có những điều không nói ra, chỉ ghi lại...
pn

Thứ Tư, tháng 11 16, 2016

Hallelujah




Hallelujah là tiếng Do thái nguyên nghĩa là Vinh danh Jehovah, thường dùng khi bày tỏ lòng kính tín, Tạ ơn Chúa. Nhan đề bài hát, cộng thêm giai điệu trầm buồn thoạt nghe dễ nhầm đây là một bản thánh ca. Ca từ cũng nhắc nhiều đến những điển tích từ Kinh Thánh.

Now I've heard there was a secret chord
That David played, and it pleased the Lord

Nghe kể David từng chơi một hợp âm bí mật, khiến Chúa đẹp lòng

Đoạn đầu bài hát nhắc đến David, là vị vua giỏi võ vừa hay nhạc của người Do Thái, tứng chiến thắng gã khổng lồ Goliah. Đoạn 2 kể về một "chiến công" khác của vua David

Your faith was strong but you needed proof
You saw her bathing on the roof
Her beauty and the moonlight overthrew you
She tied you to a kitchen chair
She broke your throne, and she cut your hair
And from your lips she drew the Hallelujah


Có thể theo dõi đầy đủ câu chuyện này trong Cựu Ước, 2 Samuen 11 (và các chương tiếp). Đại khái như này. Một hôm vua David lên nóc điện vua, nhìn thấy một cô gái đang tắm. Hỏi ra biết đấy là vợ của một chiến binh đang ở ngoài mặt trận. Bèn cho đòi nàng vào cung. Đến khi nàng có bầu bèn cho gọi anh chồng về, vờ hỏi dăm điều ba chuyện về tình hình địch ta rồi cho anh chàng lui về nhà nghỉ ngơi. Nhưng anh chồng không về nhà, mà ngủ lại cùng đám người hầu của vua. Hỏi sao thì bảo không nỡ về ngủ với vợ khi bao nhiêu chiến hữu còn ăn gió nằm sương chiến đấu với quân thù ngoài kia. Mấy đêm đều thế, vua biết kế hoạch nhờ đổ vỏ ốc không xong, bèn cho điều anh chồng trở lại mặt trận, vào nơi hiểm nguy nhất, rồi bỏ mặc cho quân địch sát hại. Sau đó nhà vua lấy cô vợ. Nhưng cuộc sống cũng chẳng mấy vui: đứa con sinh ra liền bệnh chết, và nhiều tai họa khác Thượng đế trừng phạt.

Đoạn trên còn dùng một đển tích nữa, cũng lấy từ Cựu ước: and she cut your hair. Là nhắc đến chuyện Samson bị Delilah lừa cắt tóc để làm mất hết sức mạnh. Từ khi thấy người đàn bà kia tắm, David đã gục ngã. Nàng đã cột chặt nhà vua vào chiếc ghế ấm áp trong phong ăn, làm nhà vua vỡ vương miện, mất sức mạnh. Bằng đôi môi ngọt ngào, nàng đã rút đi lòng kính tin của nhà vua đối với Jehovah.

Bài hát nói về Thượng đế, về tình yêu. Một thứ tình yêu trần tục, nghiệt ngã

Maybe there's a God above
But all I've ever learned from love
Is how to shoot somebody who outdrew ya

Có lẽ có Chúa ngự trên trời. Nhưng tất cả những gi ta học được từ tình yêu là làm như nào để triệt hạ tình địch ngon hơn ta.

Triệt hạ được đối thủ rồi thì cũng chả ra làm sao.

There was a time you let me know
What's really going on below
But now you never show it to me, do you?

Đã có một thời em kể ta nghe hết mọi điều. Nhưng giờ thì em không còn muốn tâm sự gì với ta nữa, hở em?.



Leonard Cohen (1934 - 2016)

Mưu toan giành giật để cuối cùng được một tình yêu như thế ư. Một tình yêu ít niềm vui mà lắm nỗi buồn, ít sẻ chia an ủi, mà nhiều chịu đựng, đớn đau. Cuối cùng là sự xa lạ, cô đơn. Thế nhưng tại sao, bất chấp mọi điều nhiều người sẵn sáng vứt qua một bên những tín điều cao quí, lao vào như con thiêu thân tìm đến thứ tình yêu bọt bèo trần tục ấy? Cohen trả lời trong một cuộc phỏng vấn, khi được hỏi về ý nghĩa bài hát: Thế giới này đầy những xung đột và đầy những thứ không thể hóa giải (..) Phút giây duy nhất bạn có thể sống thoải mái với những xung đột tuyệt đối không thể hòa giải ấy là khi bạn ôm hết nó vào lòng và thốt lên "Xem kìa, tôi không hiểu cái điếu gì cả - lạy Chúa". Đấy là phút giây duy nhất ta sống hoàn toàn đúng như một con người. (This world is full of conflicts and full of things that cannot be reconciled, (..) The only moment that you can live here comfortably in these absolutely irreconcilable conflicts is in this moment when you embrace it all and you say 'Look, I don't understand a fucking thing at all - Hallelujah!' That's the only moment that we live here fully as human beings).

Bài hát được Cohen thai nghén trong hơn 5 năm, đã viết xuống 80 ca từ khác nhau, cuối cùng mới chọn bản vừa ý nhất cho album Various Positions (1984). Tuy vậy, khi mới phát hành bài hát không mấy thành công. Trên thị trường Mỹ, bài hát không được mấy ai chú ý. Dylan thích bài hát, đặc biệt đoạn cuối, từng cover bài hát trong hai show diễn của ông năm 1988.


Vài năm sau John Cale cũng cover bài hát cho album Fragments Of A Rainy Season (1992).


Bài hát dù vậy vẫn chưa tạo nên tiếng vang gì. Một ngày đầu thập niên 1990, phiên bản của John Cale lọt tai một nghệ sĩ trẻ (sinh 1966) Jeff Buckley. Anh thích và cover cho album đầu tay Grace (1994).



Ba năm sau, 1997, Buckley mất. Cái chết của người nghệ sĩ trẻ tài năng đầy triển vọng khiến mọi người tìm lại nghe các bài hát Buckley đã thu, và Hallelujah do Buckley cover được phát hiện lại, được mọi người chào đón nồng nhiệt. Năm 2004, phiên bản cùa Jeff Buckley đã được tạp chí Rolling Stone bình chọn vào danh sách 500 ca khúc hay nhất mọi thời.

Cho đến nay đã có hàng ngàn nghệ sĩ khắp nơi trên thế giới cover, chuyển ngữ Hallelujah qua nhiều thứ tiếng.

Phiên bản sau của Rufus Wainright hát cùng em gái và bạn gái của mình trong phim tài liệu về Cohen I'm Your Man (tên phim lấy theo nhan đề một bài hát của Cohen)


Damien Rice tại lễ công bố việc Leonard Cohen được ghi danh vào Rock and Roll Hall of Fame (2008)


k.d lang, đồng hương Canada của Cohen



Pentatonix, nhóm nhạc A Capella đến từ Texas


Nhiều thí sinh trong các cuộc tranh tài đã chọn Hallejula làm tiết mục biểu diễn. Alexandre Burke, cô gái người Anh sinh 1988, đã chiến thắng trong X-factor 2008 với Hallelujah. (Sau đó cô đã thu Hallelujah cho single đầu tay của mình, và single đã từng giữ kỷ lục châu Âu với 105 ngàn đĩa được bán ra trong vòng 24 giờ)


Andre Rieu


Richard Clayderman




Khung K