánh Gióng Phù đổng cầm chổi chà cỡi ngựa sắt bất lực trong mù mưa. Lửa sát thù tắt ngấm ngay mỏm ngựa. Mưa ngập cả phố xá. Người lội ngang bụng. Ước gì có thuyền bè.

Tảo định đi ngược về hầm cầu Thị nghè nơi cư trú qua đêm cùng bọn sống vô gia cư chết vô địa táng. Nhưng đi mãi không tới. Dòng sông phố dằng dặc. Nước ngang lỗ rốn cản đường. Tối mịt, hắn co ro trên băng ghế đá lạnh, chỗ trạm ô tô buýt. Đói kinh khủng. Hắn vốc nước mưa uống phình bụng đỡ.

Trong đêm đô thành xưa hôm nay ngập mưa, từng đoàn người ma ốm o, đầu đội nón lá, trong lớp áo mưa mỏng, còng lưng trên xe đạp chở những bao tải ni lông vụn, đồ ve chai. Gió thổi ngược đánh bật cả nón bay, đến xiêu vẹo người. Bọn ma đói này là dân nhập cư từ bắc vào nam, từ những miền quê đói khó không công ăn việc làm, dai sức đến khiếp. Muốn có dăm đô la trong một ngày đêm hai-mươi-bốn-tiếng-đồng-hồ làm việc chết bỏ, bọn ma sống phải vượt trên năm mươi cây số trên chiếc xe đạp cà tàng, đến bến cảng Sài Gòn mua phế liệu mang về giao cho các lò ve chai tận phía bắc thành phố anh hùng.

Đèn mờ tối một lúc. Rồi điện cúp luôn. Tảo ngủ vùi trên băng ghế khuya khoắc. Bỗng hắn nghe một câu chửi thề: “Đụ mẹ thằng thầy chùa ngũ sắc tí hon này nhường cái băng đá cho tao ngủ chút coi.” Tảo chưa kịp phản ứng đã bị thằng to bự đá văng xuống nền mưa lạnh nhơm nhớp bùn đất. Thằng to bự vật ngay một đứa con gái đi cùng xuống cái băng đá, lột quần. Rồi hắn đút cái gì ấy vào cửa khẩu con nhỏ. Con nhỏ cười trong đêm ma.


02.

Hôm nay Sài Gòn kinh tế thị trường, không cần qua thời kỳ quá độ, mà xấn ngay bon vô thời quá xá cỡ. Sài gòn ngày đêm có đầy những vũ trường [nơi đây độc nhất trên thế giới có một tháng ba mươi ngày nhảy đầm ban ngày; ba suất sáng, trưa ,chiều] quán bar, tiệm karaoké, quán ăn cao cấp. Những khu du lịch với lều tranh nho nhỏ dành riêng cho từng đôi nam nữ tâm tình. Những nhà trọ, khách sạn cho thuê phòng tính tiền từng giờ, đáp ứng ngay cho những hĩm những bầy chim cu muốn gáy ngay tức thì.

Có những câu lạc bộ dành cho bọn người già nhảy nhót, hát với nhau nghe những bài ca sét rỉ thời thượng thế kỷ 20. Những trung tâm sũng ướt đam mê dành riêng cho dân đồng tính. Cũng làm tình. Cũng quằn quại disco tập thể. Sài Gòn của By night, Golden Eye chuyên hip hop pop rock, bọn trẻ say sưa thâu đêm dục lạc chết bỏ, xài đô la chấp cả con nhà tư bản Luân đôn Paris. Sài Gòn những tụ điểm dù lén lút nhưng cung cấp đầy đủ thuốc phiện, bồ đà, thuốc lắc, các loại bột trắng. Thuốc kích dục, chơi lâu, thì bán công khai. Lại bày bán đầy đủ các loại thuốc ngủ, độc dược, cả thuốc trừ sâu rầy, thuốc chuột, tuổi trẻ nào buồn tự tử khỏe re…

Không tự do nào thể hiện tới bến như tự do nạo phá thai. Có trường đua ngựa. Có sân đá gà. Có trung tâm số đề. Cá độ bóng đá. Chơi bời cá độ bán cả vợ con chức vụ cửa nhà. Chơi mút mùa lệ thủy, lúc nào công an tóm cổ tính sau. Sài Gòn có khu Tây ba lô. Có đàng điếm rẻ tiền hạ cấp hôi nách kiểu tây ba xu. Đĩ già trôi giạt đông như ruồi. Đàn trẻ em chạy lon ton xin tiền, bán những sản phẩm thủ công. Bọn giựt dọc chuyên nghịệp, cò mồi có hạng quốc tế. Những động lắc hàng trăm thanh thiếu niên say thuốc lắc, chích thêm bạch phiến cho phê, rồi ở truồng trật cu chìa bướm tập thể, nhảy nhót cuồng điên, nhầy nhụa thâu đêm, tận ngày hôm sau, tận đêm hôm sau nữa, tận giọt tủy sống cuối cùng.

Như thế, thời sự hai mươi bốn giờ Sài gòn thân yêu của Tảo rồi cũng trôi qua. Tảo về tới gầm cầu. Lại vốc nước con kênh đen hôi thúi rửa mặt, trật quần đái vòng xuống kênh. Bọn vô gia cư vẫn vang hát những bài nhạc sến cùng mình. Đực cái ôm nhau ngủ, muốn ngủ đứng ngủ ngồi, dâm tròn dâm nghiêng, bán miệng bán trôn, lột cả xì, hay chỉ trật ngang đầu gối, xài mặn hay bóp vú xào khô theo túi tiền, thì tùy, tự do tận mây, chả định hướng cái mẹ gì.

Sớm mai, lại tản mác khắp nơi trong thành phố văn minh anh hùng. Lương thiện thì đi xin ăn, đi móc rác lượm ve chai, bán vé số. Muốn xài cho hết núi lưu manh thì thuê trẻ nít bỏ bọc quyên góp lòng từ thiện, đi giựt dọc, lừa gạt, làm ma cô đầu gấu.

Tảo không nằm trong nhân loại đó. Mắt Rắn thơ mộng. Đi làm đẹp phố phường bằng cách “À lố nơi đây có bầy thú, có con thú trong lũ thú.”

Hôm xưa, tao xử mày phải làm sao cải tạo cho rụng cái đuôi thú lủng lẳng. Hôm nay tao lại mọc đuôi. Mà bự. Mà dài ngoằng. Con vượn phải lao động chết mẹ mới thành người, còn tao sao nhanh quá, chỉ một sát na nhà Phật, chỉ nửa ngày quê hương, tao hóa lông mặt mày.




VII. RỪNG MÁU


01.

Chẳng nơi nào thiếu. Quán thịt chuột miền tây chính hiệu. Làng nuớng, bò thui, tùng xẻo khói bay như có cháy nhà. Quán rắn chín loại rắn bồi bổ. Giái dê hầm thuốc bắc. Tai gấu, ba ba, chồn hương, nhím. Quán đặc sản ba miền. Quán Hồng hà. Sông Thu, Sông Trà. Nhà hàng Sông Lam, Sông Hương, Sông Nhuệ, Sông Cầu, vườn chim Cửu Long, Dơi Sóc trăng, Lẩu sông Ông Đốc. Quán máy lạnh, quán lều tranh, quán ao cá ngoài trời. Gái cao cẳng cô nào cô nấy hai vú tổ chảng, quần cao ngang bẹn chào mời quảng cáo hằng chục loại bia rượu tây ta mỹ tàu, khuyến mãi thuốc lá hút thử phồng mỏ khỏi trả tiền.

Mênh mông quán. Thiên hà bảng hiệu. Quán nào quán nấy to rộng như một cái sân quần vợt. Lạ, không một nơi nào vắng khách. Hình như ngày mai tận thế. Hôm nay ông bà cha cháu nội ngọai dâu rễ “mà đằm” con sen vội vã mang mồm đi cải thiện.

Tảo dừng dưới một mái hiên rộng. Trong quán nhạc nổi cà xình. Một bọn sáu bảy thằng lực lưỡng ngồi quanh một bàn tròn. Áo thun ba lỗ lòi sợi dây chuyền vàng như sợi thừng quanh cổ. Cườm tay lủng lẳng sợi xích bạc. Đồng hồ mạ vàng. Ngón tay đeo chiếc nhẩn nhái nhẩn pilot thời cộng hòa.

Đám con gái ngồi chung bàn tóc nhuộm xanh đỏ vàng xen kẻ, sống mũi nhựa cao thẳng như cái cán dao, mắt lé một mí được phanh mổ thành mắt hai mí bồ câu. Giữa bàn ngoài chai Hen-nét-xì, có một chai Vốt-sờ-ca [phát âm theo anh Sáu] không phải sản xuất từ nước Nga anh em mà là sản phẩm của Ờ-me-rì-ca, Mỹ chính hiệu.

Rượu 45 độ chờ pha với máu rắn. Con rắn sẽ được gã bồi bếp điệu nghệ biểu diễn để cho rắn có khí thế ngẩng cao đầu, thẳng cổ. Lúc này máu hòa rượu mới là máu ác chiến, giàu khí thế.

Tảo thích cảnh này lắm. Hắn mê nhìn bầy rắn đang bò quanh quất trong cái hầm xi măng bên trên có lưới sắt. Một hồ cá bằng kính, nước trong vắt, bầy cá bơi lượn chờ nướng hấp chiên xù. Một sân rộng là rùa, chim, nhím, chồn hương. Những con vật tội nghiệp đang giam giữ trong cái sống giới hạn này có nhiệm vụ là diễn viên, là người mẫu qua về biểu diễn. Thực khách chọn con tôm hùm con diêu hồng nào, con nhím con ba ba nào thì chỉ ngay vào. Đầu bếp bắt ngay nó ra, máu tanh bỗng thơm tho, món ăn tức khắc dâng tận mồm.

Kiểu này giống như ở vũ trường, sau hai tua nhảy là có ba mươi phút disco nhạc giựt. Hàng trăm vũ nữ áo quần thiếu vải đổ ra sàn nhảy quảy mông lắc ngực chìa háng, để chào hàng với các đại gia đang ngây rượu, dưới ánh đèn được bật sáng hơn. Đây là giờ phút chọn gà. Cô tài bán kiêm tú bà lắng nghe lời khách đã ngà hơi men. “Gọi cho anh cô váy hồng,” ngài Tổng phán. Anh gíám đốc ra lệnh “Gọi tôi cô áo hồng hở ngực váy xám.” Một nhà đại-gia-súc đề nghị với ngài thứ trưởng: “Anh dùng cô áo dài đen kìa. Cô ấy có vẻ ma nhưng lạ, lại cao cẳng, trường túc mà.” Tất cả sau đó biến theo nguyện vọng. Bụp, hàng được xử lý nhanh trong đêm. Đương nhiên đô la, nếu đắp lên cái-cô-có, sẽ dày cộm hơn nhiều.

Chai rượu vodka được mở nắp, rót ra một cái chậu sành gốm bát tràng có hoa văn đẹp đẽ. Henessy thuộc dạng cognac pha máu tươi không mấy khí thế. Mấy chục con mắt thực khách nhìn gã chuyên nghiệp một tay cầm ngang cổ con rắn hổ, một tay vuốt thân rắn, chọc sao cho rắn nổi cuồng. Một lát, thân rắn láng mượt đã hằn lên những đường thịt như vân gỗ. Cổ mềm đã vươn cao, cứng như một cái gậy. Hai cái nọc trong mồm rắn thò ra lắt lẻo. Anh bồi bếp chuyên nghiệp canh đúng lúc con rắn nổi giận đến mức máu lạnh cũng biến thành bầu nhiệt huyết xung phong. Phụp. Nhanh như cắt một nhát dao, chỉ một nhát, đầu rắn đứt lìa.

Gã bồi hạ cổ rắn cho máu phọt thẳng vào bát rượu. Cả bọn thực khách vỗ tay, rồi cụng ly rượu máu trong lúc chờ bảy món rắn được trình tấu sau.


02.

Tảo đang nhìn cảnh hấp dẫn, cười vui rồi bất giác mặt hắn tái đi. Tay chân Tảo run rẩy. Trong mắt có làn sương máu. Như là máu mưa ngâu. Một bầu trời hồng lạnh lẽo. Trong bộ nhớ của Tảo bật ra những hố bom nối liền. Hắn ngoi lên thụp xuống trong cái màn trắng nhờ nhờ ánh sáng mặt nuớc trên cao, pha lẫn bọt bong bóng từ mồm, người lịm dần chìm dần. Hắn chết ngộp trong nước hồi lên tám. Trong cơn máu hoang mơ lúc này Tảo có bầu trời về sáng, trăng lụa bạch, một người bò lê rồi bị đám đông chửi mắng mày là con thú trong lũ thú. Bị đánh đập tàn nhẩn,bị đám đông kéo đi xềnh xệch.Dây thừng cán cuốc lưởi nhọn. Cũng máu. Những vệt thương tâm ngoằn ngoèo trên sân nhà mẹ. Những sợi thừng như là rắn oan khiên đỏ. Là máu. Một mảng trời máu trong tiếng gà về sáng. Tảo xây xẩm. Bằng một thói quen được điều khiển từ vô thúc Tảo rút điện thoại cầm tay bước tới sát bàn nhậu nhìn bọn du côn, rồi gọi:

“A lô 113 đâu nơi đây có một bầy thú đang vui cười với máu. Đang uống máu."

Bọn giang hồ này rất kỵ 113. Nhưng nhìn thằng nhóc bọn nó chỉ cười, tiềp tục cụng ly máu. Lúc đầu có thể là lời gieo rắc vu vơ của một thằng người lập thể. Tảo lảo đảo ra ngồi cạnh cái bể xi măng hôi mùi rắn. Hắn vừa hồi tỉnh chút đỉnh lại chợt thấy một người bồi bếp đang cắt cổ mổ bụng một con chồn hương. Con vật tội nghiệp kêu vang, giẫy giụa trên nền máu. Nếu gọi cái ăn sang, cái ăn vui, cái ăn bổ là hạnh phúc, thì tất cả hạnh phúc trên nước non này đang ngự trên cái nền máu, trong vũng máu hòa máu.

Tảo rùng mình. Nghe lạnh châu thân. Hắn muốn khóc. Ma bắt, Tảo lại gắng đứng dậy, quày quả bước ngay tới bàn nhậu, nhìn thẳng vào mặt một gã to lớn, khiêu khích:

“Này con thú, sao mày không đi cải tạo cho rụng cái đuôi thú mày đi. Không muốn làm người à."

Câu nói chạm ngay mạch điện. Tức khắc một bàn tay hộ pháp chộp ngay cần cổ Tảo. Bốc thẳng nó lên. Dằn mạnh nó xuống nền quán. Chỉ một chiêu đầu thằng nhỏ đã hộc máu mồm.

Quán đang náo nhiệt bỗng lặng phắc.

Chủ quán cũng là một tay giang hồ, có khuôn mặt khá cô hồn, to cao, râu coi nón, tóc rễ tre, đứng im nhìn. Hắn là tay trùm nên quá biết bọn đang giết Tảo là một bọn đầu gấu, đang là lực lượng bảo kê cho các nhà hàng, vũ trường, hàng đầu băng nhóm mafia.

Chúng không chỉ có đường dây trong một khu phố, một thành phố này, mà cả Đà nẵng Hà nội Hải phòng. Chúng móc ngoặc sâu rộng từ đứa đâm thuê chém mướn rẻ tiền đến những thế lực có thẩm quyền bao che cho những vụ công khai giết người. Thế lực liên kết giữa nhiều ngành liên quan. Có thể nhất trí cao thay đổi hồ sơ, nội dung vụ án từ tử hình sang chung thân, có thể mười năm tù giam xuống thành nhẹ hều hai năm án treo. Cái rẹt, miễn có đấm mõm hậu hĩ.

Bọn giang hồ đang bị thằng Tảo chỉ mặt lúc này, đã từng thanh toán bè đảng bằng súng ngay giữa đường phố. Đã từng cho xe chặn bít bùng hai đầu con đường giữa ban ngày để thanh toán một quán cà phê. Bằng dao thái lan, mã tấu, chúng chặt tả hữu hàng chục người không gớm tay. Đương nhiên là rút êm. Thậm chí có hộ tống ngầm như từng hộ tống hàng đoàn xe buôn lậu.

Chủ quán đầu gấu mà lặng nhìn thì mọi người kinh hãi. Khách trong quán trả tiền rồi lần lượt rút êm. Một người khách đứng tuổi một bàn kế cận thấy cảnh bất bằng, nhỏm dậy định ra tay nghĩa hiệp. Một người bạn cùng bàn khuyên can:

“Ngồi im. Một thằng đổ máu là đủ rồi. Một ngày không nên thí mạng hai vị anh hùng rơm.”


03.

Tảo nằm thở ngoi ngóp trên sàn nhà nhơm nhớp nước bia rượu, nước bã thức ăn. Bọn du côn tiếp tục vui vẻ cụng ly. Hình như máu rắn trong ly rượu và máu người trên xác còm của Tảo thúc giục, bọn nọ muốn quậy. Chúng liếc quanh quán xem lúc hứng chí có thể đập thêm một vài thực khách. Không thấy ai khiêu khích, một đứa trong bọn cúi xuống nắm tóc Tảo lôi ra hè phố. Hắn kéo bờ ngực răng cưa ít thịt nhiều xương của thằng nhóc ghì ngay xuống cái đầu gối to bự. Hắn tra khảo:

“Ai dạy mày nói? Mày bảo ai là thú, là bầy thú thằng khốn?"

Hai con mắt sáng quắt, bừng cháy, bất ngờ Tảo nhìn ngược lên thằng người to lớn gấp ba, nói rành rọt:

“Mày là con thú trong lũ thú. Chúng mày đích thực là thú."

“Nói lại lần nữa xem.Thằng đấu gấu hung tợn gằn giọng."

Không do dự, Tảo máu đầy miệng thều thào nhắc lại chậm rãi, rõ ràng hơn:

“Mày là con thú trong lũ thú. Đời kiếp tập thể chúng mày là thú."

Mọi việc đã tức khắc được dàn xếp rất êm đềm.Thằng khốn nạn lên gối, quật Tảo liên hồi. Tảo không trải qua đau đớn nhiều. Nghĩa là không mất thì giờ trút những hơi thở cuối cùng. Em nóng hổi giây lát trên mặt đường. Duy đôi mắt còn mở, nhìn trừng trừng. Lạ lùng, sau đó, đôi mắt trắng ấy dịu đi, nhẹ nhàng, như được giải thoát, phía dưới là một khóe miệng cười. Làm sao Em có thể nở được nụ cười. Một cái chết nụ cười.

Xưa kia người mắng người là thú rồi kẻ mắng người giết người bị mắng nhục. Hôm nay thằng có tiền án giết người cướp của, đồng lõa với một tập thể cùng khắp thượng tầng, bị mắng nhục, đã hạ thủ người dám mắng mày là thú trong lũ thú.

Lúc xảy ra vụ việc giết người, tức khắc những nhà chung quanh quán rượu từ lâu đã quen cách kéo cửa mỗi khi có biến động. Bọn đâm chém nhau nhiều khi rượt đuổi vào tận phòng khách nhà anh gây vạ oan.

Mấy nhà đối diện một đôi người can đảm ngồi ngó ra đướng trò chuyện thanh thảng. Một cô gái tưới hoa trên ban công ngừng tay nhìn cảnh ngộ. Cô thấy thằng nhỏ trong áo quần ngủ sắc bốn năm lớp chồng liếp, nó như một cái hoa lạ đính trên vỉa hè Sàigòn.

Người người qua đường dừng xe đứng ngó xác Tảo một thôi rồi lặng lẽ bỏ đi. Không ai can thiệp. Không ai dám nhìn lâu.Việc ai nấy lo. Đời ai nấy sống. Can dự vào lại mất công ra phường khóm khai báo, làm chứng, bị vặn vẹo tra vấn phiền phức. Có ai trả lương đâu. Cho nên bất đắc dĩ thờ ơ. Tức tốc hóa lạnh máu mình.

Anh phu xích lô đạp xe qua, thay vì chở nạn nhân vào nơi cấp cứu, anh ta vội vã đạp xe dông tuốt. Có người gọi cũng chẳng dám quay lại. Dửng dưng. Tôi đâu muốn chết. Dại gì. Anh kinh nghiệm cùng mình.

Mấy tháng trước anh xích lô chở miễn phí một thằng không quen biết bị vỡ sọ não vì tai nạn xe hai bánh choảng nhau thảm khốc đến bệnh viện cấp cứu. Anh được mời ở nán lại để ký cái biên bản. Rằng anh chứng kiến vụ đụng xe chỗ nào? mấy giờ? có nhớ số xe? có quen biết nạn nhân? ai có thể cùng làm chứng với anh? những lời khai này là đúng sự thật?

Lại kẹt cứng nạn nhân không có giấy tờ tùy thân nên anh bị truy vấn số nhà của anh, phường khóm nơi anh cư trú, à dân tạm trú à, vì sao lâu thế mà anh xích lô chưa có hộ khẩu? Hôm sau anh phải quay lại vì người ta nghi ngờ đây là vụ thanh toán chứ không phải đụng xe. Mẹ ơi một ngày không có cuốc xe cho ra hồn, một ngày đói, thượng đế lại bổ sung một ngày xui. Đàn con nheo nhóc. Con mụ vợ có là bà quan thế âm cũng mở máy cằn nhằn.

Cũng chẳng ai mời gọi 113. Dù sao thằng nhóc cũng chết queo rồi. Bọn ác ôn giết người lặng lẽ rút nhanh như khói tan. Một đống máu trên vỉa hè giây lát trời đổ mưa sẽ nhòa xóa trong dòng sông phố phường. Đâu có gì ồn ào. Chẳng có gì thay đổi thế giới. Tích cực, thiện chí báo cho nhà chức trách ư? Có điên mới tự nhận thêm phiền hà.

Mỗi ngày hằng trăm cuộc gọi đến cơ quan hữu trách. Lại bao cuộc gọi dỏm, hiện trường không có thật, để chọc quê. Xe cứu thương, xe chữa cháy, xe mô tô nổ máy phì phùng, còi hụ inh ỏi, tới nơi chẳng thấy máu me khói lửa nào. Cho nên khi gọi vì thực sự có tai biến, người báo cấp phải khai kèm tên tuổi, số điện thoại, số nhà, địa phương nào để xác minh sự thật. Thế có điên mới gọi, trừ phi anh có cái điện thoại bằng giấy mã âm hồn như điện thoại của thằng Tảo.




VIII. BỌC NGOÀI ĐẮP MẶT XÁC TRONG


01.

Rất may, khi tôi và Jim tới nhà xác người ta mới bắt đầu làm thủ tục là xác của Tảo vô thừa nhận. Xác sẽ được chuyển qua cho sinh viên y khoa thực tập mổ thây. Đau lắm, nhưng tôi có cóc xơ gì trong người để có thẩm quyền nhận xác Tảo về khâm liệm. Tôi họ Trần, Tảo có họ mẹ là họ Lý. Hai họ này chỉ có cướp ngôi nhau trong lịch sử một dân tộc lắm cô hồn.

Tôi chở Jim cùng đến quê Tảo. Bà ngoại đã qui tiên từ khuya. Người chòm xóm chỉ vào tấm hình Tảo, mà tôi chụp ngày rằm tháng bảy ở Chợ lớn, lạnh lẽo trên bàn thờ. Cái thằng người không có hộ khẩu trong làng, nó khùng điên, đang được thờ chung với mẹ và bà ngoại từ bao năm. Tấm hình của nó đã nhòe thời gian, khung đã mối mọt nhai gặm hơn một nữa. Bây giờ ai báo tin hắn còn thây trong nhà xác? có mà xác của nhà văn chuyên hiện thực huyền ảo.

Cần Jim xác nhận anh em ư? Một Mỹ một Việt. Hai khai sinh hai xứ xa tít mù khơi. Hai bà mẹ đều lấy ngày nhặt được đứa con rơi làm ngày sinh. Cùng ngày cùng tháng sinh, anh em lại rất giống nhau, nhưng đâu có giá trị pháp lý để Jim nhận người anh song sinh về chôn cất. Còn đây hai cái bọc vải giống hệt nhau bằng gấm đỏ thêu thùa hoa vàng kim tuyến nào phải hai tờ khai sinh.

Chúng tôi không chứng minh được gì để nhận Tảo về chôn cất. Có Tề Thiên hóa phép tôi mới có được quyền tống táng đứa em thân yêu.

Thế mà trời cao xuống giúp tôi và Jim đấy. Thật lạ, lúc tôi chán nản, một tên môi giới đến gạ tôi giá cả chôn cất Tảo. Tôi đâm hỏang. Tôi nhớ tôi còn đang đứng trên một mặt đất hãy còn mặt trời có thật. Không hề có một dấu hiệu mơ hồ nào trong mọi sinh hoạt.Tôi thành thật nói với gã môi giới cái xác này vô thừa nhận, không thể nào làm thủ tục tống táng được.

Hắn nhìn Jim rồi nhìn tôi từ đầu tới chân, hỏi

“Ông thầy với chú em đây là Việt kiều hả?"

“Việt kiều thì sao?"

“Em thấy ông thầy với chú em không quen với khí hậu quê ta tí tị nào."

Tôi nói rất chậm rãi, như để giải thích cho chính mình:

“Tôi không là Việt kiều. Tôi nhắc lại lần nữa thi thể này nhà chức trách không cho tôi nhận. Anh làm cách nào mà lo thủ tục tống táng cho em tôi được."

Gã môi giới có lớp da mặt trắng nhờn mồm đầy râu thở phào, mừng đã vào áp phe. Hắn an ủi:

“Ông thầy chớ lo, có tay trong tay ngoài, đây là chu trình khép kín, bôi trơn từ A đến Z. Em sẽ lo cho thầy mọi giấy tờ hợp lệ để hoàn thành hậu sự. Nhưng thưa ông thầy giá cả không mềm."

“Không mềm là bao nhiêu?"

Nhanh hơn máy tính , thằng chả nói một thôi trơn bóng:

“Quan tài gỗ xịn, mộ tô đá rửa. Bia mộ cỡ lớn khắc chữ mỹ thuật, có nhà bia cẩm thạch. An táng nơi rộng rãi, đường xe hơi sau này thăm viếng vào tận mộ không phải cuốc bộ xa xôi. Thêm hai xe máy lạnh đưa thân nhân. Ban nhạc kèn trống đầy đủ. Thầy ưa nhạc tây, tàu hay nhạc dân tộc? À mà thầy đạo gì để em lo thầy cúng hay cha cố. Tiễn linh hồn về Cõi Phật hay Nước Chúa tùy thầy. Tất cả, giấy tờ, tiền hòm, tiền đất, tiền con dấu đỏ cán bộ thông qua, tiền bôi trơn để khỏi mổ thây giảo nghiệm, tiền khỏi làm khó, tiền xe, tiền chôn, tiền nhạc, tiền tôn giáo… vị chi tám mươi hai triệu Việt Nam đồng. Ông thầy trả cho em tiền USD càng tốt."

Hắn nuốt nước bọt cái ực, không cho tôi nói chen vào, hắn nổ ra phanh:

“Ông thầy chỉ đứng chơi là mọi việc hoàn hảo ngoài nguyện vọng. Em cam đoan ngọt ngào như tuồng cải lương. Không một ai thắc mắc hỏi han gây trở ngại trong suốt quá trình. Mọi giấy tờ có đầy đủ con dấu tròn đỏ hoét. Mọi giao tế bọn em đều giữ đúng nếp văn minh nhà hòm. Mọi đường đi nước bước theo logic kinh tế thị trường có định hướng. Từ đầu chí cuối, một tiếng trống kèn tới làn hương bay, không một ai có thể làm khó dễ thầy. Có tiền là có tất cả. Thời dịch vụ, thời mở cửa mà. Vã lại thằng nhóc này thuộc loại …thiếu nhi. À, thầy có muốn một giàn khóc mướn cho trọn nghĩa tình từ thương mến thương? Em có ngay một tốp pê-đê, khóc ép phê, rất chi điệu nghệ, nước mắt ròng, thống thiết hơn khi chính cha mẹ chúng chết. Nhưng xin ông thầy boa thêm."

“Tôi không cần khóc mướn. Chú lo cho em tôi đi."

“Ông thầy ứng cho em một nửa."

“Được."


02.

Trước khi mọi việc ngọt ngào như tuồng cải lương, Tảo được nhà xác đặt nằm trơ trụi trên một ô xi măng hình chữ nhật. Jim khóc ngất. Không một nén nhang cắm đầu.

Tảo bận mấy lớp áo quần lập thể như nhà thơ Bùi Giáng thuở sinh tiền. Nhưng giờ đây không nhận ra màu. Chỉ nham nhở một màu máu úa đen. Chỗ sọ não em vỡ ra. Khuôn mặt em, tuy thế, không buồn. Hình như một nụ cười đọng lại. Hình như em mang cả máu oan khiên của thế gian này ra đi.

Thật lạ lùng, khi tẩm liệm em tôi nhặt được cái điện thọai cầm tay bằng giấy vàng mã thuở trước em chộp được ở Chợ lớn trong ngày cúng cô hồn. Chao ơi em luôn xin tôi bao nhiêu là bao thuốc lá rỗng làm điện thoại qua ngày, để gọi a lô nơi đây có con thú trong bấy thú, nơi đây bầy thú đang ăn chơi mút mùa. Còn cái điện thọai này, cái lưu dấu cô hồn này, em biết giữ làm của tùy thân.

Chín giờ trôi qua em chưa được đắp mặt. Mắt còn mở, hiu hiu nhìn. Quanh tròng mắt em là máu đen đặc. Tôi vuốt mắt Tảo. Bảo Jim làm theo. Sau cái vuốt mặt, em nhắm kín hai mắt tạ từ.

Tôi lấy hai cái bọc gấm ra. Bằng y như nhau. Màu sắc đường kim múi chỉ y chang. Chỉ cái bọc bọc Tảo ngày xưa nay không còn sợi giây túm ở trên. Và màu sắc phai mờ hơn. Bà mẹ của Jim bảo quản kỹ lưỡng cái bọc của Jim trong một cái hộp sơn mài có hình hai con rồng trên nắp hộp. Lưỡng long tranh châu, chầu nguyệt.

Hai con rồng vàng trên nắp hộp từ Mỹ do Jim mang về, đẹp đẽ, bằng nhau. Hai con rồng chung nhau một hạt châu. Nhưng hai con rồng Tảo-Jim hiện thực nơi đây, trên Cõi đất này, con này thân xác bằng nửa con kia. Một con một đời cơ cực, ám ảnh điên tà, chết máu me không kịp ngáp. Một con kia trắng trẻo to đùng, hiền từ đến ngây ngô, khóc em song sinh theo kiểu Mỹ.

Tôi bảo Jim đợ cái đầu của Tảo. Jim run tay sợ sệt. Tôi trao cho Jim giữ cái bọc bọc Tảo bốn tháng tuổi chiều Hăm Chín tháng Tư, ngày miền Nam sắp được giải phóng, hay sắp lâm nạn, là tùy theo định nghĩa hai chiều thuận nghịch. Tôi thấy mây trôi trời bạc, tôi nghe xa sóng kêu rừng thở, tôi thơ thẩn nói: “Jim ơi, em giữ cái bọc của Tảo làm kỷ niệm cốt nhục.”

Tôi lấy cái bọc bọc Jim ngoài đại dương, cũng đêm lênh đênh xưa, tròng qua đầu Tảo. Tôi đắp mặt Em bằng một trong hai cái bọc. Một bọc xưa kia trên ven đường thất thủ. Một bọc được ném ra từ boong tàu chiều chia biệt.

Một cái bọc hôm nay thấm máu. Một bọc kia nước mắt.

“Tảo ơi, thôi Em đi. Tôi còn nán lại.”


Cung Tích Biền

Viết trong Vườn Cây Cau
Mùa Mưa Ngâu 06/07