có những điều không nói ra, chỉ ghi lại...
pn

Thứ Tư, tháng 7 29, 2015

Hoàng Thọ



Những năm loạn lạc, các phe phái nổi lên như loài thảo khấu. Tất cả đều lấy danh nghĩa chống Pháp, giành độc lập cho nước nhà. Họ chống Pháp, nhưng đồng thời cũng chống nhau. Thời đốn mạt, phe nào cũng tự cho mình là chính nghĩa. Ðến thằng ăn cướp giết người, cũng lấy tiếng vì dân làm cách mạng. Kẻ chân lấm taybùn chẳng biết tin ai. Chân lý có một, mà nghĩa lý thì rối bung. Bọn có học bảo sách vở thánh hiền là khuôn vàng thước ngọc, rồi tự giải thích theo ý riêng của mình. Miệng lưỡi của bọn mọt sách thật đáng sợ. Nói xuôi cũng được, nói ngược cũng hay. Trong cái đầu ti tiện của bọn này, chất xám chứa đầy những tế bào vị kỷ, lọc lừa, phản trắc. Những lời khoác lác không thấy gươm đao, nhưng lọt vào lỗ tai có sức tác hại rộng lớn. Ðám vô lại thì chữ nghĩa mù mờ, còn biết tranh biện làm sao? Với chút máu du côn cộng thêm tính khí liều mạng, họ muốn làm anh hùng ra tay nghĩa hiệp trừ gian diệt bạo. Họ càng làm nghĩa hiệp thì xã hội càng bất an. Họ thường qua lại trên chốn giang hồ, lấy câu "tứ hải giai huynh đệ" kết bè lập đảng, tự cho mình là hảo hán. Họ chứng tỏ lẽ phải bằng con dao cái búa, chủ trương giải quyết bất công xã hội bằng hành động. Dân đen có chút tiền của, ngày đêm nơm nớp lo sợ. Biết đâu là kẻ cướp, biết đâu là cách mạng? Hôm qua là tên lưu manh giết người giựt của. Hôm nay bỗng thay hình đổi dạng thành người cách mạng. Vàng thau lẫn lộn là câu nói văn hoa vô nghĩa. Thời đốn mạt kẻ tinh đời ẩn mật, không xuất đầu lộ diện. Còn lại những đồng chì thau thiết, thì những thứ này lại nằm trong hầm phân hố xí. Cái môi trường ghê tởm, vấy bẩn tất cả.

Lúc bấy giờ, Việt Minh nổi lên thu phục những tên côn đồ dao búa làm tay chân, trong đó có Hoàng Thọ. Thủ đoạn của Việt Minh là tuyên truyền mị dân, khủng bố, thủ tiêu. Giết người thủ tiêu là ngón nghề của Thọ.

Thọ là tay anh chị ở Hải Phòng trôi giạt vô Nam. Mặt mày bặm trợn như Trương Phi. Mắt xếch, càm bạnh, râu rậm tới mang tai. Thân hình vạm vỡ, cánh tay săn chắc, ngực vồng lên, ức mọc một chòm lông. Thọ xuất thân từ gia đình nghèo. Thuở thiếu thời có lúc phải nương vào cửa Phật kiếm ăn. Sư chùa thương thằng bé siêng năng lanh lợi, truyền cho võ nghệ với mục đích mai sau giúp đời. Năm mười bảy tuổi, Thọ cởi trần gánh nước, sư nhìn thấy lún phún chòm lông giữa ngực. Sư quay đi không nói gì. Từ đó, sư không truyền võ nữa, thuần dạy gõ mõ tụng kinh. Thọ chán, khăn gói ra đi. Sư chép miệng, "râu rìa lông ngực là tôi phản thần".

Thọ vào đời, xông xáo múa võ kiếm ăn. Trên chốn giang hồ, Thọ khét tiếng ra tay tàn độc. Một lần đối đầu với gã anh chị tên Luân Mặt Ngựa, thủ lãnh đầu gấu bến tàu Hải Phòng. Thọ hạ đo ván, và đánh gãy một chân đối thủ. Luân Mặt Ngựa nằm co quắp, cắn răng nén đau, giương mắt nhìn trừng trừng vào mặt Thọ. Thọ đứng quan sát một hồi, bỗng nói, "Ðịt mẹ! Dứt điểm luôn, không cho mày có cơ hội phục thù." Nói xong, Thọ bước đến, vươn hai ngón tay trỏ và giữa thọc sâu vào hai hố mắt của Luân Mặt Ngựa. Hai tròng mắt lòi ra, Thọ tóm tròng mắt ném xuống đất, lấy chân dày xéo lên nát bấy. Rồi Thọ đứng giạng chân, lôi dương vật ra đái vào mặt Luân Mặt Ngựa, trước sự chứng kiến của đám đàn em Luân Mặt Ngựa. Không thằng nào dám cử động nói năng. Gã thủ lãnh đầu gấu nằm quằn quại trong máu và nước đái. Thọ thản nhiên bỏ đi. Mấy ngày sau, Thọ quay lại bến tàu Hải Phòng và nghiễm nhiên trở thành thủ lãnh của bọn đầu gấu, thay thế Luân Mặt Ngựa

Khi Nhật đảo chánh Pháp, tàu Nhật ra vô kiểm soát cảng Hải Phòng. Trước khí thế súng đạn của quân phiệt, Thọ mất địa bàn hoạt động. Bọn đàn em phân tán tứ phương, Thọ đầu quân ngay vào lính hải quân Nhật, được dạy nghề thợ điện. Ngày Nhật đầu hàng Ðồng Minh, rút khỏi Hải Phòng, Thọ không theo. Thọ quy tụ lại đám đàn em thất lạc, sống tiếp tục bằng nghề đâm chém. Giai đoạn này, Thọ có biệt danh Thọ Mạch Lô, để chỉ thời gian đi lính hải quân Nhật. Khi Việt Minh nổi lên cướp chính quyền, Thọ hùa theo đoàn quân Cứu Quốc. Từ đó, Thọ giạt vô Nam làm tay chân bộ hạ của tướng Nguyễn Bình.

Cả tỉnh Tây Ninh ai nghe danh Thọ cũng đều khiếp hãi. Vùng hoạt động của Thọ là Gò Dầu Hạ, Trãng Bàng.Mục tiêu của Thọ là chức sắc đạo Cao Ðài, và những kẻ làm việc cho Pháp. Người chết dưới tay Thọ không biết bao nhiêu mà kể. Hành tung của Thọ vô cùng bí mật. Thoắt hiện thoắt biến khó lường. Bóng đêm là thế giới của ma quỷ. Khi vầng dương chìm khuất, Thọ nương theo khí âm trở về. Bao giờ Thọ cũng xuất hiện lẫm liệt, hông trái súng ngắn, hông phải gươm dài. Trang bị theo kiểu cấp chỉ huy lính Nhật. Thọ xuất hiện là có đổ máu. Giết người không nháy mắt. Cắt cổ, đập đầu thả trôi sông. Cần thanh toán nhiều người cùng một lúc, Thọ cột thành bè ra tay một loạt là xong.

Khúc sông Vàm Cỏ Ðông chảy ngang qua hai huyện Gò Dầu Hạ và Trảng Bàng là mồ chôn những nạn nhân của Việt Minh, và của bọn Pháp. Người dân sống theo hai bên bờ sông, cứ vài ngày lại thấy chà chổng nổi lên, trôi lềnh bềnh theo những cụm lục bình. Thời kỳ này, người ta gọi khúc sông này là khúc sông chà chổng. Nhìn dấu tích trên thi thể, người ta biết ngay là do Pháp, hay do Việt Minh sát hại. Pháp giết người bằng cách trói thúc ké nạn nhân, đưa ra cầu tàu Vên Vên bắn và hất xác xuống sông. Việt Minh không bao giờ phí đạn với những con mồi nằm sẵn trong tay. Họ cắt cổ, đập đầu.

Ngoài thủ đoạn ám sát thủ tiêu, Thọ còn có biệt tài đánh trận. Nổi tiếng gan lì, từng gây cho quân Pháp nhiều tổn thất lớn. Thọ được tướng Nguyễn Bình phong làm tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn 303, quân khu 7. Ðể phô trương lực lượng, đêm tối trời Thọ cho quân di chuyển chung quanh làng. Quân đi cả đêm. Người ta tưởng đoàn quân đông đến hơn trung đoàn. Thật ra, chỉ là trò mị. Quân của Thọ tiếp nối nhau, đi theo vòng tròn kín. Một người có thể ngang qua một địa điểm mười lần. Như thế đoàn quân của Thọ được miệng đời nhân lên gấp mười. Ðó chỉ là một trong những tiểu xảo lừa mị dân đen của Việt Minh.

Thọ mê truyện Tàu, khoái nhân vật Hạng Vũ. Chủ trương quân cần tinh, không cần đông. Bắt chước Hạng Vũ hành quân thần tốc, dàn quân theo thế tử chiến. Phía trước là địch quân, phía sau là sông ngòi khó di chuyển. Ở vào cái thế không thể lui binh, buộc quân sĩ phải liều chết xông lên tìm đường sống. Trên trận mạc, Thọ tỏ ra tháo vát, can đảm phi thường. Thọ thường tổ chức phục kích đoàn quân xa tiếp vận của Pháp, thu được nhiều vũ khí đạn dược, quân trang quân dụng. Nhiều lần được ghi công lớn. Trong đời, Thọ chỉ thất bại một lần duy nhất. Và lần ấy cũng là điềm báo vận mạt cho Thọ.

Theo chiến thuật cũ, Thọ đưa quân về Vên Vên Trà Võ phục kích đoàn xe tiếp vận của Pháp. Nửa đêm, quân của Thọ đào hầm độn thổ. Phía sau là sông Vàm Cỏ Ðông, phía trước là rừng cao su bạt ngàn chạy dài lên tận Cầu Khởi, nối tiếp với mật khu Bời Lời. Lúc mười giờ sáng, ba chiếc auto blindé mở đường vừa qua khỏi, thì chiếc xe đầu của đoàn tiếp vận trờ tới. Thọ chờ cho tất cả đoàn xe lọt trọn vào ổ phục kích, liền nổ súng khai hỏa. Quân của Thọ từ dưới đất trồi lên, giáo mác và súng "mút cà tông" xung phong ào ạt. Khí thế vô cùng dũng mãnh. Nhiều xe đâm đầu lật xuống mương hoặc bốc cháy. Thế trận đang nghiêng phần thắng về phía Thọ. Bỗng từ đâu trong rừng cao su, lính Lê Dương xuất hiện phản công mãnh liệt. Giáo mác và súng "mút cà tông" làm sao chống nổi vũ khí hiện đại của Pháp? Quân Thọ núng thế, không đường rút lui buộc phải cận chiến. Nhưng tình thế hỗn loạn mất rồi. Thọ không thể điều động chỉ huy. Mỗi người tả xung hữu đột chiến đấu theo cách riêng của mình, tìm đường tháo thân. Rút lui không được, tiến tới thì rừng cao su đã bị lính Lê Dương phong toả, chận bít lối về Bời Lời. Như con thú bị dí vào ngõ cụt, quân của Thọ vùng vẫy điên cuồng. Tiếng la hét lẩn trong tiếng sắt thép va chạm, và súng nổ vang trời. Những cây thịt đổ xuống. Lớp khác tràn lên, gục ngã. Trong hỗn loạn, không ai còn nhìn thấy Thọ đâu nữa.

Mưu mô xảo trí và nhanh như sói, Thọ thoát thân bằng cách nào không ai biết. Chuồn về tới mật khu Bời Lời, dưới tay Thọ chỉ còn hơn ba chục mạng. Gần một trăm hai mươi bỏ lại chiến trường.

Sau thất bại cay đắng này, Thọ nghi ngờ có gián điệp làm nội tuyến. Người bị Thọ chiếu tướng là Lê Minh Chiếu, tự Năm Chiếu. Năm Chiếu là tay chân bộ hạ của Nguyễn Bình, hoạt động nội thành. Chiếu vẫn thường về mật khu báo cáo và nhận chỉ thị. Thọ giận quá mất khôn, cho người phục kích bắt Chiếu trên đường về, đem đến một cái lều giữa rẫy bắp ven rừng.

Thọ mình trần ngồi trên chõng tre, dõng dạc hài tôi Chiếu.

Chiếu mặc đồ đen, khăn rằn quấn cổ, mặt không hề đổi sắc.

"Loạn rồi. Ông biết tôi là ai mà dám nói thế?"

"Mày là thằng chỉ điểm cho Tây."

Chiếu cười mỉa: "Ông chưa đủ tư cách nói câu đó."

Thọ gầm lên: "Tao đập đầu mày như đập đầu bọn chó săn phản bội."

Nói xong, Thọ ra lệnh trói Chiếu dẫn đi.

Chiếu ngoái lại, nói với những người trong lều: "Anh em có mặt, xin báo vụ này lên đồng chí Nguyễn Bình."

Thọ xô Chiếu chúi nhủi về phía trước: "Nguyễn Bình cũng không cứu nổi mày đâu."

Thọ dẫn Chiếu đến trước cái giếng lạn trong rừng, dùng khúc gỗ quật vào ót, đạp xác xuống giếng.

Khi Thọ trở lại lều, có người nói: "Năm Chiếu là đảng viên."

Thọ vung tay bất cần: "Ðảng cái đầu bùi tao."


*

Ít lâu sau. Thọ được gọi lên gặp Nguyễn Bình.

Bình hỏi: "Sao giết Năm Chiếu?"

Thọ nói: "Hắn làm gián điệp cho Tây."

Bình vỗ bàn: "Hồ đồ! Chiếu là người của đảng. Chú dám tự động ra tay, không cần chỉ thị cấp trên. Chú đang là đối tượng được đề nghị vào đảng, nhưng vô kỷ luật không còn xứng đáng nữa."

Thọ quen thói du côn coi trời bằng vung, không biết sợ là gì.

"Thọ này đi kháng chiến vì dân vì nước, không cần đảng. Ðảng chỉ là bọn bè phái bênh vực cho nhau."

Lời vừa ra khỏi miệng, Thọ biết đã lỡ.

Nguyễn Bình cười nhạt, đuổi Thọ ra ngoài chờ chỉ thị.

Thọ được chỉ thị ra Bắc nhận công tác mới.

Con sói tinh ranh biết trên đường đi có nhiều cạm bẫy. Thọ khôn ngoan biết người ta muốn đưa mình vô cửa tử, như Thọ đã bao lần đưa người khác vào chỗ chết. Thọ rời bỏ hàng ngũ kháng chiến, trốn đi biệt tích.


*

Năm sau. Có người khách miền Bắc đến Mỹ An. Khách có thân hình cao lớn vãm vỡ, nói năng tự tin, hoạt bát sành đời. Khách dựng quán lá bên bờ kinh Nguyễn văn Tiếp làm kế sinh nhai. Người dân Ðồng Tháp Mười gọi khách là ông Bắc Kỳ.

Năm sau nữa. Có người khách lỡ độ đường xa, ghé quán lá ông Bắc kỳ xin trọ qua đêm.

Trời chiều. Nắng ráng mỡ gà đổ mênh mông trên những lá dừa nước điệp trùng dọc theo bờ kinh. Bên ly rượu nhạt, chủ khách nói chuyện ra chiều tương đắc.

Khách nhận xét: "Ông có cái phong thái của nhà sư Lỗ Trí Thâm."

Ông Bắc Kỳ cười lớn: "Tài thật! Mới gặp nhau mà đã nhìn ra chân tướng. Vâng, kẻ này có lúc ở chùa."

Khách hỏi: "Còn nhớ gì không?"

Ông Bắc Kỳ nói: "Vỏn vẹn một câu thần chú, Yết Ðế. Yết Ðế. Ba La Yết Ðế. Ba La Tăng Yết Ðế. Bồ Ðề Tát Bà Ha."

Khách nói: "Ngộ thì chớp mắt đáo bỉ ngạn. Mê thì cả đời chìm đắm. Ông toàn ăn thịt chó mắm riềng, qua sông sao khỏi?"

Ông Bắc Kỳ nói: " Lấy hình tướng để xét thực tướng, nhà Phật cho đó là cái lầm lớn của người đời."

Khách nói: "Thực giả, giả thực quyện vào nhau. Nhìn ra cái giả là biết cái thực."

Nửa khuya đêm ấy. Ông Bắc kỳ bị bắt đem đến Cạnh Ðền, quận Gò Quao, tỉnh Rạch Giá.

Trong ánh sáng mập mờ của mảnh trăng non, khách nói nửa đùa nửa thật: "Năm Chiếu ở dưới suối vàng gởi lời thăm Hoàng Thọ, và nhắn xuống dưới chơi."

Ông Bắc Kỳ hỏi: "Mày là ai?"

Khách nói: "Tôi là bạn Năm Chiếu, được chỉ thị của đồng chí Nguyễn Bình, đi tìm Hoàng Thọ bấy lâu. Gặp ông Bắc Kỳ nhìn ra giả tướng, biết thực tướng là Hoàng Thọ."

Biết mình không sống được, Thọ chửi Nguyễn Bình, chửi đảng. Thọ bị đập đầu, và rống từng hồi như bò rống. Sau khi hành quyết, ông khách cho lệnh phá nát mặt Hoàng Thọ để đừng ai nhìn ra danh tính.

Ðó là năm 1950.


Lâm Chương