có những điều không nói ra, chỉ ghi lại...
pn

Thứ Sáu, tháng 1 04, 2008

Đêm hoang tưởng


nhà văn Cung Tích Biền



“Đạo là con đường.
Con đường vẫn đi, có phải đường là Đạo.”
C.T.B


I

Phùng, tác người to lớn, da ngăm đen, tóc rễ tre, mắt một mí, bắp thịt cuồn cuộn, nom như một tượng đồng đen. Gia đình khá giả nhưng cha mất sớm, mẹ đi bước nữa. Phùng được người chú đem về nuôi, cho ăn học đàng hoàng. Năm Phùng mười lăm tuổi, người chú không may bị tai nạn chết, Phùng bắt đầu lêu lổng. Hai mươi tuổi đã bất mãn, khinh đời, lại muốn làm anh hùng cái thế. Cha Phùng thuở xưa là một võ sĩ, người cao to như vượn gấu, cuộc sống khá giang hồ; sau này Phùng lưu lạc nay đây mai đó với một sức khỏe hơn người, đô con như một lực sĩ.

Thuở Phùng còn bé, một thầy bói thấy tướng lạ, bảo với mọi người: “Thằng bé này bị phá tướng vì hai con mắt ti hí, lại lé, một âm một dương. Khuôn mặt này, dáng người này, nếu có được một đôi mắt to tròn, quang minh, sau này có thể làm đến tướng.” Về sau Phùng cũng làm đến tướng, có hàng đàn em út để sai khiến, nhưng là tướng cướp. Tướng cướp lừng danh một thời, được em út tôn là Đại ca.

+++

Đứng trên mỏm đá cao chỗ lưng đèo, chiều sương núi. Đại ca nghe như buốt nơi bả vai; một vết thương khá sâu, bị đâm bằng một lưỡi dao lê, cách đây vài hôm từ một gã đầu gấu bảo vệ toán người đào đãi vàng trên đường chuyển vàng về xuôi. Đây là lần thất trận đầu tiên có vấy máu trong đời Đại ca.

Thấy đàn anh bị thương nặng bọn đàn em lo lắng. Đại ca mắng: “Không có gì quan trọng. Tao đã từng trút khỏi cái người phàm phu này vài lít máu chẳng hề đi đong. Hãy bình tĩnh, tin vào thủ lĩnh là tao đây; chúng ta mần ăn cú này trót lọt, ngon xơi là về xuôi tha hồ ăn chơi. Phải có vàng, thật nhiều vàng.”

Đại ca nâng ống nhòm quan sát vùng núi non. Chiều tà.

Phía tây, rừng cây khô trọc, những mảng xanh đã chết tự bao giờ, sườn núi dựng trơ màu đất, chỉ đá tảng khe nguồn khô khốc bày lòng ruột sỏi đỏ như máu. Trước khi dân đào đãi vàng tới đây, bọn buôn gỗ đã cưa ngang rừng, tàn phá cây cối không nương tay.

Đằng đông, con sông dài cắt ngang một thung lũng nhỏ, thảo nguyên hoang dã; ven sông những bờ lau trắng; một vài xóm nhà thưa thớt vườn tược, tường vôi, mái ngói. Tất cả chìm trong màn sương núi. Nhưng màn sương quá mỏng, quang cảnh đã bày ra một mặt đất bị đào ngang bới dọc, những đường hầm cong queo, những đường hình chữ chi, những hố tròn sâu như lòng giếng. Nó chằng chịt, khắp ruộng đồng, tận trong xóm làng. Dân đào vàng đã cày xới cả mả mồ. Đất mẹ, trở thành một khuôn mặt rỗ đậu mùa. Tất cà tím ngắt, rợn lòng.

Nhưng cái thế giới hoang phế buồn bã ấy bỗng quyến rũ cái nhìn tham lam hoang mị của Đại ca. Hắn thấy đâu cũng là vàng, giữa nước non vàng. Hắn mê mẩn tê dại, quên cả vết thương trầm trọng đang rỉ máu nơi vai. “Vào hàng đá nghỉ tạm, chờ bọn người xuống Hòn Dừng. Bọn này chắc có tí chút đó.” Đại ca ra lệnh.

Bọn họ trước đây gồm tám người, nay phân tán còn một bộ ba. Dưới quyền Đại ca có Nhị và Tam ca. Đại ca mang án tù mười hai năm. Bị giam cầm ba năm thì trốn trại tù. Nhị ca cũng là một tội phạm vừa mãn tù mấy tháng nay. Tam ca khả ái hơn, “con nhà” có học, cũng từng phạm tội; hôm ra tòa, tòa xét còn non trẻ, chưa thành tích mấy chỗ du côn giang hồ, chỉ dại dột theo đóm ăn tàn, tòa cho Tam ca hai năm tù treo. Về nhà Tam ca không chịu được tính khắc nghiệt của bố cùng sự nuông chiều chả để ý gì tâm lý của con trai của mẹ, Tam ca bỏ nhà theo Đại ca. Nhất định tự lập, nhất định thử lửa cái chí bình sinh của mình.

Đại ca thường đùa với Tam ca: “Mẹ kiếp, đã tù còn treo, làm thằng trai trẻ tốn một sợi dây thừng. Này hảo bằng hữu, vậy đệ cột sợi dây vào đâu để treo cái án tù?” Tam ca cười trả lời: “Treo vô chỗ cần cổ bố em.”

+++

Nghề nghiệp bọn Tam ca là chặn dân đào đãi vàng trên đường về để cướp. Đây là một việc làm cực kỳ nguy hiểm, lại dễ vào nhà đá, nhưng bọn chúng cho rằng con đường ngắn nhất để vơ của, là tức tốc đổ máu tức tốc thu vàng tiền.

Từ nhiều năm nay cả một vùng bao la từ rừng núi đến trung du miền Quảng nam, Trung bộ – đất của tháp Hời, tượng đá xưa kia – đã xảy ra một hiện tượng ma mị, đáng kinh dị, là đâu cũng có vàng. Có nơi vàng trồi lên cả mặt đất. Như cơ thể con người dị ứng với vật thể lạ; lòng đất nơi đây dường như không chịu được cái sự để vàng trong bụng mình.

Dân bản địa bao đời lam lũ làm ăn trên nương rẫy khô cằn, nay trong đêm trăng lạnh lẽo bỗng thấy sáng rực hai bờ sông cát những giải vàng lấp lánh, rất nhiều vàng vụn lẫn trong bùn cát. Người ta bàng hoàng ngơ ngác. Khó tin vào mắt mình. Nhưng rõ là những bãi sông vàng. Vậy là bỏ ruộng nương cùng nhau hàng đoàn lớn bé trẻ già ra sông đãi lọc vàng từ cát.

Lại đào vào lòng đất. Lúc đầu một vài lỗ như lỗ huyệt. Sau, thành hào lũy. Ban đầu dân quê mùa bản địa mang vàng vụn đi bán; sau, có dân chuyên nghiệp từ tứ phương tới lập lò biến chế, tinh lọc vàng từ các tạp chất. Con sông tinh khiết bao đời đã ô uế đủ loại chất thải của người. Dòng sông mùa cạn đục ngầu hóa chất, có cả chất cực độc cyanua. Trân bò uống phải, lăn ra chết. Trẻ em tắm phải, mù mắt.

Nhiều nơi không phải công đào bới. Cúi lượm là có vàng. Một sớm mai ra vườn đào cái lỗ đất trồng cây bỗng nghe đầu lưỡi cuốc một tiếng cụp. Vàng. Cục vàng ròng to bằng cái triện son. Thỉnh thoảng trẻ chăn trâu cũng lượm được những cục vàng nho nhỏ ném nhau chơi trước khi bàng hoàng cất giấu.

Vàng đã trở thành một điều thiêng, làm người người mơ hoang, nhìn đâu cũng tưởng: “Dưới ấy có vàng;” kể cả dưới bàn thờ, giường ngủ, trong lòng ngôi mộ ông cố nội, giữa miếu thành hoàng, nơi gốc cây xanh em đang hái trái.

Từ đấy, trong mênh mông rừng núi vang vọng tiếng người, tiếng cuốc xẻng, cả tiếng máy xe đang đào ủi. Dân giang hồ tứ chiếng đổ về nhung nhúc. Xóm làng như trẩy hội. Lều trại mọc lên như nấm. Đầu làng chị nhà quê mở quán cà phê, cặp với anh thành phố mới mẻ nhập cái máy điện, thêm cái trò mục văn minh phim Hồng kông, hát karaoke, uống rượu tây; gà gáy sáng vẫn sáng choang ánh đèn cho những canh bài, những cuộc tình vội phía chái hè, dưới liếp lều căng tạm. Tiền bạc sáng lòa, vùi lấp trí óc người thôn dã; những chân tay chuyên cày sâu cuốc bẩm trở nên bất ngờ biếng nhác, đi rong rong ăn ké, chờ vàng nổi của rơi.

Vườn tược, đồi gò, nghĩa địa, cả những khu đất thừa của cơ quan, sân vận động, cũng khó thể lọt khỏi đôi mắt bọn khai thác vàng. Với cái giá thầu cao chưa từng mơ thấy, người ta đành lòng cho phép bọn lạ lẫm không bảo chứng, được tự do thăm dò, đào bới. Đó đây mộ chí khói nhang, do thanh toán nhau, do cực nhọc mà chết, hay khi quá mừng vui gặp phải một hầm vàng mà đứt đoạn gân máu, mà hui nhị tì bất ngờ.

Trong khói núi chiều xanh người ta mộng mị, nhà nhà hoang mơ; cõi thánh địa của huyền hóa, áp phe, tin đồn, dao búa, cúng lạy, chửa hoang; sáng nghèo trưa bỗng hóa giàu; sáng tươi vui ra đi, chiều đưa xác ma trở về. Niềm vui, âu lo, hạnh phúc, tai họa, thật khó phân ranh. Một cuộc địa chấn đảo lộn tận cùng thể xác tâm linh từ xó bếp tới bàn thờ.

Về mặt tâm lý, dân bản địa rất sợ nhặt được vàng cục, vàng khối. Cho rằng của phù vân, vàng linh của đất đai Hời. Trúng cú lớn quá, phát tài nhanh vù thì chẳng sống yên với đời. Sẽ chết bất ngờ, mọi cách. Chuyện kể về sự vụ này khá nhiều.

Một anh hãy còn trai trẻ, hôm đào đất đắp nền nhà vớ phải một cục vàng to như ổ bánh mì. Không tin điều dị đoan, anh ta tươi cười mang khối vàng nhặt được ra thành phố, bán được vô số tiền; mua cả xe tải vật dụng từ ti vi máy hát, cái tủ, bộ xa lông; lại mua thưởng mình một chiếc xe Dream cáu cạnh; ăn chơi mấy hôm rồi tự lái xe về.

Trên đường về anh ta rất khôn ngoan, không hề uống một cốc bia rượu; vậy mà tới chỗ ngã tư giao nhau giữa con đường nhựa và đường xe lửa, cái chắn báo có tàu đang chạy qua, cái đèn báo ngọn đỏ chạch nằm tòng teng trên cây ba-ri-e, anh chẳng thấy, chiếc tàu to đùng giữa ban ngày ban mặt cũng bị ma che, anh phóng Dream tốc độ James Dean, tông gãy cây chắn, xấn ngay bon vào lòng con khủng long phom phom. Chết tốt. Tàu đường sắt kéo xác anh đi mấy chục mét, lúc thịt xương anh thành bột, hết khả năng kéo mới thôi. Chiều hôm, cả làng ngơ ngác gáy lạnh.

Một chị đi tưng trong nắng chiều quàng xiêng bỗng nhặt được khối vàng khoảng mươi ký, tích tắc đứng ngây người như ma trồng, tích tắc chị la bớ làng bớ xóm ôi. Ôm cục vàng chạy về nhà, chị ngồi thất thần như quỷ đớp hồn, chờ đêm lên chị âm thầm mang cục vàng đặt lại chỗ cũ. Chị thắp một đám nhang khói van vái, rồi sụp lạy, cầu mong đất đai có hồn thiêng hãy bỏ qua sự vụ cho chị. Chị thề cùng trăng gíó cỏ cây thổ địa thành hoàng ếch nhái là chị không hề có lòng tham, chỉ tình cờ, nay của đất chị trả về cho đất.

Lại một ông luống tuổi, khá sành đời, nổi tiếng chúa đểu khắp vùng, chiều hôm đi thơ thẩn sang thăm đứa cháu nội; đường quê khập khễnh trượt té úp mặt trên đường; hai mắt trổ đom đóm vàng tanh; lúc lom khom bò dậy sao ông lại thấy chỗ cục đá bật ra một cục vàng bự quá thể. Nghĩ rằng trả vàng này lại cho đất đai vô tri thì vô lý quá; giữ lại làm của anh chúa đểu lại sợ tai vạ; trời muốn anh chầu trời thì trốn lên sao Hỏa anh cũng phải ăn cơm trời; cho nên trong đêm âm hao bóng núi anh nảy ra sáng kiến là chặt đục khối vàng ra nhiều cục nho nhỏ, như gói xôi cái bánh; anh giữ một ít làm của dưỡng già, còn bao nhiêu mang tặng kẻ thân quen mỗi người một ít, gọi là xả xui; chia đều cái chết; mỗi người chết một chút – nếu quả thực cục vàng Hời là bản sao của thần chết.



II

Bọn tam ca làm ăn cũng khá trong nghề cướp cạn. Chúng thuộc hạng người thà đổ máu tức thì để có cái ăn chứ không chịu đổ mồ hôi dằn dai trong công việc lương thiện. Chúng đứng ngoài cái trường phái “lao động là vinh quang.” Kiểm điểm trên thế giới thấy rõ bọn này không là thiểu số.

Mà vàng chẳng để chúng yên thân. Lúc ra thành phố bán được vàng, là ăn nhậu, bài bạc, động đĩ, tự thiêu trong cái túi hoang lạc. Đâu lại vào đó. Chỉ bọn gái đĩ bia ôm hưởng được những phát tiền boa điên khùng, và bọn lái vàng đã ăn chặn đuôi đầu. Mấy bộ cốt khỉ lại trở về những quãng đường hiểm để tiếp tục nghề cướp cạn.

Về mặt nghề nghiệp, bọn tam ca rất tài tình. Phục kích kín đáo chỗ hiểm, tấn công thần tốc, thu nhanh biến lẹ; luôn đoán trúng phóc trong đám đông đang di chuyển ai là người hộ tống, là chủ, là người giấu vàng, ngay chị đàn bà giấu vàng chỗ cửa mình. Lần nào phục kích chúng cũng thu ít nhiều.

Chỉ một lần chúng tấn công nhầm vào hai ông cháu một thôn dân ăn vận đàng hoàng; đánh gục, chúng lục soát khắp người nạn nhân mà chẳng vơ được chút vàng nào ngoài màu vàng của cứt nạn nhân vãi ra khi bị đánh bất ngờ, đang mỏm cửa tử.

Chúng liên miên thắng trận, chỉ hôm kia bị thua tan tác trước một đoàn đào vàng được hộ tống quá hùng cường, có cả lựu đạn, súng săn, dao mác nhọn, có thể đâm thủng da heo rừng.

Bây giờ bọn tam ca đã vào trong một hang đá, cửa hang quay ra đường đi chính của đèo. Trong hang có đầy rác rưởi của bọn tới trước bỏ lại, những vỏ lon bia, đồ hộp, giày hư vớ thủng, xú cheng đồ lót, những áo mưa sau khi hành lạc, những bó nhang muỗi, cả những loại nhang thơm dành cho việc khấn vái dâng hiến niềm tin cho thần linh. Mùi ẩm tanh pha mùi rừng núi lan tỏa.

Bọn chúng nằm ngang dọc, phạch trần ngực áo tu rượu đế, nghe nhạc qua máy cát xét. Tam ca vốn có suy tư cuộc chiến tí chút, mở máy, máy phun ra từ khi trăng là nguyệt, tôi nghe đời vỗ về tôi. Đại ca phẹt một bãi nước bọt, nổi cáu rủa đổng mẹ kiếp, đời nó toàn bộ ỉa đái lên cái thân phận rách nát của tao chớ vỗ về cái chi. Tam ca phân giải đây là nhạc sĩ nói ví mà Đại ca. Đại ca mắng: “Dẹp, tao bảo dẹp. Lấy dao cạo râu tới cạo lông ngực cho tao xem nào.”

Đại ca nhìn lung ra xa, nghe nhức buốt chỗ bả vai thương tích, máu đỏ thấm cả ra lớp vải băng một màu xôi gấc. Bỗng hắn nghiêng người, lắng nghe, rồi lớn tiếng:

“Chúng nó sắp tới rồi, kia kìa.”

+++

Xa xa một toán người đổ xuống lưng chừng con đèo thấp. Những âm thanh hỗn tạp đưa lại rì rầm như cơn mưa xa đầm đầm đổ tới. Đại ca nâng ống nhòm theo dõi. Một đám sinh vật màu chàm di chuyển mệt mỏi, áo quần lem luốc; mang, cõng, vác, khiêng đủ thứ vật dụng lỉnh kỉnh. Đây là một toán làm ăn lớn, thu hoạch khá, đang rời trại, về nghỉ. Trước và sau có bọn trai trẻ lực lưỡng hộ tống. Có cả xe honda chạy chậm, cẩn thận dò xét.

Đại ca cố quan sát trong bọn tải vàng xuôi con dốc mòn, đứa nào mang súng hoặc lựu đạn. Nếu đoàn người này không trang bị súng đạn thì bọn đại ca thừa sức chơi gọn.

Trận chiến đã thực sự xảy ra trên lưng đèo. Dân săn vàng không bất ngờ khi bị cướp đường; như rớt xuống nước phải gắng bơi, họ sẳn sàng cuộc đao búa; luôn coi vàng quý hơn máu châu thân, đứa này đi đong đứa kia tiếp tục tử chiến, miễn sao mang được của máu nước mắt về đến nhà.

Vàng được cất giấu mọi nơi có thể; ngụy trang đủ kiểu, có khi nấu thành thỏi nhỏ, nuốt vô bụng, về nơi an toàn mà ỉa ra, chảy máu trôn mà vui.

Bọn tam ca lúc này không cần hội họp phân công phối trí, chỉ tức khắc tự động vào cuộc, yểm trợ nhau tàn sát theo thói quen trận mạc; nhanh nhẹn hâm sôi bầu nhiệt huyết, vực ngay dậy nỗi thèm vàng đang rổn rảng reo vang trong não bộ; chai lỳ trước tiếng khóc than; nhứt mực xem máu người đổ ra như máu gà vịt lúc đánh tiết canh cho một trận mây mưa tao phùng.

Phải diệt gọn, thu nhanh biến lẹ. Tức khắc đoán ngay chóc đứa nào đang giữ vàng trong bọn để dứt ngay đứa đó. Giới hạn tối thiểu sự phạng lầm hơn bỏ sót, vừa mất sức lại lắm khi vong mạng vì đối phương say máu lúc mạng sống tơ mành treo tòng teng chổ cửa tử.

Trận chiến trên lưng đèo diễn ra ác liệt. Thuở Tề Thiên đấu với Thiên thần, trận địa nhuốm màu lãng mạn, ít ngổn ngang máu thịt, vì cả hai dùng nhiều bùa phép, mỹ thuật hóa đựơc chỗ tang thương, mã hóa phần nào sự thắng thua. Tiểu thuyết mà. Giữa đỉnh đèo này bọn dân dã không có phép thuật, chúng sử dụng bất cứ gì có thể gây máu để tự vệ.

Dao mác, gậy gộc, đòn gánh, đá cục, nồi niêu xoong chảo, kể cả răng trong mồm khi cần cắn vật nhau quay cuồng. Vũ khí thô sơ, không hiệu lực tàn sát hàng loạt nhưng tạo ra đủ loại vết thương man dã kỳ cục. Bị phạng vào gáy một cái cán cuốc mà về sau tê liệt tứ chi, hoặc man man mát mát thương nhớ nhà thương điên Biên Hòa suốt đời. Đã có đứa nhiều năm sau thân tàn ma dại, thầm trách số mệnh sao không cho đi đong ngay nơi chân trời cuối bến thuở giang hồ.

Bọn tam ca đục thẳng vào giữa đám người nơi có hai gã thanh niên tạo thế yểm trợ nhau di chuyển chậm, có thể đó là hai gã giữ vàng, tránh đụng độ. Đánh một lúc Đại ca nhận thấy trong đám hộ tống có mặt Gấu Chúa, một cựu thù khi còn ở chung trại tù năm xưa. Trên khuôn mặt Gấu Chúa hãy còn loang lỗ đen trắng một mảng sẹo, hậu quả một ca nước sôi do Đại ca tạt thẳng vào.

Chợt thấy Đại ca, Gấu Chúa mặt sẹo nhìn căm thù, nhưng hắn chơi sang, vừa đánh vừa tách Đại ca ra khỏi đám đông. Thanh toán tay đôi cho hả dạ. Những đứa con ngoan của luật giang hồ. Đại ca thuộc loại sức mạnh phi thường, nhưng đang thương tích. Hắn chọi mỗi lúc một yếu dần. Gấu Chúa bất ngờ quật ngã Đại ca, đè mũi dao nhọn vào cần cổ đối phương, nói rành mạch:

- Mày bị hỏng một tay, vậy tao cũng chơi một tay, nửa thành công lực thôi. Nào gắng lên chớ. Hãy cắt tiết nhau cho sòng phẳng.

Đoàn người thoát dần xuống chân đèo. Bọn Nhị và Tam ca quần theo để cướp cho được vàng. Trên lưng đèo, in nền trời chiều thẩm mây bay là hình hai gã giang hồ thanh toán nhau.

Màu chảy xối xả từ vai cổ mặt xuống ngực. Đại ca quay cuồng. Một loáng hắn thấy thế gian rực sáng, một thứ ánh sáng mê hoặc của ma men say đắm, hoa lá cỏ cây nạm vàng, sườn non sông nước bờ lau thung lũng đầu lâu sọ khỉ dòi bọ, cả hơi thở âm thanh ánh sáng đã rực rỡ hóa vàng, vàng tênh mùa cúng cô hồn tháng bảy. Rồi tất cả tím thẩm. Đại ca sức tàn gượng dậy, cảm nhận cái sắt lạnh một lưỡi dao bén nhọn kè vào cổ mình. Văng vẳng giọng Gấu Chúa:

- Tao tha cho mày.

- Hãy giết tao đi. Gấu Chúa, tao không van xin.

- Được. Vậy muốn cỡ nào?

- Tùy mày. Nhưng phải gọn. Tao không muốn thở dây dưa.

Gấu Chúa thọc thẳng lưỡi dao vào cần cổ Đại ca, ngoáy mạnh một cái, kỹ thuật dứt khí quản cổ gà khi cắt tiết, là xong. Nghẻo. Hắn đặt cái dao nằm cạnh Đại ca. Cởi áo khoác đắp lên thi hài kẻ đã bị chính hắn thịt.

Bọn Nhị, Tam ca lúc quay lại đã xông vào trực chiến. Gấu Chúa phán:

- Lui ra. Chúng mày không phải là đối thủ của tao. Lại không nợ nần gì nhau. Hãy chôn cất đàn anh cho tử tế. Sau này phải lo lắng chu đáo con cái đàn anh chúng mày.

Gấu Chúa lững thững xuống núi, cùng lúc nhận ra máu me đẫm người, năm sáu vết đâm khá sâu, không hứa hẹn sau này sức lực phục hồi bình thường.



III

Bọn đàn em cùng khiêng xác đàn anh về ngôi làng trong thung lũng. Núi trời đêm. Sông lạnh. Sao Hôm lẻ loi một góc trời.

Nhị ca nhìn mông lung nói:

- Cõi trời đất này vô duyên bỏ mẹ. Muốn chửi cha cái đời.

Bọn chúng hạ thủ lĩnh trên một bãi cỏ đầu làng. Tam ca chỉnh tề tâm sự:

- Nhị ca ạ. Đại ca anh hùng nay đã tiêu tán đường. Chúng ta nguyện sẽ có ngày rửa thù. Nhưng một ngày không thể không có vua. Em giờ đây nhứt trí nhiệt liệt tôn anh làm Tân Đại ca.

Nhị ca nhổ tọet bãi nước bọt, thịnh nộ:

- Chưa tống táng thủ lĩnh, cái xác còn chình ình trên mặt đất đã lo bề chia ngôi. Đù má mày.

Trăng lên cao. Âm dương trở lạnh.

Bọn chúng mong nghe một tiếng chào, mong thấy một bóng đèn một tiếng chó sủa. Nhưng tịnh không. Làng không có ai không còn ai. Như vừa bị tiêu diệt chiều xưa. Rải rác đó đây chuồng trại không súc vật. Xác mèo chó đã thành xương xẩu nơi xưa kia bếp hồng.

Một ngôi đình làng còn trơ một mái xiêu, mái kia sụp xuống mặt hồ nước, chẳng vuông tròn của bọn khai thác vàng bỏ lại. Nhận ra mùi xác người, một vài con quạ đêm bay tới. Chúng kêu mừng hạnh phúc kiểu quạ. Nhị ca buồn bã nói:

- Tưởng xóm người hóa ra đây là xóm ma. Có là ma quỷ cũng cho ta một lời chào. Sao tịch lặng đến rợn người thế này.

Tam ca nói:

- Chọc ma quỷ cho quỷ ma thức dậy đi. Chứ không được chào hỏi, không chửi bới buồn bỏ mẹ.

Bọn chúng nằm trên cỏ lạnh nhìn trăng khuya. Tiếng thác đổ từ xa đưa lại. Trong lòng núi bí ẩn trên kia có con sông Tiên. Khác với tất cả sông quê nhà miền Xứ Quảng, thường là phát đi từ núi tây để đổ ra biển đông . Sông Tiên chảy ngược về hướng tây, dọc trong lòng núi liền núi; thoạt nhìn ta có cảm tưởng sông Tiên có sức chảy ngược từ thấp lên cao. Một con sông dị thường. Một chạy trốn đồng bằng. Nhưng sông Tiên là cánh tay chuyển nước về miền thung lũng xa xôi trong núi thẳm. Là ân nhân mở đường, để sơn cước nhớ trung du.

Nơi đây là Phương Đông mặt tiền trái đất, trong chiều tà thế kỷ. Xưa kia, nơi thi hài Đại ca đang chễm trệ bên cạnh Nhị Tam ca này, hẳn phải có một ngôi làng sầm uất thân thương, nay mới là tro tàn bếp lạnh; đó đây là di chỉ chìm, mồ mả nổi. Mặt đất bao quanh Đại ca là những xương mất thịt, những thịt không máu hồn, những hồn không chỗ đậu. Dưới trăng lạnh hay trong ánh dương chói lòa ngày qua, là kia kìa, cái cánh cửa vào nhà không em bé, hương án tổ tiên nhện giăng đầy, nơi mẹ xưa kia ngồi dệt vải là đây xác mèo chó xương đen.

Một xóm làng chết trong tịch mịch mà lòng sâu của đất bị đào ngang bới dọc. Sông Tiên, con sông kinh lịch chảy bạt ngàn, không quay về Đông, nó đưa tiếng hát qua thung lũng này, nó thả hồn vào khóm lau bờ trúc, trải lòng thiên nhiên trong lòng người. Bản hùng ca đã bặt im. Tất cả trôi giạt, hóa đá trên một tinh thần thấp thỏm bình an.

Một đất Mẹ rùng mình đẩy vàng trồi lên. Ma động. Hoang hóa. Mộng mị. Bọn loạn tâm cùn thức ra công đào bới khắp cùng. Một bọn Sĩ ngơ ngác, bất lực. Một bọn điên kinh hoàng cảnh ngộ, minh triết hí lộng, gọi hồn đất đá; những tưởng, đá mới vẹn linh hồn, đất là nhân danh vĩnh cửu.

Có thể nào một cái sống đã không chốn nương thân, lại khi chết chẳng nơi chôn vùi. Không một lối đi nơi này. Chẳng đường về nơi đây. Mọi hiện thực như là vô định – sau một lưu đày đã định. Đạo là con đường, con đường anh đi, có phải là Đạo.

+++

Giữa đêm. Bọn Nhị ca tha thẩn đi quanh quẩn trong làng ma. Chợt thấy một khu vườn um tùm, một ngôi nhà lớn bên trong; nơi góc vườn một cây gòn rừng cao vút, cành nhánh ngang phè như gã khổng lồ đứng dang tay ngăn mây bay. Ngay cổng vào một tấm bảng lớn, với những dòng chữ cảnh báo:

“Nơi đây trước kia là ngôi nhà thờ của một tộc họ lớn. Mấy năm trước con cháu nghĩ rằng dưới lòng đất nhà thờ có vàng, nên đồng tâm khai quật. Đào tất tả ngoài vườn, đào xuyên dưới nền nhà, có thu được ít vàng. Con cháu lại gây nhau, ly tán.

Khách tham quan nên coi chừng, nhà tạm tạm còn đứng dưới trời mây nhưng sụp đổ gây thương tích bất cứ lúc nào.”

Cách đó không xa, một căn nhà khác, đứng cheo leo dưới bóng trăng. Chung quanh là hào sâu nước đọng. Nó như một ngôi đền trên mặt hồ. Lại có một tấm bảng thông báo:

“Đinh Phiên bán căn nhà này năm chục cây vàng, mang cả gia đình vào cao nguyên lập nghiệp. Bọn khai thác vàng đo la bàn, ngắm phong thủy, đã tính toán nếu phá căn nhà để khai quật sẽ thu hơn trăm ký vàng. Lãi chán. Chúng đào xới mấy tháng ròng. Lạ thay, đào ngoài vườn thì không sao, nhưng động một nhát cuốc vào nền nhà thờ Tộc, thì tức tốc có đứa lăn đùng ra chết.

Ba lần xâm phạm ba đứa vong mạng. Chúng bèn lập đàn cúng tế, yểm bùa nhưng đâu vào đó, có đào là có chết. Chúng đành thua thiệt bỏ đi. Vườn nay thành hồ nước trăng soi, mà ngôi nhà còn nguyên. Có người cho rằng đây là nhà trên hồ, rất hiếm nơi mạn ngược; mai kia có thể là thắng cảnh thu hút khách du lịch.”

Về khuya, trăng giải lụa trên xác người Đại ca. Đầu thôn cuối xóm vẫn một bãi tịch mịch, thênh thang những âm hưởng chịu tang, mênh mông bi tích.

+++

Bọn chúng khiêng đàn anh ra bìa làng. Đã thấy trăng chênh chếch phía núi. Gió xao xác như nghìn nghìn âm binh sắp về đây mở hội. “Vong hồn, hãy mời ta cốc rượu. Sỏi đá, hãy cựa mình đi. Sao thê thiết quá vầy.” Nhị ca than thở.

Tam ca đặt thủ lĩnh lên một tảng đá bằng phẳng, lấy nước rửa mình mẩy máu me, lại vốc nước sông trăng uống ực.

Rồi như huyền hoặc xảy ra. Núi màu chàm trong đêm sương về sáng. Gíó ngan ngát như mang hơi mưa từ xa mùa đông.Không gian bỗng đượm mùi hương lạ; mùi phấn son, bùn lầy, mùi hoa dại, lá khô; mùi thịt xương cũ. Quả thật đâu đây là một mùi thiên địa, tổng kết giữa chết thật sống hờ; ngây ngây. Nó như tri hô xa vắng của vong hồn, âm vang chết, là thách thức, cổ lục, của một bình minh đêm; lênh láng, tê dại.

Nhị Tam ca bất giác lâm vào cơn hiu hiu, khi đôi tay vẫn sờ nắm một cách vô thức lên cái cần cổ thủ lĩnh máu cục đọng đen từ chiều. Bỗng như có động vang từ rừng núi. Một làn hương đưa một bước chân người.

Một lão tiên ông tóc trắng râu bạc mấy chòm xuất hiện, là đà như có như không. Lão ông từ tốn bảo Nhị ca:

“Hãy tìm nơi chôn thủ lĩnh các người đi. Đừng để thân xác lâu ngày trên mặt đất, dù trong lăng tẩm, là không nên.”

Nhị ca trả lời:

- Không thể chôn nơi đất chết này.

Lão ông dạy:

“Nơi đâu cũng là đất Mẹ. Một cái xác phải được trả về lòng Mẹ êm ấm mới thuận đạo người. Mẹ rộng lòng tha thứ, kể cả thủ lĩnh các ngươi. Không nên để cái xác phàm lâu dài trên mặt đất.”

Tam ca sừng sộ:

- Khế lão nói vậy là trật rồi. Đời có lỗi. Đại ca tôi không hề có tội.

Lão ông cười hiền hòa:

“Ta không tranh biện lỗi phải cùng các người. Có những thân phận lịch sử bây giờ chưa nhận định lỗi phải, huống gì nhân thân hạn hữu các người.”

Nhị ca ngơ ngác:

- Chúng tôi là bọn du côn du đãng, khế lão nói chuyện trên trời dưới đất làm chi vậy.

Lão ông bỗng phất tay áo. Một cây trượng như gậy vươn cao làm hiệu. Tức thì bùn lầy cát bụi quá khứ vị lai cỏ cây diều quạ xương gà lông chó đều biến thành những khối sáng lòa. Vàng đầy trên mặt đất. Vàng bay la đà, vũ múa như công như bướm. Lại tỏa mùi hương ngất ngây; phát ra tiếng đàn tiếng sáo. Rì rào. Tỉ tê. Ngọt. Bén. Làm gỏi tâm linh bọn Nhị ca.

Lão ông nghiêm giọng bảo:

“Các người hãy nhặt lấy vàng mà đi đi; cho thỏa.”

Trong cơn mê động Nhị ca vuốt tay lên những khối vàng óng ánh, nghi ngút thì thầm:

- Đại ca ôi em sẽ dệt cho Đại ca một cái hoàng bào tuyền bằng sợi vàng. Sẽ đúc một cái quan tài vàng ròng mà tống táng Đại ca. Sẽ làm một cái tượng đài cao ngất trời mây tưởng niệm Cái Đức du côn anh hùng đầu đảng của Đại ca.

Lão ông mắng:

“Chớ thánh dại thần điêu. Chớ nên chôn châu báu theo người như bọn vua chúa đã làm. Sẽ sinh ra điều ác, nảy lòng tham. Kẻ hậu thế phải tội quật mồ, vơ vét châu báu, còn hài cốt các Người sau đó vung vãi như xương cốt súc vật chim ngàn.”

Bọn cướp cạn nghe lời phán dạy bỗng kinh hoàng van nài:

- Vì quen thói du côn chúng con trót dại, xin tiên sinh chỉ giáo.

“Ta không phải là tiên sinh của các ngươi, theo nghĩa thông thường. Ta là Tiền nhân. Trong xác thân du côn du kề các người đã có một phần xác mỗi phần hồn của ta. Trong bình sinh gieo rắc, Ta và các người, các người cũng là Ta. Hãy nghe đây, mau rời bỏ mê cuồng, hãy nhặt lấy vàng rồi cút đi. Hãy trả lại quê hương này cuộc bình yên.”

Bọn Nhị ca cuống quít nhặt vàng. Lại điên dại hỏi theo cái vi mạch tham lam hằng có:

- Tiền nhân ôi kính thưa! Có tài biến hóa làm vầy sao Tiền nhân không biến quách cái giải cát đất cỗi cằn cháy nắng mưa dầm hình chữ S này thành một khối vàng ròng. Một cái chữ S vĩ đại từ Nam Quan chí mũi Cà Mau rừng vàng, biển cũng vàng mẹ nó luôn chớ biển bạc mần chi, cho con cháu nhờ.

Bây giờ thì lão ông đã biến mất, nhưng giọng rao truyền ấm áp còn vọng lại từ đèo cao, nơi ban chiều thế gian đã vầy cuộc truy đuổi chém giết máu, vì vàng:

“Một phần xác và hồn của Ta hãy nghe đây.

“ Chớ đắm mình trong điệp điệp mơ hoang rừng vàng biển bạc. Chớ lênh đênh theo khí chất mong đạt giàu sang qua ngõ tắt. Hãy rời khỏi nơi nương náu ngủ ru trùng trùng hứa hảo, hẹn bừa, những điều hiện thực không thể. Hãy bừng sáng một thể linh tiên niệm. Hiểu Núi sông và giữ lấy Tự nhiên.

“Sống như lũ chúng mày là phá nát giang sơn này rồi. Đã kim loại hóa từng phần những tương lai, hy vọng, niềm tin của bao nhiêu người. Giả thử từ Nam Quan tới mũi Cà Mau, từ biển Đông con dã tràng xe cát cho chí Trường Sơn mông muội bỗng một sớm nọ biến thành một khối vàng ròng hình chữ S – lấp lánh tận giải ngân hà, độ sâu cắm tận lòng đất – thì các người sẽ ra làm sao?

“Ngày ấy là chấm hết toàn bộ cốt căn bản địa tổ tiên giống nòi, kèm theo cái bất đắc kỳ tử của chú ong mật con bướm vàng. Sẽ là cuộc tiêu trừ sự sống triệt để. Có thể thế ư. Hình chữ S này là đời đời của Đất, chỉ là Đất. Khô xảm, ngập lũ, trăn trở, chờ trông hóa đá, vẫn hoài hoài rực rỡ Đất.

“Đây là nơi của tanh thơm mùi bùn, mùi sỏi máu, của đậm đà khổ đau hạnh phúc; của ríu rít chia lìa hạnh ngộ; nơi cây trái mọc xanh con chim hót; chỗ róc rách con cá lội; con vi trùng đương nhiên tự do mình mẩy; cỏ dại núp bóng nhau; nơi người có thể giết người; nhưng beo cọp âu yếm liếm cọp beo.

“Nếu nghìn triệu thước đất Mê Linh chí Gia Định này biến thành vàng ròng một giải, chúng mày sẽ đi về đâu? Phải hóa đá mới tồn tại. Sẽ là những hình nhân vàng vô tri, ăn uống nói năng hội nghị làm tình trên một địa đàng vàng được sao?

“Khó thể toàn bộ giang sơn là một tổng thể kim loại. Còn nơi nào cái lỗ chôn nhau cắt rún. Tìm đâu cát bụi mơ mòng. Đâu nơi sở trụ một linh hồn cần nương náu quê hương. Mơ hảo. Khó thể một dân tộc, thể chế, đất đai, một sớm mai vui mừng đã kim loại hóa toàn phần.”

Nhị ca trở mình hỏi Tam ca:

- Mày vừa nghe thấy gì? Tao nghe gió nổi.

Tam ca nói:

- Hình như đêm qua làng này trẩy hội. Nửa khuya đèn đuốc lập lòe. Lúc về sáng thánh đường kéo chuông vang động. Mà sao là chuông báo tử?

Trời sáng tỏ. Một trận gió lớn thổi tung những bụi mù trong nắng. Bọn cướp đường choàng dậy ngó quanh. Không Tiền nhân. Chẳng có xác Đại ca nào đây. Không có núi không có sông. Không nhìn ra mặt núi sông. Không một mảy may vàng.

Chỉ quanh đây những luống cày, màu đất vàng khô. Một chị vải thô chân đất đem mong chờ đến cho một ai đó trên những luống cày.

Một thằng bé truồng cười trong nắng.


Cung Tích Biền
Bến Nghé, Sàigòn 1993